Phần Mở đầu 1. Lí do chọn đề tà
i
Giáo dục và Đào tạo có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của toàn Đảng, Toàn dân là: “Nâng cao dân trí, Đào tạo nhân lực, Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.” Nhiệm vụ nặng nề đó đặt lên vai Ngành Giáo dục vì làm được điều này Giáo dục và Đào tạo đã thực sự góp phần đắc lực cho sự nghiệp: Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước, xây dựng và thực hiện mục đích của Đảng và Nhà nước là: Làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhà nước Việt Nam đã xác định rõ: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển của xã hội.” Một đất nước muốn phát triển hay không người ta đánh giá và nhìn vào nền giáo dục của nước đó có bền vững và phát triển ổn định hay không.
Trong bài nói chuyện với lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I (ngày 12 tháng 6 năm 1956) Bác Hồ đã nói: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và rất vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không thể nói gì đến nền kinh tế, văn hóa.” [26]
Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VII có ghi: “ Để đảm bảo chất lượng của giáo dục và đào tạo phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo.’’ Có nghĩa là Người thầy giáo dù dạy ở bất cứ bậc học, ngành học nào đòi hỏi phải có trình độ, phải được đào tạo chuẩn cả về chuyên môn và nghiệp vụ, phải có tay nghề cao, phải năng động sáng tạo, không ngừng trau dồi và nâng cao tri thức.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 2 khóa VIII cũng đã chỉ ra: “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo.”
Điều 70 Luật Giáo dục đã khẳng định: “ .Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây”:
+ Có phẩm chất đạo đức tốt
+ Có tư tưởng tốt
+ Đạt trình độ chuẩn, được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ .”
Đồng thời nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên, cán bộ công nhân viên của các trường đại học trong công cuộc phát triển giáo dục của nước nhà. Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển các trường đại học trong cả nước đã đào tạo được một số đông đảo các nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh chính trị, có tinh thần trách nhiệm và tận tụy với nghề, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ ngày càng được nâng cao, đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, kịp thời phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp giáo dục trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đòi hỏi các tổ chức giáo dục, các trường đại học trong cả nước phải phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo và hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, bằng nhiều cách khác nhau một mặt phải tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, mặt khác phải khắc phục nhanh chóng và kiên quyết xóa bỏ những hạn chế, yếu kém tận dụng tối đa các cơ hội, vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, nhà quản lí giáo dục, thực hiện triệt để “Hai không trong giáo dục, Bửnh thành tích trong giáo dục” góp phần thúc đẩy việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Xây dựng định hướng phát triển nhiệm vụ cụ thể trọng tâm qua từng giai đoạn 2007 - 2010, thống nhất định hướng phát triển giai đoạn 2011 - 2020.
88 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3029 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các biện pháp tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học khối kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức bồi dưỡng chưa linh hoạt, phong phú đa dạng, chưa tạo điều kiện cho người học (Giảng viên).
90
68
10.0
2.48
5
4
Các phương pháp bồi dưỡng, điều kiện phục vụ cho công tác tổ chức bồi dưỡng NVSP còn thiếu chưa đồng bộ
109
45
14.0
2.57
3
5
Chưa có sự phối,kết hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, các bộ phận có liên quan trong việc thực hiện tổ chức bồi dưỡng NVSP
113
45
10.0
2.61
2
6
Việc kiểm tra,đánh giá kết quả của công tác tổ chức bồi dưỡng NVSP chưa được diễn ra thường xuyên, chưa chặt chẽ, còn hình thức.
103
50
15.0
2.52
4
7
Phong trào rèn luyện bồi dưỡng NVSP cho đội ngũ giảng viên ở các tổ chuyên môn, các khoa, và các trường đại học chưa được diễn ra thường xuyên, liên tục, kịp thời
85
71
10.0
2.42
7
8
Chưa có sự động viên khích lệ, khen thưởng kịp thơì thoả đáng những giảng viên đạt kết quả tốt, có ý thức trong quá trình tham gia học tập bồi dưỡng hoặc tự bồi dưỡng NVSP
83
67
18.0
2.39
8
Nhận xét:
+ Trong quá trình điều tra chúng tôi thu được kết quả đa số những ý kiến của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lí đều cho rằng: Nguyên nhân khách quan dẫn đến những tồn tại hiện nay trong việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên là do công tác tổ chức, quản lí hoạt động này chưa được các cấp, ngành cơ quan quản lí trực tiếp có liên quan, Ban giám hiệu nhà trường chưa được sát sao, chưa thấy được tính cấp bách của công tác này đối với đội ngũ giảng viên đặc biệt đội ngũ giảng viên trẻ khi đứng trên bục giảng.
+ Các phương tiện, điều kiện phục vụ cho công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm còn thiếu và chưa đồng bộ.
+ Việc kiểm tra, đánh giá, quản lí kết quả (Sản phẩm) của hoạt động này chưa được diễn ra thường xuyên, chưa thực hiện một cách chặt chẽ, hợp lí, khoa học.
+ Hình thức tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên còn chưa phong phú, đa dạng, linh hoạt.
+ Nội dung bồi dưỡng phần nào chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới giáo dục đại học của đất nước. đặc biệt khi chúng ta ra nhập WTO.
+ Chưa có những biện pháp động viên khen thưởng hoặc kỉ luật kịp thời để khích lệ được đội ngũ giảng viên.
+ Chưa có sự phối kết hợp đồng bộ giữa các khoa trong từng trường đại học, các ban ngành có liên quan trong công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm .
Bảng 6: Một số ý kiến đánh giá về nguyên nhân chủ quan làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học:
Điểm trung Bình: 1£ £ 3
TT
Các nguyên nhân
Các Mức độ
Đồng ý
Phân vân
Không đồng ý
Thứ bậc
1
Trình độ của đội ngũ giảng viên không đồng đều.
122
33
13.0
2.65
1
2
Một số giảng viên chưa thật sự tâm huyết với nghề của mình.
98
63
7.0
2.54
5
3
Việc tham gia vào hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm chưa là động lực là yêu cầu bắt buộc nên giảng viên chưa có hứng thú, tự nguyện tham gia
115
42
11.0
2.62
2
4
Một số giảng viên chưa thực sự có năng khiếu, kĩ năng sư phạm ( nói, viết, giao tiếp…)
109
45
14.0
2.57
4
5
Chưa có sự đầu tư về thời gian, kinh phí cho công tác bồi dưỡng NVSP
89
74
5.0
2.50
7
6
Một số cán bộ quản lí chưa phát huy hết vai trò của mình trong công tác chỉ đạo thực hiện, kiểm tra đánh giá hoạt động này.
107
51
10.0
2.58
3
7
Khi tổ chức kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm các trường đại học chưa mời đúng những giảng viên chuyên ngành có trình độ, có kinh nghiệm hướng dẫn bồi dưỡng.
91
71
6.0
2.51
6
Nhận xét:
+ Qua kết quả phân tích ở trên chúng tôi nhận thấy các nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự tồn tại, yếu kém trong công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên cũng như công tác quản lí chỉ đạo thực hiện, kiểm tra đánh giá là do:
* Trình độ của đội ngũ giảng viên chưa được đào tạo chuẩn, chưa đồng bộ.
* Đội ngũ giảng viên( Nhất là đội ngũ giảng viên trẻ) chưa thật sự tâm huyết, sống còn với nghề.
* Hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên nói chung và giảng viên các trường đại học khối kinh tế nói riêng chưa tạo được môi trường giúp giảng viên hứng thú, tích cực tham gia.
* Một số giảng viên chưa thực sự có năng khiếu, tác phong chuẩn mực sư phạm ( Đi đứng, giao tiếp, kĩ năng thuyết trình, viết bẳng, trình bày bảng đạt trình độ chuẩn…)
Kết luận chương 2
Qua việc điều tra khảo sát, tìm hiểu thực trạng hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bànThành phố Hà Nội trong những năm qua chúng tôi nhận thấy:
+ Đa số Cán bộ quản lí, đội ngũ giảng viên các trường đại học đều có nhận thức rất đúng đắn về tầm quan trọng của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm trong công tác giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng trong sự nghiệp giáo dục Việt Nam thế kỉ XXI.
+ Các nhà quản lí giáo dục, các nhà chuyên gia về lĩnh vực chuyên ngành tâm lí đã xác định rõ tầm quan trọng, sự cần thiết không thể thiếu của NVSP đối với người giảng viên đại học trong công tác giảng dạy của mình. Trong việc xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm .
+ Đội ngũ giảng viên nói chung và giảng viên các trường đại học khối kinh tế nói riêng, đã nhận thức đúng đắn và tích cực tham gia vào các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, để nâng cao hơn nữa trình độ, kĩ năng, nghiệp vụ giúp cho việc giảng dạy tại các trường được thuận lợi, tự tin. Giúp cho chất lượng đào tạo tại các trường đại học nâng cao rõ rệt.( Thể hiện số lượng sinh viên đăng kí dự thi vào các trường đại học ngày được nâng cao) Uy tín các trường càng ngày càng được khẳng định( Có nhiều sinh viên đỗ thủ khoa, có những đề tài nghiên cứu khoa học được hội đồng khoa học đánh giá cao, áp dụng vào thực tế cuộc sống rất có giái trị…)
+ Mặc dù trong những năm gần đây các trường đại học đã rất chú trọng đến vấn đề chất lượng đào tạo (Nâng cấp, đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, đồ dùng phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học, tuyển chọn đội ngũ giảng viên có trình độ, năng động sáng tạo, cải tiến đổi mới phương pháp dạy học…) Tuy nhiên trong công tác quản lí, kiểm tra, đánh giá việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học của đội ngũ cán bộ quản lí vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục và đào tạo của các trường đại học nói riêng và toàn ngành giáo dục Việt Nam nói chung trong thời kì công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước,
vì vậy chúng ta cần tìm ra những biện pháp hữu hiệu nhất trong công tác quản lí của mình để không ngừng nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của đất nước nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Khẳng định một Việt Nam trên trường Quốc tế và trong khu vực, với một nền giáo dục bình đẳng, hoà nhập, mở cửa tạo mọi điều kiện cho người đwocj tham gia học tập và nghiên cứu khoa học. Một xã hội học tập và học tập suốt đời để mọi người dân đều được tham gia.
Chương 3
Đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động
bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ
giảng viên các trường đại học khối kinh tế
trên địa bàn thành phố Hà Nội
3.1. Những nguyên tắc chọn lọc các biện pháp quản lí việc tổ chức hoạt động bồi dường nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học
+ Căn cứ vào những yêu cầu đổi mới giáo dục đại học và định hướng phát triển các trường đại học từ nay đến 2020 :
Chúng ta biết rằng trước những yêu cầu ngày càng cao của đất nước đối với sự nghiệp phát triển giáo dục trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành một thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại WTO. Từ đó các cơ sở giáo dục trong nước, các trường đại học đã xác định rõ trọng trách, thương hiệu, uy tín chất lượng của mình trước những thử thách, thời cơ, đòi hỏi của đất nước, của thế giới chính vì vậy các trường đại học đã không ngừng phát huy những thành tựu đã đạt được trong suốt nửa thế kỉ qua,( Bằng những công trình nghiên cứu khoa học đã được đánh giá cao và được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, những sinh viên đạt các giải cao trong các cuộc thi trong nước và thế giới…) Tận dụng tối đa các cơ hội có thể, vượt qua những thách thức trước mắt trong quá trình hội nhập để khẳng định mình, phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo của mỗi trường đại học, Để làm được điều đó đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lí, các đơn vị liên quan đóng một vị trí không nhỏ góp phần tích cực thúc đảy nhanh, mạnh, vững chắc vào công cuộc đổi mới của đất nước cũng như đổi mới nền kinh tế văn hoá- xã hội.
Trong Nghị quyết số: 14/2005 NQ-CP ngày 02-11-2005 Của Chính phủ về Đổi mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã xác định mục tiêu chung về việc xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lí giáo dục là: “ Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lí đại học có đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lí tiên tiến. ”
Định hướng phát triển cho các trường đại học đến năm 2020 đã nêu rõ: “Nhiệm vụ và mục tiêu phát triển các trường đại học là: Củng cố và nâng cao năng lực hệ thống các trường đại học và các trường quản lí giáo dục để thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm là giáo dục và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lí giáo dục theo yêu cầu chuẩn hoá và nâng cao trình độ giảng viên có đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, hợp lí về cơ cấu. ”. Để đạt được mục tiêu đó cần thực hiện:
Phải xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lí đạt chuẩn, Phải đổi mới Mục tiêu, Nội dung, Chương trình, Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, Phương pháp kiểm tra đánh giá. Muốn làm được điều đó các trường đại học phải xác định rõ nhiệm vụ cụ thể, tiến hành điều chỉnh Nội dung, Chương trình giáo dục đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học tập, tự nghiên cứu bồi dưỡng của mỗi người giảng viên. Gắn kết học tập lí thuyết với thực hành, với thực tiễn cuộc sống. Thực hiện phương pháp đổi mới đánh giá kết quả học tập bồi dưỡng nghiên cứu theo hướng tập trung đánh giá năng lực, vận dụng những kiến thức đã học áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, chú trọng giáo dục phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp.
Tiếp tục đầu tư tăng cường trang bị thêm cơ sở vật chất phòng học tập, nghiên cứu, phòng thực hành, thí nghiệm... đạt chuẩn phục vụ cho công tác dạy và học.
3.1.1. Các nguyên tắc chọn lựa biện pháp
Từ những thực trạng của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội qua khảo sát như đã trình bày ở chương 2, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế nói riêng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục như sau:
3.1.2. Mục đích lựa chọn
Nhằm nâng cao nhận thức về công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và tầm quan trọng của nghiệp vụ sư phạm trong công tác giảng dạy tại các trường đại học cho giảng viên. Đặc biệt đội ngũ giảng viên trẻ. Bởi nhận thức là một quá trình tâm lí có tác dụng, quyết định thúc đẩy hay hạn chế ý chí hành động của con người. Bồi dưỡng và nâng cao nhận thức về công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ cán bộ giảng viên của các trường tạo cho họ có những suy nghĩ và hành động đúng đắn đem lại hiệu quả cao trong công việc phục vụ cho giảng dạy tốt hơn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhận thức đúng về vấn đề rèn luyện bồi dưỡng thường xuyên nghiệp vụ sư phạm sẽ giúp cho người cán bộ quản lí sắp xếp công việc một cách khoa học, giành thời gian cho chỉ đạo hoạt động chuyên môn, quan tâm đầu tư hơn nữa cho phát triển cơ sở vật chất, cũng như lập kế hoạch giành kinh phí cho hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm coi đó là nhiệm vụ không thể thiếu của mỗi nhà trường trong công tác phát triển nguồn nhân lực cũng như việc phát triển chuyên môn khẳng định vị thế chất lượng giáo dục của mỗi trường.
Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lí giúp họ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm và đặc thù từng trường cũng như nghề dạy học để người cán bộ quản lí xác định rõ vai trò trách nhiệm của mình ở cấp độ nào (Trường- Khoa - Tổ chuyên môn) để phân công trách nhiệm cho từng cán bộ chuyên trách cho phù hợp có chất lượng, phát huy được năng lực của mỗi cán bộ.
Giảng viên nhận thức được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình đến đâu khi tham gia vào công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Đây là cơ sở để tạo nên động cơ thái độ lao động nghiêm túc, sáng tạo trong nghề dạy học. Đặc biệt đối với giảng viên các trường đại học. Mặt khác việc nâng cao nhận thức cho cán bộ giảng dạy nhằm giúp họ hiểu rõ về đặc thù từng môn học, ngành học, tạo cho họ có cơ hội thâm nhập thực tế, tích lũy kinh nghiệm để đưa vào trong bài dạy những kiến thức, kĩ năng sát thực phù hợp với tình hình kinh tế xã hội hiện nay. Đặc biệt khi mà khoa học công nghệ thông tin đang ngày càng phát triển.
3.1.3. Nguyên tắc đề xuất các biện pháp
3.1.3.1. Nguyên tắc tính hệ thống
Như chúng ta được mỗi biết hệ thống là một tổng thể phức hợp gồm nhiều yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau. Mỗi biến động của một yếu tố nào đó đều tác động trực tiếp lên những yếu tố khác và đồng thời cũng tác động lên toàn bộ hệ thống. Việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và các trường đại học khối kinh tế nói riêng đều bao gồm rất nhiều các yếu tố có liên quan mật thiết với nhau như: Mục tiêu, nội dung, phương pháp, điều kiện thực hiện và đánh giá kết quả... Các yếu tố này có mối liên quan mật thiết với nhau hỗ trợ nhau, thúc đẩy nhau, tác động qua lại lẫn nhau, cái này là cơ sở, là tiền đề cho cái kia phát triển và ngược lại, kết quả của yếu tố này là điều kiện cho sự phát triển của yếu tố kia, hỗ trợ cho yếu tố kia.
Trong nguyên tắc tiếp cận tính hệ thống buộc nhà quản lí và đội ngũ giảng viên phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
+ Quá trình tổ chức hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nhà quản lí cần phải xác định rõ vai trò, nhiệm vụ cua từng yếu tố tác động lên toàn bộ tiến trình hoạt động giáo dục nói chung các hoạt động tổ chức bồi dưỡng nói riêng, cũng như biết đặt hoạt động trong những điều kiện xã hội cụ thể.
+ Trong quá trình tổ chức hoạt động phải đảm bảo có sự thống nhất cao giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động sao cho phải thành một chỉnh thể thống nhất.
+ Tạo mọi điều kiện để giảng viên, sinh viên có động lực, nhà quản lí biết nhìn nhận, và đánh giá được bản chất và xu hướng phát triển của đối tượng giáo dục.
3.1.3.2. Nguyên tắc tính kế thừa
Mỗi một nguyên tắc đều có mặt mạnh của nó để phát huy tối đa các ưu thế của tất cả nguyên tắc truyền thống kết hợp với hiện đại nhà quản lí phải sáng suốt, biết kết hợp đồng bộ tất cả các nguyên tắc phải phát huy những mặt mạnh của các yếu tố, các nguyên tắc đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những mặt còn tiêu cực của các nguyên tắc, Kế thừa truyền thống văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, khuyến khích sáng tạo, linh hoạt chủ động trong mọi lĩnh vực.
3.1.3.3. Nguyên tắc tính toàn diện
Mặc dù mỗi nguyên tắc đều có những mặt mạnh, cũng như những hạn chế của nó tuy nhiên nguyên tắc toàn diện đã giúp cho nhà quản lí xác định rõ một cách tổng quát nhất, toàn diện nhất tất cả các mặt các lĩnh vực công tác hoạt động, giảng dạy, xây dựng cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên cũng như trong công tác nghiên cứu khoa học… để chỉ đạo cho phù hợp, linh hoạt, có sáng tạo ở tất cả các nội dung mới đạt hiệu quả và chất lượng cao.
3.1.3.4. Nguyên tắc tính chất lượng
Nguyên tắc đảm bảo tính chất lượng trong thời đại công nghiệp hoá- Hiện đại hoá ngày nay được đề cao và rất coi trọng. Bởi vì trong bất cứ lĩnh vực nào dù giảng dạy hay nghiên cứu khoa học… chúng ta muốn tồn tại và phát triển hơn lúc nào hết chúng ta phải giữ vững được chất lượng sản phẩm, Thương hiệu của mỗi trường đại học. Phải biết gìn giữ và duy trì bảo về thương hiệu chất lượng đào tạo của mình, phải khẳng định vai trò của trường mình trong hệ thống giáo dục quốc dân.
3.1.3.5. Nguyên tắc tính hiệu quả
Trong qua trình tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên nhà quản lí phải đảm bảo tính hiệu quả có nghĩa quản lí bằng hệ thống văn bản pháp quy cụ thể: Những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc chuẩn hóa đội ngũ giảng viên các trường đại học từ nay đến 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, văn bản quy định về hướng dẫn rền luyện nghiệp vụ sư phạm, quy chế về thực hành, kiến tập, thực tập...
Quản lí bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm thông qua chương trình đào tạo như: Nội dung chương trình, Mục tiêu, mục đích và những nội dung liên quan như: dự giờ mẫu, kiến tập, hội giảng, thăm quan...
- Quản lí bằng kế hoạch và điều hành bằng kế hoạch:
Nhà quản lí phải biết căn cứ vào nhiệm vụ năm học, chỉ tiêu tuyển dụng giáo viên hàng năm của trường mình (Thay thế những người chuyển đổi công tác, về hưu nghỉ chế độ...) để có kế hoạch tuyển dụng bổ xung cho kịp thời chủ động. Căn cứ vào mục tiêu và chương trình đào tạo, đối tượng tuyển sinh, tình hình giảng viên, cơ sở vật chất...để ngay từ đầu năm học phải xây dựng được kế hoạch tổng thể cho cả năm học, từng khoá học: Năm thứ nhất, thứ hai, thứ ba...và từng kì học cho cụ thể, chi tiết.
Đặc biệt nhà quản lí phải điều hành, chỉ đạo , kiểm tra đánh giá kịp thời theo đúng tiến độ, đúng quy trình có hiệu quả giúp cho đội ngũ giảng viên phát huy được tính tích cực, năng động sáng tạo, mỗi cán bộ giảng viên trong trường đại học phải coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặc biệt không kém hoạt động chuyên môn và không thể thiếu đối với người giảng viên khi đứng trên bục giảng.
3.2. Các biện pháp đề xuất và mối quan hệ giữa các biện pháp:
3.2.1. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho các cấp quản lý nhà trường và đội ngũ giảng viên
3.2.1.1. Mục tiêu của biện pháp
* Giúp cho đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lí xác định rõ tầm quan trọng của việc tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong các trường đại học, đội ngũ giảng viên ( Đặc biệt đội ngũ giảng viên trẻ) tự tin, chững chạc, yên tâm công tác, hình thành tốt những phẩm chất, năng lực đặc thù của nghề giáo viên khi đứng trên bục giảng( Truyền thụ tri thức, giao tiếp sư phạm...)
* Giúp cho đội ngũ cán bộ quản lí các trường đại học cũng như đội ngũ giảng viên hiểu rõ hơn vai trò trách nhiệm của người thầy giáo trong môi trường đại học là người cung cấp tri thức, định hướng cho sinh viên nghiên cứu khoa học, làm các đề tài, luận văn, luận án...
3.2.1.2. Nội dung
* Quán triệt các Nghị quyết, Quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của các trường đại học nói chung các trường đại học khối kinh tế nói riêng trong công tác giáo dục và đào tạo phù hợp với đặc thù của từng trường, không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục.
* Các trường đại học muốn nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, muốn khẳng định vị thế - uy tín – chất lượng của mình trên trường quốc tế và trong khu vực vì vậy hơn lúc nào chúng ta phải chú trọng đến vấn đề giáo viên: Đủ về số lượng, đạt chuẩn về chất lượng đào tạo , có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn vững vàng, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, có trí cầu tiến.
3.2.1.3. Cách tiến hành
* Chúng ta phải rà soát lại toàn bộ số lượng giảng viên, cán bộ quản lí của các trường đại học nói chung các trường đại học khối kinh tế nói riêng về:
Trình độ đào tạo, Phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, Kĩ năng truyền thụ
( NVSP) Để từ đó nhanh chóng có kế hoạch, có dự án, lập dự trù kinh phí trình Bộ giáo dục đề nghị kịp thời có giải pháp tối ưu, tạo mọi điều kiện cho đội ngũ giảng viên nhất là giảng viên trẻ được đào tạo, bồi dưỡng để “chuẩn hoá” theo đúng yêu cầu đặt ra đối với người giảng viên đại học trong giai đoạn hiện nay và đến năm 2020.
* Tạo mọi điều kiện để đội ngũ giảng viên có cơ hội tham gia học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kĩ năng, phẩm chất nghề nghiệp ( Thời gian, kinh phí, cơ sở vật chất: Phòng học, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy, hướng dẫn thực hành thí nghiệm, thực tập, nghiên cứu khoa học...)
* Động viên, khích lệ những giảng viên có năng lực có sáng tạo, linh hoạt chủ động, có ý thức, tự tìm tòi học hỏi, tự phấn đấu để nâng cao trình độ chuyên môn nghhiệp vụ, những đề tài nghiên cứu khoa học có giá trị thực tế áp dụng được vào thực tiễn công tác giảng dạy ở các trường đại học.
3.2.2. Cải tiến nội dung bồi dưỡng
3.2.2.1. Mục tiêu
Đây là một trong những biện pháp góp phần nâng cao chất lượng đạo tạo của các trường đại học hiện nay vì: Nội dung đào tạo được cải tiến, phù hợp với tình hình trong nước, trong khu vực và trên thế giới trong tình hình hiện nay sẽ góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo ngày một nâng cao về uy tín, hiệu quả và chất lượng, đồng thời sẽ tạo vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới hơn nữa sẽ góp phần thức đẩy nhanh, mạnh vững chắc nền kinh tế, văn hoá, xã hội.
3.2.2.2. Nội dung
Ngoài những nội dung bồi dưỡng bắt buộc để đáp ứng nhu cầu đào tạo hiện nay chúng ta phải nhanh chóng tiếp cận với những vấn đề mới, cập nhật với tình hình trong nước và thế giới những vấn đề có tính thời sự nóng bỏng
( Những nội dung tích hợp đã được đề đạt trong quá trình điều tra thực trạng, Kế hoạch bồi dưỡng, chương trình khung đã được trình Bộ Giáo dục và Đào tạo phê chuẩn)
3.2.2.3. Cách tiến hành
Sau khi điều tra thực trạng, nắm đựơc nhu cầu đào tạo bồi dưỡng của đội ngũ giảng viên các trường đại học, chúng ta tiến hành xây dựng chương trình dựa trên chương trình khung của Bộ giáo dục và Đào tạo và đặc điểm đặc thù của mỗi trường đại học để xây dựng chương trình bồi dưỡng cho phù hợp.
3.2.3. Đổi mới phương pháp bồi dưỡng
3.2.3.1. Mục đích
Việc cải tiến đổi mới phương pháp bồi dưỡng NVSP nhằm giúp cho đội ngũ giảng viên tích cực, chủ động tham gia,
Nâng cao chất lượng bồi dưỡng sẽ góp phần thúc đẩy chất lượng đội ngũ giảng viên, có nghĩa là sẽ thúc đẩy nhanh hơn chất lượng giáo dục và đào tạo trong các trường đại học nói riêng chất lượng giáo dục và đào tạo trong toàn Ngành giáo dục Việt Nam nói chung.
3.2.3.2. Nội dung
Có rất nhiều hình thức đổi mới về phương pháp bồi dưỡng: Khi chúng ta xác định được tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với người giảng viên đại học khi đứng trên bục giảng cung cấp tri thức cho học viên, sinh viên thì những nhà quản lí, những chuyên gia về chuyên môn có thể tổ chức bồi dưỡng dưới rất nhiều hình thức khác nhau: Theo từng chuyên đề, từng chuyên ngành, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm...
3.2.3.3. Cách tiến hành
Như đã trình bày ở trên khi đã xác định được rõ tầm quan trọng của công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên chúng ta sẽ tiến hành tổ chức bồi dưỡng dưới nhiều hình thức khác nhau: Tổ chức thành từng lớp, từng nhóm theo từng chuyên đề, giảng viên là những nhà chuyên môn có trình độ sẽ thuyết trình, trao đổi, bàn bạc... những vấn đề, những nội dung bồi dưỡng để từ đó giúp cho đội ngũ giảng viên nhanh chóng nắm bắt được yêu cầu đề ra để thực hiện.
3.2.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các trường đại học và Viện nghiên cứu sư phạm trường đại học sư phạm Hà Nội nhằm thực hiện hoá được kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
Hàng năm để đáp ứng nhu cầu đào tạo của các trường đại học ngay từ đầu năm học mỗi trường phải chủ động rà sóat lại tình hình: Cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên của trường mình để có kế hoạch chỉ đạo thực hiện cho chủ động, phù hợp, kịp thời:
+ Về cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho dạy và học:
Hàng năm căn cứ vào chỉ tiêu tuyển sinh đầu vào của từng trường mà có kế hoạch bổ xung cho phù hợp ngay từ đầu năm học.
+ Về đội ngũ giảng viên:
Đây là một trong những yếu tố cơ bản nhất quyết định sự phát triển của mỗi trường đại học: Người ta sẽ nhận xét đánh giá sự phát triển của các trường đại học căn cứ vào trình độ giảng viên của mỗi trường ( Trình độ GS, TS, Th.S của mỗi trường), do vậy các trường chủ động tuyển chọn đội ngũ giảng viên có trình độ, có năng lực, nhiệt tình, tâm huyết với nghề, có phẩm chất năng lực nhà giáo để đầu tư : Thời gian, kinh phí cho giảng viên học tập nâng cao trình độ bằng rất nhiều hình thức, con đường khác nhau. Đối với việc đội ngũ giảng viên chưa được đào tạo qua nghiệp vụ sư phạm, không phải tốt nghiệp tại các trường đại học sư phạm thì Ban giám hiệu nhà trường, phòng Tổ chức cán bộ, các phòng ban chức năng phối kết hợp với Viện Nghiên cứu Sư phạm, với Trường Đại học sư phạm Hà Nội, khoa Tâm lí Giáo dục để rà soát lại đội ngũ giảng viên và có kế hoạch tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho phù hợp, có chất lượng đáp ứng được nhu cầu thực tế giáo dục hiện nay.
3.2.5. Cung ứng kịp thời các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên..... đáp ứng mục tiêu bồi dưỡng
Trong quá trình hội nhập như ngày nay khi chúng ta ra nhập WTO các trường đại học nói chung và các trường đại học khối kinh tế nói riêng hơn lúc nào hết phải xác định trọng trách, tầm quan trọng muốn tồn tại và phát triển không gì khác hơn là phải chú trọng đến chất lượng đào tạo, phải xây dựng và giữ vững được thương hiệu của mỗi trường bởi vì ngày nay nhu cầu giao lưu học tập của các nước nhất là các nước trong khu vực đang phát triển mạnh mẽ. Các trường đại học đã có những nghiên cứu sinh, thạc sĩ là lưu học sinh của các nước ( Lào, Campuchia, Thái Lan...).
Như vậy: muốn thu hút đầu tư và đảm bảo được chất lượng dạy và học thì đòi hỏi mỗi trường đại học phải chú ý hơn nữa việc bổ xung trang thiết bị cần thiết phục vụ cho nhu cầu học tập nghiên cứu, thí nghiệm, thực hành, thực tập của thâỳ cô giáo và sinh viên (Kể cả tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giảng viên...) để đáp ứng được nhu cầu đào tạo của mỗi trường đại học nói riêng, hệ thống giáo dục toàn quốc nói chung trong thời kì công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, Thời kì công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu của các nước trong khu vực và trên thế giới.
3.2.6. Tạo cơ chế kích thích quá trình tự bồi dưỡng của các trường đại học
Chúng ta biết rằng trong qúa trình hội nhập ngày nay các trường đại học nói chung và các trường đại học khối kinh tế noí riêng luôn luôn sáng tạo, chủ động từ việc tuyển chọn đội ngũ giảng viên ( ưu tiên đội ngũ giảng viên trẻ có trình độ, ham học hỏi, năng động, sáng tạo có trí tến thủ) đến việc chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện sao cho phù hợp với tình hình điều kiện thực tế của mỗi trường, tạo mọi điều kiện khuyến khích đội ngũ giảng viên tự học tập nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ phục vụ cho công tác giảng dạy nhằm mục đích nâng cao chất lượng như:
- Học thạc sĩ, tiến sĩ, học ngoại ngữ, tin học, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm...
- Đầu tư thêm nhiều cơ sở vật chất: Phòng học đa năng, chất lượng cao, trang bị máy vi tính và các trang thiết bị hiện đại tiên tiến nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học của cả giảng viên và sinh viên.
- Kịp thời có nhiều chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với những giảng viên (Đặc biệt đội ngũ giảng viên trẻ) có sự sáng tạo trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy như : Tăng lương sớm, kết nạp Đảng, cho đi nước ngoài làm nghiên cứu sinh, động viên khen thưởng kịp thời và thích đáng...
3.2.7. Mối quan hệ giữa các biện pháp
Từ thực trạng qua số liệu điều tra số giảng viên các trường Đại học ở Thành phố Hà Nội, số giảng viên các trường đại học khối kinh tế chưa qua đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho thấy tính bất cập của việc giảng dạy, truyền thụ kiến thức cho sinh viên khi giảng viên chỉ có trình độ chuyên môn mà không có nghiệp vụ sư phạm. Từ đó cùng với các dự án của Bộ GD&ĐT, Vụ Đại học và sau đại học để mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn Nghiệp vụ - Nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường Đại học trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy trong các trường đại học, khẳng định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam trên trường Quốc tế và trong khu vực trong giai đoạn hiện nay và trong những giai đoạn tiếp theo đến năm 2010 và năm 2020.
Mối quan hệ giữa các biện pháp trong công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hà Nội:
Trên đây là các biện pháp cơ bản trong quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và giảng viên các trường đại học khối kinh tế nói riêng, các biện pháp này có tác động đồng bộ đến nhận thức, tư duy, hành động của các lực lượng bên trong (giảng viên) và các lực lượng hỗ trợ bên ngoài (BGH, tổ trưởng chuyên môn, các cơ quan đoàn thể có liên quan...) nhằm nâng cao chất lượng kết quả tổ chức bồi dưỡng NVSP.
Các biện pháp này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện, hỗ trợ, thúc đẩy, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học nói riêng và toàn Ngành Giáo dục nói chung trong thế kỉ XXI Thời đại khoa học công nghệ thông tin. Thời đại Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2020.
Trong các biện pháp trên, biện pháp: Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên là biện pháp bao trùm lên tất cả các biện pháp khác.
Vì chỉ có thái độ nhận thức đúng đắn trong công tác quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên thì các Nhà quản lí giáo dục, giảng viên các trường đại học và các Ban, Ngành có liên quan mới có thái độ, hành động đúng đắn trong công tác quản lí cũng như tự học hỏi, tự bồi dưỡng của mỗi giảng viên nhằm phục vụ cho chính công việc của mình. Hơn nữa biện pháp nay là tiền đề để thực hiện các biện pháp khác.
Chúng ta cũng nhận thấy để tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đạt kết quả cao nhà quản lí cần xây dựng kế hoạch cụ thể sát với thực tế của từng trường, có nội dung rõ ràng phù hợp, luôn cải tiến quy trình tổ chức thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú, sinh động, linh hoạt, kết hợp tăng cường sự giám sát quản lí, kiểm tra đánh giá kết quả.
Tất cả các biện pháp có mối quan hệ liên quan mật thiết với nhau trong quá trình quản lí việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và quản lí việc khai thác sử dụng có hiệu quả những trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tổ chức bồi dưỡng NVSP.
Tăng cường sự phối kết hợp giữa các lực lượng để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng NVSP nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên các trường đại học, bồi dưỡng về thực tiễn giáo dục của Việt Nam, các biện pháp này là biện pháp hỗ trợ, tạo điều kiện để hoạt động tổ chức bồi dưỡng NVSP cho giảng viên đạt hiệu quả cao.Cũng có nghĩa là thúc đẩy hơn nữa chất lượng giáo dục và đào tạo của các trường đại học.
Trong quá trình tổ chức thực hiện phải kết hợp hài hoà đồng bộ tất cả các biện pháp trên sẽ góp phần làm cho công tác quản lí tổ chức bồi dưỡng NVSP đạt hiệu quả thiết thực
3.3. Khảo nghiệm nhận thức về tính cấp thiết, tính khả thi của các biện pháp đề xuất
Để kiểm chứng tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lí tổ chức bồi dưỡng NVSP cho đội ngũ giảng viên, chúng tôi đã trưng cầu ý kiến đánh giá của các đối tượng sau:
+ Lãnh đạo (Hiệu trưởng, Hiệu phó phụ trách chuyên môn đào tạo, tổ trưởng chuyên môn) của các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội
+ Giảng viên trực tiếp giảng dạy của các trường đại học khối kinh tế.
+ Số phiếu hợp lệ thu về là 168 phiếu gồm:
- Giảng viên trẻ mới ra trường: 39 người
- Giảng viên có trình độ Thạc sỹ trở lên và có thâm niên công tác từ 5 - 10 năm: 76 người
- Cán bộ quản lý: 53 người
Chúng tôi đánh giá theo các thang bậc sau:
Nhận thức về tính cấp thiết của các biện pháp quản lí tổ chức bồi dưỡng NVSP :
Rất cần thiết: 3 điểm
Cần thiết : 2 điểm.
Không cần thiết: 1 điểm
Nhận thức về tính khả thi của các biện pháp quản lí tổ chức bồi dưỡng NVSP:
- Rất khả thi: 3 điểm.
- Khả thi : 2 điểm.
- Không khả thi: 1 điểm.
3.3.1. Tính cần thiết của các biện pháp
Kết quả đáng giá về tính cần thiết của các biện pháp thể hiện trong bảng dưới đây:
Điểm trung Bình: 1£ £ 3
TT
Các biện pháp
Mực độ cần thiết
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
Thứ bậc
1
Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho các cấp quản lý nhà trường và đội ngũ giảng viên
135
33
0
2.80
1
2
Cải tiến nội dung bồi dưỡng
118
50
0
2.70
2
3
Đổi mới phương pháp bồi dưỡng
109
59
0
2.65
3
4
Tăng cường sự phối hợp giữa các trường đại học và Viện nghiên cứu sư phạm, Trường đại học sư phạm Hà Nội để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
98
70
0
2.58
4
5
Cung ứng kịp thời các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên..... đáp ứng mục tiêu bồi dưỡng
95
73
0
2.57
5
6
Tạo cơ chế kích thích quá trình tự bồi dưỡng của các trường đại học
88
80
0
2.52
6
Chung
2.64
Nhận xét:
Qua bảng điều tra trên cho thấy: Các khách thể đánh giá mức độ cần thiết của 6 biện pháp đề xuất trong quá trình quản lí tổ chức bồi dưỡng NVSP cho đội ngũ giảng viên tương đối cao với điểm trung bình là: = 2,6.
Như vậy: Các biện pháp đề xuất để nâng cao hiệu quả của công tác quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên đều rất cần thiết.
Trong đó: biện pháp được đội ngũ giảng viên đánh giá quan trọng nhất là biện pháp: Nâng cao nhận thức về Quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm., tiếp đến là Quản lí việc xây dựng kế hoạch, nội dung tổ chức bồi dưỡng NVSP và các biện pháp tiếp sau.
3.3.2. Tính khả thi của các biện pháp
Điểm trung Bình: 1£ Y £ 3
TT
Các biện pháp đề xuất
Mực độ cần thiết
Rất khả thi
Khả thi
Không khả thi
Thứ bậc
1
Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho các cấp quản lý nhà trường và đội ngũ giảng viên
132
36
0
2.79
1
2
Cải tiến nội dung bồi dưỡng
115
53
0
2.68
2
3
Đổi mới phương pháp bồi dưỡng
107
61
0
2.64
3
4
Tăng cường sự phối hợp giữa các trường đại học và Viện nghiên cứu sư phạm, Trường đại học Sư phạm Hà Nội để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
96
72
0
2.57
4
5
Cung ứng kịp thời các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên..... đáp ứng mục tiêu bồi dưỡng
85
83
0
2.51
6
6
Tạo cơ chế kích thích quá trình tự bồi dưỡng của các trường đại học
91
77
0
2.54
5
Chung
2.62
Nhận xét:
Các khách thể điều tra đều đánh giá mức độ khả thi của 6 biện pháp đề xuất trong quá trình quản lí tổ chức bồi dưỡng NVSP cho đội ngũ giảng viên được đánh giá tương đối cao với kết quả điểm trung bình Y = 2,62.
Như vậy:
Với tất cả các biện pháp đề xuất để nâng cao hiệu quả của công tác quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và các trường đại học khối kinh tế nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội đều rất khả thi.
Biện pháp được nhiều giảng viên đánh giá cao là biện pháp: Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho các cấp quản lý nhà trường và đội ngũ giảng viên. còn biện pháp được các giảng viên đánh giá ít có tính khả thi hơn là: Cung ứng kịp thời các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên..... đáp ứng với mục tiêu bồi dưỡng.
3.3.3. Mối quan hệ giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp
Để xét sự tương quan giữa tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên các trường đại học, chúng ta tiến hành lập bảng để so sánh và áp dụng công thức tính hệ số tương quan thứ bậc Spearman như sau:
r = 1-
Trong đó: r là hệ số tương quan.
D là hiệu số thứ bậc giữa tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp.
N là số các biện pháp.
TT
Các biện pháp đề xuất
Mức độ đánh giá
Tính cần thiết
Tính khả thi
D
D2
Thứ bậc
Thứ bậc
1
Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho các cấp quản lý nhà trường đại học và đội ngũ giảng viên
2.80
1
2.79
1
0
0
2
Cải tiến nội dung bồi dưỡng
2.70
2
2.68
2
0
0
3
Đổi mới phương pháp bồi dưỡng
2.65
3
2.64
3
0
0
4
Tăng cường sự phối hợp giữa các trường đại học và Viện nghiên cứu sư phạm trường đại học sư phạm Hà Nội để thực hiện kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
2.58
4
2.57
4
0
0
5
Cung ứng kịp thời các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên..... đáp ứng mục tiêu bồi dưỡng
2.57
5
2.51
6
-1
1
6
Tạo cơ chế kích thích quá trình tự bồi dưỡng của các trường đại học
2.52
6
2.54
5
1
1
Chung
2.64
2.62
2
Nhận xét:
Theo công thức trên ta có: r = 1- = 1-
Như vậy: ta có thể thấy với hệ số tương quan thứ bậc Spearman r = 0,94 chúng ta kết luận:
Giữa mức độ cần thiết và mức độ khả thi của các biện pháp quản lí tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên là tương quan thuận và tương quan chặt chẽ. Hầu hết các biện pháp đưa ra được đội ngũ giảng viên đánh giá đều rất cần thiết dù ở mức độ nào thì cũng được đánh giá là khả thi ở mức độ đó và ngược lại.
Qua kết quả khảo nghiệm cho thấy 6 biện pháp quản lí tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng được đánh giá là rất cần thiết và phù hợp với xu thế hiện nay, cũng như phù hợp với nhu cầu thực tiễn giáo dục Việt Nam trong giai đoạn đổi mới nói chung và giáo dục đại học nói riêng trong giai đoạn công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO.
Hơn lúc nào hết chúng ta muốn tồn tại và phát triển chúng ta phải không ngừng nâng cao chất lượng, phải tự khẳng định mình, mỗi trường đại học nói riêng và toàn Ngành giáo dục và đào tạo nói chung phải xây dựng cho mình một thương hiệu đó là: Uy tín- Chất lượng, Năng động - Sáng tạo.
2.8
2.79
2.7
2.68
2.65
2.64
2.58
2.57
2.57
2.51
2.52
2.54
0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
Điểm trung bình
1
2
3
4
6
5
Các biện pháp
Tính cần thiết
Tính khả thi
Biểu đồ: Xét thứ bậc và tương quan giữa tính cần thiết và khả thi
của các biện pháp quản lí tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho đội ngũ giảng viên các trường Đại học khối Kinh tế
Kết luận chương 3
Trên cơ sở căn cứ vào định hướng đổi mới giáo dục đại học nói riêng và định hướng đổi mới của toàn Ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của toàn Ngành giáo dục nói chung từ nay đến 2020. Qua thực trạng điều tra công tác quản lí tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học trên cả nước nói chung và các trường đaị học khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp quản lí tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đại học.
+ Biện pháp thứ nhất: Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của vấn đề nâng cao năng lực nghiệp vụ sư phạm cho các cấp quản lý nhà trường và đội ngũ giảng viên
+ Biện pháp thứ hai: Cải tiến nội dung bồi dưỡng.
+ Biện pháp thứ ba: Đổi mới phương pháp bồi dưỡng.
+ Biện pháp thứ tư: Tăng cường sự phối hợp giữa các trường đại học và Viện nghiên cứu sư phạm trường đại học sư phạm Hà Nội nhằm thực hiện hoá được kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.
+Biện pháp thứ năm: Cung ứng kịp thời các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên..... đáp ứng mục tiêu bồi dưỡng.
+Biện pháp thứ sáu: Tạo cơ chế kích thích quá trình tự bồi dưỡng của các trường đại học
Qua khảo nghiệm chúng tôi thấy cả 6 biện pháp được đề xuất ở trên đều được đánh giá ở mức độ cần thiết, có tính khả thi cao và có mối tương quan mật thiết với nhau, hỗ trợ, thúc đẩy, hợp tác cùng nhau một cách chặt chẽ khoa học.
Kết luận và khuyến nghị
Với những nội dung được đề cập ở các chương trên, tác giả luận văn khẳng định : Mục đích, nhiệm vụ đặt ra đã được hoàn thành. Chúng tôi đưa ra những kết luận, khuyến nghị sau:
1. Kết luận
1.Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài chúng tôi thấy: Đề tài đã hệ thống hoá được một số vấn đề về lí luận cơ bản, đó là những định hướng lí luận làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng, từ đó tìm ra được những biện pháp hữu hiệu để giải quyết những vấn đề về tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung và đội ngũ giảng viên các trường đại học khối kinh tế nói riêng và giúp cho những nhà quản lí giáo dục quản lí tốt công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.
Quản lí là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí ( Nhà quản lí hay lãnh đạo gồm: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn) đến đối tượng quản lí ( Giảng viên, sinh viên) nhằm đạt được mục tiêu chung của từng trường đại học cũng như toàn Ngành giáo dục đề ra là: Nâng cao chất lượng giáo dục nhằm nâng cao dân trí, phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước, thực hiện Quyết định của Bộ giáo dục và Đào tạo là đào tạo và cung cấp đội ngũ giảng viên đạt trình độ chuẩn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- Hiện đại hoá của đất nước từ nay đến 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020.
Xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách và không thể thiếu của mỗi trường đại học trong năm học, bởi vì đối với mỗi người giảng viên việc tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm không những là một nhiệm vụ bắt buộc mà qua việc được tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm còn giúp cho người giảng viên, cán bộ quản lí giáo dục trong các trường đại học hình thành những phẩm chất, năng lực chuẩn mực của người giảng viên đại học trong giai đoạn hiện nay.
Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học là một quá trình rất quan trọng, trong đó nhà quản lí giáo dục giữ vai trò là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, điều khiển toàn bộ quá trình bồi dưỡng còn sinh viên, giảng viên giữ vai trò là chủ thể tích cực, tự giác, chủ động tham gia vào toàn bộ quá trình để lĩnh hội được hệ những tri thức, kĩ năng, kinh nghiệm giảng dạy và phẩm chất nghề nghiệp.
Họat động quản lí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí (Hiệu trưởng - Hiệu phó - Tổ trưởng chuyên môn) tới đối tượng quản lý (Giảng viên - Sinh viên) nhằm huy động tối đa các nguồn lực trong nhà trường và ngoài nhà trường nhằm hình thành nên những phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giảng viên.
Quản lí hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm bao gồm: Quản lí mục tiêu, Quản lí kế hoạch, Quản lí nội dung tổ chức hoạt động, Quản lí quy trình cách thức thực hiện, cách tiến hành, Quản lí lực lượng tham gia vào hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, Quản lí hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, Quản lí công tác kiểm tra, đánh giá kết quả tổ chức bồi dưỡng...
2. Qua nghiên cứu thực trạng công tác quản lí hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học nói chung, các trường đại học khối kinh tế trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng chúng tôi nhận thấy:
-Trong những năm gần đây các trường đại học đã có nhiêù cố gắng bằng nội lực của từng trường đã có nhiều kế hoạch nhiều biện pháp hữu hiệu liên kết với trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Viện Nghiên cứu sư phạm mở các lớp bồi dưỡng chuyên đề ngắn hạn để bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên, có chú trọng đến việc đổi mới hình thức, nội dung, phương pháp, Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy, học và nghiên cứu khoa học của môĩ trường đại học (Phòng học đa năng chất lượng cao, Trang bị đồ dùng dạy học, phòng thí nghiệm...) Xong chưa đồng bộ, việc kiểm tra, đánh giá chất lượng bồi dưỡng còn nhiều bất cập, chất lượng chưa cao là do nguyên nhân: Việc nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học ở một số giảng viên chưa thật sự sâu sắc (Họ chỉ coi trọng có bằng đại học chuyên môn là đủ, ngoài ra có bằng Thạc sĩ, ngoại ngữ, tin học... là có thể đi dạy tốt) chưa có dự báo về nhu cầu đào tạo (Có sự bổ xung kế cận) bồi dưỡng để mang tầm chiến lược, chưa thấy được sự cấp bách quan trọng của nghiệp vụ sư phạm đối với người giảng viên khi đứng trên bục giảng, các trường chưa chú ý chỉnh sủa bổ xung nội dung, chương trình đào tạo tiếp cận những nội dung mới, cập nhật tình hình trong nước và thế giới cũng như trong khu vực, hình thức bồi dưỡng còn chưa linh hoạt, chưa kịp thời, Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác dạy và học, nghiên cứu khoa học còn thiếu thốn và chưa thật phù hợp...
Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao chất lượng dạy, học và nghiên cứu khoa học của các trường đại học nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước và đổi mới giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay và đến năm 2020.
3. Để nâng cao hiệu quả của công tác quản lí việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên các trường đại học, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đại học nói riêng và giáo dục Việt Nam nói chung trong giai đoạn hiện nay (Thời kì công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, khi chúng ta đã là thành viên chính thức thứ 150 của WTO) đòi hỏi các trường đại học nói chung các trường đại học khối kinh tế nói riêng trong toàn Ngành giáo dục đào tạo Việt Nam phải không ngừng nâng cao hơn nữa nhận thức, xác định tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên giúp họ tự tin, vững vàng có kinh nghiệm, có phương pháp, khi đứng trên bục giảng truyền thụ tri thức cho sinh viên.
Đội ngũ các nhà quản lí phải có kế hoạch sát thực, chi tiết, cụ thể phù hợp với điều kiện cơ sơ vật chất, đội ngũ giảng viên và kinh phí cho phép của mỗi trường để chỉ đạo thực hiện có kết quả. Đồng thời phối kết hợp với trường Đại học sư phạm Hà nội, Viện nghiên cứu sư phạm, khoa Tâm lí giáo dục và các đơn vị liên quan để tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên linh hoạt, sáng tạo chất lượng giúp đội ngũ giảng viên ngày càng tích luỹ được nhiều kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, áp dụng và phục vụ vào công tác giảng dạy của mình. Đồng thời tăng cường quản lí việc kiểm tra đánh giá kết quả bồi dưỡng NVSP. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tổ chức bồi dưỡng, Phối kết hợp với các lực lượng chức năng có liên quan để thực hiện tốt công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giảng viên. Khuyến khích quá trình tự học tập bồi dưỡng tích luỹ tri thức kinh nghiệm bằng nhiều hình thức khác nhau trong thực tiễn cuộc sống.
2. Khuyến nghị
Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Cần sớm có kế hoạch cụ thể, chi tiết để có văn bản hướng dẫn, các trường đại học nói chung các trường đại học khối kinh tế nói riêng để nhanh chóng rà soát lại toàn bộ số lượng đội ngũ giảng viên của các trường chưa được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, từ đó có đề án chi tiết trình Bộ phê duyệt, lên kế hoạch bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên về nghiệp vụ sư phạm trong thời gian sớm nhất.
Đối với lãnh đạo các trường Đại học
Cần tạo mọi điều kiện có thể của trường đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giảng viên có trình độ về mọi mặt, có phẩm chất đạo đức nghề, lương tâm nghề nghiệp, giáo trình, tư liệu, tài liệu... coi việc bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm là một nhiệm vụ không thể thiếu và vô cùng cấp thiết của các nhà trường đại học, cố vấn với Ban Giám hiệu của các trường đại học tạo mọi điều kiện có thể giúp cho giảng viên có thời gian hợp lí để tham gia học tập bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, nâng cao năng lực chuyên môn của mình khi đứng trên bục giảng.
Đối với chủ nhiệm khoa, tổ trưởng bộ môn các trường đại học
Các khoa ( Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm) là những người sát sao hơn cả, nắm vững nhất về tâm tư nguyện vọng của đội ngũ giáo viên, giảng viên nhất là đội ngũ giảng viên trẻ, giảng viên nữ, nên tạo mọi điều kiện có thể từ cấp cơ sở giúp cho đội ngũ giảng viên có cơ hội tham gia vào các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm để giúp họ tự tin, vững vàng hơn khi lên lớp, đứng trên bục giảng.
Đối với đội ngũ giảng viên
Hãy coi đây là một nhiệm vụ không thể thiếu trong việc giảng dạy của mỗi người giáo viên, giảng viên, tự mình tìm tòi học hỏi, nghiên cứu tài liệu tham khảo, học hỏi các thầy cô đi trước, các bạn đồng nghiệp về phương pháp giảng dạy,tích cực lắng nghe ý kiến đóng góp xây dựng, Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, tham gia đầy đủ có trách nhiệm vào các lớp học bồi dưỡng do trường tổ chức nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy ở bậc đại học.
Đối với Lãnh đạo Trường ĐHSP Hà Nội và Viện Nghiên cứu Sư phạm
Trường Đại học sư phạm Hà Nội với bề dạy 55 năm xây dựng và phát triển là đơn vị Anh hùng trong thời kì đổi mới, một cái nôi, một địa chỉ đáng tin cậy nhất trong việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Ban giám hiệu nhà trường cần sớm có kế hoạch chỉ đạo cho Viện Nghiên cứu Sư phạm nhanh chóng lập đề án, kế hoạch bồi dưỡng trong thời gian sớm nhất để trường đưa vào kế hoạch nhiệm vụ năm học. coi đây cũng là một nhiệm vụ của nhà trường cần phải chú ý thực hiện trong năm học.
Viện nghiên cứu sư phạm là đơn vị được trường sư phạm giao cho làm đầu mối để giúp trường xây dựng khung chương trình, nội dung chương trình bồi dưỡng giảng viên các trường đại học vì vậy: Viện Nghiên cứư Sư phạm cần cử những chuyên gia có vốn hiểu biết sâu về từng lĩnh vực, từng bộ môn để xây dựng nội dung chương trình cần bồi dưỡng, Viết giáo trình cho từng môn học, từng chuyên đề, thời gian bồi dưỡng và kinh phí để bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên. Lập dự án trình Bộ Giáo dục và Đào tạo phê chuẩn để thực thi trong tất cả các trường đại học trên cả nước.