MỤC LỤC
 
 Lời nói đầu 
I.Lý thuyết 
 1.Khái niệm 
 2.Nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại 
II.Thực tiễn tại Việt Nam 
 1.Phân tích SWOT 
 1.1 )Điểm mạnh 
 1.2)Điểm yếu 
 1.3)Cơ hội 
 1.4)Thách thức 
 2.Cán cân thương mại ở Việt Nam 
 2.1)Nhìn lại năm 2010 
 2.2)Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 
 2.3) Điều hành tỷ giá, tỷ giá thực và nhập siêu 
 2.4) Định lượng tác động của điều chỉnh tỷ giá đến XNK và cán cânTM 
 2.5)Quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại 
 III.Biện pháp cải thiện cán cân thương mại 
 1)Biện pháp ngắn hạn và dài hạn 
 2)Một số biện pháp cải thiện thếu xuất khẩu và thếu nhập khẩu 
 3)Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ 
 4)Một số giải pháp cải thiện cán cân thương mại với Trung Quốc 
 
 IV.Lời kết
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 27 trang
27 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9226 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cán cân thương mại Việt Nam - Thực trạng và gải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia.Do đó tạo ra một khoản thặng dư trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán. 
II.Thực tiễn tại Việt Nam 
 1)Phân tích SWOT 
 1.1)Điểm mạnh 
-Việt Nam được đánh giá cao nhờ ổn định chính trị và an toàn về xã hội, có sức hấp dẫn 
đối với các thương nhân và các nhà đầu tư nước ngoài. Bản thân việc Việt Nam tích cực 
tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới 
- Từ sau đổi mới, đặc biệt là từ sau khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, số 
nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam cũng như nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam 
bước đầu được mở rộng. 
- Từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết năm 2000 và khi Việt Nam trở 
thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007, hầu hết các nước và 
vùng lãnh thổ trên thế giới đã nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam. Cũng vì thế mà kim 
ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên nhanh chóng. 
-Việt nam là nơi có nguồn nhân công,mặng bằng rẻ,tài nguyên thiên nhiên phong 
phú,điều kiện tự nhiên thuận lợi,có thế mạnh về mặt hàng nông sản như café,tiêu, cà phê, 
hạt tiêu, nhân điều, chè, dầu thô, than đá, hàng điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm 
gỗ, xe đạp và phụ tùng… 
1.2)Điểm yếu 
-Ở nước ta hiện nay “công nghiệp phụ trợ” còn hết sức đơn giản,hầu như chưa có gì 
nhiều, quy mô SX nhỏ lẻ,chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết giản đơn,giá trị gia tăng 
thấp và còn có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các DN vừa và nhỏ nội địa của 
Việt Nam với các yêu cầu của các hãng sản xuất toàn cầu. 
- Cơ cấu kinh tế nhìn chung còn yếu kém so với các nước. Thông thường, khi chọn ngành 
trọng điểm, phải xem xét đến hai yếu tố là chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số kích thích nhập 
khẩu. Nhưng ở nước ta, một số ngành như công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng vốn đầu 
tư khá lớn nhưng chỉ số lan tỏa nội địa thấp, trong khi chỉ số kích thích nhập khẩu lại cao 
bất thường. 
- Trong thực tế, chính sách bảo hộ của Việt Nam còn nhiều cảm tính. Những ngành có thể 
cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu - bảo hộ sản xuất ngày càng giảm, thậm chí có 
những nhóm còn có tỷ lệ âm. Ngược lại, với những ngành không thể cạnh tranh thì hệ số 
bảo hộ hữu hiệu cho sản xuất lại ngày càng tăng 
 5 
- Việc áp dụng các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại và nâng cao các dịch vụ 
hỗ trợ thương mại đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất khẩu nhưng cũng đồng 
thời thúc đẩy cả hoạt động nhập khẩu. 
-Quy mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt mức 
473 USD/người là thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. 
-Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi sự biến 
động giá cả trên thị trường thế giới hay sự xuất hiện của các rào cản thương mại mới của 
nước ngoài. 
- Tỷ lệ nhập khẩu là cấu phần trong xuất khẩu còn rất cao, chiếm khoảng 2/3 giá 
xuất xưởng. 
-Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý, thể hiện trên cả 3 phương diện: chủng loại hàng 
hoá xuất khẩu còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp 
kim ngạch đáng kể; các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng còn thấp, xuất khẩu chủ 
yếu vẫn phụ thuộc vào các mặt hàng như khoáng sản, nông, lâm, thuỷ, hải sản, trong khi 
các mặt hàng công nghiệp như dệt may, da giày, điện tử và linh kiện máy tính... chủ yếu 
vẫn còn mang tính chất gia công; quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo 
hướng công nghiệp hóa diễn ra chậm và chưa có giải pháp cơ bản, triệt để. 
-Về thực chất, cơ cấu hàng xuất khẩu thời gian qua chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng, 
chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà 
chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp 
có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn 
- Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác các thị 
trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, 
các hiệp định thương mại song phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối 
tác để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc. 
-Công tác của mạng lưới đại diện, đặc biệt về thương mại ở nước ngoài còn nhiều yếu 
kém, chưa thực sự hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương 
mại nhỏ lẻ, rời rạc, hiệu quả chưa cao. 
 -Việt Nam lại là việc lệ thuộc quá nhiều vào việc xuất khẩu vào Mỹ. Trong năm 2009, 
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với giá trị tương đương 20% tổng kim 
ngạch xuất khẩu. 
 - Thị trường xuất khẩu tăng trưởng không đều, trong khi thị trường ASEAN, EU, Hoa 
Kỳ tăng trưởng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác tăng chậm hoặc giảm như 
Trung Quốc, Nhật Bản và Australia.. 
1.3)Cơ hội 
-Theo cam kết từ 1/1/2010, các mặt hàng nhập khẩu từ Việt Nam vào Trung Quốc và các 
nước ASEAN 6 sẽ được hưởng mức thuế nhập khẩu từ 0-5%. Việt Nam được thực hiện 
cam kết muộn hơn 5 năm bắt đầu từ năm 2015. Bởi vậy đây là cơ hội rất lớn cho hàng 
hóa Việt Nam tăng cường xuất khẩu sang Trung Quốc trong thời gian 5 năm tới. 
-Sự biến động không ngừng của nền kinh tế toàn cầu cũng là cơ hội nâng cao các khả 
năng cạnh tranh và tính thích nghi của các doanh nghiệp ViệtNam. Các vấn đề quản trị 
doanh nghiệp, quản trị rủi ro, tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như đầu tư 
vào công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh, năng suất lao động, đào tạo kỹ năng cho lao 
động cần được các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc mới có hiệu quả. 
 6 
-Kinh tế của các nước thành viên EU vẫn đang khó khan trong giai đoạn này nhưng nhu 
cầu nhập khẩu và tiêu thụ mặt hàng giày dép tại EU vẫn đứng ở mức cao tạo cơ hội gia 
tăng xuất,khẩu cho doanh nghiệp VN 
-Từ năm 2010, khi Hiệp định Đối tác kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) được triển khai đồng 
bộ, sẽ có trên 800 dòng sản phẩm nông sản và thủy sản Việt Nam vào Nhật với thuế suất 
0%. Điều này đang mở ra những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp chế biến nông, thủy sản. 
 việc giảm thuế mạnh mẽ các mặt hàng nông sản xuất khẩu vào Nhật đã mở ra cho các 
doanh nghiệp cơ hội tăng năng lực cạnh tranh. Cụ thể, theo các cam kết của VJEPA, Nhật 
Bản đã cam kết giảm thuế đối với các mặt hàng tương đương với gần 84% giá trị nông sản 
xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, ngay khi VJEPA có hiệu lực, trong số 2.020 dòng thuế 
nông sản, Nhật Bản đã xóa bỏ ngay đối với 784 dòng, chiếm 36% tổng số dòng thuế nông 
sản và chiếm 67,6% giá trị hàng xuất khẩu của Việt Nam. 
-Việc ra nhập các tổ chức kinh tế lớn,các hiệp định tự do thương mại…với bạn bè trên thế 
giới đã tạo điều kiện tiếp thu kĩ thuật,khoa hoc công nghệ..tư đó tạo lợi thế cho xuất 
khẩu.. 
1.4)Thách thức 
-Thường xuyên phải đối đầu với rào cản thương mại của các nước cũng là thách thức 
không nhỏ đối với các doanh nghiệp VN trong xu thế hội nhập vì tính cạnh tranh còn thấp. 
Chính vì vậy, nguy cơ Việt Nam phải đối mặt với hàng trăm vụ kiện mỗi năm, tranh chấp 
thương mại và con số các vụ kiện sẽ ngày càng tăng 
- Áp dụng thuế nhập khẩu thấp hơn đối với thương mại hàng hoá theo FTA trong nội khối 
ASEAN (AFTA), FTA giữa ASEAN với Trung Quốc (ACFTA), và việc gia nhập WTO 
trong 2007, làm cho hàng nhập khẩu trở nên rẻ đi tương đối so với các sản phẩm trong 
nước và phù hợp hơn với túi tiền của dân chúng nên đã tạo ra tỷ lệ tiêu dùng hàng nhập 
khẩu cao hơn. 
-Tỷ giá hối đoái giữ ở mức thấp ở một số nước đặt biệt là Trung Quốc (VN nhập khẩu tới 
90%) gây khó khăn trong việc điều chỉnh cán cân thương mại của VN. 
- Hàng hoá xuất khẩu chưa đa dạng, tập trung vào một số ngành hàng như dầu thô,dệt 
may, thuỷ sản, nông sản và giày dép. Do vậy, Việt Nam dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực khi có 
sự biến động lớn về giá hàng hoá cũng như biến động trong nhu cầu ở thị trường nước 
ngoài 
- Sự biến động trong giá hàng hoá thế giới dẫn tới hoạt động đầu cơ hàng hoá, nên nhiều 
hàng hoá được nhập khẩu để tích trữ trước khi giá tăng. 
-Khả năng cạnh tranh của hàng XK Việt Nam còn thấp do nhiều mặt hàng gia công, XK 
phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, tiến độ thực hiện các dự án sản xuất 
nguyên liệu, phụ liệu, phát triển công nghiệp phụ trợ còn chậm. Tình trạng thiếu hụt lao 
động, nhất là lao động có tay nghề cao, có xu hướng gia tăng. Ngoài ra, chi phí nhân công 
có xu hướng tăng nhanh cũng khiến hàng hóa sản xuất tại Việt Nam mất dần lợi thế giá 
nhân công rẻ; năng lượng cho sản xuất như than, điện, chưa phát triển kịp đáp ứng nhu 
cầu phát triển các ngành kinh tế khác... 
- Việt Nam vẫn phải mất nhiều năm để trở thành một nền kinh tế xuất khẩu trong điều 
kiện phải cạnh tranh khốc liệt với người hàng xóm Trung Quốc.Để làm được điều này, các 
doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu hướng tới những thị trường khó tính với những sản phẩm 
đặc thù thay vì cạnh tranh về giá cũng như nhân công lao động với đối thủ lớn Trung 
 7 
Quốc 
-Nhiều nhóm hàng đã chạm ngưỡng, khó tăng tiếp. Bên cạnh đó, xuất khẩu Việt Nam 
cũng phải sẽ đối mặt thêm với nhiều rào cản thương mại mới... quá trình phục hồi của 
kinh tế thế giới chứa đựng nhiều rủi ro, khó lường. Những vấn đề hậu khủng hoảng như 
bảo hộ mậu dịch, biến động giá cả, lạm phát, khan hiếm nguyên liệu, năng lượng... có thể 
xảy ra, sẽ tác động xấu đến phát triển kinh tế các nước, nhất là các nước đang phát triển 
như nước ta. 
- Hoạt động của hệ thống tài chính của Việt Nam còn nhiều rủi ro, lạm phát có nguy cơ 
tăng lên cũng như đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Sức cạnh tranh của cả nền kinh 
tế và của các doanh nghiệp còn ở mức thấp. Bên cạnh đó, tình hình thiên tai, dịch bệnh có 
thể còn diễn biến phức tạp... nhiều cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO đến thời hạn 
thực thi, nhất là cam kết về mở cửa lĩnh vực dịch vụ, tài chính, bán lẻ, tạo ra thách thức 
không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam.. 
-Chiến lược hướng mạnh ra xuất khẩu một cách quá mức có thể đưa tới những khó khăn 
nghiêm trọng một khi thị trường ngoài nước chao đảo, do đó có thể sẽ diễn ra xu thế cơ 
cấu lại thị trường theo hướng cân bằng hơn giữa thị trường trong nước và ngoài nước, nhất 
là ở các nền kinh tế có dung lượng thị trường nội địa lớn. 
2)Cán cân thương mại ở Việt Nam hiện nay-Thực trạng và phân tích 
2.1)Nhìn lại năm 2010 
 Hoạt động xuất khẩu năm 2010 với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 71,63 tỷ USD, 
tăng 25,5% so với mức thực hiện năm 2009, đồng thời là mức tăng trưởng cao, vượt xa 
chỉ tiêu Quốc hội đề ra. 
 Các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu 32,8 tỷ USD giá trị hàng hóa (không kể dầu 
thô), còn DN có vốn nước ngoài đạt kim ngạch 33,8 tỷ USD. Cơ cấu ngành hàng xuất 
khẩu đã có sự chuyển dịch từng bước, theo hướng tích cực trong bối cảnh giá cả trong 
khu vực và trên thị trường quốc tế tăng nhanh. Phần lớn các loại hàng xuất khẩu chủ 
lực của ta đều có mức tăng trưởng cao, như gạo, dệt may, da giày, đồ gỗ, máy tính… 
 Một số mặt hàng xuất khẩu tiêu biểu 2010 
Tên hàng Trị giá(đv 1000 đ) Tỷ lệ phần trăm trong xuất 
khẩu(%) 
Dệt may 11209676 
15.5 
Thủy sản 5016297 
6.9 
Dày da 5122259 
7 
Gạo 3247860 
4.5 
Cà phê 1851358 
2.5 
 Nguồn:tổng cục thống kê 
 8 
 2010 Việt Nam có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD cho thấy, năng 
lực cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu đã được nâng lên rõ rệt. 
 Hàng dệt may đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu (đạt 11 tỷ USD, tăng 21,3% so với năm 
trước và chiếm 15,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước), vượt 8% so với mục tiêu 
xuất khẩu đặt ra từ đầu năm. 
 Về đích thứ hai là mặt hàng da giầy, thuỷ sản. Tuy bị áp thuế bán phá giá ở một số thị 
trường, đặc biệt là thuỷ sản còn chịu sự kiểm tra khắt khe về an toàn vệ sinh thực phẩm, 
song do chúng ta chủ động đầu tư chiều sâu, tạo mặt hàng mới và mở rộng thị trường nên 
kim ngạch xuất khẩu của hai mặt hàng trên đều đạt trên 4,9 tỷ USD, lần lượt vượt 13,4% 
và 8,1% mục tiêu xuất khẩu đặt ra từ đầu năm. Tiếp theo, mặt hàng gạo đạt kim ngạch hơn 
3 tỷ USD và vượt 8,6% so với mục tiêu đầu năm. 
 Đặc biệt, so với năm 2009, chúng ta có thêm 5 mặt hàng mới có kim ngạch xuất khẩu 
trên 1 tỷ USD gồm hạt điều, xăng dầu các loại, sản phẩm chất dẻo, dây điện cáp điện và 
phương tiện vận tải, đưa tổng số mặt hàng có kim ngạch 1 tỷ USD trở lên là 18 mặt hàng. 
Bên cạnh các mặt hàng truyền thống là thế mạnh của Việt Nam nói trên, nhiều mặt hàng 
xuất khẩu mới như máy móc thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, hóa chất, sản phẩm 
hóa chất, sản phẩm cao su, sản phẩm thủy tinh... kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh, điều 
này khẳng định chủ trương phát triển mặt hàng xuất khẩu mới từng bước phát huy hiệu 
quả trong năm qua, đồng thời cho thấy năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của nền kinh tế 
ngày càng được mở rộng. 
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tiếp 
tục xếp thứ hạng cao so với các nước xuất khẩu trên thế giới, có khả năng ảnh hưởng đến 
thị trường thế giới như gạo và cà phê (đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu), cao su, hạt tiêu, 
hạt điều. Giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng do giá thị trường thế 
giới tăng mạnh, đồng thời nhờ hàm lượng chế biến trong sản phẩm xuất khẩu được nâng 
lên. Thị trường xuất khẩu được mở rộng và toàn bộ các thị trường xuất khẩu đều vượt mục 
tiêu tăng trưởng. Cụ thể, xuất khẩu sang Ấn Độ tăng 133%, Đài Loan tăng 28%, Hồng 
Kông tăng 46%, Hàn Quốc tăng 38%, Trung Quốc tăng 45%. 
 Trong số 11 mặt hàng tiêu dùng nhập khẩu chủ yếu, chiếm hơn 83% tổng kim ngạch 
nhập khẩu hàng tiêu dùng, thì kim ngạch của 5 mặt hàng tăng khá cao là sữa và sản phẩm 
từ sữa tăng 59,5%; rau và một số loại củ, quả tăng 44,9%; dầu mỡ động thực vật tăng 
29,6%; đường và các loại kẹo đường tăng 105,8%; máy móc thiết bị điện sử dụng trong 
gia đình tăng 23,9%. Có thể thấy nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng là do nhập khẩu những 
mặt hàng tiêu dùng cần thiết (không phải hàng xa xỉ, cao cấp) tăng mạnh, như đường, sữa, 
dầu ăn. Những mặt hàng này trong nước đã sản xuất được nhưng chưa đáp ứng được nhu 
cầu và cả về chất lượng. 
Nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, cao cấp đã có xu hướng giảm hoặc chỉ tăng 
nhẹ so với năm 2009, như nhập khẩu quả giảm 13,4%, đồ uống, rượu giảm 34,7%, ô tô 
nguyên chiếc dưới 10 chỗ giảm 7,4%; điện thoại di động tăng nhẹ 2,8% và nước hoa và 
mỹ phẩm tăng 14,8%.... 
Nhập khẩu nhiều mặt hàng nguyên nhiên vật liệu tăng mạnh về lượng trong thời gian gần 
đây cho thấy sản xuất, xuất khẩu đang trên đà tăng trưởng. Tuy nhiên, giá nhập khẩu 
nhiều mặt hàng tăng mạnh ảnh hưởng không nhỏ đến đầu vào của sản xuất kinh doanh, 
 9 
trong khi đó giá hàng hóa xuất khẩu lại tăng không bằng giá nhập khẩu, gây nhiều khó 
khăn cho DN sản xuất xuất khẩu. Nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu (hàng tiêu 
dùng, ô tô từ 9 chỗ trở xuống, xe máy) tăng 13%, thấp hơn so với mức tăng trưởng chung 
18,4%. 
2.2)Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu: 
a. Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu: 
 Thường năm chỉ riêng hai mặt hàng dầu thô và than đá đã chiếm gần 20% tổng kim 
ngạch xuất khẩu cả nước. Sản lượng xuất khẩu dầu thô và than đá tăng trưởng không ổn 
định. Khối lượng xuất khẩu dầu thô chỉ tăng nhẹ trong những năm đầu của giai đoạn 
2001-2007 rồi giảm dần về sau này. Sở dĩ có sự sụt giảm này là do các mỏ dầu cũ dần cạn 
kiệt trong khi công tác thăm dò và mua lại mỏ dầu mới của các nước khác không đạt nhiều 
tiến triển. 
Để tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường, trong những năm tới kim ngạch xuất khẩu 
các mặt hàng này sẽ giảm dần. Trong đề án xuất khẩu 2006-2010, Bộ thương mại đã điều 
chỉnh mục tiêu xuất khẩu khoáng sản, nhiên liệu xuống còn 9,6% vào năm 2010, trong đó 
giá trị xuất khẩu dầu thô còn 6,1 tỷ USD và than đá còn 325 triệu USD. 
b. Nhóm hàng nông lâm thủy sản 
 Đây là những mặt hàng chịu nhiều tác động của thị trường thế giới. Trong những năm 
2001-2003, do ảnh hưởng của kinh tế thế giới suy giảm, nhu cầu về nông sản, thủy sản 
giảm làm giảm giá hàng loạt mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Kim ngạch xuất 
khẩu tăng rất chậm trong giai đoạn này. Những năm còn lại do tình hình kinh tế thế giới 
phục hồi và chi phí sản xuất gia tăng; giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã tăng nhanh. 
Trong năm 2007, khối lượng xuất khẩu các mặt hàng nông sản có phần giảm hoặc tăng 
không nhiều. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu lại tăng rất cao so với năm 2006. Nguyên nhân 
là giá nông sản thế giới đang trên đà lên giá. Đầu năm 2008, thế giới đối mặt với cuộc 
khủng hoảng lương thực khi giá hầu hết các nông sản chính như: bắp, lúa mì, gạo đều tăng 
gấp 2-3 lần trong vòng chưa đầy hai năm. 
*Tóm lại, do đã có quá trình phát triển lâu dài, đã khai thác phần lớn tiềm năng nên hoạt 
động xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam những năm qua có xu hướng tăng 
trưởng chậm lại về khối lượng, nhưng vẫn gia tăng nhanh về giá trị do giá cả thế giới có 
xu hướng tăng lên. 
Việc gia nhập WTO đã đặt ngành xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trước những thời cơ và 
thách thức mới. 
Để các mặt hàng này thực sự trở thành thế mạnh của xuất khẩu Việt Nam, về lâu dài cần 
phát triển theo hướng: nâng cao dần chất lượng sản phẩm, gia tăng hàm lượng chế biến, 
đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu, phát triển hạ tầng pháp lý. 
c. Nhóm hàng chế biến: 
Đây là nhóm hàng gồm nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: dệt may, giày dép, sản 
phẩm cơ khí, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, điện tử, thủ công mỹ nghệ… Có thể phân chia 
các mặt hàng này thành hai nhóm 
+ Hàng chế biến chính: thủ công mỹ nghệ, dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, hóa 
phẩm tiêu dùng, sản phẩm cơ khí – điện, vật liệu xây dựng, sản phẩm gỗ. 
+ Hàng chế biến cao: điện tử và linh kiện máy tính, phần mềm. 
(1) Dệt may, da giày: 
 10 
Tình hình xuất khẩu dệt may, da giày của Việt Nam luôn ổn định. Tốc độ tăng trưởng 
bình quân của ngành dệt may là 23%, da giày là 15,3%. Hai ngành này có chung đặc điểm 
là sử dụng nhiều lao động, phù hợp với lợi thế lao động giá rẻ ở Việt Nam. Những hạn chế 
của các ngành này là phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu của nước ngoài (60%-70%), hao 
phí điện năng lớn. 
(2) Sản phẩm gỗ 
 Các sản phẩm gỗ gia tăng giá trị xuất khẩu một cách đều đặn, Năm 2004 có tốc độ tăng 
trưởng kỉ lục 81%, qua đó đưa gỗ vào nhóm hàng có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Gia 
nhập WTO mở ra những thuận lợi và cả khó khăn cho ngành chế biến gỗ xuất khẩu. 
(3) Máy tính và linh kiện điện tử: 
Ngành xuất khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính đang ngày càng có vai trò quan trọng 
trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Nếu như không tính năm 2002 xuất khẩu mặt hàng 
này giảm đi do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới thì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 
bình quân của mặt hàng này gđạt 29,4%, cao nhất trong số các mặt hàng chủ lực 
*Tóm lại, vấn đề nan giải đối với các sản phẩm chế biến: dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, 
sản phẩm nhựa… là nguồn nguyên, phụ liệu phần lớn phải nhập khẩu từ nước ngoài. Do 
vậy, giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu chưa cao, các doanh nghiệp chưa thực sự chủ 
động trong việc kí kết các hợp đồng. Nhiều sản phẩm chế biến còn mang tính chất gia 
công 
 Cùng với quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trong hơn một thập niên qua, 
kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có mức tăng trưởng rất cao (trung bình trên 
20% mỗi năm), trừ năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. 
 Theo đó, tỷ lệ xuất khẩu/GDP tăng từ 30% năm 1996 lên tới 68,5% năm 2010, trong khi 
tỷ lệ nhập khẩu/GDP còn tăng mạnh hơn, từ 45,6% lên đến 80% trong cùng thời kỳ, khiến 
tổng giá trị thương mại/GDP đã đạt 150% - thể hiện độ mở khá lớn của nền kinh tế. Có thể 
nói, chiến lược hướng về xuất khẩu bắt đầu từ giữa thập kỷ 1990 đã có những đóng góp 
đáng kể đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong nhiều năm. 
 Tuy nhiên, do tốc độ tăng nhập khẩu nhanh hơn nhiều so với xuất khẩu, cán cân thương 
mại ngày càng thâm hụt, và đặc biệt trở nên nghiêm trọng kể từ năm 2007 - khi Việt Nam 
chính thức trở thành thành viên chính thức của WTO. Trung bình giai đoạn 2001-2010, 
nhập siêu chiếm đến 12% GDP, và tăng lên gần 17% giai đoạn 2007-2010. 
 Nhập siêu tăng cao và dai dẳng trong thời gian dài mà không có bất kỳ dấu hiệu cải 
thiện nào khiến thị trường ngoại hối luôn trong trạng thái căng thẳng, tiền đồng luôn đối 
diện sức ép giảm giá, cán cân thanh toán không ổn định, tình trạng đô la hóa gia tăng,…. 
Điều này, cùng với một số diễn biến vĩ mô bất lợi khác, đã kích hoạt cho những bất ổn 
kinh tế vĩ mô kéo dài trong một vài năm gần đây. 
 11 
Hình 1: Tỷ trọng thương mại quốc tế trên GDP 
Nguồn: GSO và tính toán của TVSC 
2.3)Điều hành tỷ giá, tỷ giá thực và nhập siêu 
Bên cạnh nguyên nhân cốt lõi liên quan đến mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào đầu tư, 
đặc biệt là đầu tư công hiệu quả chưa cao, khiến chênh lệch tỷ lệ đầu tư và tiết kiệm trong 
nước ngày càng nới lỏng, thì điều hành tỷ giá, tác động đến tỷ giá thực - năng lực cạnh 
tranh về giá của hàng hóa trong nước, vẫn được xem là một nguyên nhân khiến thâm hụt 
cán cân thương mại quốc tế gia tăng. 
 Cách thức điều hành tỷ giá trước năm 2010 của Việt Nam - giữ nguyên tỷ giá liên ngân 
hàng một thời gian dài và đột ngột điều chỉnh với mức độ không lớn - đã khiến tiền đồng 
luôn bị định giá cao. 
 12 
Hình 2: Tỷ giá danh nghĩa, tỷ giá thực và nhập siêu 
Nguồn: SBV, GSO và tính toán của TVSC 
Hình 2 (tính tỷ giá thực so với thời điểm đầu năm 2000) cho thấy, trước năm 2004, tỷ giá 
tương đối ổn định, lạm phát trong nước thấp, tỷ giá thực tăng và bám sát tỷ giá danh 
nghĩa. Tuy nhiên, từ năm 2007, khi lạm phát gia tăng, việc điều chỉnh tỷ giá ít linh hoạt đã 
khiến tỷ giá thực bắt đầu rời xa dần tỷ giá chính thức, và tiền đồng đã bị định giá thực cao. 
Một số quan điểm cho rằng, việc điều chỉnh tỷ giá danh nghĩa chưa đủ tầm, khiến tỷ giá 
thực giảm, làm hàng hóa Việt Nam giảm sút tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế, và tác 
động tiêu cực đến thâm hụt thương mại. 
 Tuy nhiên, sau giai đoạn giảm mạnh trong năm 2007, tỷ giá thực hầu như rất ít biến 
động kể từ đầu năm 2008, nhưng nhập siêu lại biến động rất mạnh trong cùng thời kỳ. 
Điều này dẫn đến những nghi ngờ rằng ở Việt Nam, liệu việc thay đổi mạnh tỷ giá danh 
nghĩa (như lần điều chỉnh ngày 11/2 vừa qua), làm tăng tỷ giá thực, có cải thiện được cán 
cân thương mại hay không? 
2.4)Định lượng tác động của điều chỉnh tỷ giá đến xuất nhập khẩu và cán cân thương 
mại 
 Kết quả đầu tiên của các mô hình là ước lượng phần trăm thay đổi gộp của giá trị xuất 
khẩu và nhập khẩu theo 1% thay đổi của tỷ giá (hệ số co giãn) ở các tháng sau khi tỷ giá 
được điều chỉnh tăng (Hình 3) 
 Theo lý thuyết, khi phá giá đồng nội tệ, giá hàng nhập khẩu sẽ giảm tính cạnh tranh dẫn 
đến “ảnh hưởng sản lượng” (volume effect) – số lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm xuống. 
Tuy nhiên, phá giá còn dẫn đến “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu” (import value effect) - 
giá mỗi đơn vị hàng nhập khẩu sẽ gia tăng. 
 13 
 Hình 3 cho thấy khi tỷ giá bị điều chỉnh tăng 1%, nhập khẩu trong tháng đầu tiên giảm 
không đáng kể (-0,04%), và quá trình giảm sẽ kết thúc trong vòng 8 tháng – khoảng thời 
gian “ảnh hưởng sản lượng” chiếm ưu thế so với “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu”. 
 Tuy nhiên, từ tháng thứ 9, nhập khẩu bắt đầu tăng do tác động của tỷ giá, và tính gộp 
sau 1 năm, giá trị nhập khẩu được ước lượng tăng 0.06%. 
Hình 3: Tác động gộp của điều chỉnh 1% tỷ giá đến xuất nhập khẩu 
Nguồn: Kết quả các mô hình của TVSC 
 Kim ngạch nhập khẩu không giảm sau khi điều chỉnh tỷ giá được giải thích bởi đặc điểm 
cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam. Phần lớn hàng nhập khẩu là máy móc thiết bị 
và nguyên nhiên vật liệu, chiếm đến khoảng 85-90% giá trị nhập hàng năm trong suốt giai 
đoạn 1995-2010, để phục vụ cho quá trinh sản xuất trong nước. 
 Nếu ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế thì cơ cấu này có thể được cho là hợp lý, nhưng 
việc cơ cấu này không thay đổi và duy trì quá lâu lại bộc lộ yếu điểm quan trọng là Việt 
Nam không phát triển được các ngành công nghiệp phụ trợ. Vì vậy, nền kinh tế vẫn bị lệ 
thuộc quá nhiều vào nhóm hàng đầu vào nhập khẩu, dễ tổn thương trước những cú sốc bên 
ngoài, và khiến nhập khẩu khó giảm. 
 Giá trị xuất khẩu, theo mô hình, cũng sẽ không được cải thiện sau khi điều chỉnh tăng tỷ 
giá. Theo lý thuyết, tỷ giá tăng có thể khiến giá hàng hóa Việt Nam cạnh tranh hơn và vì 
thế tăng được xuất khẩu. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng ở 3 tháng đầu tiên, tác động tiêu 
cực của điều chỉnh tỷ giá bắt đầu thể hiện từ tháng thứ 4 và các tháng tiếp theo. 
 Sau 1 năm điều chỉnh tăng tỷ giá 1%, giá trị xuất khẩu được ước lượng sẽ giảm 0,15%, 
do đó, điều chỉnh tang tỷ giá chưa chắc đã cải thiện cán cân thương mại.Xuất khẩu không 
tăng như kỳ vọng được giải thích bởi phần lớn hàng hóa xuất khẩu chính của Việt Nam 
đều sử dụng tỷ trọng các yếu tố đầu vào nhập khẩu lớn (ví dụ các ngành lương thực – 
nhập khẩu phân bón, thuốc trừ sâu; dệt may – nhập khẩu bông vải sợi, ngành điện tử - 
nhập khẩu máy móc và linh kiện, ….). 
 14 
 Sau khi “ảnh hưởng giá hàng nhập khẩu” lấn át, chi phí đầu vào của các ngành sản xuất 
hàng xuất khẩu sẽ gia tăng, giá đầu ra tăng theo và trung hòa lại tác động của giá hàng hóa 
nội địa cạnh tranh hơn lúc ban đầu. 
 Hình 4 cho thấy tác động gộp của cú sốc dương tỷ giá đến cán cân thương mại chỉ tích 
cực trong 8 tháng, nhưng tính chung cho cả 1 năm, cán cân thương mại không được cải 
thiện, thậm chí theo chiều hướng tăng nhập siêu. Cán cân thương mại gần như quay trở lại 
trạng thái ban đầu sau 14 tháng điều chỉnh tỷ giá. Với những phản ứng của giá trị xuất 
khẩu và nhập khẩu do điều chỉnh tỷ giá như phân tích ở trên, diễn biến này của cán cân 
thương mại là hoàn toàn có thể hiểu được. 
Hình 4: Tác động gộp của cú sốc dương tỷ giá đến cán cân thương mại 
 Nguồn: Kết quả các mô hình của TVSC 
 15 
 Hình 5:Cán cân thương mại của Việt Nam theo các khu vực kinh tế 
 Từ sau giai đoạn mở cửa kinh tế, thương mại của Việt Nam tăng lên rất nhanh. Tính 
trung bình từ năm 1990 đến 2009, xuất khẩu của Việt Nam tăng trung bình hàng năm 
18.7%/năm, trong khi đó nhập khẩu tăng trung bình 20.1%/năm. Tổng kim ngạch nhập 
khẩu từ mức chỉ bằng 76% GDP vào năm 1990 tăng lên 162% GDP vào năm 2008. 
Thâm hụt thương mại theo đó cũng ngày càng lớn, từ mức 0.6 tỷ USD năm 1990, và lên 
đỉnh điểm vào năm 2008 là 17.51 tỷ USD. 
Sự tăng mạnh của kim ngạch xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế Việt Nam có độ mở 
ngày càng cao. Tuy nhiên, tiềm ẩn sau đó là những rủi ro. Tổng thâm hụt thương mại của 
Việt Nam từ năm 1990 đến 2009 đã lên tới 84 tỷ USD, tương đương với GDP của năm 
2007. Thâm hụt thương mại/GDP liên tục tăng cao trong những năm gần đây và lên tới 
hơn 20% GDP vào năm 2008. Đây là mức cao vượt xa trung bình của các nước trên thế 
giới. 
Về cơ cấu nhập khẩu, phần lớn các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam là máy móc thiết 
bị và nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng chỉ chiếm chưa đến 10%. Từ năm 2000 đến nay, 
nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng chỉ chiếm 6-8%, nguyên nhiên vật liệu chiếm 60-67%, 
còn lại là máy móc thiết bị. 
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế giá 
trị gia tăng thấp chiếm một tỷ lệ khá lớn. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản (dầu thô và 
khoáng sản khác) từ năm 2000 đến nay vẫn luôn chiếm từ 30 – 40%. Những mặt hàng 
liên quan đến nông nghiệp sơ chế như nông lâm thủy hải sản chiếm trên 15-17%. Những 
 Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2009 
 16 
mặt hàng chế biến chiếm tỷ trọng 43-50%, trong đó một tỷ trọng khá lớn là gia công may 
mặc, giầy da. Hơn 70% nguyên liệu gia công xuất khẩu là từ nhập khẩu và giá trị gia 
tăng từ mặt hàng này tương đối thấp. Những mặt hàng có hàm lượng công nghệ và giá trị 
gia tăng cao chiếm một tỷ lệ khá thấp trong mặt hàng xuất khẩu. 
 Trong một số năm gần đây tỷ trọng nhập siêu từ Trung Quốc chiếm hơn 90% tổng nhập 
siêu của Việt Nam. Tuy vậy, đây mới chỉ là con số chính thức. Nếu thống kê cả hàng 
hóa nhập lậu qua biên giới và bằng con đường tiểu ngạch thì con số này có thể còn cao 
hơn. Điều đáng quan ngại là tốc độ gia tăng nhập khẩu từ Trung Quốc ngày càng nhanh, 
trong khi xuất khẩu sang nước này hầu như không thay đổi. 
 Hình 6 
 2.5)Quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại 
Về mặt lý thuyết như đã trình bày ở trên, giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại có 
quan hệ đồng biến với nhau. Biểu đồ sau thể hiện khá rõ mối quan hệ này. 
Với số liệu theo năm, chúng ta thấy giữa tỷ lệ X/M có một mối quan hệ khá rõ ràng, trừ 
giai đoạn từ 2002 đến 2004 thì mối quan hệ này đã bị suy yếu. 
Trường hợp khác, xét dữ liệu theo quý từ năm 1999 đến 2009 thì chúng ta thấy mối quan 
hệ này có ý nghĩa hơn khi đường xu thế có giá trị R2=0.52. Như vậy, biểu đồ khá trực 
quan này cho thấy giữa tỷ giá hối đoái thực và cán cân thương mại có một mối quan hệ 
đồng biến. 
 17 
 Biểu đồ 7:quan hệ giữa tỷ giá thực và tỉ lệ xuất khẩu/nhập khẩu 
Các kết quả hồi quy bằng mô hình kinh tế lượng cũng cho thấy có mối quan hệ giữa tỷ 
giá thực và cán cân thương mại. Điều này cho thấy việc phá giá đồng tiền đóng góp vào 
việc giảm nhập siêu. 
Thâm hụt thương mại cao gây nên rất nhiều rủi ro cho nền kinh tế và gây sức ép mạnh 
lên tỷ giá. Do vậy, chính sách điều hành tỷ giá không những có vài trò trong vấn đề ổn 
định thị trường tiền tệ mà còn đóng vai trò trong việc kiềm chế nhập siêu. 
Không ít ý kiến cho rằng cần phải phá giá đồng nội tệ để giải quyết vấn đề nhập siêu của 
Việt Nam. Tuy nhiên, phân tích trên đã chỉ ra rằng dù tỷ giá và nhập siêu có mối quan hệ 
với nhau, nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác. Để giảm nhập siêu cần 
một bài toán tổng thể hơn chứ không phải là một giải pháp riêng lẻ. 
III.Biện pháp 
1)Biện pháp ngắn hạn và dài hạn 
 Khó khăn về cán cân thương mại ở Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc từ cơ cấu kinh tế 
(là 
hệ quả của cơ cấu đầu tư) và các điều kiện kinh tế vĩ mô. Vì vậy, tái cấu trúc nền kinh tế, 
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô chính là các giải 
pháp phù hợp nhất để đối phó với tình trạng hiện nay hơn là các công cụ chính sách 
thương mại, mặc dù công cụ chính sách thương mại có thể dùng để giải quyết khó khăn 
 18 
của một số ngành nghề cụ thể. Các biện pháp được đề xuất dưới đây để đối phó với khó 
khăn cán cân thanh toán được phân loại theo tính chất của vấn đề bất cập là ngắn hạn hay 
dài hạn. 
 Đề xuất biện pháp ngắn hạn 
Công cụ kinh tế vĩ mô có thể sử dụng để điều chỉnh sự mất cân đối bên ngoài thông qua 2 
kênh chính, đó là áp dụng chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ: 
.-Thắt chặt tài khoá hoặc tiền tệ có thể sử dụng để giảm tiêu dùng trong nước, từ đó 
sẽ giúp giảm nhu cầu đối với hàng nhập khẩu. 
-Chính phủ có thể khuyến khích người tiêu dùng thay đổi cơ cấu chi tiêu theo đó 
ưu tiên tiêu dùng các mặt hàng trong nước, giảm tiêu dùng nhập khẩu thông qua 
giảm tỷ giá thực của đồng nội tệ. Đồng nội tệ giảm giá sẽ có tác dụng làm cho giá 
các hàng hoá sản xuất trong nước trở nên rẻ hơn so với hàng hoá nước ngoài 
 -Một cách khác để giải quyết bất cập cán cân tài khoản vãng lai đó là giảm nhu cầu nhập 
khẩu thông qua tăng thuế nhập khẩu. Trong khung khổ WTO, thành viên được phép tăng 
thuế nhập khẩu lên tới mức cam kết trần. Trong trường hợp của Việt Nam, dư địa thuế 
suất (phần chênh lệch giữa thuế suất cam kết trần với 
 Biểu đồ 8: Dư địa thuế suất nhập khẩu trong một số ngành trong năm 2009 
 Nguồn: WTO/ITC (2008) Số liệu Thuế Nhập khẩu Thế giới 2008, Geneva 
thuế suất áp dụng) là tương đối đáng kể và có thể sử dụng như một chiếc phanh để hãm 
bớt đà gia tăng nhập khẩu. Biểu đồ 8 cho thấy còn dư địa thuế suất nhập khẩu trong nhiều 
ngành khác nhau. Không gian chính sách còn tương đối rộng với Việt Nam trong các 
ngành thiết bị vận tải, đồ uồng và thuốc lá và thực phẩm chế biến. Việt Nam cũng có thể 
 19 
vận dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu trên cơ sở khó khăn về cán cân thanh toán theo 
các điều kiện chặt chẽ. Tuy nhiên, việc áp dụng thuế suất cao hơn trong khung cam kết 
được phép hoặc áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu trên cơ sở điều kiện khó khăn 
về cán cân thanh toán sẽ đi kèm với các ảnh hưởng tiêu cực lâu dài cho Việt Nam. Tác 
động của các lựa chọn chính sách này bao gồm 
 (i) ảnhhưởng tới kết quả xuất khẩu vì xuất khẩu phụ thuộc khá chặt chẽ vào nhập khẩu; 
 (ii) làmtăng cán cân thương mại nếu hệ số co giãn của nhập khẩu nhỏ hơn 
 (iii) ảnh hưởng đếnlợi ích của người tiêu dùng vì chi phí tiêu dùng tăng lên; 
(iv) làm môi trường kinh doanhở Việt Nam bị giảm khả năng đoán định do thay đổi chính 
sách, và có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài; 
(v) giảm niềm tin của các nhà đầu tư đặt vào Việt Nam nếuviệc áp dụng các biện pháp bảo 
hộ bị các nhà đầu tư coi là tín hiệu của khủng hoảng. 
 Ngoài ra, sử dụng phụ thu nhập khẩu cũng có tác dụng giống như phá giá đồng tiền 
trong cắt giảm nhập khẩu, nhưng biện pháp này sẽ không đạt được lợi ích cho hoạt động 
xuất khẩu. 
 Đề xuất biện pháp dài hạn 
Để giải quyết bất cập mang tính cơ cấu trong dài hạn, báo cáo khuyến nghị Việt Nam tập 
trung vào nâng cao triển vọng cán cân thanh toán của mình dựa trên các gợi ý sau đây: 
 -Đánh giá kỹ lưỡng lợi ích từ các FTA mà Việt Nam dự kiến sẽ ký với các nước 
khác để đảm bảo thu được lợi ích thực sự từ các FTA này và đảm bảo không làm 
gia tăng đột biến nhập khẩu thuần. Điều này là vô cùng quan trọng đối với các 
FTA như ASEAN-Trung Quốc, ASEAN- Hàn Quốc (AKFTA) và ASEAN-Nhật 
Bản (AJFTA), nhất là các FTA mà Việt Nam dự kiến sẽ tham gia. 
 -Tìm cách nâng cao giá trị gia tăng trong hoạt động sản xuất ở Việt Nam và đa 
dạng hoá diện mặt hàng xuất khẩu nhằm giảm tác động tiêu cực từ biến động giá 
hàng hoá và thay đổi nhu cầu trên thị trường thế giới. 
 -Giải quyết sự mất cân đối kinh tế vĩ mô bằng cách điều chỉnh mức thâm hụt ngân 
sách và củng cố chính sách tiền tệ vững mạnh. 
 -Tiếp tục củng cố các dịch vụ hỗ trợ trong nước, nâng cao các biện pháp tạo thuận 
li cho thương mại, phát triển hơn nữa mạng lưới vận tải và dịch vụ hỗ trợ và tiếp 
tục cải cách thể chế và thủ tục hành chính để giảm chi phí giao dịch nâng cao sức 
cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu. 
- Duy trì môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút đầu tư và nâng cao năng lực cạnh 
tranh của Việt Nam. 
-Nâng cao năng lực vốn con người ở Việt Nam thông qua đầu tư giáo dục vì nguồn 
vốn con người là yếu tố then chốt để thúc đẩy các hoạt động có giá trị gia tăng cao 
ở Việt Nam. 
- Giảm thiểu tình trạng buôn lậu qua đường biên giới của Việt Nam và nâng cao 
công tác giám sát, quản lý chất lượng hàng hoá nhập khẩu cũng như theo dõi sát 
sao hoạt động phá giá. 
 -Giám sát và vận động việc xoá bỏ các biện pháp bảo hộ hoặc hình thức bảo hộ trá 
hình do các nước G-20 áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam16. 
 20 
2)Một số biện pháp cải thiện thếu xuất khẩu và thếu nhập khẩu - Đối với thuế xuất 
khẩu: 
Để đảm bảo khuyến khích tối đa hoạt động xuất khẩu, chỉ thực hiện thu thuế xuất khẩu đối 
với các mặt hàng xuất khẩu mà VN đã có thị trường ổn định hoặc là nguyên liệu thô cần 
cho sản xuất trong nước như quặng thô, phế liệu kim loại...Cần điều chỉnh theo hướng 
giảm và tiến tới bỏ thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng như may mặc, da giày, nông 
sản chế biến để khuyến khích xuất khẩu. 
- Thuế nhập khẩu: 
(1) giảm bớt số mức thuế nhập khẩu và mức thuế cao nhất: hiện nay nước ta có 18 mức 
thuế nhập khẩu, mức thuế cao nhất là 60%. Để phù hợp với yêu cầu hội nhập ta phải giảm 
dần mức thuế cao nhất và giảm số lượng mức thuế. Về lâu dài, mức thuế phù hợp với yêu 
cầu AFTA là 0 - 5%, nhưng trước mắt ta phải giảm dần, song đối với các mặt hàng mà 
nước ta không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong những năm sắp tới, 
những mặt hàng là nguyên liệu vật tư quan trọng và chủ yếu cho sản xuất các ngành có thế 
mạnh cạnh tranh và xuất khẩu...thì cần xây dựng mức thuế nhập khẩu thấp hơn mức bảo 
hộ cấp I. Trong tương lai, biểu thuế nhập khẩu hoàn thiện là 8 mức 0%, 3%, 5%, 10%, 
20%, 30%, 40% và 50%. Đồng thời mức thuế cao nhất là 60% cũng được giảm xuống còn 
50%. 
(2) cần xác định rõ mức thuế nhập khẩu tạm thời cho các loại hàng hóa đặc biệt: trong luật 
thuế hiện hành chúng ta chưa có quy định về mức thuế tạm thời đối với một số loại hàng 
nhập khẩu mà giá bán của nước xuất khẩu quá thấp so với giá thành của hàng hóa nhằm 
gây rối hoặc có tính chất đe dọa sự phát triển sản xuất trong nước. Vì vậy cần phải có quy 
định về thuế suất tạm thời nhằm chống lại tình trạng bán phá giá, hoặc hộ giá để nhằm 
cạnh tranh không lành mạnh. 
Đây là những biện pháp đối phó với những hành động cạnh tranh không lành mạnh trong 
thương mại quốc tế được nhiều nước áp dụng. 
- Cần rà soát biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để phát hiện những điều bất hợp lý, trên 
cơ sơ đó hiệu chỉnh danh mục, mức thuế xuất khẩu nhập khẩu cho phù hợp, chuẩn xác 
nhằm hạn chế việc áp dụng sai thuế suất. 
- Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định trị giá hải quan theo WTO. Giá tính thuế nhập 
khẩu phải dựa trên cơ sơ mức giá trung bình trên thị trường thế giới hoặc mức giá được 
ghi trong hợp đồng nhập khẩu. 
- Tăng cường bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, khả năng vận dụng và tổ 
chức thực hiện luật pháp của các cán bộ ngành thuế và ngành hải quan. Bên cạnh các biện 
pháp giáo dục, kỷ luật hành chính, cần chú ý tới việc gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất 
đối với các cán bộ này. Cần đổi mới, trang bị 
phương tiện làm việc của đội ngũ tuần tra chống buôn lậu trốn thuế. Cải tiến quy trình thu 
thuế xuất nhập khẩu, góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hợp lý phục vụ cho sự 
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 
 3)Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ 
 21 
 Bên cạnh những biện pháp ngắn hạn và dài hạn một điều cần lưu ý đã nêu ở trên đó là 
đặc điểm cơ cấu hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam. Phần lớn hàng nhập khẩu là máy 
móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu, chiếm đến khoảng 85-90% giá trị nhập hàng năm 
trong suốt giai đoạn 1995-2010, để phục vụ cho quá trinh sản xuất trong nước và Tỷ lệ 
nhập khẩu là cấu phần trong xuất khẩu còn rất cao, chiếm khoảng 2/3 giá xuất xưởng dẫn 
đến tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu ở mức khá cao tạo ra thực tế là nếu xuất 
khẩu muốn tăng lên thì nhất thiết nhập khẩu sẽ tăng. 
Nguyên nhân được giải thích ở đây là nếu ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế thì cơ cấu 
này có thể được cho là hợp lý, nhưng việc cơ cấu này không thay đổi và duy trì quá lâu lại 
bộc lộ yếu điểm quan trọng là Việt Nam không phát triển được các ngành công nghiệp 
phụ trợ. Vì vậy, nền kinh tế vẫn bị lệ thuộc quá nhiều vào nhóm hàng đầu vào nhập khẩu, 
dễ tổn thương trước những cú sốc bên ngoài, và khiến nhập khẩu khó giảm. 
 Một số giải pháp thúc đẩy phát triển ngành CNPT Việt Nam 
Để có thể tạo ra những sự thay đổi lớn,phát triển mạnh mẽ đối với CNPT ở nước ta hiện 
nay thì giữa các chủ thể SXKD với nhà nước cần có sự hợp tác và thực hiện đồng bộ các 
giải pháp tổng thể. 
Về phía nhà nước: 
 Hiện nay trong hệ thống luật pháp nước ta vẫn chưa có định nghĩa về ngành CNPT, điều 
đó dẫn đến việc trong các quy định pháp quy không hề có chính sách khuyến khích đầu tư 
và phát triển ngành CNPT. Bởi vậy vấn đề đầu tiên đặt ra là Chính phủ cần phải xây dựng 
khái niệm CNPT trong hệ thống luật pháp. Hơn nữa thì Chính phủ cũng cần phải nhận 
diện lại vấn đề và tham gia tích cực vào cuộc chơi này hơn nữa bằng cách lập ra một cơ 
quan đầu mối để mối lái cho các DN cung cấp chi tiết linh kiện. Trên thực tế, nước láng 
giềng Thái Lan đã làm rất tốt việc này trong thời kỳ CNH của họ. Họ đã có một cơ quan 
nhà nước luôn theo dõi việc hỗ trợ DN vừa và nhỏ để "chui" vào các hãng chính. Trong 
khi ở nước ta thì vẫn chưa có một cơ quan nào phụ trách công việc này. 
Ngoài ra các cơ quan chính sách phải xây dựng và công khai chiến lược, quy hoạch đối 
với CNPT. Để tận dụng hiệu quả các nguồn lực còn hạn hẹp. Cần có các chính sách xác 
định rõ các lĩnh vực cần được ưu tiên để phát triển CNPT. Chẳng hạn như hiện nay các 
lĩnh vực như cán thép, đúc, xử lý nhiệt và chế tạo là những lĩnh vực còn tương đối lạc hậu, 
nên có thể tập trung phát triển CNPT trong những lĩnh vực này. 
Một vấn đề quan trọng khác theo nhận định của các chuyên gia kinh tế nước ngoài, thì 
Việt Nam cần có những điều chỉnh với các DNNN vì đây là những DN đã tồn tại rất lâu, 
cần phải tận dụng, định hướng sản xuất theo xu hướng chuyên môn hóa, tập trung vào một 
ngành. Mặt khác, một số ngành thuộc CNPT cần vốn đầu tư rất lớn, không phải DN tư 
nhân nào cũng làm được, bởi vậy công việc này cần được thúc đẩy nhanh chóng hơn. 
Đầu tư vốn phát triển cho CNPT. 
 22 
 Hiện cả nước có khoảng 30 ngành kinh tế kỹ thuật cần đến CNPT, trong đó có một số 
ngành chủ yếu như dệt may, da giày, cơ khí lắp ráp, điện tử-tin học... CNPT đòi hỏi có sự 
tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Phía Nhà nước nên đầu tư vào CNPT đối với 
những ngành quan trọng cần chi phối, những ngành công nghệ cao, những ngành tạo ra 
nhiều công ăn việc làm cho xã hội... Các DNNN cũng có thể liên doanh liên kết để thành 
lập các DN vệ tinh, sản suất sản phẩm phụ trợ phục vụ cho bản thân DN và cho xã hội. 
Hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, hỗ trợ về thuế và về thông tin và sự hợp tác quốc tế ở bình diện 
quốc gia. Đặc biệt cần phải nâng cao khả năng cấp tín dụng cho DN đầu tư CNPT, đồng 
thời với nó là đưa ra những ưu đãi về chính sách kết hợp giữa tín dụng và chính sách hỗ 
trợ cho CNPT, tín dụng ưu đãi kết hợp giữa chế độ bảo đảm tín dụng và bù lãi suất đối với 
ngành CNPT. 
Một điểm mấu chốt nữa đó là cần có chiến lược vĩ mô trong việc đầu tư vào khoa học 
công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành CNPT. Đây có thể nói là giải pháp quan 
trọng nhất trong giai đoạn hiện nay, nâng cao trình độ công nghệ chính là chìa khoá để 
phát triển CNPT ở Việt Nam. Bên cạnh việc tiếp thu và nhận chuyển giao công nghệ từ 
các đối tác, các nhà đầu tư nước ngoài thì chúng ta phải có chiến lược đầu tư xây dựng các 
khu công nghệ cao, công nghệ ứng dụng để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư 
nước ngoài trên lĩnh vực điện tử, tin học, lắp ráp... Xây dựng các trung tâm đào tạo kinh 
doanh và công nghệ cũng như các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật,trung tâm dữ liệu của các DN 
trong ngành CNPT cho các DN vừa và nhỏ. 
 Về phía doanh nghiệp 
 Có thể dễ dàng nhận thấy yếu tố quan trọng trong việc hình thành và thúc đẩy sự phát 
triển của ngành CNPT là nhận thức của bản thân các DN về tầm quan trọng của nó đối với 
việc nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam. Mặc dù gần đây, các cơ quan 
nhà nước mới bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển CNPT, nhưng 
các DNNN (chủ thể chính trong lĩnh vực này) từ trước đến nay lại thường hoạt động theo 
kiểu trọn gói (sản xuất từ A đến Z). Do đó, họ hầu như không có khái niệm về ngành 
CNPT. Khi tham gia sản xuất từ A đến Z, hiệu quả sản xuất của công ty đó sẽ không cao 
vì cần rất nhiều vốn đầu tư. Và vì thế vốn đầu tư của họ buộc phải dàn trải... Do đó các 
công ty hoạt động trong ngành CNPT chỉ nên chọn, tham gia vào một lĩnh vực sản xuất. 
Các DN cần đa dạng hoá trong hợp tác, liên doanh liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài 
nhất là với các DN nhỏ và vừa của Nhật. Đó là những công ty có trình độ kỹ thuật cao và 
có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực này vào Việt Nam để cung ứng các linh kiện, sản 
phẩm phụ trợ, tiếp nhận sự chi viện về công nghệ từ nước ngoài. Đây cũng là chính sách 
cần thiết để tăng khả năng cạnh tranh của các DN trong nước với những DN của Trung 
Quốc sẽ đầu tư vào nước ta trong thời gian tới. Do vậy chỉ có đa dạng hoá liên doanh liên 
kết, hợp tác đầu tư thì các DN Việt Nam mới là một mắt xích trong dây chuyền sản xuất 
toàn cầu. 
 23 
Từ trước đến nay chúng ta mới quan tâm đến liên doanh thông qua việc góp vốn đầu tư, 
gia công sản phẩm đơn giản thì đã đến lúc các DN cần phải coi trọng liên doanh, liên kết 
dưới dạng đối tác chiến lược, DN vệ tinh, chuyển nhượng bản quyền, thương hiệu. Trước 
mắt với những chi tiết tương đối dễ gia công, chế tạo, các DN Việt Nam có đủ khả năng 
đảm nhận được ngay và điều này cũng rất quan trọng bởi việc hỗ trợ cho các DN Việt 
Nam phát triển trình độ kỹ thuật của mình, sẵn sàng đón nhận chuyển giao kỹ thuật, sản 
xuất từ các DN có vốn nước ngoài là hết sức cần thiết còn việc sản xuất những chi tiết 
quan trọng, đòi hỏi kỹ thuật gia công cao ở Việt Nam sẽ do các DN có vốn nước ngoài 
đảm nhận. Trong tương laicông việc đó sẽ chuyển sang cho các DN Việt Nam. 
4)Một số giải pháp cải thiện cán cân thương mại với Trung Quốc 
Vấn đề cải thiện cán cân thương mại với bạn hàng Trung Quốc(chiếm 90 giá trị 
nhập khẩu của Việt Nam). 
 Trung quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt nam với tổng kim ngạch xuất nhập 
khẩu liên tục tăng cao trong nhiều năm qua. Tổng kim ngạch mậu dịch hai chiều tăng 
nhanh, bình quân khoảng 40%/năm. Năm 2008 con số này đạt 21,659 tỷ USD, năm 2009 
đạt 20,751 tỷ USD, hết quý I năm 2010 là 5,37 tỷ USD, tăng 37,8% so với cùng kỳ năm 
trước. Tuy nhiên nhập siêu của Việt nam từ thị trường Trung quốc ngày càng lớn về giá 
trị, năm 2005 nhập siêu là 2,82 tỷ USD, năm 2007 là 9,15 tỷ USD, năm 2008 là 11,12 tỷ 
USD, năm 2009 11,53 tỷ USD, và quý I năm 2010 là 2,55 tỷ USD. (Nguồn: Tổng cục 
thống kê). Mặt khác nhập siêu từ Trung quốc chiếm phần lớn tổng nhập siêu của Việt 
nam, theo số liệu của bộ công thương công bố và báo cáo tổng hợp của tác giả Nguyễn 
Duy Nghĩa, nguyên Phó Văn phòng bộ Thương mại cho thấy tỷ lệ nhập siêu từ Trung quốc 
so với nhập siêu của cả nước đã và đang duy trì ở mức rất cao, năm 2001 là 18,7 %, năm 
2007 là 73,7%, năm 2008 là 69,8%, năm 2009 là 97,1% và dự đoán năm 2010 là 94,4%. 
Đây thực sự là những khó khăn của ngoại thương nước ta, trong khi ta luôn xuất siêu với 
các thị trường như Mỹ, Anh, Đức, Úc, song nhập siêu từ thị trường Trung quốc ngày một 
tăng và duy trì ở mức cao chưa từng có. Do đó, muốn hạn chế nhập siêu của Việt nam thì 
phải có những biện pháp thực sự hiệu quả để giảm thâm hụt thương mại với Trung quốc. 
 Các biện pháp cần thiết để giảm nhập siêu với Trung quốc: 
Thứ nhất: Việt nam cần tăng cường quản lý và phân công các cửa khẩu chuyên nhập hàng 
Trung quốc, như cách làm mà Trung quốc đã thực hiện với hàng xuất khẩu của Việt nam. 
Thứ hai: Cần Tăng cường kiểm soát chất lượng hàng hoá, an toàn thực phẩm đối với hàng 
nhập từ Trung quốc, bằng cách bố trí đủ lực lượng cán bộ kiểm tra chất lượng hàng hoá 
nhập khẩu từ Trung quốc, đồng thời đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá theo tiêu 
chuẩn quốc tế. 
Thứ ba: Cần tăng cường công tác quản lý chống nhập lậu, buôn lậu tại các vùng biên giới 
giáp với Trung quốc. 
 24 
Thứ tư: Cần thực hiện chính sách tỷ giá, tiền tệ phù hợp với tình hình thực tế của Việt 
nam. Cơ chế điều hành tỷ giá của chúng ta không theo tỷ giá thả nổi, không theo tỷ giá cố 
định, chúng ta phải điều hành tỷ giá linh hoạt, dựa trên quan hệ cung cầu và có sự điều 
chỉnh của nhà nước. 
Thứ năm: Về trung, dài hạn cần thực hiện các biện pháp điều chỉnh cung, để giảm hệ số sử 
dụng hàng nhập khẩu. Cụ thể là cần có biện pháp để dịch chuyển từ công nghiệp gia công, 
lắp ráp, sang công nghệ cao phục vụ xuất khẩu. Cần có chính sách ưu tiên khuyến khích 
đầu tư vào các ngành sản xuất máy móc thiết bị thay thế hàng nhập khẩu để hạn chế nhu 
cầu nhập khẩu lớn cho mặt hàng này. 
Việc giảm thâm hụt thương mại nói chung và giảm thâm hụt thương mại với Trung quốc 
nói riêng là vấn đề cấp bách đối với Việt nam, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh tranh 
thương mại quốc tế ngày càng gia tăng. Chỉ khi nào chúng ta cải thiện được cán cân 
thương mại, khắc phục được những điểm yếu về cơ cấu thương mại, cơ cấu mặt hàng, cơ 
cấu sản xuất sản phẩm thay thế…thì các chính sách về tỷ giá, tiền tệ mới có thể phát huy 
đầy đủ được tác dụng 
IV.Lời Kết 
 Trong một nền kinh tế mở, nhập siêu từ một khu vực kinh tế nào đó là chuyện bình 
thường; ngay cả nhập siêu tổng thể cũng chưa hẳn là điều đáng ngại. Sự tập trung của dư 
luận vào những con số nhập siêu cũng như đối tác nhập siêu có thể khiến cho giới làm 
chính sách hướng vào những chính sách sai lầm như xây dựng thêm các hàng rào bảo hộ 
thương mại thay vì tập trung giải quyết nguyên nhân đích thực gây ra nhập siêu dai dẳng 
và ngày một lớn như hiện nay. Điều quan trọng là phải biết nhìn nhận điểm yếu,thách 
thức qua đó kết hợp với những cơ hội,điểm mạnh vốn có để xây dựng cơ chế,biện pháp 
phù hợp.Rõ ràng để hạn chế tình trạng nhập siêu không thế dung biện pháp riêng lẻ mà 
phải có sự phối hợp kết hợp đồng bộ giữa các giải pháp thì mới có hiệu quả. 
 25 
 Tài liệu tham khảo: 
 1.Giáo trình kinh tế quốc tế-Thạc sỹ Nguyễn Hữu Lộc 
 2.Cán cân thương mại Việt Nam-TS Đỗ Văn Tính 
 3.Báo cáo thâm hụt thương mại của Việt Nam và các điều khoản về cán cân thương 
mại của Việt Nam-Peter Naray 
 4.Số liệu Của tổng cục thống kê 
 5. Bộ Thưiơng mại (2000) Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kì 2001 – 2010 
 6. Bộ Thương mại (2005), Đề án phát triển xuất khẩu 2006 – 2010 
 26 
 MỤC LỤC 
 Trang 
 Lời nói đầu 2 
I.Lý thuyết 3 
 1.Khái niệm 3 
 2.Nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại 4 
II.Thực tiễn tại Việt Nam 4 
 1.Phân tích SWOT 4 
 1.1 )Điểm mạnh 4 
 1.2)Điểm yếu 4 
 1.3)Cơ hội 5 
 1.4)Thách thức 5 
 2.Cán cân thương mại ở Việt Nam 8 
 2.1)Nhìn lại năm 2010 8 
 2.2)Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 10 
 2.3) Điều hành tỷ giá, tỷ giá thực và nhập siêu 12 
 2.4) Định lượng tác động của điều chỉnh tỷ giá đến XNK và cán cânTM 13 
 2.5)Quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại 18 
 III.Biện pháp cải thiện cán cân thương mại 19 
 1)Biện pháp ngắn hạn và dài hạn 19 
 2)Một số biện pháp cải thiện thếu xuất khẩu và thếu nhập khẩu 22 
 3)Giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ 23 
 4)Một số giải pháp cải thiện cán cân thương mại với Trung Quốc 25 
 IV.Lời kết 
 27 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Cán cân thương mại Việt Nam-Thực trạng và gải pháp.pdf Cán cân thương mại Việt Nam-Thực trạng và gải pháp.pdf