MỤC LỤC
I. . Tổng quan:2
I.1. Tổng quan về thị trường gỗ thế giới:2
I.2. Các đạo luật (rào cản kỹ thuật) tác động đến ngành gỗ thế giới:5
I.2.1. Đạo luật FLEGT:5
I.2.2. Đạo luật Lacey:6
I.2.3. Các vấn đề chung về thuế quan.6
I.2.4. Những vấn đề chung Hải quan.7
I.2.5. Luật thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá.8
I.2.6. Các quy định về chứng chỉ rừng.8
I.2.7. Các quy định về trách nhiệm xã hội.9
I.2.8. Các quy định riêng đối với một số sản phẩm đồ gỗ nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.10
II.Tồng quan về thị trường Mỹ.11
II.1. Tình hình kinh tế xã hội Mỹ.11
II.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ.13
II.2.1. Đặc điểm tiêu dùng Hoa Kỳ.14
II.2.2. Đặc điểm nhập khẩu gỗ của thị trường Hoa Kỳ.15
II.2.3. Tình hình xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam.16
II.2.3.1. Tình hình xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam trên thị trường thế giới.16
II.2.3.2. Tình hình xuất khẩu mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.20
II.2.3.2.1. Kim ngạch xuất khẩu.20
II.2.3.2.2. Cơ cấu mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.21
II.2.3.2.3. Phân tích các đối thủ cạnh tranh về sản phẩm đồ gỗ trên thị trường Mỹ.22
II.2.3.2.3.1. Trung Quốc.22
II.2.3.2.3.2.Thái Lan, Malaysia, Indonesia.23
III. Phân tích SWOT của đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Hoa.24
III.1. Điểm mạnh.24
III.2. Điểm yếu.25
III.3. Cơ hội.27
III.4. Thách thức.28
IV. Chiến lược xuất khẩu gỗ sang thị tường Hoa Kỳ.29
IV.1 Các giải pháp đảm bảo sản xuất nguồn nguyên liệu trong nước bền vững, hạn chế nhập siêu.29
IV.2 Các giải pháp thị trường.
I.Tổng quan:
I.1. Tổng quan về thị trường gỗ thế giới:
Mặt hàng gỗ có quy mô buôn bán lớn thứ ba trên thị trường thế giới, chỉ sau dầu lửa và than đá. Sản phẩm gỗ được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Có khoảng 12.000 dạng sản phẩm gỗ được trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới. Nhu cầu về mặt hàng gỗ ngày càng tăng mạnh do phát triển của thương mại đồ nội thất trên thế giới và nhu cầu xây dựng tăng nhanh. Sự phát triển của thị trường gỗ thế giới đang mở ra những cơ hội và cả những khó khăn, thách thức đối với ngành công nghiệp chế biến gỗ VN. Có một cái nhìn tổng quan về thị trường gỗ thế giới, đánh giá những tác động và tìm các giải pháp cho ngành công nghiệp chế biến gỗ VN trong thời gian tới là hết sức cần thiết.
Theo nghiên cứu của CSIL - một công ty tư vấn và nghiên cứu độc lập tại Milan, Ý, trị giá của lượng đồ gỗ thế giới năm 2005 đạt khoảng 267 tỷ USD. Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển (xếp theo thứ tự sản lượng đồ gỗ), gồm Mỹ, Ý, Đức, Nhật, Anh, Canada và Pháp chiếm khoảng 58% tổng giá trị đồ gỗ nhập khẩu của toàn thế giới. Nhóm các nước đang phát triển chiếm 42%, trong đó riêng Trung Quốc chiếm 14%.
30
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4927 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chiến lược kinh doanh gỗ - Tình hình xuất khẩu mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong đó, Trung Quốc được coi là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tàn phá của các khu rừng nhiệt đới tại châu Phi và châu Á.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới - WB, sản xuất đồ gỗ sẽ tăng trưởng 20% mỗi năm. Ấn Độ, Nga, Brazil là những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất. Các loại sản phẩm đồ gỗ hiện nay tại Ấn Độ bao gồm cả đồ gỗ dùng trong gia đình và đồ gỗ văn phòng.
Theo VIFORES - Hiệp hội Gỗ và Lâm sản VN, hiện thị phần đồ gỗ xuất khẩu của VN trên thị trường đồ gỗ thế giới đạt khoảng 0,78%, vượt qua Philipines (chỉ đạt 0,54%). VN trở thành một trong 4 quốc gia xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất khu vực Đông Nam Á (sau Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và Thái Lan), được đánh giá là một trong những đối thủ mới nổi đầy tiềm năng, nhờ lợi thế chi phí sản xuất thấp, nhân lực dồi dào. VN hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp sản xuất, chế biến đồ gỗ, trong đó có 300 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thu hút 170.000 lao động với nhiều nghệ nhân có tay nghề cao. Phần lớn số các doanh nghiệp tập trung ở 3 cụm trọng điểm, gồm: cụm các tỉnh miền Đông Nam Bộ, gồm TP.HCM, Đồng Nai và Bình Dương; cụm các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung Bộ; cụm Hà Nội và các tỉnh lân cận. Trong đó, cụm TP.HCM, Đồng Nai và Bình Dương trở thành một khu liên hợp chế biến đồ gỗ cao cấp, lớn nhất nước.
Hiện sản phẩm đồ gỗ VN đã có mặt tại 120 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung vào 3 thị trường trọng điểm là: EU chiếm gần 28%, Nhật 24% và Mỹ 20%. Thị trường Mỹ tuy mới được khai phá, song đang đứng đầu về mức độ tăng trưởng nhập khẩu đồ gỗ VN trong những năm gần đây. Ngoài các thị trường truyền thống, các doanh nghiệp VN đang đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nội thất như bàn, ghế, giường, tủ … sang các thị trường Canada, Nga và một số nước Đông Âu, Trung Đông. Xuất khẩu gỗ và đồ gỗ đã trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 5 sau dầu thô, dệt may, giày dép và thủy sản. Theo VIFORES, xuất khẩu đồ gỗ sẽ tiếp tục tăng cao trong những năm tới, do các thị trường tiềm năng như Nhật, Pháp, Đức và Mỹ đang ưa chuộng các mặt hàng đồ gỗ nột thất của VN.
I.2. Các đạo luật (rào cản kỹ thuật) tác động đến ngành gỗ thế giới:
Mỹ là một hợp chủng quốc gồm 50 bang, mỗi bang có một luật điều chỉnh riêng. Hệ thống pháp luật thương mại của Mỹ rất phức tạp, không chỉ gồm luật liên bang, luật của 50 bang mà còn chịu sự điều chỉnh của vô số án lệ trọng tài thương mại. Vì vậy, một doanh nghiệp khi muốn xuất khẩu vào thị trường Mỹ cần phải nghiên cứu rất nhiều nội dung luật, ở cấp liên bang cũng như từng bang cụ thể. Vì vậy để mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ cần nghiên cứu một số vấn đề sau đây:
I.2.1. Đạo luật FLEGT:
Ủy ban châu Âu (EC) vừa có kế hoạch hành động về thực thi Luật Lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại gỗ (FLEGT) nhằm mục đích chống lại việc khai thác gỗ bất hợp pháp, thông qua cải cách quản trị rừng, hoàn thiện tính minh bạch và trao đổi thông tin, xây dựng năng lực.
Một trong những nhân tố chính của kế hoạch này là hệ thống cấp phép đối với gỗ hợp pháp, theo đó hàng loạt các hiệp định hợp tác tình nguyện (VPAs) giữa Liên minh châu Âu (EU) và các quốc gia sản xuất gỗ chủ yếu, trong đó có Việt Nam sẽ được ký kết.
Nội dung chủ yếu của kế hoạch hành động FLEGT nhằm ngăn chặn việc khai thác gỗ trái phép và thương mại quốc tế các sản phẩm gỗ được sản xuất từ nguồn bất hợp pháp; đẩy mạnh cải cách hành chính khu vực lâm nghiệp và hỗ trợ tăng cường năng lực tại các quốc gia sản xuất gỗ; giảm tiêu thụ tại châu Âu những sản phẩm gỗ được sản xuất từ gỗ có nguồn gốc bất hợp pháp. Đạo luật này sẽ có hiệu lực vào tháng 01/2012.
I.2.2. Đạo luật Lacey:
Ngày 01/04/2010 đạo luật Lacey cấm buôn bán lâm sản bất hợp pháp, trong đó có gỗ và sản phẩm từ gỗ vào Hoa Kỳ, bắt buộc doanh nghiệp phải nộp tờ khai, chứng từ rõ ràng về tên, loại gỗ, quốc gia khai thác gỗ, cách thức khai thác…, tức là phải có chứng nhận FSC (Forest Stewardship Council) của Hội đồng quản lý rừng bền vững thế giới.
Đạo luật Lacey cũng đòi hỏi chứng nhận quy trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm CoC (chain of custody) để nhà chức trách Mỹ có thể dễ dàng kiểm tra toàn bộ quy trình, từ khai thác gỗ ở một nước, vận chuyển qua các cửa khẩu, cảng biển nào trước khi đến nhà máy chế biến gỗ tại các nước.
Đặc điểm chung của cả FLEGT và Lacey đều đòi hỏi nhà xuất khẩu phải trình bày chuỗi hành trình của sản phẩm lâm sản, tất cả các khâu từ khai thác cho đến thành phẩm, một cách minh bạch, rõ ràng để nhà chức trách Mỹ và EU có thể truy xét nguồn gốc nguyên liệu.
I.2.3. Các vấn đề chung về thuế quan.
Hệ thống thuế quan của Mỹ là Biểu thuế quan hài hoà của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Harmorized Tariff Schedule – HTS). Được chính thức thông qua ngày 01/01/1989, hệ thống này được xây dựng dựa trên Hệ thống mô tả hàng hoá và Mã số Hài hoà của Hội đồng Hợp tác Hải quan, một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tại Brúc-xen. Thuế nhập khẩu đối với mặt hàng đồ gỗ nội thất có những đặc điểm như sau:
+ Thuế đánh theo tỷ lệ trên giá trị (tức là mức thuế được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng nhập khẩu).
+ Hải quan Mỹ chia đồ gỗ thành 6 nhóm mặt hàng chính 9401-9406.
+ Mức thuế suất của Mỹ đối với mặt hàng gỗ biến động từ 0% đến gần 13%.
Mặc dù Việt Nam đã cho Mỹ hưởng MFN kể từ sau khi ký Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA). Theo đó, thuế nhập khẩu đồ gỗ từ Việt Nam giảm mạnh, trung bình từ 50- 55% xuống còn 0 - 3%. Tuy nhiên, do bị Mỹ coi là nền kinh tế phi thị trường nên quy chế MFN dành cho Việt Nam vẫn phải xem xét và cấp lại. Đến ngày 9/12/2006, thượng viện Mỹ thông qua Dự luật thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR). Cùng với tư cách thành viên thứ 150 của WTO, Việt Nam (cụ thể là các doanh nghiệp xuất khẩu) đã được hưởng đầy đủ những ưu đãi về thuế trên thị trường Mỹ.
I.2.4. Những vấn đề chung Hải quan.
Việc nhập khẩu hàng gỗ và nội thất phụ thuộc phạm vi điều chỉnh của các quy định chung như được xác định trong các bộ luật của các quy định liên bang (các văn bản nhập khẩu -19 CFR 141; điều tra Hải quan -19 CFR 151 và thuế Hải quan 19 CFR -159).
Tính giá hải quan: Mỹ chấp nhận dùng hiệp định thương mại của WTO về tính giá hải quan làm cơ sở cho Luật tính giá hải quan của Mỹ, quy trình xác định giá trị của hàng nhập khẩu để áp dụng thuế tỷ lệ trên giá trị. Luật hiện tại của Mỹ coi “giá trị giao dịch” là cơ sở để xác định giá trị hàng nhập khẩu. Nếu quy định tính giá hải quan này không được sử dụng, luật quy định phương pháp thứ hai sẽ được sử dụng. Theo thứ tự như sau:
1) giá trị giao dịch của hàng hoá giống hoặc tương tự,
2) giá trị suy diễn,
3) giá trị tính toán.
Các quy định về xuất xứ hàng hoá:
+ Luật thuế quan năm 1930, Luật cạnh tranh năm 1988 quy định mọi hàng hoá có xuất xứ nước ngoài (hoặc vỏ đựng) “sẽ phải ghi rõ ở một chỗ rõ ràng, thường xuyên, theo đúng bản chất của hàng hoá (vỏ đựng) để người tiêu dùng ở Mỹ thấy rõ tên hàng bằng tiếng Anh và nước xuất xứ hàng hoá đó”.
+ Các luật trên cũng quy định về mức phạt do vi phạm quy định ghi nơi xuất xứ: hàng nhập khẩu không ghi rõ ràng xuất xứ sẽ bị phạt 10% trị giá. Hàng hoá/ hàng trong bao bì không ghi rõ xuất xứ sẽ bị giữ tại Hải quan cho đến khi nhà nhập khẩu tái xuất/ tiêu huỷ/ marking lại dưới sự giám sát của Hải quan. Mức phạt tối đa: 100.000 USD đối với lần đầu cố tình vi phạm thay đổi hoặc xoá marking xuất xứ và 250.000 USD cho lần sau.
Ngoài ra, các nhà xuất khẩu phải tuân thủ các quy định về đóng gói, ký mã hiệu và dán nhãn mác đối với hàng gỗ nội thất nhập khẩu nói riêng và hàng hoá nhập khẩu nói chung.
I.2.5. Luật thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá.
Đây là hai điều luật quan trọng mà các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ nên chú trọng. Hiện nay, Việt Nam rất thiệt thòi khi bị điều tra chống bán phá giá, nhưng các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đã quan tâm đến tỷ lệ thị phần các chủng loại sản phẩm gỗ chế biến của Việt Nam tại Hoa Kỳ. Hiện có các mã hàng nằm trong diện có nguy cơ cao, có thể nằm trong tầm ngắm của kiện chống bán phá giá đó là đồ gỗ nội thất dùng trong phòng ngủ, các loại ghế khung gỗ không bọc… Vì thế các doanh nghiệp càng phải nghiên cứu kỹ các luật này để có phương án ứng phó kịp thời khi kiện phá giá xảy ra.
I.2.6. Các quy định về chứng chỉ rừng.
Xu hướng có đòi hỏi ngày càng cao từ phía người nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ được chứng thực (veeified). Theo nghiên cứu, mỗi nhà nhập khẩu chính lại có yêu cầu riêng. Nhìn chung, đó là việc các doanh nghiệp xuất khẩu phải sản xuất thân thiện với môi trường, và đặc biệt tham gia chương trình phát triển bền vững diện tích rừng với các chứng chỉ rừng.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, việc có chứng nhận về sản phẩm rừng tạo một công cụ để thâm nhập thị trường, chiến lược lâu dài đối với tiếp thị và quản lý chất lượng, tạo sự khác biệt với đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra còn có các lợi ích: thể hiện sự cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật cao, giải quyết được vấn đề về hệ thống cung cấp với đối tác, tăng sự trung thành của khách hàng, tăng lợi nhuận.
Các chứng chỉ rừng phổ biến:
+ Chứng chỉ rừng FSC (Forest Stewardship Council – Hội đồng quản lý rừng quốc tế): ý nghĩa thể hiện gỗ được khai thác từ rừng trồng, rừng không có nguy cơ bị diệt chủng, có sự đa dạng sinh học, chức năng phòng hộ.
+ Chứng chỉ quản lý rừng (FMC- Forest Management Certification): yêu cầu hoạt động trong một khu vực rừng nhất định phải tuân thủ một loạt các quy định liên quan đến môi trường, trách nhiệm xã hội và tính kinh tế.
+ Chain of Custody Certification (Chứng chỉ coi sóc đồng loạt): yêu cầu một tổ chức chứng minh sản phẩm gỗ có nguồn gốc từ các khu rừng được thẩm định: những sản phẩm này có nhãn FSC.
I.2.7. Các quy định về trách nhiệm xã hội.
Hoa Kỳ có yêu cầu để bảo vệ người lao động, bảo đảm an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp. Doanh nghiệp xuất khẩu thể hiện việc tuân thủ các quy định về an toàn lao động dựa trên chứng chỉ SA 8000.
Các quy định về an toàn lao động:
+ Lực lượng lao động: Người lao động tự nguyện làm việc và nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình.
+ Không phân biệt đối xử: Người lao động có quyền làm việc, tự do chọn nghề, thực tập và nâng cao năng lực công tác. Không phân biệt giới, dân tộc, giai cấp, tôn giáo.
+ Cấm lao động trẻ em dưới 15 tuổi
+ Lao động trẻ (từ 15 – 18 tuổi) : cho phép với điều kiện hạn chế. Ví dụ: không được làm việc ca đêm, không giao các công việc đặc biệt nguy hại đến sức khoẻ, không giao việc nặng.
+ Đảm bảo giờ công: 8giờ/ ngày, 48giờ/tuần, 300 giờ làm thêm/ năm…
+ Phải đảm bảo các quy định về an toàn lao động: cốt lõi là phải tuân thủ các biện pháp phòng cháy chữa cháy.
I.2.8. Các quy định riêng đối với một số sản phẩm đồ gỗ nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.
Việc nhập khẩu đồ gỗ nội thất vào Hoa Kỳ tương đối dễ, không cần xin giấy phép nhập khẩu hay một loại giấy tờ đặc biệt nào. Tuy nhiên, cũng có một số quy định khá chặt chẽ đối với các sản phẩm nội thất dành cho trẻ em, đồ nội thất có thành phần dệt, và đồ nội thất chiếu sáng.
Sản phẩm nội thất dành cho trẻ em.: Loại sản phẩm này phải tuân thủ theo các quy định của Luật an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng (CPSA) của uỷ ban an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng. Ví dụ: các loại giường cũi cho trẻ có quy định rất chặt chẽ liên quan đến chiều cao của thanh bao quanh, khoảng cách giữa các bộ phận của cũi, kích cỡ bên trong, chi tiết hoàn thiện, các linh kiện bằng kim loại, và phải có hướng dẫn tháo lắp đối với những bộ phận tháo ghép. Ngoài ra, nhà nhập khẩu các loại cũi cho trẻ em phải duy trì hồ sơ lưu trữ tròng vòng 3 năm kể từ ngày sản xuất hoặc nhập khẩu sản phẩm này liên quan đến; (1) việc bán hàng, (2) phân phối, (3) kết quả kiểm tra sản phẩm theo quy định của luật CPSA. Quy định nhãn mác về các loại cũi trẻ em tương đối khắt khe. Hộp carton đóng gói cũi và trên cũi phải dán nhãn với những thông tin: tên và địa chỉ kinh doanh của nhà sản xuất, nhập khẩu, phân phối và hoặc bán hàng, số kiểu, số kho, số catolog hoặc số sản phẩm để phân biệt với những sản phẩm cùng cấu trúc, thành phần và kích cỡ. Nhãn hàng phải lưu ý người sử dụng dùng các loại đệm với kích cỡ cụ thể cao bao nhiêu, dài, rộng bao nhiêu và lưu ý này phải viết bằng chữ hoa với chiều cao ít nhất là 1/4inch và phải rõ ràng, dễ đọc và tương phản với nền chữ.
Sản phẩm nội thất có sử dụng nguyên liệu dệt: đồ nội thất có thành phần dệt không bị hạn chế bởi hạn ngạch dệt may và các quy định của các hiệp định đa sợi (MFA). Tuy nhiên, những sản phẩm nội thất đó phải được dán nhãn theo các quy định của luật nhận dạng sản phẩm sợi dệt (TFPIA) được giám sát bởi Uỷ ban thương mại liên bang (FTC). Theo đó, sản phẩm phải được đóng dấu, dán nhãn hoặc ghi mác với những thông tin:
(1) tên và tỷ lệ phần trăm trọng lượng của các loại sợi có chiếm trên 5% trọng lượng theo thứ tự giảm dần, phần trăm của các loại sợi theo quy định được ghi là “các loại sợi khác” (bao gồm các loại sợi có khối lượng bằng hoặc dưới 5%) được ghi ở cuối;
(2) tên nhà sản xuất hoặc tên hay số chứng minh do FTC cấp cho người tiếp thị hay sử dụng sản phẩm dệt;
(3) tên nước sản xuất hoặc chế tạo.
Một nhãn hiệu bằng chữ, đã đăng ký với cơ quan bằng sáng chế của Hoa Kỳ, có thể được sử dụng trên mác thay cho tên nhà sản xuất, nếu chủ sở hữu nhãn hiệu đó cung cấp cho FTC một phiên bản trước khi sử dụng. Ngoài ra sản phẩm có chứa thành phần dệt cũng chịu sự quy định của Luật vải dễ cháy (FFA) được CPSC giám sát. Theo đó cơ quan này sẽ cho rằng sản phẩm không tuân theo một tiêu chuẩn về dễ cháy, cơ quan này có quyền tiến hành các biện pháp trừng phạt về mặt pháp lý như tịch thu, không cho bán hàng phân phối sản phẩm đó. Nếu một trong số các sản phẩm này vi phạm thì DN sẽ bị phạt tới 5000 USD/ 1 sản phẩm hoặc tối đa tới 1,25 triệu USD.
Thiết bị nội thất chiếu sáng: đối với các loại sản phẩm này, Hải quan Hoa Kỳ yêu cầu phải ghi rõ số lượng các loại nguyên liệu cấu thành sản phẩm (bao nhiêu gỗ, bao nhiêu kim loại, bao nhiêu thuỷ tinh…) để phục cụ cho việc phân loại mã thuế. Các thông số này có thể ghi trên hoá đơn khi làm thủ tục hải quan hoặc có thể ghi riêng và đính kèm trong bộ hồ sơ giao nhận hàng. Mặc dù Hoa Kỳ không có quy định pháp lý bắt buộc về tiêu chuẩn an toàn sản phẩm đối với các loại đồ nội thất chiếu sáng, song gần như tất cả các sản phẩm nội thất chiếu sáng được tiêu thụ ở thị trường này đều tuân theo các tiêu chuẩn tự nguyện của tổ chức giám định chất lượng sản phẩm Underwriters’s Laboratary (UL) Hoa Kỳ. (UL) là tổ chức phi chính phủ và không vì mục đích lợi nhuận, đã được thiết lập đối với các thiết bị chiếu sáng trong nhà và ngoài trời. Những sản phẩm được UL kiểm nghiệm và dán nhãn chứng nhận an toàn dễ được người tiêu dùng chấp nhận hơn tại thị trường Hoa Kỳ.
II.Tồng quan về thị trường Mỹ.
II.1. Tình hình kinh tế xã hội Mỹ.
Vị trí địa lý : Mỹ là nước nằm ở Bắc Mỹ , được bao bọc bởi biển Bắc Đại Tây Dương và tiếp giáp với Canada
Tổng diện tích : 9.826.675 km2 Hoa Kỳ là quốc gia có tổng diện tích lớn thứ ba hoặc thứ tư trên thế giới, trước hoặc sau Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, tùy theo hai lãnh thổ mà Ấn Độ và Trung Hoa đang tranh chấp có được tính vào lãnh thổ Trung Hoa hay không. Nếu chỉ tính về phần mặt đất thì Hoa Kỳ lớn hạng ba sau Nga và Trung Hoa nhưng đứng ngay trước Canada (Canada lớn hơn Hoa Kỳ về tổng diện tích nhưng phần lớn lãnh thổ phía bắc của Canada là những khối băng, không phải là mặt đất).
Dân số năm 2009 : 307 triệu người.
Chủng tộc : 80% da trắng, 12,85% da đen và 7,15 % da hỗn hợp
Tôn giáo : Mỹ chủ yếu theo đạo Thiên Chúa giáo
Ngôn ngữ : ngôn ngữ chính của Mỹ là tiếng Anh.
Mỹ có 50 bang và 1 vùng . Ngày quốc khánh là ngày 04/07/1776
Văn hoá Mỹ : do người dân Mỹ có nguồn gốc từ nhiều nơi trên thế giới nên Mỹ có nền văn hoá đa dạng, mỗi cộng đồng dân tộc giữ bản sắc riêng của họ.
GDP năm 2009 là 14.119.050 USD, tính khoảng 46.900 USD/người
Cơ cấu kinh tế : nông nghiệp chiếm 1,2% , công nghiệp chiếm 21,9% và dịch vụ là 76,9%.
Thị phần tài chính : 38,94 % thế giới
Tài sản tài chính đến cuối 2009 :41.590.78 USD
Tăng trưởng so 2008 : 6,8%
Công nghiệp: Công nghiệp chế tạo chiếm ½ tổng sản phẩm công nghiệp chế tạo toàn cầu, đặc điểm nổi bật của ngành là có ưu thế về trình độ khoa học kỹ thuật.
Dịch vụ: Thu hút đến 70% lực lượng lao động đóng góp 68% vào tổng sản phẩm quốc dân
II.2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ nằm ở Bắc Mỹ, phía đông là Bắc Đại Tây Dương, phía tây là Bắc Thái Bình Dương, phía bắc tiếp giáp với Canada, và phía nam tiếp giáp với Mêhicô.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (mức thay đổi hàng năm %)
Thế giới
2007
2008
2009
2010*
2008
2009
2010*
Hoa Kỳ
2.1
0.4
-2.7
1.5
0.4
-2.5
2.7
EU
2.7
0.7
-4.2
0.3
0.6
-3.9
1.0
Nhật Bản
2.3
-0.7
-5.4
1.7
-1.2
-5.3
1.7
Trung Quốc
13.0
9.0
8.5
9.0
9.6
8.7
10.0
Nguồn: IMF, World Economic Outlook,(January 26, 2010)
Hoa Kỳ vẫn là nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới. Từ thập kỷ 90 trở lại đây, Hoa Kỳ đã duy trì được mức tăng trưởng GDP cao hơn mức tăng trưởng chung của cả khối G7. Mức tăng trưởng GDP bình quân của Hoa Kỳ trong thập kỷ 90 là 3,6% trong khi đó mức tăng chung của cả khối G7 trong cùng thời kỳ là 2,6%. Hoa Kỳ chi phối thế giới trong các lĩnh vực tài chính tiền tệ, thương mại điện tử, thông tin, tin học, bưu điện, du lịch, vận tải hàng không, vận tải biển, y tế, giáo dục, điện ảnh, tư vấn v.v. Trong lĩnh vực tài chính tiền tệ hiện nay, Hoa Kỳ chiếm khoảng 50% tổng lưu lượng thanh toán và đầu tư quốc tế thực hiện bằng đồng đô la. Năm 2005, Hoa Kỳ xuất khẩu khoảng 380 tỷ USD dịch vụ.
Các ngành công nghiệp chính của Hoa Kỳ bao gồm: dầu lửa, sắt thép, ô tô, hàng không, viễn thông, hoá chất, điện tử, chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, khai thác gỗ, khai khoáng. Các ngành chế tạo hàng không, điện tử, tin học, nguyên tử, vũ trụ, hoá chất là những ngành công nghiệp mũi nhọn của Hoa Kỳ. Các sản phẩm nông nghiệp chính của Hoa Kỳ gồm: lúa mỳ, các loại ngũ cốc khác, ngô, hoa quả, bông, thịt bò, thịt lợn, gia cầm, sản phẩm sữa, lâm sản, cá.
II.2.1. Đặc điểm tiêu dùng Hoa Kỳ.
Mỹ là một hợp chủng quốc, đa văn hoá, đa sắc tộc. Vì thế, thị trường Hoa Kỳ phân chia rất khác nhau: có những khách hàng coi trọng chất lượng và quan tâm đến các chứng chỉ bảo vệ môi trường và có những bộ phận khách hàng chỉ quan tâm sản phẩm giá rẻ.
Người tiêu dùng Hoa Kỳ mua sắm theo thị hiếu tiêu dùng. Thị hiếu của người tiêu dùng Hoa Kỳ thay đổi nhanh và mua theo sở thích. Người Mỹ xem đồ gỗ nội thất có mối quan hệ mật thiết với thời trang vì thế họ thường có xu hướng thay đổi.
Người tiêu dùng Mỹ đề cao tính tiện dụng. Người Mỹ khi đủ tuổi lao động đều đi làm, do đó quỹ thời gian dành cho gia đình rất ít. Vì vậy để thu hút sự chú ý của người tiêu dùng, nhà sản xuất cần thiết kế những sản phẩm mang tính tiện ích cao. Xu hướng hiện nay, những sản phẩm có thể tháo ráp và thay đổi công dụng được ưu chuộng.
Người Mỹ đề cao phong cách cá nhân. Người tiêu dùng thích thể hiện những nét riêng của đồ nội thất trong nhà họ. Các gia đình có nhu cầu trang trí theo sở thích từng người. Đối với người lớn, họ có thói quen và sở thích thư giãn trong vườn, vì vậy những mặt hàng nội thất ngoài trời ở thị trường này được tiêu thụ rất mạnh. Ngược lại, thanh niên và trẻ em lại thích thư giãn, chơi đùa tự do trong phòng riêng, do đó phòng trẻ con cũng được trang trí đẹp và tiện nghi. Phong cách trang trí đóng một vai trò hết sức quan trọng để người tiêu dùng Mỹ quyết định có nên mua hay không. Hầu hết thiết kế nhà của người Mỹ đều mang phong cách hiện đại nên đồ trang trí nội thất cũng phải phù hợp với phong cách đó.
Người tiêu dùng Mỹ cũng thích đồ gỗ làm từ nguyên liệu gỗ cứng, tốt nhất là gỗ của Bắc Mỹ hơn đồ gỗ làm từ các loại gỗ mềm. Để xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Hoa Kỳ cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường này thì một trong những yếu tố mà các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm là phải sử dụng gỗ cứng của Mỹ. Đây là lý do mà tốc độ nhập khẩu gỗ cứng từ Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam tăng nhanh chóng.
Người tiêu dùng Hoa Kỳ có thói quen mua sắm theo mùa, thường tập trung thời gian 3 tháng cuối cùng của mỗi năm để đi mua sắm những vật dụng cho gia đình. Ba tháng cuối năm có nhiều lễ hội, được nghỉ dài ngày, ví dụ Lễ Tạ Ơn, Lễ Giáng sinh, lễ Halloween, năm mới. Trong những ngày này, người Mỹ có thói quen bỏ các loại đồ dùng, vật trang trí cũ thay thế bằng các sản phẩm mới. Do đó, cuối năm được xem là mùa mua sắm ở Mỹ.
Nếu phân khúc thị trường Hoa Kỳ theo độ tuổi, người tiêu dùng đồ gỗ Hoa Kỳ được chia làm 5 loại theo tuổi tác.
Từ 19 -28 tuổi (có sức mua lớn trong tương lai, hiện nhu cầu mua sắm đồ gỗ chưa nhiều).
Từ 29 -39 tuổi (khoảng 47 triệu người, vừa trưởng thành, thích sản phẩm tiện dụng, gọn nhẹ, giá vừa phải).
Từ 40 -48 tuổi (khoảng 78 triệu người, đã đóng góp nhiều cho xã hội, bắt đầu nghiêng về mẫu mã, kiểu dáng, có thể chấp nhận giá cao).
Từ 48 -57 tuổi (đang tính đến việc về hưu, song vừa chăm lo con cái, vừa lo cho cha mẹ, nên ít mua sắm).
Từ 58- 67 tuổi (thường sống một mình, thích sản phẩm độc đáo, giá trị cao),
Từ 68 tuổi trở lên (thích sản phẩm gỗ có diện tích nhỏ, sắc sảo).
Theo đánh giá của các chuyên gia marketing, nhóm khách hàng tiềm năng nhất chính là nhóm người có độ tuổi từ 45- 55 (bởi họ cũng vừa là nhóm tuổi có thu nhập cao nhất lại vừa có nhu cầu sắm sửa bài trí cho gia đình.
II.2.2. Đặc điểm nhập khẩu gỗ của thị trường Hoa Kỳ.
Hoa Kỳ là nước nhập khẩu gỗ, sản phẩm gỗ và đồ gỗ nội thất hàng đầu trên thế giới . Hàng năm, Hoa Kỳ nhập một khối lượng trên 40 tỷ USD đồ gỗ và nội thất.
Theo đánh giá của Viện nghiên cứu Công nghiệp đồ nội thất (FIRI- Furniture Industry Research Institute) sức tiêu thụ đồ nội thất ở Mỹ sẽ tăng 25,5% trong giai đoạn 2000-2010, đạt mức 80,04 tỷ USD năm 2010.
Chi tiêu cho đồ gỗ và nội thất tăng một cách đáng kể ở khắp các bang trên toàn nước Mỹ. Trong đó các bang miền Tây luôn giữ vị trí hàng đầu. Hiện nay, bang California, Washington là thị trường hàng gỗ và nội thất quan trọng nhất của Mỹ. Taxas và Florida cũng là các thị trường rất lớn cho các nhà xuất khẩu đồ gỗ và nội thất trên toàn thế giới. Các bang có tiềm năng tăng trưởng cao nhất trong tương lai là Nevada, Utah, Arizona và Colorado.
Phân tích nhập khẩu của Hoa Kỳ cho thấy những mặt hàng nhập khẩu lớn nhất là: bàn ghế bằng gỗ (chiếm 15% nhập khẩu của nhóm HTS 94), phụ tùng ghế dùng cho xe cộ bằng kim loại (13%), đồ gỗ nhà bếp (8), bàn ghế văn phòng (7%), gỗ tùng bách (39% nhập khẩu của nhóm HTS 44).
Phần lớn nhóm hàng gỗ và gỗ chế biến được nhập khẩu để phục vụ nhu cầu tiêu dùng nội địa, một phần được chế biến để xuất khẩu và tái xuất khẩu. Đặc điểm nổi bật nhất của thị trường Hoa Kỳ là qui mô lớn, nhu cầu tăng thường xuyên và rất đa dạng về sản phẩm. Nhưng đây cũng là khó khăn cho nhiều quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam vì các đơn hàng thường rất lớn nên khó đáp ứng được yêu cầu. Thị trường Mỹ cũng là thị trường mở nên có sự cạnh tranh rất mạnh mẽ. Nước có lao động rẻ như Trung Quốc đã chiếm lĩnh thị phần lớn xuất khẩu vào Mỹ, Canada đứng thứ 2. Nhờ có hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ từ cuối năm 2000, Việt Nam đã thâm nhập thị trường Hoa Kỳ và đã được xếp vào danh sách 10 nước xuất khẩu lớn nhất vào Hoa Kỳ.
II.2.3. Tình hình xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam.
II.2.3.1. Tình hình xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Trong giai đoạn 2000‐2008, Việt Nam liên tục đạt mức tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu ở mức cao (trung bình khoảng 19%/năm), cao hơn mức trung
bình trong khu vực và trên thế giới (Xem Biểu đồ 2). Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê, năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 62,7 tỷ đô la Mỹ
(tăng 29,1% so với năm 2007), tỷ lệ xuất khẩu trên GDP lên tới trên 70%. Tuy
nhiên, cũng theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, mặc dù tốc độ tăng trưởng
kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 so với năm 2007 khá ấn tượng, nhưng
nếu loại trừ trị giá tái xuất khẩu sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt
hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì
kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%.
Ngược lại với năm 2008, bức tranh kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng của Việt Nam trong năm 2009 có phần ảm đạm. Do ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 chỉ đạt 56,58 tỷ USD, với mức tăng trưởng âm (giảm 9,7%) so với năm 2008. Sự giảm sút này một phần do tác động khách quan cuộc khủng hoảng hiện nay, một phần khác là do chính sức cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 2: Xuất khẩu mặt hàng gỗ và các sản phẩm từ gỗ (triệu đô)
Xuất khẩu
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Gỗ
311
324
460
609
1102
1561
1943
2385
2767
2598
(Nguồn: Niên giám các năm và niên giám tóm tắt 2009 của tổng cục thống kê)
Trong các mặt hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu trong cơ cấu nền kinh tế của nước ta thì thủy sản đạt 4300 triệu USD, gạo chiếm 2662 triệu USD, gỗ và sản phẩm từ gỗ chiếm 2598 triệu USD, cà phê chiếm 1710 triệu USD, Cao su chiếm 1199 triệu USD, như vậy gỗ và sản phẩm từ gỗ giữ một vai trò chủ lực trong xuất khẩu. Từ bảng 2 ta thấy từ năm 2000 đến 2008 thì doanh thu từ việc xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ luôn tăng qua các năm. Riêng năm 2009 do khủng hỏang nền kinh tế bắt đầu từ Mỹ và lan rộng ra tòan thế giới nên sức mua trên thế giới giảm làm cho xuất khẩu cũng giảm.
Cho đến nay sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có mặt tại 160 thị trường trên thế giới. Các thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ lớn của Việt Nam gồm Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam. Trong vòng 5 năm qua, ngành chế biến gỗ ở Việt Nam tăng trưởng với tốc độ bình quân 30%/năm và sản xuất lượng sản phẩm đạt chất lượng cao cho xuất khẩu, giá trị xuất nhập khẩu tăng 28.13%(2006) lên 2.385 tỷ USD (tăng 27.18%) vào năm 2007 và 2,767 tỷ USD (tăng 18.8%) vào năm 2008. Năm 2009 mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề bởi suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kim ngạch xuất khẩu cả nước vẫn đạt gần 2,598 tỉ đô la, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ, EU, Nhật chiếm tỷ trọng lớn mà đặc biệt là Hoa Kỳ đạt khoảng 1 tỷ USD.
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu gỗ sang các thị trường chính từ 2003-2009
Đơn vị tính: Triệu USD
Thị trường
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Hoa Kỳ
115,46
318,8
566,968
744,1
944,3
1.075
1.110
EU
160,74
379.1
457,631
500,23
633,1
791,8
628.8
Nhật Bản
137,91
180,0
240,873
286,8
300,6
362,55
398,85
Nguồn: “Niêm giám thống kê”, Bộ thương mại và www.vietnam-ustrade.org
Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đã giữ được tiến độ và ổn định qua các năm nhờ các sản phẩm phù hợp với tình hình kinh tế nước này. Đây là tín hiệu để hy vọng xuất khẩu tới Hoa Kỳ ổn định vào tương lai.
Với thị trường EU, từ đầu năm 2009 đến nay, do tình hình kinh tế của khối Liên minh châu Âu khủng hoảng khiến nhu cầu tiêu dùng sản phẩm gỗ của thị trường này sụt giảm mạnh. Điều này đã tác động mạnh đến xuất khẩu của Việt Nam. Theo thống kê, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU 6 tháng đầu năm 2009 của Việt Nam giảm tới 34% so với cùng kỳ năm trước. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ biến động mạnh hơn kim ngạch các ngành dệt may, gạo… là do gỗ là mặt hàng ít mang tính thiết yếu. Mặt hàng này có cầu khá nhạy cảm theo thu nhập, do đó có thể thấy ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính đến ngành là rõ nét hơn đến các ngành có cầu ít nhạy cảm theo thu nhập. Vì lẽ đó, sự phục hồi của ngành sẽ diễn ra chậm hơn các ngành kể trên. Do sự phục hồi kinh tế của thị trường này khá chậm nên nhìn chung sản phẩm gỗ Việt Nam không có nhiều cơ hội phục hồi mạnh ngay trong các tháng tới. Mục tiêu với thị trường EU là giữ được khách hàng và không để giảm quá nhiều.
Thị trường Nhật Bản là thị trường lớn thứ 3 đối với sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam. Từ đầu năm 2009 đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã lấy lại được vị thế của mình tại thị trường này. Trong khi xuất khẩu sản phẩm gỗ, đặc biệt là đồ nội thất bằng gỗ song hầu hết các thị trường giảm thì xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản lại có xu hướng tăng khá bền vững. Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản đạt 398,85 triệu USD, tăng 9,1 % so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2009, trong khi xuất khẩu sang nhiều thị trường giảm thì xuất khẩu sang một số thị trường nhỏ vẫn tăng trưởng như: xuất khẩu sang thị trường Malaysia tăng 2,3%, đạt 6,4 triệu USD với các sản phẩm chủ yếu là bàn ghế, ván…; xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông tăng 3,62%, đạt 5,1 triệu USD; xuất khẩu sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ tăng 6,96%, đạt 3,7 triệu USD.
II.2.3.2. Tình hình xuất khẩu mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.
II.2.3.2.1. Kim ngạch xuất khẩu.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu gỗ sang các thị trường chính từ 2003-2009
Thị trường
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Hoa Kỳ
115,46
318,8
566,968
744,1
944,3
1.075
1.110
Nguồn: “Niêm giám thống kê”, Bộ thương mại và www.vietnam-ustrade.org
Năm 2007, đồ gỗ đứng thứ 3 trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ. Thị trường này hiện nay chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam. Trong thời gian qua, xuất khẩu đồ gỗ nội thất của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ tăng khá nhanh.
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ, sản phẩm gỗ và đồ nội thất xuất khẩu từ Việt Nam sang thị trường Mỹ tăng từ 16 triệu USD năm 2001 lên 744,1 triệu USD năm 2006 và đạt 944,3 tỷ USD năm 2007, đã đạt hơn 1 triệu những năm sau đó. Đồ gỗ Việt Nam hiện đang đứng thứ năm trong top 10 các nước xuất khẩu đồ gỗ sang Mỹ, sau Trung Quốc (chiếm 49% thị phần đồ gỗ tại Hoa Kỳ), Canada (15%), Mêhicô (14%), Italia (3%), Việt Nam (2%)…
Với thị trường Hoa Kỳ, đồ gỗ Việt Nam được đánh giá là có chất lượng, kiểu dáng sáng tạo, giá cả khá cạnh tranh, vì thế tạo được độ tín nhiệm cao đối với người tiêu dùng. Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu hàng gỗ chế biến của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ còn chưa cao so với các nước khác nên không đứng trước nguy cơ bị kiện phá giá.
Từ bảng 4, chúng ta có thể thấy rằng ngành gỗ Việt Nam có sự tăng trưởng vượt bậc về kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay. Kim ngạch xuất khẩu gỗ từ chỗ chỉ đạt khoảng 115.46 triệu USD năm 2003 tăng gần 6.5 lần lên con số 744.1 tỷ USD năm 2006. Năm 2008 đã tăng đến con số ấn tượng 1,075tỷ USD.
+ Xét về giá trị tuyệt đối: kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Hoa Kỳ tăng trưởng mạnh trong giai đoạn từ năm 2003 đến nay. Từ chỗ chỉ đạt 115.46 triệu USD năm 2003, sau đó đã tăng 567 triệu vào năm 2005. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu có bước nhảy vọt lên 744.1 triệu vào năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ vào thị trường Hoa Kỳ đã đạt 1,1 tỷ USD vào 2009.
+ Xét về tỷ trọng: Hoa Kỳ đã vươn lên trở thành thị trường nhập khẩu đồ gỗ lớn nhất, với tỷ trọng 28% năm 2003, 38% năm 2006 và khỏang 40% năm 2009.
II.2.3.2.2. Cơ cấu mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.
Nhóm thứ nhất: Nhóm sản phẩm đồ mộc ngoài trời bao gồm các loại bàn ghế vườn, ghế băng, ghế xích đu,... làm hoàn toàn từ gỗ hoặc gỗ kết hợp với các vật liệu khác như sắt, nhôm, nhựa...
Nhóm thứ hai: Nhóm sản phẩm đồ mộc trong nhà bao gồm các loại bàn ghế, giường, tủ, giá kê sách, đồ chơi, ván sàn... làm hoàn toàn từ gỗ hay gỗ kết hợp với các vật liệu khác như da, vải...
Nhóm thứ ba: Nhóm đồ gỗ mỹ nghệ chủ yếu từ gỗ rừng tự nhiên bao gồm bàn, ghế, tủ... áp dụng các công nghệ chạm, khắc, khảm.
Đồ gỗ của Việt Nam xuất vào Hoa Kỳ chủ yếu là hàng thuần gỗ (2 mặt hàng chính là bàn ghế ngoài trời và nội thất trong phòng ngủ). Năm 2005, kim ngạch của hai mặt hàng này là 592 triệu USD, chiếm 86,5% tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ nội thất của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu lớn thứ hai vào Hoa Kỳ đối với nhóm hàng thuần gỗ sau Trung Quốc. Hai nguyên nhân chính dẫn đến sự tăng trưởng này là khả năng cung của Việt Nam tăng mạnh (trong đó có đóng góp lớn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) và nhóm hàng đồ gỗ dùng trong phòng ngủ của Trung Quốc đang bị Hoa Kỳ đánh thuế chống bán phá giá. Hiện đồ gỗ nội thất phòng ngủ của Việt Nam tiếp tục giữ lợi thế khi xuất sang thị trường Hoa Kỳ, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này chiếm đến 48,6% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ vào thị trường Mỹ với 39,2 triệu USD tháng 6 năm 2007. Các sản phẩm loại này gồm có giường nguyên chiếc và các bộ phận giường, tủ, bàn trang điểm, bàn phấn, tủ áo… Sản phẩm đồ nội thất phòng ngủ xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt khá cao như tủ áo 212/(212x69x241) cm bằng gỗ giáng hương và căm xe; tủ đầu giường (Open Nightstand) có giá 635 USD/cái, giường bằng gỗ tràm có giá 585,12 USD/ cái; giường California King xuất khẩu với đơn giá 556,8 USD/ chiếc, tăng 36,8 USD/chiếc so với tháng 5 năm 2007. Tiếp đó là đồ gỗ nội thất trong phòng khách, phòng ăn, đạt kim ngạch 18,2 triệu USD trong tháng 6 và chiếm 22,5 % tỷ trọng.
Các sản phẩm này là tủ, bàn, kệ ti vi…dành được đơn giá khá cao như tủ Oyster gỗ tràm bông vàng và gỗ sồi cỡ (1183x530x1761) mm có đơn giá là 1046,5 USD/ cái. Ghế cũng là một sản phẩm gỗ xuất khẩu vào thị trường này đạt kim ngạch cao trong tháng 6 năm 2007 với gần 10 triệu USD. Ngoài ra, xuất khẩu đồ gỗ nội thất văn phòng cũng đạt 4,8 triệu USD, tăng 37,1% so với tháng 05/2007. Các doanh nghiệp Việt Nam cần đa dạng hoá hơn nữa các sản phẩm nội thất sang thị trường này nhằm gia tăng giá trị xuất khẩu và tránh bị kiện chống bán phá giá tại Hoa Kỳ.
II.2.3.2.3. Phân tích các đối thủ cạnh tranh về sản phẩm đồ gỗ trên thị trường Mỹ.
II.2.3.2.3.1. Trung Quốc.
Ngày 1/6/2009, Bộ Thương mại Trung Quốc cùng với Tổng cục Thuế Trung Quốc vừa thông báo tăng tỉ lệ hoàn thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm gỗ. Tỉ lệ hoàn thuế mới này có mục đích giảm áp lực cho các doanh nghiệp xuất khẩu và giữ ổn định thị phần các sản phẩm gỗ xuất khẩu. Theo số liệu từ Tổng cục Thuế Trung Quốc, sẽ có hơn 2600 sản phẩm chịu thuế suất 2 chữ số được áp dụng tỉ lệ hoàn thuế mới này, bao gồm các sản phẩm cần nhiều sức lao động, các sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm cuối. Theo ước tính sẽ có khoảng 25,2 tỉ NDT được hoàn trả cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tính theo tỉ lệ hoàn thuế mới được áp dụng này. Đây là lần thứ 7 chính phủ Trung quốc điều chỉnh tỉ lệ hoàn thuế kể từ khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu. Tỉ lệ hoàn thuế chung sẽ tăng lên 13,5%, từ tỉ lệ 12,4% của lần điều chỉnh trước.
Tỉ lệ hoàn thuế đối với các sản phẩm đồ gỗ bằng gỗ nguyên chất sẽ tăng lên đến 15%, được áp dụng cho các sản phẩm đồ gỗ văn phòng, đồ bếp bằng gỗ, sản phẩm đồ gỗ phòng ngủ bằng gỗ đỏ và gỗ sơn mài cùng với các sản phẩm gỗ sơn mài khác. Ngoài ra, tỉ lệ hoàn thuế xuất khẩu đối với sản phẩm tre lát sàn cũng tăng lên 13%.
II.2.3.2.3.2.Thái Lan, Malaysia, Indonesia.
Theo Hiệp hội đồ gỗ và thủ công mỹ nghệ Indonesia (Asmindo), xuất khẩu đồ gỗ của nước này trong năm 2009 có thể giảm 30% so với mức 2,65 tỉ USD của năm ngoái, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trong quý I vừa qua xuất khẩu gỗ của Indonsia đã giảm 35% so với cùng kỳ năm trước. Hiệp hội dưa ra mục tiêu giữ mức sụt giảm 30% trong năm nay. Để thực hiện được mục tiêu này, các thành viên của Asmindo không ngừng tìm kiếm cơ hội xuất khẩu đến các nước trên thế giới, bằng những biện pháp như tham gia các hội chợ đồ gỗ…Hiệp hội sẽ tổ chức hội chợ đồ gỗ quy mô quốc tế ở Jakarta trong tháng 10 năm 2009, đây là một phần trong nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu đồ gỗ ở Indonesia.
Để hỗ trợ ngàhh gỗ phát triển, Chính phủ Indonesia sẽ xây dựng hệ thống chứng nhận gỗ độc lập mới cho tất cả các lô hàng gỗ xuất khẩu, để đối phó với nạn khai thác gỗ lậu đang lan nhanh ở nước này. Theo đó, kể từ tháng 9, tất cả các lô hàng gỗ xuất khẩu từ Indonesia đều phải được chứng nhận bởi 1 đơn vị kinh doanh độc lập và đại diện của các tổ chức phi chính phủ NGO.
Indonesia là một trong những ngành xuất khẩu đồ nội thất lớn trên thế giới. Theo tính toán của hải quan nước này, ngành công nghiệp đồ nội thất của Indonesia có khoảng 3.500 công ty với trên 2 triệu nhân công. Đồ nội thất bằng gỗ chiếm 2/3 tỷ trọng trong xuất khẩu đồ nội thất nước này. Ngành công nghiệp đồ nội thất của Indonesia cần khoảng 4,5 triệu m3 gỗ mỗi năm. Mặc dù Indonesia là nước sản xuất sản phẩm gỗ lớn nhưng nước này vẫn gặp phải tình trạng thiếu hụt gỗ nguyên liệu. Các loại gỗ phổ biến là gỗ tếch, gỗ mahogany và sonokeling.
Mỹ, EU và Nhật Bản là 3 thị trường xuất khẩu chính của Malaixia. Xuất khẩu đồ gỗ nội thất của Malaysia sang thị trường Mỹ suy giảm do sức mua tại thị trường này giảm sút và do phải cạnh tranh mạnh mẽ với các nước sản xuất có chi phí sản xuất thấp như Trung Quốc. Để thoát khỏi tình trạng mới cho mình, Ấn Độ nổi lên như một điểm sáng mới trên bản đồ xuất khẩu của họ.
III. Phân tích SWOT của đồ gỗ Việt Nam trên thị trường Hoa.
III.1. Điểm mạnh.
Số lượng doanh nghiệp chế biến gỗ phát triển nhanh đặc biệt là doanh nghiệp (DN) chế biến gỗ đã lên tới 2562 DN,... trong đó có trên 1450 DN tư nhân và 421 DN FDI.
Đã hình thành các cụm công nghiệp chế biến gỗ có quy mô lớn ở Bình Dương, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Bình Định và Quảng Nam.
Do thu hút được nhiều DN FDI nên các DN gỗ Việt Nam đã tiếp cận và đã áp dụng công nghệ chế biến gỗ hiện đại để sản xuất mặt hàng gỗ xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu được mở rộng. Ngoài các thị trường trọng điểm như Mỹ, EU và Nhật, các sản phẩm gỗ Việt Nam đã và đang thâm nhập vào thị trường Đông Âu, Trung Đông và Nam Mỹ;
Về cơ chế chính sách quản lý ngành công nghiệp chế biến gỗ, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khả năng cạnh tranh và chất lượng sản phẩm gỗ của Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của nhà nhập khẩu Mỹ và thị trường thế giới.
Năng lực chế biến gỗ của Việt Nam tăng lên không chỉ về số lượng nhà máy, quy mô sản xuất mà còn về đầu tư thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý, tay nghề của công nhân. Theo thống kê, đến tháng 10/2008, cả nước có trên 2526 doanh nghiệp chế biến gỗ, trong đó có 300 doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ trực tiếp, sử dụng 170.000 lao động trực tiếp và có năng lực sản xuất tăng gấp 4 lần so với năm 2003, thời điểm mà công nghiệp gỗ Việt Nam bắt đầu bứt phá, tạo ấn tượng mạnh mẽ với các nhà nhập khẩu nước ngoài.
Trình độ sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã tiến bộ vượt bậc, đủ khả năng đáp ứng các nhu cầu tương đối khắt khe về kiểu dáng, mẫu mã, nguồn gốc gỗ không tác hại tới môi trường của thị trường Hoa Kỳ. Tại khu vực TPHCM và các tỉnh lân cận, nơi quy tụ tới gần 50% doanh nghiệp xuất khẩu gỗ cả nước và có kim ngạch xuất khẩu gỗ chiếm 70% cả nước, trước đây các doanh nghiệp hay sơn đồ gỗ bằng tay nên chất lượng không đạt, dễ trầy xước thì nay, hầu hết các nhà máy chế biến gỗ ở Bình Dương, TPHCM hay Đồng Nai đều đã đầu tư các dây chuyền phun sơn hiện đại của Đức, Italia theo đúng các tiêu chuẩn của Mỹ, EU.
Song song với đầu tư máy móc, tăng năng lực sản xuất, các doanh nghiệp gỗ trong nước còn đẩy mạnh đầu tư sản xuất các sản phẩm tinh xảo, có giá trị gia tăng cao như sản xuất đồ gỗ trong nhà, các bộ sản phẩm nội thất phòng ngủ, phòng khách, đầu tư nhiều cho các bộ phận thiết kế mẫu mã.
Việc thuê chuyên gia nước ngoài làm việc trong các nhà máy chế biến gỗ ở Việt Nam để đảm trách các khâu thiết kế, tiếp thị sản phẩm không còn là chuyện hiếm, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn mở cả văn phòng đại diện, công ty thương mại tại những thị trường đồ gỗ lớn như Mỹ, EU (trong đó có Pháp) để đảm nhận khâu phân phối, chào hàng trực tiếp.
Ngoài nhập khẩu gỗ nguyên liệu của nước ngoài, có doanh nghiệp đã tham gia đầu tư trồng rừng quy mô lớn ở trong nước, đầu tư các nhà máy sản xuất gỗ nguyên liệu như ván ép, gỗ MDF nhằm tiến tới chủ động nguồn nguyên liệu ổn định cho xuất khẩu lâu dài.
Giá nhân công của Việt Nam thấp hơn Trung Quốc 30% và thuộc hàng thấp nhất trong khu vực.
III.2. Điểm yếu.
Trên phạm vi toàn quốc phân bố DN chế biến gỗ không đều. Trong số 2526 DN chế biến gỗ thì Miền Bắc chỉ chiếm 14%; vùng Bắc Trung Bộ chiếm 6%; còn lại 80% tập trung ở Vùng Duyên Hải Trung Bộ và Miền Nam.
Các doanh nghiệp chế biến gỗ thuần Việt Nam yếu thế hơn các DN chế biến gỗ có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Năng lực cạnh tranh các sản phẩm gỗ Việt Nam yếu hơn các sản phẩm của Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan và Indonesia. Sản phẩm gỗ Việt Nam phải cạnh tranh quyết liệt với hàng Trung Quốc, Indonesia, Philippines, Đông Âu...
Ngành công nghiệp phù trợ của Việt Nam (đồ cơ khí, sơn, keo, các loại giấy,...) rất yếu.
Thiếu đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề và năng suất lao động thấp.
Thiếu thông tin thị trường quốc tế.
Chính sách tín dụng đầu tư cho ngành chế biến gỗ chưa thích đáng.
Chính sách về thuế đất, tích tụ đất trồng rừng. Rừng tự nhiên là rừng sản xuất chưa thông thoáng; các doanh nghiệp chế biến gỗ khó tiếp cận với đất và rừng để xây dựng vùng nguyên liệu;
Sản phẩm gỗ Việt Nam còn mắc phải một số nhược điểm, như: quy mô sản xuất nhỏ, còn manh mún, thiếu đầu tư cho sản xuất từ mẫu mã đến chất lượng, công tác xúc tiến thương mại, nghiên cứu thị trường còn thấp, kém hiệu quả, nguồn cung nguyên liệu và phân phối còn chưa đồng bộ, ít nhiều còn manh nha...
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, ngành gỗ nói riêng còn chưa biết liên kết lại khi chưa đủ mạnh, hoặc đã mạnh thì mạnh hơn để có thể đủ sức cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Đây là một đặc điểm cố hữu của các doanh nghiệp trong nước.Bên cạnh đó, mức độ đầu tư vào công nghệ chế biến sản phẩm gỗ chưa cao. Đại bộ phận các DN sản xuất gỗ, đặc biệt là hàng đồ gỗ mỹ nghệ có hệ thống thiết bị lạc hậu, trong khi đó, yêu cầu của thị trường Pháp ngày càng cao.
Các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ vẫn đang phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Mặc dù xuất khẩu các sản phẩm gỗ của Việt Nam có thể mang về hơn 3 tỷ USD trong năm 2010, nhưng chi phí cho nhập khẩu gỗ đã chiếm trên 1/3. Hiện 80% nguyên liệu cho sản xuất, chế biến gỗ dựa vào nguồn nhập khẩu. Thị trường cung ứng gỗ nguyên liệu lớn nhất cho Việt Nam vẫn là Malaysia, Lào, Trung Quốc, Mỹ, Thái Lan, New Zealand... Nhưng nguồn gỗ nhập khẩu cũng đang gặp khó khăn khi các doanh nghiệp Việt Nam nhỏ bé, thiếu vốn, chỉ các công ty lớn liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, mới có đủ tiền lớn để mua gỗ. Các nước Malaysia, Indonesia cấm xuất khẩu gỗ tròn từ lâu, và mới đây đã tuyên bố cấm xuất khẩu gỗ xẻ. Lào cũng chỉ cho xuất khẩu một ít gỗ nguyên liệu.
Tình hình kinh tế toàn cầu suy thoái (trong đó kinh tế Hoa Kỳ cũng chịu ảnh hưởng nhất định) đã làm giảm nhu cầu tiêu thụ sản phẩm gỗ khiến lượng đặt hàng của khách hàng Hoa Kỳ hiện không còn giữ mức tăng 20% mỗi năm như trước mà chỉ còn khoảng 15%.
Những yêu cầu sử dụng nguồn gỗ nguyên liệu phục vụ cho chế biến cũng đang đặt ra không ít thách thức cho doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam bởi những quy định và xu hướng tiêu dùng mới của các thị trường quốc tế, trong đó có thị trường Mỹ. Tại Mỹ, người tiêu dùng ngày càng có ý thức bảo vệ môi trường rất cao. Họ đòi hỏi những sản phẩm gỗ sử dụng phải đến từ những nguồn hợp pháp.
Xuất hiện ngày càng nhiều các hành vi bảo hộ thương mại tinh vi tại Mỹ: các sản phẩm gỗ xuất khẩu sang Hoa Kỳ có sự kiểm soát chất lượng, nguồn gỗ với các luật lệ mới được ban hành như: Đạo luật Lacey. Theo Hiệp định này tất cả các chuyến hàng xuất khẩu vào thị trường này sẽ được các cơ quan có thẩm quyền cấp phép sau khi kiểm tra tính hợp pháp của các lô hàng thông qua các bằng chứng gốc.
Sức cạnh tranh mua nguyên liệu của Việt Nam yếu hơn Trung Quốc, Malaysia, Indonexia,...
III.3. Cơ hội.
Nhập khẩu đồ gỗ vào Hoa Kỳ cao thị phần còn rất lớn nên cơ hội xuất khẩu vào thị trường Mỹ là rất cao.
Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã ra phán quyết áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng gỗ nội thất của Trung Quốc, sau khi cơ quan này điều tra và kết luận Chính phủ Trung Quốc đã tài trợ gần 1 tỷ USD để DN của nước này "đổ" hàng vào Hoa Kỳ. Theo đó, mức thuế chống bán phá giá từ 4,9% đến 198% đối với các mặt hàng giường, tủ quần áo và bàn ngủ của Trung Quốc. Điều này cũng có nghĩa, hàng của Việt Nam sẽ trở nên cạnh tranh hơn đối với hàng Trung Quốc, hay nói cách khác, hàng gỗ Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội vào Hoa Kỳ hơn
Hiện đang có nhiều nhà nhập khẩu đồ gỗ đến từ Mỹ chuyển hợp đồng mua hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam nhờ đồ gỗ Việt Nam không bị đánh thuế chống bán phá giá. Đây chính là cơ hội để doanh nghiệp đồ gỗ Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xuất hàng vào Mỹ.
Trong tương lai Việt Nam và Mỹ sẽ có quan hệ chặt chẽ vì nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang phát triển theo xu hướng nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của người Mỹ như: thích nguyên liệu truyền thống là gỗ cứng và xuất xứ của nguyên liệu. Hơn nữa, doanh nghiệp 2 nước sẽ là đối tác của nhau về nguyên liệu và sản phẩm
III.4. Thách thức.
Thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ đang bị thu hẹp, đồ gỗ nội thất và bàn ghế ngoài trời vào Mỹ, những hợp đồng đã ký có thể bị trì hoãn nhận hàng hoặc dừng hẳn do khó khăn của nhà nhập khẩu, thị trường tiêu thụ giảm sút do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
Chính phủ đang tập trung nỗ lực để kìm chế lạm phát và tìm cách giảm nhập siêu. Điều này hoàn toàn đúng với quy mô quốc gia nhưng đối với một ngành sản xuất cụ thể như ngành gỗ mà nguồn nguyên liệu chủ yếu dựa vào nhập khẩu thì quả là một khó khăn.
Mỹ áp dụng đạo luật Lacey nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn tính hợp pháp trong việc khai thác và buôn bán gỗ, sản phẩm gỗ. Theo đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải chứng minh nguồn gỗ, ván nhân tạo được sử dụng là hợp pháp, không vi phạm luật của nước bán gỗ, nước sản xuất và nước nhập sản phẩm. Sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam đang đối mặt với các vụ kiện bán phá giá do bị cho là sử dụng nguyên liệu gỗ bất hợp pháp.
Từ khi bị Mỹ đánh thuế chống phá giá cao, một số doanh nghiệp sản xuất chế biến đồ gỗ Trung Quốc bắt đầu đầu tư ồ ạt sang sản xuất tại Việt Nam để tránh hàng rào thuế nhập khẩu cao của Mỹ. Điều này vô tình đẩy các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ Việt Nam thêm những đối thủ ngay cùng một sân chơi, nhưng điều đáng lo ngại hơn cả là các doanh nghiệp Trung Quốc rất biết tận dụng nhân công Việt Nam, biết cách khai thác bàn tay tài hoa của người thợ. Đặc biệt những quy trình công nghệ sản xuất hiện đại hơn các các doanh nghiệp Việt Nam rất nhiều.
Ngành công nghiệp gỗ Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức mới khi các nước trong khu vực Asean liên kết lại để tăng sức cạnh tranh
Hiện Việt nam phải nhập khẩu tới 80% gỗ nguyên liệu. Giá nguyên liệu gỗ đang tăng do nạn cháy rừng, lũ lụt, môi trường suy thoái…Chi phí cho cước vận chuyển cũng không nhỏ, do giá dầu mỏ và nhiên liệu thế giới tăng. Điều này làm giảm đáng kể lợi nhuận của các doanh nghiệp do tỷ trọng gỗ phụ liệu trong giá xuất khẩu sản phẩm gỗ tăng mạnh.
IV. Chiến lược xuất khẩu gỗ sang thị tường Hoa Kỳ.
IV.1 Các giải pháp đảm bảo sản xuất nguồn nguyên liệu trong nước bền vững, hạn chế nhập siêu.
Nguồn nguyên liệu là mạch máu của sản xuất. Tài nguyên gỗ, tuy là tài nguyên tái tạo nhưng cũng may mắn là tái sinh được. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách sử dụng gỗ tiết kiệm, áp dụng công nghệ thân thiện với môi trường và khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng nguyên liệu gỗ.
Nhà nước cần có những cơ chế mạnh hơn và hữu hiệu hơn về quy hoạch và cơ cấu lại ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Đặc biệt cần hạn chế tối đa xuất khẩu các sản phẩm thô và làm gia công để nâng cao giá trị gia tăng cho đất nước.
Nhà nước cần sớm cụ thể hóa luật đất đai về lâm nghiệp để các Doanh nghiệp tiếp cận được với đất để trồng rừng đảm bảo ổn định nguồn nguyên liệu phát triển sản xuất một cách bền vững.
Đưa người đi học tập tại các nước có tay nghề về đồ gỗ để về đào tạo lại cho nhân công trong nước nhắm đáp ứng nguồn nhân lực có tay nghề cao, hoặc khuyến khích các công ty nước ngoài có trình độ sản xuất gỗ cao đầu tư vào trong nước để ta có thể học hỏi để nâng cao tay nghệ đội ngũ nhân lực.
Tranh thủ đầu tư máy móc thiết bị hiện đại đáp ứng năng lực sản xuất cao đối với các đơn hàng lớn.
Liên kết với các quốc gia trong khu vực để hình thành và định vị sản phẩm gỗ trên thị trường Mỹ.
Định hình các sản phẩm mũi nhọn, có lợi thế trên thị trường thế giới đó là đồ gỗ nội thất hay gỗ mỹ nghệ, ván nhân tạo được ưu tiên hàng đầu. Việc xác định sản phẩm mũi nhọn đi đôi với khảo sát hiện trạng, đánh giá tiềm năng của từng vùng rừng, vùng sản xuất, chế biến các sản phẩm gỗ... từ đó đưa ra những định hướng phát triển thống nhất trong liên kết giữa vùng nguyên liệu và vùng sản xuất, chuyên môn hóa các công đoạn chế biến sản phẩm gỗ giữa các doanh nghiệp.
Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp hợp tác liên kết với chủ rừng để khai thác nguyên liệu gỗ một cách chắc chắn, thông qua các hiệp định song phương đã ký kết giữa Việt Nam và các nước có rừng. Đồng thời xây dựng một trung tâm hỗ trợ phát triển sản phẩm quốc gia để hỗ trợ việc thiết kế mẫu mã, định hướng thị trường phù hợp.
Ngoài ra, để khắc phục việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu nhập khẩu, vừa qua Thủ tướng đã phê duyệt đề án thành lập sàn giao dịch gỗ điện tử với tổng vốn đầu tư khoảng 5 tỷ đồng, hiện Hiệp hội gỗ và lâm sản đang triển khai các công việc cụ thể. Dự kiến, sàn giao dịch sẽ cung cấp thông tin giá cả thị trường gỗ trong nước và thế giới, các vấn đề về pháp luật khi các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ ra nước ngoài.
IV.2 Các giải pháp thị trường.
Tăng cường cộng tác xúc tiến thương mại (XTTM), thị trường ngoài nước, đa dạng hóa các thị trường xuất khẩu, giảm sự phù thuộc vào thị trường truyền thống và phát triển các thị trường mới.
Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại bằng cách tập trung, không dàn đều. Phát triển mạnh hội chợ trong nước, Nhà nước hỗ trợ triển lãm trong nước bằng cách quảng bá thông tin để thu hút khách hàng đến hội chợ. Thu hút khách nước ngoài đến Việt nam vừa xem hàng, vừa phát triển du lịch, giảm chi tăng thu ngoại tệ, góp phần quân bình cán cân nhập siêu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chiến lược kinh doanh gỗ - Tình hình xuất khẩu mặt hàng đồ gỗ của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.doc