Thứ chín, phá giá tiền tệ phải được kết hợp với các biện pháp hỗ trợ như các
chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ thì mới mang lại đầy đủ lợi ích của nó. M uốn
chúng kết hợp tốt thì Chính phủ cần quản lý tổng cầu để tránh lạm phát đồng thời
phải tránh nguy cơ ngược lại là nhu cầu được đáp ứng quá mức và đầu tư bị bóp
nghẹt. Tuy nhiên, việc phối hợp các chính sách trên chưa được chặt chẽ và hiệu quả
nên việc thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ tại Việt N am sẽ gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng.
Thứ mười, nợ nước ngoài của Việt Nam rất lớn do đó, khi thực hiện phá giá
sẽ không trả được nợ. đối với các doanh nghiệp sản xuất nội địa (vừa và nhỏ), khi
phá giá thì các khoản nợ đảm bảo bằng U SD tăng nên gánh nặng cho doanh nghiệp
càng nặng nề.
Tiếp theo, việc thực hiện phá giá ở nước ta có thể làm tăng thâm hụt ngân
sách nhà nước mặc dù phá giá sẽ làm tăng nguồn thu của Chính phủ từ nguồn thu
thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt do giá trị hang nhập và xuất tính bằng đơn vị
nội tệ sẽ tăng nhưng do nước ta các khoản nợ nước ngoài khá lớn nên khi phá giá
nó làm cho giá trị bằng đồng nội tệ để thanh toán nợ tăng lên đúng bằng tỷ lệ phá
giá.
23 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3891 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách đồng nhân dân tệ yếu của Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gia vào các thị trường
vốn, tiền tệ của quốc gia. Do đó, việc lựa chọn một chế độ tỷ giá thích hợp có một ý
nghĩa to lớn cho một quốc gia muốn hoàn thành những mục tiêu chiến lược của
mình. Vậy chế độ tỷ giá là gì và có bao nhiêu chế độ tỷ giá cho các gia lựa chọn?
1.1. Khái niệm: Chế độ tỷ giá là các lọai hình tỷ giá được các quốc gia
lựa chọn áp dụng, bao gồm các quy tắc xác định, phương thức mua bán, trao đổi
giữa các thể nhân và pháp nhân trên thị trường ngoại hối.
1.2. Các chế độ tỷ giá:
1.2.1 Chế độ tỷ giá cố định: Là chế độ tỷ giá được giữ cố định trong một
thời gian dài với biên độ dao động rất nhỏ cho phép. Thông thường, đồng nội tệ sẽ
xác lập tỷ giá với một đồng ngoại tệ mạnh nào đó hay vàng và được giữ cố định
trong một khoảng thời gian dài.
Để giữ được tỷ giá ổn định phải có sự can thiệp thường xuyên của ngân hang
trung ương (NHTW) bằng cách: Khi tỷ giá tăng, NHTW sẽ bán ngoại tệ ra thị
trường. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, NHTW sẽ mua ngoại tệ vào để kéo giá ngoại tệ
lên.
Chế độ tỷ giá này có nhiều ưu điểm. Nếu đất nước lựa chọn chế độ tỷ giá cố
định thì sẽ ổn định được tỷ giá, ổn định được thị trường và ổn định cả nền kinh tế vĩ
mô. Tỷ giá ổn định còn là phương tiện tốt nhất thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc
tế, chế độ tỷ giá cố định còn tạo kỷ luật cho chính sách kinh tế vĩ mô, thúc đẩy hợp
tác quốc tế. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá này cũng thường tạo ra sự chênh lệch giữa tỷ
giá danh nghĩa với tỷ giá thực tế của các đồng tiền, làm sai lệch các tính toán, các
quan hệ kinh tế, tạo ra tỷ giá “chợ đen”. Ngoài ra, chế độ tỷ giá cố định còn đòi hỏi
NHTW phải có dự trữ ngoại tệ lớn, có sự theo dõi và can thiệp thường xuyên, đặc
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
5
biệt là khi tỷ giá dao động mạnh do có các biến động kinh tế - chính trị trên thế
giới.
1.2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi(tỷ giá linh hoạt): Là chế độ tỷ giá cơ bản được
xác lập theo các yếu tố của thị trường, có thể có hoặc không có sự can thiệp của
Nhà nước vào sự hình thành của tỷ giá.
Thông thường có hai lọai tỷ giá thả nổi là tỷ giá thả nổi hoàn toàn và tỷ giá
thả nổi có sự quản lý của Nhà nước.
Tỷ giá thả nổi hoàn toàn: Là chế độ tỷ giá hình thành hoàn toàn do quan hệ
cung cầu trên thị trường quyết định, không có sự can thiệp của Nhà nước. Chế độ tỷ
giá này có ưu điểm là phản ánh đúng tình hình cung - cầu của thị trường ngoại tệ,
sự biến động của thị trường. Từ đó, chế độ tỳ giá thả nổi hoàn toàn bảo đảm sự tự
điều tiết của thị trường ngọai tệ, bảo vệ thị trường trong nước trước biến động của
thị trường bên ngoài, góp phần bảo vệ nền kinh tế ổn định và tăng trưởng. Đồng
thời, chế độ tỷ giá này giúp chúng ta tiết kiệm được ngoại tệ cho ngân sách Nhà
nước. Nhưng chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn cũng gây ra những biến động thường
xuyên, khó lường, gây khó khăn cho việc họach định chính sách kinh tế vĩ mô của
Nhà nước và những tính toán của nhà đầu tư.
Tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước: Là chế độ tỷ giá về cơ bản hình
thành theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường, nhưng Nhà nước có sự theo
dõi, quản lý và can thiệp khi cần thiết nhằm tránh những cú sốc về tỷ giá, hạn chế
những biến động quá mức của thị trường. Thông thường, Nhà nước đề ra một biên
độ dao động cho phép của tỷ giá, nếu tỷ giá biến động vượt quá biên động đó, Nàh
nước sẽ can thiệp. Chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước có ưu điểm là
dù tỷ giá vẫn thay đổi linh hoạt theo cung cầu thị trường nhưng tương đối ổn định.
Hầu hết các ưu điểm của tỷ giá thả nổi hoàn toàn về cơ bản được tận dụng, nhưng
khắc phục được nhược điểm của nó. Tuy nhiên, theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi có
sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải thường xuyên theo dõi thị trường và sẵn
sang dự trữ ngoại tệ để can thiệp, gây tốn kém cho ngân sách Nhà nước.
1.2.3 Chế độ tỷ giá đơn: Là chế độ tỷ giá chỉ được áp dụng một loại hình tỷ
giá, có thể là chế độ tỷ giá cố định hoặc chỉ áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Sử dụng
chế độ tỷ giá này sẽ đảm bảo tính công bằng trong giao dịch tiền tệ, đặc biệt là nếu
tỷ giá đó phản ánh càng sát đúng tình hình thị trường thì tính công bằng càng cao.
1.2.4 Chế độ tỷ giá kép: Là chế độ tỷ giá cùng lúc tồn tại từ hai lạoi hình tỷ
giá trở lên. Chế độ tỷ giá này thường tồn tại trong các nước sử dụng chế độ tỷ giá
hối đoái cố định, khi đó xuất hiện nhiều lạoi hình tỷ giá, đặc biệt là có tỷ giá “chợ
đen”. Chế độ tỷ giá hòan toàn do chủ quan lựa chọn của Chính phủ các nước. Hiện
nay, trên thế giới vẫn có các nước sử dụng chế độ tỷ giá hối đóai cố định, các nước
sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hàon toàn và chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có
sự quản lý của Nhà nước.
2. Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái (Chính sách tỷ giá):
2.1. Khái niệm, ý nghĩa:
2.1.1. Khái niệm: Chính sách điều hành tỷ giá là những định hướng và giải
pháp của Nhà nước nhằm đảm bảo sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối,
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
6
thực hiện chính sách ổn định tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội
đã dự định.
2.1.2. Ý nghĩa của chính sách tỷ giá: Chính sách tỷ giá là một bộ phận hữu
cơ của chính sách tiền tệ, lien quan tới ngoại tệ và ngọai hối nói chung. Do đó,
chính sách tỷ giá có ảnh hưởng quan trọng đến mục tiêu kinh tế vĩ mô như: xuất
nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư, vay trả nợ, lợi suất tái chiết khấu...nên ảnh hưởng
lớn tới lưu thong tiền tệ. Chính sách tỷ ía còn tác động đến khả năng cạnh tranh của
hàng nội địa trên thị trường quốc tế, cũng như bảo bảo vệ các ngành sản xuất trong
nước. Cuối cùng, chính sách tỷ giá có tác động lớn đến chính sách dòng chảy ngoại
tệ của quốc gia như thu hút kiều hối và ngoại tệ, ảnh hưởng lớn tới dự trữ quốc gia.
2.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá của các quốc gia nhằm hướng tới những mục tiêu trực tiếp
và những mục tiêu chiến lược lâu dài. Mục tiêu trực tiếp của chính sách tỷ giá là
giữ ổn định của tỷ giá và tiền tệ, đặc biệt là tỷ giá với những đồng tiền mạnh nhằm
đảm bảo sự phát triển ổn định và vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó,
chính sách tỷ giá cũng nhằm thu hụt ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối của quốc gia,
cải thiện cán cân thanh toán. Mục tiêu trực tiếp của chính sách tỷ giá còn là nhằm
vào việc tăng sức cạnh tranh của hang hóa, mở rộng các hoạt động tài chính quốc tế
của quốc gia thong qua các hoạt động thu hút đầu tư quốc tế, tín dụng quốc
tế...Không dừng lại ở những mục tiêu trực tiếp. Chính sách tỷ giá còn hướng tới
những mục tiêu chiến lược lâu dài như giữ vững chủ quyền tiền tệ quốc gia, đẩy
mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chống hiện tượng ngoại tệ hóa, đặc biệt là
dollar hóa trong các giao dịch trên thị trường và nâng dần vị thế của nội tệ, tiến tới
chuyển đổi hoàn toàn đồng nội tệ.
2.3. Nội dung của chính sách tỷ giá:
Nội dung của chính sách tỷ giá gắn liền với nội dung của chính sách sách
tiền tệ nói chung và chính sách hối đoái nói riêng. Do đó, trong giới hạn của đề tài,
chúng ta chỉ có thể nêu khái quát định hướng hoạt động và thực thi chính sách này.
Trước hết, trong chính sách ổn định tỷ giá, các Chính phủ sẽ cố gắng duy trì tỷ giá
hối đoái ổn định. Tùy vào từng thời điểm, Chính phủ cũng điều chỉnh tỷ giá thay
đổi phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong từng điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể nhất định. Ngoài ra, Chính phủ còn hoạch định chiến lược tỷ giá với
các đồng tiền mạnh như USD, EUR, JPY. Để đạt được những mục tiêu trực tiếp,
mục tiêu chiến lược lâu dài và theo định hướng chính sách tỷ giá của đất nước,
Chính phủ cần đưa ra những biện pháp nhằm đảm bảo tỷ giá luôn ổn định tương
đối, tránh các cú sốc về tỷ giá thông qua các công cụ như sử dụng linh họat quỹ dự
trữ ngoại tệ, chính sách lãi suất, khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu, tăng
cường thu hút vốn đầu tư và tài trợ nước ngoài…
3. Phá giá đồng tiền:
Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế IM F, trong hầu hết các trường hợp ở
các nước đang phát triển, sự mất cân bằng trong tỷ giá hối đoái xảy ra dưới dạng
lên giá thực của đồng nội tệ làm mất khả năng cạnh tranh quốc tế thể hiện ở việc
tăng giá hang xuất khẩu và giảm giá hang nhập khẩu, dẫn đến sự thâm hụt ngày
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
7
càng lớn trong cán cân thanh toán vãng lai. Kết quả là một sự mất cân bằng ngoại tệ
đã xảy ra. Việc trở lại mục tiêu cân bằng ngoại được tiến hành bằng sự điều chỉnh
tương quan giá cả giữa hang hóa xuất nhập khẩu thông qua biện pháp cơ bản là phá
giá đồng tiền.
3.1. Khái niệm:
Phá giá là việc nâng cao hay giảm thấp sức mua của đồng tiền đối với các
ngoại tệ và có thể xem là một sự điều chỉnh tỷ giá mạnh, cực đoan. Việc này khác
với điều chỉnh tỷ giá bình thường ở điểm cơ bản là điều chỉnh tỷ giá bình thường là
việc làm thường xuyên với mức độ nhỏ về thay đổi tỷ giá, không gây ra sự biến
động lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Ta cũng có thể hiểu phá giá đồng tiền là
tình hình ngang giá của một đồng tiền được ấn định lại ở mức thấp hơn. Phá giá là
một hành động chính thức của chính phủ làm tỷ giá giảm giá đáng kể thường chỉ
sau một đêm.
Khái niệm phá giá không phải là giảm giá. Giảm giá là tình hình đồng tiền
sụt xuống về giá trị. Giảm giá là việc giảm giá từ từ, thường sau một vài ngày hay
vài tuần do tác động của cung và cầu trên thị trường. Phá giá đồng tiền cũng không
phải là thả nổi đồng tiền bởi vì thả nổ đồng tiền là tỷ giá của đồng tiền này so với
một loại ngoại tệ mạnh cơ bản được xác lập theo các yếu tố của thị trường, có thể
có hoặc không có sự can thiệp của Nhà nước vào sự hình thành của tỷ giá.
Về nguyên lý, mục đích của phá giá là để tăng cường khả năng cạnh tranh
quốc tế và cải thiện tình hình cán cân thương mại trong tài khoản vãng lai. Lập luận
này được nêu ra là phá giá sẽ giúp tăng giá hang nhập khẩu và giảm giá hang xuất
khẩu. Tuy nhiên, để thực hiện việc phá giá thành công cũng cần phải có hàng loạt
các điều kiện đi kèm.
Thứ nhất là điều kiện Marshall-Lenner. Theo lý thuyết M arshall – Lenner
thì không bao giờ việc phá giá làm tăng xuất khẩu, làm giảm nhập khẩu cũng đều
cải thiện cán cân vãng lai. Điều kiện này cũng chỉ ra rằng khi nào mà độ co giãn
của đường cầu xuất khẩu cộng với độ co giãn của đường nhập khẩu lớn hơn một thì
phá giá mới giúp cải thiện cán cân thương mại.
Điều kiện Marshall-Lenner cũng hàm chỉ việc chọn thời điểm phá giá cũng
rất quan trọng. Nếu giá hang nhập khẩu đang thấp và có xu hướng hạ, phá giá sẽ có
lợi vì hang nhập khẩu sẽ không tăng giá lên nhiều, nhờ đó hạn chế tăng giá thành
sản xuất nội địa với đầu vào nhập khẩu, và hạn chế mặt trái của phá giá là gây nên
lạm phát. Bên cạnh đó, nếu như nhu cầu trên thị trường thế giới đối với hàng xuất
khẩu của quốc gia tiến hành phá giá đang ở mức cao và có xu hướng gia tăng thì
đây cũng là thời điểm tốt để phá giá vì nó sẽ nhanh chóng làm tăng xuất khẩu cả về
số lượng và giá cả.
Thứ hai là các điều kiện kinh tế trong nước. Ngoài việc thỏa mãn điều kiện
M arshall-Lenner, để thực hiện phá giá thành công, cần thiết phải có một số các điều
kiện kinh tế đi kèm như: Chi phí sản xuất trong nước nói chung và tiền lương nói
riêng không được chỉ số hóa theo tỷ giá danh nghĩa, chính phủ phải kiên quyết
thực thi một chính sách tài chính, tiền tệ thắt chặt. Có như vậy, việc phá giá mới
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
8
không làm thay đổi lớn múc giá cả nội địa, do đó, mới thực sự làm thay đổi tương
quan giá cả.
Thứ ba là dự trữ ngoại tệ. Một quốc gia khi điều kiện M arshall-Lenner và
các điều kiện khác nếu thuận lợi thì trong thực tế có thể tiến hành việc phá giá
nhằm giúp cải thiện cán cân thanh toán vãng lai, tiến tới lập lại mục tiêu cân bằng
ngoại. Tuy nhiên, khi thực hiện phá giá, cán cân vãng lai sẽ càng bị xấu đi trong
thời gian đầu, và chỉ hồi phục sau một thời gian nhất định.
Tình hình biến động trong cán cân thanh toán vãng lai khi một quốc gia tiến
hành phá giá ( với điều kiện Marshall-Lenner đã thỏa mãn) được các nhà khoa học
thống kê và mô tả tổng quát thành một đường cong gọi là đường cong hình chữ J
(Hình 1). Đường cong J hàm ý trong thời gian đầu khi tiến hành phá giá cần thiết
phải có một chính sách tiền tệ thắt chặt và một lượng dự trữ ngoại tệ đủ lớn để can
thiệp nhằm duy trì mức tỷ giá mới vì cán cân thanh toán vãng lai xấu đi sẽ tạo ra
một áp lực tiếp tục làm tăng tỷ giá và làm nền kinh tế rơi vào vòng lẩn quẩn của
phá giá và lạm phát. Bên cạnh đó, nức độ và hình thức phá giá cung cần phải được
xem xét kỹ.
Hình 1: Sự biến thiên của cán cân thương mại (đường cong J) khi một quốc gia phá
giá với điều kiện M arshall-Lenner đã thỏa.
3.2. Tại sao chính phủ phải phá giá tiền tệ:
-Nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so
với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái đi kèm với mức lạm
phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên.
Thời gian
t0
J
Cán cân
vãng lai
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
9
-Trong trường cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ
để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt
thì không còn cách nào khác, chính phủ.
3.3. Tác động của việc phá giá tiền tệ:
3.3.1.Trong ngắn hạn:
-Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá
tiền tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của
quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách
tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị
trường nội địa.
3.3.2.Trong trung hạn:
-Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực
nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung.
-Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể
huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng
tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của
việc phá giá.
3.3.3. Trong dài hạn:
-Các yếu tố từ phía cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên
đắt tương đối và các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản
xuất tăng lên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá
cao hơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng.
-Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế
cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do
phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ bốn đến năm năm.
II. Tác động của chính sách đồng nhân dân tệ yếu đối với Trung
Quốc.
1. Thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc
Về chính sách tỷ giá hối đoái, Trung Quốc cũng có những giai đoạn phát
triển tương tự như Việt Nam. Đó là, chính sách tỷ giá trước chuyển đổi và từ
chuyển đổi. Có thể khẳng định: Không riêng gì Trung Quốc, Việt Nam mà tất cả
các nước trong hệ thống XHCN trước đây đều xây dựng và áp dụng chính sách tỷ
giá cố định và đa tỷ giá nhưng không tuân theo hoàn toàn đúng những nguyên tắc
của chế độ tỷ giá cố đinh. Những tỷ giá được ấn định khác nhau tùy theo từng quan
hệ kinh tế đối ngoại và thoả thuận trong quan hệ hai bên hay nhiều bên có tính chất
nội bộ hệ thống, xoay quanh giá trị của đồng Ruble (RUR) được ấn định ngang
bằng với giá trị của đồng đô la. Trên thực tế, giao dịch ngoại thương giữa các nước
XHCN thời gian này chủ yếu la trao đổi thương mại trực tiếp (hàng đối lưu) và tỷ
giá hối đoái ấn định chỉ được sử dụng vào thanh toán số dư cuối kỳ các hiệp định
thương mại hoặc cuối kỳ kế toán. Thực chất của chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá
trong giai đoạn này ở các nước XHCN nói chung và ở Trung Quốc nói riêng đã xoá
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
10
nhoà những tín hiệu của thị trường - động lực kinh doanh đối với các đơn vị kinh
tế.
Các yếu tố thị trường như quan hệ cung - cầu đối với ngoại tệ, những nhân
tố tác động đến tỷ giá và thị trường ngoại hối, thị trường tài sản… chỉ tồn tại có
tính chất hình thức hoặc không tồn tại chứ không phải là công cụ đắc lực của nền
kinh tế thị trường, không có tác dụng là những đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Các đơn vị kinh tế nói chung, các đơn vị và các tổ chức tham gia xuất nhập
khẩu nói riêng trở thành những đơn vị thụ động thực thi các kế hoạch tập trung, chủ
quan của Nhà nước bao quát tất cả mọi khâu của quá trình sản xuất, từ việc cung
cấp các yếu tố đầu vào, đến việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, bởi ai và bán
cho ai, bao nhiêu, ở đâu… Cơ chế nay đã thực sự tước đoạt quyền chủ động trong
kinh tế, không gắn kết lợi ích của các chủ thể kinh tế với hoạt động kinh doanh của
chính họ. Do đó, làm cho các đơn vị kinh tế không quan tâm đến hiệu quả của quá
trình sản xuất - kinh doanh, hoàn toàn ỷ lại vào sự sắp đặt của Nhà nước. Chính cơ
chế này đã góp phần đưa nền kinh tế của các nước XHCN, trong đó có Trung Quốc
rơi vào thời kỳ suy thoái và khủng hoảng kinh tế sâu sắc (những năm 70 - 80).
Trung Quốc đã sớm nhận ra tính bất cập của cơ chế quản lý dựa gần như tuyệt đối
vào công cụ kế hoạch hoá và bắt đầu cải tổ, chuyển đổi nền kinh tế ngay từ cuối
những năm 70, chính xác là từ năm 1979.
Cùng với quá trình cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế, chế độ và chính sách tỷ
giá hối đoái cũng được chuyển đổi cho phù hợp với những yêu cầu của nền kinh tế
phát triển dựa trên cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng
XHCN.
Bước đầu tiên của quá trình chuyển đổi trong chế độ và chính sách tỷ giá ở
Trung Quốc là giai đoạn để cho tỷ giá ấn định trước đây thả nổi theo sát với những
diễn biến của tỷ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố thị
trường vào trong cơ chế xác định tỷ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển
đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có
sự điều tiết và định hướng của nhà nước.
Thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái danh
nghĩa biến động theo hướng giảm giá trị của đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua
của đồng Nhân dân tệ bị đánh giá cao trước đây trong suốt thời kỳ đầu của quá
trình cải cách cho đến đầu những năm 90 (bảng 1)
.
Bảng 1: Diễn biến của tỷ giá hối đoái giữa đồng nhân dân tệ và đồng đô la thời
kỳ 1978 - 1990.
Chỉ tiêu 1978 1980 1982 1984 1986 1988 1990
Tỷ giá cuối
năm
(NDT/USD)
1,577 1,530 1,922 2,975 3,722 3,722 5,222
Tỷ giá trung 1,683 1,498 1,892 2,320 3,453 3,722 4,783
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
11
bình năm
(NDT/USD)
Trong giai đoạn 1978 – 1984, Trung Quốc vẫn giữ một tỷ giá ổn định tương
đối cao từ 1,577NDT/USD đến 1,922 NDT/USD. Tuy nhiên vào cuối những năm
80 và đến năm 1990, đồng NDT có xu hướng giảm giá mạnh đến năm 1990 thì tỷ
giá này là 5,222NDT /USD. Và xu hướng này tiếp tục được duy trì ở những năm
đầu của thập niên 90, tuy nhiên mức độ và tốc độ giảm giá đồng nhân dân tệ ở giai
đoạn này vẫn còn thấp
Chính sách tỷ giá trong thời kỳ này đã giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất
khẩu, giảm thâm hụt cán cân thương mại, cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ
và đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng (xem bảng 2).
Bảng 2 : Một số chỉ số phát triển kinh tế của Trung Quốc thời kỳ 1980 - 1990.
C hỉ tiêu 1985 1986 1987 1988 1989 1990
GDP (Giá
1990, triệu
USD)
1254,5 1365,7 1527,7 1695,4 1764,3 1832,0
Tốc độ
tăng
trưởng
(%năm)
16,2 8,9 11,9 11,0 4,1 3,8
C án cân
xuất nhập
khẩu (triệu
USD)
-36,7 -25,5 1,1 15,1 -18,6 51
Dự trữ
ngoại tệ
(triệu USD)
15,236 17,548 17,022 28,594
Sau khi tỷ giá được điều chỉnh phản ánh tương đối sát với những biến đổi
của thị trường và sức mua thực tế của đồng Nhân dân tệ.Trong những năm đầu của
thập kỷ 90, tỷ giá danh nghĩa của đồng Nhân dân tệ với đồng Đôla Mỹ được duy trì
tương đối ổn định ở mức 5,2 đến 5,8 NDT = 1 USD (xem bảng 3), là mức dao động
đã được điều chỉnh để phản ánh những tác động của lạm phát của Trung Quốc và
Mỹ là 10,92% (27,52% - 16,60% thời kỳ 1990 - 1993) trên 11,06% là mức điều
chỉnh tỷ giá thời kỳ 90 - 93, cao hơn mức lạm phát (0,14%)
Bảng 3: Biến động của tỷ giá danh nghĩa NDT/USD đầu những năm 1990
Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993
Tỷ giá cuối năm 5,222 5,434 5,752 5,800
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
12
(NDT/USD)
Tỷ giá trung bình năm
(NDT/USD)
4,783 5,323 5,515 5,762
Cán cân thương mại (triệu
USD)
9165 8743 5183 -10654
Lạm phát Trung Quốc (%
năm)
3,06 6,54 6,43 14,58
Lạm phát Mỹ (% năm) 5,4 4,4 4,4 2,4
Trong giai đoạn này, đồng NDT duy trì ở mức 5,222NDT/ USD đến 5,800
NDT/USD đây là một mức giá khá thấp tuy nhiên vẫn giá này được duy trì ổn định.
Việc giảm giá đồng NDT làm cho thặng dư cán cân thương mại của Trung Quốc bị
sụt giảm nghiêm trọng. Nếu như năm 1990 thặng dư cán cân thương mại ở Trung
Quốc là 9165 triệu USD thì đến năm 1992 con số này chỉ còn 5183 triệu USD và
đến năm 1993 thì Trung Quốc phải chịu mức thâm hụt ngân sách đến 10654 triệu
USD. Bên cạnh đó, việc giảm giá đồng NDT còn làm cho tỷ lệ lạm phát ở nước này
tăng lên đáng kể, năm 1990 tỷ lệ lạm phát ở Trung Quốc là 3,06%, sang năm 1991
tăng lên 6,54% và đến năm 1993 con số này đã lên đến 14,58%. Trong khi tỷ lệ lạm
phát ở Trung Quốc tăng lên ở giai đoạn này thì tỷ lệ lạm phát ở Mỹ lại biến đổi
theo chiều hướng nguợc lại. N ăm 1990 tỷ lệ lạm phát ở Mỹ là 5,4% nhưng đến năm
1993 thì tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 2,4%. Chúng ta có thể thấy chính sách đồng
NDT yếu này không những đã tác động trực tiếp đến tỷ lệ lạm phát và cán cân
thương mại ở Trung Quốc mà còn làm ảnh hưởng đến tỷ lệ lạm phát ở Mỹ. Tuy
nhiên đây mới chỉ là bước khởi đầu của chính sách này.
Nhận thấy việc duy trì ổn định theo hướng cố định tương đối tỷ giá hối đoái
trong điều kiện lạm phát tiếp tục gia tăng bắt đầu có những tác động xấu đến mục
tiêu tăng cường mở cửa và thúc đẩy xuất khẩu của nền kinh tế (xem bảng 3), do
đồng Nhân dân tệ có khả năng trở lại tình trạng bị đánh giá cao so với sức mua thực
tế. Chính phủ Trung Quốc đã quyết định chuyển hướng điều chỉnh chính sách tỷ
giá hối đoái. Ngày 1.1.1994, đồng Nhân dân tệ chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh
từ 5,8 NDT/USD xuống 8,7 NDT/USD, tương ứng với tỷ lệ phá giá 50% (8,7/5,8).
Kết hợp với tỷ lệ đồng Nhân dân tệ bị đánh giá thấp 0,14% thời kỳ 1990 - 1993, tỷ
lệ phá giá thực tế là 50,14%. Có thể thấy rõ đây chính là sự kết hợp giữa việc điều
chỉnh và phá giá đồng Nhân dân tệ trong chính sách tỷ giá của Chính phủ Trung
Quốc.
Một hành vi mà nhiều nhà kinh tế thường bất đồng nhất là một. Không phải
bất cứ sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái nào theo hướng giảm giá đồng nội tệ đều là
điều chỉnh phá giá. Cần phân biệt rõ, sự điều chỉnh đó làm giảm giá trị danh nghĩa
hay giá trị thực tế của đồng nội tệ. Nếu sự điều chỉnh chỉ là làm giảm giá trị danh
nghĩa của đồng nội tệ nhằm duy trì sức mua thực tế của nó thì đó thuần tuý là sự
điều chỉnh nhằm phản ánh những thay đổi thực tế trong quan hệ mức giá giữa hai
nước (theo thuyết PPP) (1) và sức mua thực tế của đồng nội tệ vẫn được duy trì ổn
định để đảm bảo sức cạnh tranh của hàng hoá - dịch vụ một nước. Đồng thời với
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
13
việc điều chỉnh và phá giá mạnh đồng Nhân dân tệ, Trung Quốc huỷ bỏ chế độ tỷ
giá ấn định của Nhà nước để chuyển sang chế độ tỷ giá được thả nổi có quản lý. Và
để giảm bớt những tác động của chính sách tỷ giá lên thị trường tiền tệ, Trung
Quốc đã ban hành một loạt các quy định hỗ trợ như : thực hiện chế độ ngân hàng
kết hối, xoá bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại hối của các công ty, xây dựng thị
trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng, cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái;
cải tiến và hoàn thiện quản lý thu chi, kết toán ngoại hối, xoá bỏ kế hoạch mang
tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối… kết hợp với việc kiểm soát chặt chẽ của
ngân hàng trung ương đối với các hoạt động ngoại hối ở các ngân hàng thương mại
bằng cách quy định ngân hàng nào được phép chuyển đổi và với số lượng là bao
nhiêu. Các ngân hàng này có toàn quyền hoạt động trong thị trường ngoại hối. Đối
với các công ty nước ngoài, Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ
hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài phải có giấy phép
đổi ngoại tệ mạnh sang Nhân dân tệ. Còn đối với doanh nghiệp nhà nước. Nhà
nước yêu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50% như trước đây...
Kết quả của một loạt những điều chỉnh kết hợp thả lỏng và xiết chặt từng bộ
phận trong chính sách tỷ giá và tiền tệ vào thời điểm này đã có tác động tích cực
nhanh chóng khôi phục lại đà tăng trưởng trong xuất nhập khẩu và nền kinh tế
Trung Quốc (xem bảng 4).
Bảng 4 : Tình hình kinh tế Trung Quốc những năm 1994 - 1997
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997
Tổng kim ngạch XNK
(triệu USD)
236,73 280,90 289,90 325,05
Tốc độ tăng trưởng của
XNK (% )năm
20,97 18,65 6,41 12,12
Cán cân tài khoản vốn
(Triệu USD)
32645 38647 39966 22978
Lạm phát (% năm) 24,24 16,90 8,32 2,80
Tỷ giá trung bình
(NDT/USD)
8,6187 8,3514 8,3142 8,2898
Tốc độ tăng trưởng (%
năm)
12,70 10,50 9,50 8,80
Việc giảm giá mạnh đồng NDT đầu tiên đã tác động đến tình hình xuất nhập
khẩu của Trung Quốc, nó đã đưa tổng kim ngạch xuất khẩu ở nước này gia tăng
đáng kể qua các năm. Năm 1994 tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc là
236,73 triệu USD đến năm 1995 thì con số này là 280,90 triệu USD, với tốc độ
tăng trung bình năm 1994 là 20,97%, năm 1995 là 18,65%. Các năm tiếp theo thì
tốc độ gia tăng có giảm xuống nhưng vẫn ở mức cao năm 1997 là 12,12% với tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu là 325,05 triệu USD.
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
14
Khi tỉ giá cố định ở mức 8,28NDT/1USD, giả sử một doanh nghiệp Trung
Quốc chi phí 8,28 RM B để sản xuất một món hàng và bán ra thị trường thế giới với
giá 1,1USD. Sau đó doanh nghiệp này đổi chỉ cần đổi 1USD ra 8,28NDT là đủ trả
chi phí sản xuất, phần còn lại là lợi nhuận ròng.
Nếu đồng nhân dân tệ lên giá và tỉ giá được điều chỉnh là 6,9NDT/USD, giá
của món hàng kia vẫn là 1,1 USD trên thị trường thế giới. Tuy nhiên với tỉ giá mới
thì toàn bộ thu xuất khẩu chỉ đổi được 7,59USD, so với giá thành thì doanh nghiệp
bị lỗ và không thể tiếp tục xuất khẩu. Kết quả là tuy giá thế giới không đổi, nhưng
hàng xuất khẩu của Trung Quốc sẽ giảm và các nước cạnh tranh xuất khẩu với
Trung Quốc sẽ có thêm cơ hội.
M ột ví dụ khác, một món hàng có giá thế giới là 1USD nhập khẩu vào Trung
Quốc và bán được 9,108 NDT. Nếu tỉ giá là 8,28NDT/USD, nhà nhập khẩu thu tiền
bán hàng và đổi thành 1,1USD. Nhưng nếu tỉ giá là 6,9NDT/USD, số tiền bán hàng
sẽ đổi được 1,32USD. Việc thay đổi tỉ giá đã làm cho lợi nhuận của nhà nhập khẩu
đã tăng hơn 3 lần. Vì vậy nhà nhập khẩu có thể giảm giá bán và tăng lượng nhập
khẩu. M ột số nhà sản xuất trong nước sẽ phải nhường thị phần cho hàng nước
ngoài.
Như vậy, khi tỉ giá được điều chỉnh theo hướng tăng giá trị đồng Nhân dân tệ, các
nước cạnh tranh xuất khẩu với Trung Quốc và các nước nhập khẩu vào Trung Quốc
đều có thêm cơ hội mở rộng thị phần. Đây chính là tác động lớn nhất của việc
Trung Quốc điều chỉnh tỷ giá và cũng chính là lý do tại sao rất nhiều nước, đặc biệt
là các nước phát triển (vừa bán hàng cho Trung Quốc lại vừa mua hàng của Trung
Quốc) một mực đòi Trung Quốc phải thả nổi đồng Nhân dân tệ.
Chính sách giảm giá tiền tệ ở Trung Quốc còn tác động đến cán cân tài
khoản vốn, từ năm 1994 – 1997 thặng dư cán cân này liên tục gia tăng từ 32645
triệu USD vào năm 1994 tăng lên 39966 triệu USD vào năm 1996, đến năm 1997
do ảnh hưởng chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát của Chính phủ Trung
Quốc nên thặng dư cán cân tài khoản vốn giảm xuống còn 22978 triệu USD. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng nhận thấy Trung Quốc đã chấp nhận tốc độ tăng trưởng
kinh tế giảm đi trong giai đoạn này. Nếu như năm 1994 tốc độ tăng trưởng của
Trung Quốc ở mức khá cao là 12,7% và con số này sụt giảm ở năm 1995 là 10,50%
đến năm 1997 thì tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức 8,8%.
Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã phải chấp nhận trả giá bằng một mức lạm
phát cao không mong muốn năm 1994 là 24,24%, cao hơn năm 1993 24,24/ 14,58
= 66,25%, lớn hơn mức ảnh hưởng thông thường của tỷ giá hối đoái đến mức giá cả
hàng hoá - dịch vụ của một nước (Theo thống kê của các nhà kinh tế là lt;50%).
Thực tế này có thể được giải thích do sự cộng hưởng của các tác động của chính
sách tiền tệ trước đó (xem bảng 5).
Bảng 5: Tình hình diễn biến của chính sách tiền tệ giai đoạn 1990 – 1997.
Chỉ tiêu 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Lãi suất ngân 7,92 7,20 7,20 10,08 10,98 10,44 9,00 8,55
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
15
hàng (%năm)
Mức cung tiền
(M1)
701,0 898,8 1171,4 1676,1 2154 2597,0 3066,3 3834
Tỷ lệ tăng
trưởng M1 (%)
20,15 28,22 30,33 43,08 28,51 20,57 18,07 25,00
Tốc độ tăng
trưởng
(%năm )
3,80 9,20 14,20 13,50 12,70 10,50 9,50 8,80
Nhưng sự trả giá này chỉ có tính chất ngắn hạn và đã được Chính phủ Trung
Quốc kịp thời điều chỉnh bằng chính cách thắt chặt tiền tệ (tốc độ tăng cung tiền
giảm và lãi xuất tăng, xem bảng 5), năm sau lạm phát đã giảm xuống và nhanh
chóng trở lại ổn định.
2. Những thành tựu đạt được
Điều chỉnh và phá giá mạnh đồng Nhân dân tệ thời gian này của Chính phủ
Trung Quốc không chỉ thu được những lợi ích trong ngắn hạn, nhanh chóng đẩy
mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên thị trường quốc tế; mà
còn tạo cơ sở để Trung Quốc có thể trở lại duy trì chính sách tỷ giá ổn định trong
một thời gian dài, giảm thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu
hút mạnh các nguồn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đã vươn lên đứng đầu các
nước đang phát triển về mức độ thu hút đầu tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp
(xem bảng 6). Đây cũng chính là cơ sở tạo ra khả năng góp phần giảm sốc cho nền
kinh tế Trung Quốc trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu
vực. Tính đến tháng 7.1997, tương quan trong mức giá của Trung Quốc và Mỹ đã
kéo giá trị của đồng Nhân dân tệ suy giảm ở mức khoảng 41,76% (52,36% -
10,30% thời kỳ 94 - 17, xem bảng 7). So với mức phá giá 50,14% năm 1994, đồng
Nhân dân tệ vẫn bị đánh giá thấp khoảng 6,38% (8,38% - 2% đã điều chỉnh theo
mức lạm phát của Mỹ và Trung Quốc từ 1994 - 1997). Vì vậy, việc tiếp tục duy trì
sự ổn định của đồng Nhân dân tệ cho đến nay là hoàn toàn có khả năng thực hiện
được và không vượt quá sức chịu đựng của nền kinh tế Trung Quốc. Nền kinh tế
Trung Quốc vẫn tiếp tục có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và sản xuất cao nhất so
với các nước trong khu vực và Thế giới (xem bảng 8)
Bảng 6: Tình hình tỷ giá và đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc năm 1994 -
1997
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997
Tỷ giá trung bình
năm (NDT/USD)
8,4462 8,3174 8,2982 8,2798
Đầu tư trực tiếp
(triệu USD)
317897 33849 38066 41673
Vốn từ các công ty –
thị trường (trệu USD)
3543 789 1744 6804
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
16
Xếp hạng XNK (Thứ
và tổng kim ngạch
2
Xếp hạng thu hút đầu
tư nước ngoài
1
Bảng 7: Tình hình lạm phát của Mỹ và Trung Quốc 1994 – 1997
Tỷ lệ lạm
phát
19942 1995 1996 1997
Mỹ (%năm ) 2,60 3,00 2,70 2,30
Trung Quốc
(%năm)
24.24 16.90 8.32 2.80
Bảng 8: Tình hình kinh tế Trung Quốc sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng
Chỉ tiêu 1998 1999 2000
Tốc độ tăng trưởng
GDP (%)
7,8 7,1 7,0
Xuất khẩu (tỷ USD) 181,8 191,9 210,0
Tốc độ tăng trưởng
XK (%/năm trước)
0,5 5,5 10,0
Nhập khẩu (tỷ USD) 138,3 161,4 180,0
Tốc độ tăng trưởng
NK (%/năm trước)
-1,7 16,7 11,0
Xuất siêu (tỷ USD) 43,5 30,5 30,0
Dự trữ ngoại tệ (tỷ
USD)
145,0 154,7 160,0
Đầu tư trực tiếp
nước ngoài (tỷ USD)
45,6 40,0 50,0
Nói như vậy, không có nghĩa là cuộc khủng hoảng không có tác động gì đến
nền kinh tế Trung Quốc. Nhưng thực tế là những tác động của nó đối với nền kinh
tế Trung Quốc và cả nền kinh tế Thế giới sẽ là ít nghiêm trọng hơn nếu Chính phủ
Trung Quốc duy trì ổn định giá trị của đồng Nhân dân tệ so với việc để mặc cho
đồng Nhân dân tệ bị phá giá trước làn sóng tấn công của cuộc khủng hoảng (ít nhất
là trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng).
Để giảm bớt sức ép điều chỉnh và phá giá đồng Nhân dân tệ; trong thời gian
này, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện một sự phối hợp khá linh hoạt và mềm
dẻo giữa chính sách tỷ giá với chính sách tiền tệ, tài chính. Sau khi có nhiều biện
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
17
pháp quản lý chặt ngoại hối đầu những năm 90, từ năm 1994 - 1996 Trung Quốc đã
có những điều chỉnh quản lý ngoại hối lỏng hơn như :
Cho phép các công ty xuất khẩu tăng tỷ lệ giữ ngoại tệ, các công ty nước
ngoài từng bước được giao dịch, mua bán các loại ngoại tệ mạnh, tạo điều kiện để
đồng Nhân dan tệ xâm nhập nhanh hơn vào thị trường tiền tệ Thế giới… Ngày
1/12/1996, đồng NDT Trung Quốc đã chính thức được Quỹ tiền tệ Quốc tế (IM F)
công nhận là đồng tiền chuyển đổi tự do ở các tài khoản vãng lai, tức có liên quan
đến các khoản thanh toán về mậu dịch hàng hoá - dịch vụ cũng như các khoản lợi
nhuận các công ty nước ngoài chuyển về nước. Năm 1998, để bảo vệ đồng NDT
trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung
Quốc lại quay lại kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và
găm giữ giảm những dự kiến về phá giá đồng NDT. Song song với việc quản lý
chặt trên thị trường ngoại hối, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng
trưởng của nền kinh tế, Chính phủ Trung Quốc đã phối hợp với các chính sách tiền
tệ nới lỏng và kích cầu. Trong năm 1998, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất
tiền cho vay và tiền gửi bằng đồng NDT, lãi suất tái chiết khấu cũng giảm 1,91%,
đồng thời với việc giảm cả lãi suất với các tiền gửi bằng ngoại tệ. Kết hợp với
chính sách lãi suất là chính sách hạ thấp tỷ lệ dự bắt buộc, tăng hoạt động nghiệp,
vụ thị trường mở của ngân hàng trung ương, chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp, kích thích tiêu dùng của các tầng lớp dân cư…, (xem bảng 9).
Bảng 9: Tình hình lãi xuất và một số chỉ số của thị trường tiền tệ 1998
Chỉ tiêu 20.03.1998 01.07.1998 06.12.1998
Lãi suất tiền cho
vay giảm (%)
1,6 0,49 0,27
Lãi suất tiền gửi
giảm (%)
0,6 1,12 0,55
Lãi suất tiền gửi
USD (%)
4,875 4,250 3,755
Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc
13 8
Mức tăng M2
(%)
17,4
Tác động của một loạt những phối hợp trong chính sách để điều chỉnh này là
cách gián tiếp giảm giá đồng NDT, giảm sức ép phá giá đồng NDT đang ngày càng
đè nặng lên chính sách tỷ giá của Trung Quốc
M ỹ và TQ liên tục có những bất đồng trong quan hệ thương mại. M ỹ cho
rằng TQ không thả nổi TG đồng NDT, khống chế TG đồng nội tệ ở mức thấp hơn
giá trị thực tế tới 40%, đã gây thiệt hại cho các công ty Mỹ và là nguyên nhân
khiến thâm hụt TM của Mỹ với TQ lên đến mức kỷ lục 232,5 tỷ USD năm 2006
(năm 2005 là 202 tỉ USD).
Từ năm 1994 đến nay, Trung Quốc đã kiên trì neo giữ đồng NDT trong một
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
18
biên độ dao động tỉ giá rất hẹp so với đồng USD - chỉ trong khung từ 8,276 đến
8,28 NDT/1 USD - bất chấp những biến động mạnh mẽ và coi đây là cơ chế tỷ giá
thả nổi có kiểm soát. Tuy nhiên, dưới con mắt các chuyên gia tài chính quốc tế, đây
thực chất là một tỷ giá cố định. Các doanh nghiệp Mỹ thì cho rằng, tỷ giá này thấp
hơn 40% so với giá trị thực
Cột mốc quan trọng nhất trong hệ thống tiền tệ TQ là ngày 21/7/2005, khi
NHTW TQ chính thức thông báo TGHĐ của đồng NDT đã được điều chỉnh ở mức
8,11 NDT ăn 1USD. Đây được xem là một bước chuyển biến tích cực trong chủ
trương nới lỏng tiền tệ của TQ. Trong năm 2006, đồng NDT được giữ ở mức ổn
định, dao động trong khoảng 1 USD/8 NDT, nhưng đã tăng 3% so với giai đoạn
trước, mức mà Ngân hàng TQ gọi là "tương đối hợp lý và cân bằng".
III. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3. Bài học kinh nghiệm từ những thành công của chính sách đồng
nhân tệ yếu tại Trung Quốc:
Những phân tích trên đây cho thấy sự thành công của Trung Quốc trong
công cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế trong hai mươi năm qua, có phần đóng
góp quan trọng trong cách điều hành linh hoạt và chủ động chính sách tỷ giá hối
đoái của Chính phủ Trung Quốc. Mặc dù, Trung Quốc chưa phải là một nước có
nền kinh tế thị trường phát triển hoàn thiện, nhưng thực tiễn điều hành chính sách
tỷ giá của Trung Quốc trong những năm qua đã thể hiện sự phân tích sâu sắc những
bài học của nền kinh tế thị trường từ các nước phát triển và vận dụng một cách linh
hoạt vào hoàn cảnh thực tế của Trung Quốc.
Như phần đầu bài viết đã chỉ rõ, do tính chất và nhiều điều kiện tương đồng
trong quá trình phát triển của nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam; những kinh
nghiệm của Trung Quốc sẽ là những bài học thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam
để tiếp tục đẩy nhanh quá trình tăng trưởng bền vững.
Trong những năm qua, Việt Nam cũng đã có những thành công trong việc
điều hành chính sách tỷ giá hối đoái để giúp : Chống lạm phát, đẩy mạnh thu hút
đầu tư nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, ổn định và phát triển nhanh
nền kinh tế… Nhưng đó đã thực sự là một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao chưa ?
Chúng tôi thấy, có rất nhiều quan điểm khác nhau nhưng hình như chưa ai đặt ra
câu hỏi như vậy. Từ sự phân tích về chính sách tỷ giá của Trung Quốc, chúng tôi
muốn mạnh dạn đặt câu hỏi: Liệu chúng ta có thể điều hành một chính sách tỷ giá
có hiệu quả hơn giai đoạn vừa qua không ?
Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy rõ :
- Chính sách tỷ giá là một bộ phận của chính sách tiền tệ và nằm trong mối
quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế. Vì vậy, chính sách tỷ giá chỉ có thể
đạt được những mục tiêu của mình khi quá trình điều hành được đặt ra trong mối
quan hệ của hệ thống các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ. Nguyên
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
19
nhân quan trọng để Trung Quốc đạt được những thành công trong chính sách tỷ giá
là vì Trung Quốc nhận thức và vận dụng rất tốt kinh nghiệm này.
- Mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế khác, trong đó
phải tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn thường có sự mâu
thuẫn với nhau. M ột sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt trong điều hành các chính
sách có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá giảm thiểu được những
hậu quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra. Trung Quốc đã rã rất thành
công trong việc sử dụng phối hợp các chính sách này.
- Thời điểm và mức điều chỉnh tỷ giá là những vấn đề có tính chất quyết
định đối với hiệu quả của chính sách tỷ giá. Không chắc chắn rằng các nhà họach
định và điều hành chính sách của Trung Quốc có tiên liệu trước được những sự cố
trong tương lai không? Nhưng điều chắc chắn là họ hành động đúng khi quyết định
phá giá mạnh đồng nhân dân tệ vào năm 1994 và họ đã thu được lợi ích dài hạn lớn
hơn rất nhiều những giá phải trả cho ngắn hạn cùng với những phê phán của các
nhà kinh tế và chính sách theo trường phái tỷ giá thiên về cố định cứng nhắc.
- Hàm lượng của các yếu tố thị trường (như: Quan hệ cung - cầu về ngoại
hối, sở thích, chính sách, lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ..) phản ánh
trong tỷ giá càng cao thì khả năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và
chống đỡ được với các cú sốc đối với nền kinh tế càng lớn. Một trong những lý do
quan trọng để Trung Quốc duy trì được tỷ giá đồng nhân dân tệ ổn định và hạ cánh
an toàn trước tác động của cuộc khủng hoảng chính là vì việc điều àhnh chính sách
tỷ giá nói riêng và các chính sách nói chung được đảm bảo tương đối tốt quy luật
này.
- Chính sách tỷ giá có khả năng dự kiến những diễn biến của tỷ giá cao sẽ
tạo khả năng ổn định tương đối dài hạn và giảm thiểu được những rủi ro hối đoái,
đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài - một vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với các nước đang phát triển trong quá trình công nghiệp hóa. Đây chính là nghệ
thuật để giải quyết nhược điểm căn bản của chế độ tỷ giá thả nổi (tính không ổn
định). Và Trung Quốc đã thể hiện sự thành công khi vận dụng nghệ thuật này để
điều hành chính sách tỷ giá.
- Chính sách phá giá đồng nội tệ ở các nước đang phát triển có thể mang lại
nhiều lợi ích hơn và phải trả giá ít hơn, xét cả về ngắn hạn và dài hạn (tạo lợi thế so
sánh mới, tăng sức cạnh tranh quốc tế, mở rộng nhanh quan hệ ngoại thương, quan
hệ kinh tế đối ngoại, thu hút đầu tư có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
nhanh…).
- Tính nhạy cảm và khả năng phản ứng của các nhà điều hành chính sách
luôn là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành bại của chính sách tỷ giá - một loại
chính sách kinh tế phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố dự kiến và rủi ro
trong quá trình biến động, đặc biệt là sự liên quan chặt chẽ của nó với những yếu
tốt rủi ro có tính chất chính trị. Nếu các nhà quản lý và điều hành Trung Quốc
không kiên định và vững vàng trong việc bảo vệ giá trị đồng nhân dân tệ vì những
mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế thì họ đã bị đánh bại bởi những áp lực cả về
kinh tế và chính trị vào thời điểm cuộc khủng hoảng ở ranh giới khu vực với phạm
vi toàn cầu. Vì vậy, kinh nghiệm vẫn luôn luôn chỉ là kinh nghiệm, nó chỉ thực sự
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
20
có giá trị khi những người phân tích và khai thác kinh nghiệm tìm được lối đi riêng
trong điều kiện cụ thể của mình.
4. Việt Nam có thể áp dụng chính sách đồng nhân tệ yếu của Trung
Quốc được không?
Theo chúng tôi, Việt Nam không nên phá giá đồng nội tệ vì những lý do sau
đây:
Thứ nhất, theo điều kiện Marshall-Lenner, Chính phủ một nước chỉ thực
hiện phá giá khi: Độ co dãn đường cầu Nhập khẩu + Độ co dãn của đường cầu Xuất
khẩu >1. Ở Việt Nam, tỷ lệ này chỉ khoảng 0,6 (Nguồn từ công trình nghiên cứu
của hai giảng viên trường Đại học Kinh Tế quốc dân Hà Nội là Lê Việt Đức và
Trần Thị Thu Hằng. Do đó, phá giá ở Việt Nam sẽ không có lợi.
Thứ hai, theo hiệu ứng đường cong J, khi phá giá thì phần mất ngoại tệ có
hiệu lực ngay nhưng phần thu ngoại tệ thì cần có thời gian thì nó mới phát huy tác
dụng vì những yếu tố như thói quen tiêu dung, những hợp đồng đã ký kết dài
hạn…Do đó, trong giai đọan đầu, của phá giá thì Nhà nước cần có một lượng ngoại
tệ đủ để duy trì tỷ giá mới. Theo IMF, khi thực hiện phá giá thì cần phải có dự trữ
ngoại tệ an toàn là sáu tháng nhập khẩu nếu không sẽ dẫn đến suy thoái kinh tế.
hiện tượng này gọi là hiệu ứng đường cong J. Việt Nam hiện nay có lượng dự trữ
ngoại tệ là 22 tỷ USD, tương đương bốn tháng nhập khẩu. Do đó, Việt Nam không
nên phá giá đồng nội tệ.
Thứ ba, hàng Việt Nam phần lớn là hàng có chất lượng kém nên khi phá giá
thì hiệu quả của việc tăng xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản (gần 75% tổng kim
ngạch xuất khẩu) nên cần có thời gian sản xuất rất nhiều và có nhu cầu trong nước
hạn chế.
Thứ tư, nguồn vốn ODA và FDI hiện nay rất nhiều chủ yếu là nhập vào
thông qua thiết bị, tư liệu sản xuất. do đó khi phá giá thì bên liên doanh Việt Nam
bị thiệt thòi.
Thứ năm, nhu cầu nhập khẩu chủ yếu xuất phát từ sự gia tăng các hang hóa
trung gian và các tư liệu sản xuất cần thiết trong sản xuất (chiếm 85-90% tổng kim
ngạch nhập khẩu) mà cung trong nước thiếu, khả năng thay thế rất hạn chế giữa
hàng nhập và hàng sản xuất trong nước. Nói cách khác, đặc tính của nền kinh tế
nước ta cũng như các nước nhỏ có thu nhập thấp là kém nhạy bén đối với các yếu
tố khác kích thích do biện pháp phá giá tạo ra.
Thứ sáu, như chúng ta đã biết, cán cân thanh toán gồm: cán cân tài khoản
vãng lai, cán cân vốn, dự trữ ngoại tệ. Trường hợp cả ba bộ phận này đều thặng dư
là không thể xảy ra. Ở nước ta, hai bộ phận cán cân vốn và dự trữ ngoại tệ là thặng
dư nên việc cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt là tất yếu.
Thứ bảy, ngang giá sức mua của VND và USD theo tính toán của WB là cao
hơn gấp đôi so với tỷ giá USD/VND thực tế được niêm yết. Cho nên, theo lý thuyết
ngang giá sức mua ta không nên thực hiện phá giá.
Thứ tám, thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ sẽ có ảnh hưởng tiêu cực
đến lòng tin của người dân đối với Chính phủ, các nhà đầu tư nước ngoài giảm.
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
21
Thứ chín, phá giá tiền tệ phải được kết hợp với các biện pháp hỗ trợ như các
chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ thì mới mang lại đầy đủ lợi ích của nó. Muốn
chúng kết hợp tốt thì Chính phủ cần quản lý tổng cầu để tránh lạm phát đồng thời
phải tránh nguy cơ ngược lại là nhu cầu được đáp ứng quá mức và đầu tư bị bóp
nghẹt. Tuy nhiên, việc phối hợp các chính sách trên chưa được chặt chẽ và hiệu quả
nên việc thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ tại Việt Nam sẽ gây ra nhiều hậu
quả nghiêm trọng.
Thứ mười, nợ nước ngoài của Việt Nam rất lớn do đó, khi thực hiện phá giá
sẽ không trả được nợ. đối với các doanh nghiệp sản xuất nội địa (vừa và nhỏ), khi
phá giá thì các khoản nợ đảm bảo bằng USD tăng nên gánh nặng cho doanh nghiệp
càng nặng nề.
Tiếp theo, việc thực hiện phá giá ở nước ta có thể làm tăng thâm hụt ngân
sách nhà nước mặc dù phá giá sẽ làm tăng nguồn thu của Chính phủ từ nguồn thu
thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt do giá trị hang nhập và xuất tính bằng đơn vị
nội tệ sẽ tăng nhưng do nước ta các khoản nợ nước ngoài khá lớn nên khi phá giá
nó làm cho giá trị bằng đồng nội tệ để thanh toán nợ tăng lên đúng bằng tỷ lệ phá
giá.
Cuối cùng, thực hiện phá giá đồng nội tệ sẽ có nguy cơ dẫn đến lạm phát
tăng. Biện pháp phá giá có thể làm châm ngòi cho sự gia tăng lạm phát. Bởi lẽ, ở
nước ta, nhu cầu vật tư cần thiết, các đầu vào khác cho sản xuất, thiết bị và hang
tiêu dung đều phải nhập khẩu. giảm giá đồng tiền trong nước làm cho gia hang
nhập khẩu tính bằng đồng nội tệ tăng lên, tạo ra sức ép đối với mức giá trong nước.
Do đó, tác dụng thực tế của phá giá tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ nhanh chóng mất
tác dụng và chẳng bao lâu, tỷ giá hối đoái thực tế sẽ không còn thấp nữa.
Từ những lý do trên, ta thấy việc phá giá đồng nội tệ ở Việt Nam không
những không cải thiện được cán cân tài khoản vãng lai mà còn dẫn đến những hiện
tượng khác như: thâm hụt ngân sách nhà nước, lạm phát …
5. Một vài gợi ý giải pháp cho chính sách tỷ giá Việt Nam:
Từ những phân tích trên cho thấy, giải pháp lâu dài và căn bản để hạn chế và
tiến tới xóa bỏ thị trường ngoại tệ ngầm, cũng như hạn chế các mặt trái của việc
định giá cao nội tệ của Việt Nam hiện nay là hướng tới một tỷ giá thị trường, linh
hoạt và tỷ giá phải là sản phẩm của quan hệ cung cầu trên thị trường ngạoi hối. tuy
nhiên, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, việc thả nổi tỷ giá ngay lập tức sẽ gây ra
những hiệu ứng “sốc” khốc liệt cho nền kinh tế và có thể ảnh hưởng bất lợi cho
việc ổn định hệ thống kinh tế - xã hội. Với vai trò NHTW, hiện nay, ngân hang nhà
nước quản lý thị trường ngoại tệ thong qua can thiệp mua bán, công bố tỷ giá bình
quân giao dịch liên ngân hang, quy định trần tỷ giá giao ngay, tỷ lệ % gia tăng của
tỷ giá kỳ hạn và các biện pháp quản lý ngoại hối. trong giai đọan trước mắt thì các
biện pháp này còn cần thiết, nhưng cần phải nới lỏng từng bước, vì các biệp pháp
này không phải lúc nào cũng hiệu quả, đôi khi lại trở thành lục cản cho sự phát
triển thị trường ngoại hối.
Do tính nhạy cảm cao, cho nên, việc điều hành chính sách tỷ giá phải được
diễn ra theo từng giai đaọn, có thể là:
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
22
1. Hiện tại, biên độ dao động ±0.75% đã phát huy hai tác dụng là: Thứ nhất,
tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại yết tỷ giá cạnh tranh; thứ hai, như là
biện pháp thăm dò mức độ khách quan của tỷ giá.
Xem xét, đánh giá tình hình thị trường hiện nay, nếu
2. Thị trường không sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá
hiện tại đã phản ánh khách quan quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường ngọai
hối; và đây được xem như thời điểm tốt để ngân hang nhà nước có thể tiếp tục nới
rộng biên độ dao động lên mức cao hơn (ví dụ ±2.0%).
3. Thị trường ngay lập tức sử dụng hết biên độ cho phép, điều này c\hàm ý
tỷ giá hiện tại đang là quá thấp so với tỷ giá cân bằng; để rút ngắn khoảng cách,
ngân hàng nhà nước tiến hành điều chỉnh tăng dần tỷ giá giao dịch một cách hợp lý
mà không gây ra xáo trộn lớn.
4. Trong môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, chừng nào tỷ giá giao dịch dược
ấn định lớn hơn tỷ giá cân bằng thì lúc đó ta mới có được chính sách tỷ giá thực sự
khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
5. Về chính sách điều hành tỷ giá, cần có sự linh hoạt hơn, có lên có xuống,
không đơn điệu là USD giảm so VND.
6. Về lâu dài, ngân hang nhà nước nên dỡ bỏ biên độ dao động và không
trực tiếp ấn định tỷ giá, mà chỉ tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối để tỷ
giá biến động có lới cho nền kinh tế; đồng thời chuyển hướng từ từ sang sử dụng
công cụ lãi suất để điều tiết thị trường ngoại tệ.
Chính sách tiền tệ yếu của trung Quốc GVHD:TS.Nguyễn Thị Liên Hoa
23
Tài liệu tham khảo
- Tài chính quốc tế – GS.TS.Trần Ngọc Thơ – NXB Thống kê
- Thời báo Kinh Tế Sài Gòn
- Nhật báo Tuổi Trẻ, Lao Động…
-
- Vnexpress
- www.mof.gov.vn
- ….
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_dong_nhan_dan_te_yeu_tq_020308_1709.pdf