Chuyên đề Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam

Trong bối cảnh đất nước đang phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội; hoạt động kinh doanh thương mại của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những tác động cũng như đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung của đất nước. Sự phát triển của các thành phần kinh tế, sự gia tăng số lương các doanh nghiệp đã và đang tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn nhưng cũng không kém phần phức tạp và cạnh tranh gay gắt. Các tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng từ đó mà phát sinh với số lượng ngày càng tăng qua các năm cùng với tính chất phức tạp của nó; đòi hỏi phải có sự can thiệp và giải quyết của cơ quan Tòa án, để giúp các doanh nghiệp tránh được những hậu quả tiêu cực do mâu thuẫn và xung đột lợi ích gây ra.

doc112 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 10141 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c Quảng Nam; giá trị tranh chấp là 65,5 tỷ đồng, đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế trên địa bàn. Hoặc như vụ công ty TNHH may xuất khẩu Tâm Phúc (khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc) bị 9 ngân hàng, doanh nghiệp và 1 cá nhân khởi kiện, tổng số nợ của công ty này lên đến 14.290.950.000 đồng; qua giải quyết tranh chấp đã chứng tỏ công ty này không có vốn, không có năng lực sản xuất kinh doanh, chủ yếu đi vay nhưng kinh doanh không hiệu quả; qua vụ việc này các cơ quan chứng năng quản lý về mặt nhà nước cần xem xét khi cấp phép đầu tư đối với các doanh nghiệp tương tự. Giá trị của các tranh chấp thường vào khoảng vài trăm triệu, cho nên các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại phần lớn được giải quyết bởi Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam hơn là Tòa án nhân dân cấp huyện. Về chất lượng xét xử; trong khi các vụ án kinh doanh, thương mại không ngừng gia tăng về mặt số lượng nhưng chất lượng xét xử nhìn chung vẫn còn thấp. Số vụ án do Tòa án cấp Tỉnh xét xử sơ thẩm bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao hủy và sửa cũng khá nhiều. Do chất lượng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại còn khá nhiều hạn chế nên yêu cầu cấp bách là phải nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử để đảm bảo tính công bằng, tạo được niềm tin nơi các doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Về yêu cầu phá sản doanh nghiệp, theo Luật phá sản doanh nghiệp năm 1994, Tòa kinh tế thụ lý giải quyết 1 vụ. Năm 2004, Luật Phá sản mới được ban hành, Tòa kinh tế thụ lý giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp 5 vụ. Phần lớn các vụ phá sản đều rất phức tạp, số chủ nợ và con nợ lên đến hàng chục đơn vị và cá nhân, nằm rải rác khắp cả nước, có doanh nghiệp tuyên bố phá sản có số nợ lên hơn 100 tỷ đồng. Việc thu hồi nợ gặp rất nhiều khó khăn do Luật phá sản 2004 còn nhiều vướng mắc, bất cập, chưa xác định rõ trách nhiệm của cơ quan thi hành án trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản. Thẩm phán và Thư ký tòa không ngừng học hỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và trau dồi kinh nghiệm cũng như đạo đức để có thể giải quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng, công bằng, công tâm, bảo vệ quyền lợi của các đương sự, đáp ứng nhu cầu giải quyết các mâu thuẫn trong hoạt động kinh doanh thương mại. Trải qua hơn 13 năm xây dựng và kiện toàn, Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã giải quyết được một lượng án kinh doanh, thương mại tương đối nhiều. Với những gì đã đạt được, hoạt động của Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam góp phần ổn định và làm lành mạnh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh doanh, đồng thời tạo được niềm tin cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Những khuyết điểm, tồn tại trong hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam So với những năm trước; năm 2010, Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng để khắc phục những thiếu sót cũng như rút kinh nghiệm trong hoạt động xét xử án kinh doanh, thương mại của mình. Chất lượng xét xử được nâng cao, việc giải quyết các tranh chấp đã nhanh hơn trước đây rất nhiều. Bên cạnh nỗ lực đáng biểu dương về việc đẩy nhanh tiến độ xét xử, Toà vẫn còn tồn tại những hạn chế như còn án bị hủy, bị sửa vì đánh giá chứng cứ không đầy đủ, xác định sai thẩm quyền xét xử, có sự nhầm lẫn trong xác định các quan hệ tranh chấp… Ngoài những ưu điểm và các kết quả đạt được trong công tác xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại của mình, Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, qua xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và kiểm tra giám đốc án cho thấy công tác giải quyết xét xử án kinh doanh, thương mại của Tòa kinh tế vẫn còn một số các khuyết điểm, tồn tại sơ bản sau đây: Án kinh doanh, thương mại đã giải quyết, xét xử có kháng cáo, kháng nghị, Tòa phúc thẩm xét xử đã bị hủy án, bị sửa án một số vụ. Điều này chứng tỏ chưa có những chuyển biến đáng kể về năng lực chuyên môn nghiệp vụ và trong kỹ năng xét xử, điều hành phiên tòa. Điển hình như vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại về hợp đồng thi công, san lấp mặt bằng giữa nguyên đơn là công ty TNHH xây dựng thương mại và dịch vụ tổng hợp Mai Tin (gọi tắt là Công ty Mai Tin) (huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng) và bị đơn là công ty TNHH dịch vụ du lịch - xây dựng dân dụng, trang trí nội thất và thương mại Kim Vinh (gọi tắt là Công ty Kim Vinh) (huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam). Ngày 14/2/2003, Công ty Kim Vinh và Công ty Mai Tin ký kết hợp đồng san ủi, lấp đất mặt bằng với nội dung chính như sau: Công ty Mai Tin phải chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật và chất lượng công việc bảo đảm đúng theo yêu cầu thiết kế kỹ thuật Công ty Kim Vinh đã giao cho Công ty Mai Tin; tổng giá trị hợp đồng (khoán gọn) là 510.204.000 đ, Công ty Kim Vinh ứng cho Công ty Mai Tin 30%, còn lại thanh toán sau khi Công ty Mai Tin bàn giao nghiệm thu khối lượng hoàn thành trong vòng 07 ngày; thời gian thực hiện hoàn chỉnh nội dung san lấp là 30 ngày, kể từ ngày ký kết hợp đồng đến khi nghiệm thu bàn giao. Ngày 14/4/2003, hai bên tiến hành nghiệm thu và sau đó ký Biên bản thanh lý hợp đồng. Theo đó, tổng giá trị san lấp theo hợp đồng là 510.204.000 đồng, trị giá tạm ứng 135.061.200 đồng (Công ty Mai Tin có Giấy đề nghị tạm ứng ngày 15/02/2003 nhưng thực tế Công ty Kim Vinh chưa chuyển tiền) và trị giá thanh toán còn lại là 375.142.800 đồng. Công ty Mai Tin đã phát hành Hóa đơn số GE 001314 và yêu cầu Công ty Kim Vinh nộp thuế VAT. Công ty Kim Vinh cam kết trả tiền thuế nhưng không thanh toán. Công ty Mai Tin có đơn kiện đòi Công ty Kim Vinh thanh toán các khoản sau: Giá trị khối lượng thực hiện theo hợp đồng: 510.204.000 đồng; Bồi thường thiệt hại do chậm thanh toán: + Lãi trên số tiền chưa tạm ứng 135.061.200 đồng từ khi ký hợp đồng; + Lãi trên số tiền còn lại phải thanh toán 375.142.800 đồng sau khi thanh lý Hợp đồng. Công ty Kim Vinh không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Mai Tin Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2006/KDTM-ST ngày 15/9/2006, Tòa án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam quyết định: “Xử bác đơn khởi kiện của Công ty TNHH xây dựng thương mại và dịch vụ tổng hợp Mai Tin về việc yêu cầu Công ty TNHH dịch vụ du lịch - xây dựng dân dụng, trang trí nội thất và thương mại Kim Vinh trả số tiền nợ và lãi suất theo hợp đồng số 03 ngày 14/02/2003…” Ngày 28/9/2006, Công ty Mai Tin có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 134/2006/DSPT ngày 22/12/2006, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định: “Bác kháng cáo của Công ty TNHH xây dựng thương mại và dịch vụ tổng hợp Mai Tin. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm…” Tại kháng nghị số 12/2008/KDTM-KN-TKT ngày 14/11/2008, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, theo hướng hủy bản án dân sự phúc thẩm số 134/2006/DSPT ngày 22/12/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2006/KDTM-ST ngày 15/9/2006 của Tòa án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật, với lý do (tóm tắt): Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm chưa xác minh làm rõ một số vấn đề liên quan đến viêc có thực hiện hợp đồng hay không hay là hợp đồng khống;; cần làm rõ sự thật về biên bản lấy lời khai của các bên liên quan. Thực hiện thủ tục giám đốc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao quyết định: hủy bản án dân sự phúc thẩm số 134/2006/DSPT ngày 22/12/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 08/2006/KDTM-ST ngày 15/9/2006 của Tòa án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật. Xác định sai thẩm quyền và có sự nhầm lẫn trong việc xác định quan hệ tranh chấp kinh doanh, thương mại và quan hệ tranh chấp tài sản. Thẩm quyền của Tòa kinh tế trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là quyền xem xét, quyết định của Tòa đối với vụ tranh chấp đó. Việc xác định đúng thẩm quyền sẽ giúp vụ án được giải quyết nhanh chóng và đúng pháp luật. Chẳng hạn, vụ tranh chấp giữa nguyên đơn là ông Phan Xuân Hùng (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) và bị đơn là Công ty TNHH Minh Quang (TP Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam) do 6 thành viên sáng lập, trong đó có ông Nguyễn Quang Minh. Ông Minh là thành viên của Công ty Minh Quang có cổ phần là 60 triệu đồng. Ông Minh nhượng lại cổ phần này cho ông Hùng không phải là thành viên của Công ty TNHH Minh Quang. Việc chuyển nhượng này chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận nên ông Hùng không phải là thành viên của Công ty Minh Quang. Ngày 25/11/2007, ông Phan Xuân Hùng khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện Duy Xuyên đòi Công ty Minh Quang số tiền là 60 triệu đồng. Tại bản án số 01/KTST ngày 12/05/2007, Toà án nhân dân huyện Duy Xuyên đã xử buộc Công ty Minh Quang phải trả cho ông Hùng 50 triệu đồng. Công ty Minh Quang kháng cáo. Tại bản án số 01/KTPT ngày 08/10/2007 Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã xử y án sơ thẩm về nội dung, chỉ sửa về án phí. Ngày 13/03/2008, tại quyết định số 01 Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm nói trên, đề nghị Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao xử huỷ bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm nói trên để giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam giải quyết lại vụ án. Theo Điều 33 của BLTTDS thì tranh chấp giữa thành viên công ty với thành viên công ty không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện nên Toà án nhân dân huyện Duy Xuyên không có thẩm quyền giải quyết. Mặt khác, tuy ông Minh có nhượng lại cổ phần của mình cho ông Hùng nhưng việc chuyển nhượng này không đúng quy định của pháp luật bởi sự thay đổi này phải được Sở kế hoạch đầu tư ghi vào giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Vì vậy ông Hùng chưa có tư cách là thành viên để khởi kiện Công ty. Ông Hùng đưa tiền cho ông Minh thì ông Hùng có quyền khởi kiện dân sự đòi ông Minh hoàn trả lại số tiền và đây là 1 vụ kiện phải được giải quyết bằng tố tụng dân sự. Ngày 05/05/2000 Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao khi xét xử giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Nghiên cứu chưa sâu, phân tích đánh giá chứng cứ không đúng dẫn đến công nhận những thoả thuận hoặc hợp đồng không hợp pháp. Nhiệm vụ trực tiếp của Tòa kinh tế là giúp các đương sự giải quyết những mâu thuẫn phát sinh một cách đúng pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Trong quá trình giải quyết các tranh chấp thì chứng cứ là một trong những cơ sở quan trọng để Tòa đưa ra những quyết định của mình. Việc phân tích các chứng cứ là cần thiết để có cách thức giải quyết đúng đắn. Tuy nhiên, do trình độ chuyên môn còn một số hạn chế nên vẫn tồn tại những vụ tranh chấp mà Tòa chưa có những đánh giá thật xác đáng về chứng cứ trong quá trình giải quyết tranh chấp, dẫn đến sai lầm trong xét xử. Ví dụ, vụ tranh chấp hợp đồng thuê địa điểm kinh doanh giữa nguyên đơn là Công ty xuất nhập khẩu rau quả (Hội An, Quảng Nam) và bị đơn là Công ty TNHH Đồng Tiến (quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng). Theo hợp đồng thời hạn thuê là 5 năm, giá thuê là 3000$/tháng. Do Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đồng Tiến vi phạm nghĩa vụ trả tiền nên Công ty xuất nhập khẩu rau quả khởi kiện. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã tiến hành hoà giải và ra quyết định công nhận sự thoả thuận. Sai sót trong việc giải quyết vụ án này là: Công ty xuất nhập khẩu rau quả không có chức năng kinh doanh cho thuê nhà, đã cho thuê nhà khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Không được thanh toán bằng ngoại tệ. Đại diện Công ty xuất nhập khẩu rau quả tham gia ký kết hợp đồng chỉ là cấp phó và không có giấy uỷ quyền. Hợp đồng không được công chứng theo quyết định của pháp luật. Với những vi phạm đó thì hợp đồng thuê nhà giữa hai bên đương sự là hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam công nhận sự thỏa thuận của các bên, tức là đã công nhận hợp đồng kinh tế đó hợp pháp là không đúng. Quyết định này đã bị Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị và Toà kinh tế Toà án nhân dân tối cao huỷ quyết định này. Tiến hành xét xử khi chưa có đầy đủ các chứng cứ làm cơ sở để giải quyết. Đây là một thiếu sót của Tòa khi tiến hành xét xử các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại. Ví dụ, vụ tranh chấp giữa nguyên đơn là Công ty TNHH thiết bị Học tập (huyện Điện Bàn, Quảng Nam) và bị đơn là: Doanh nghiệp Thiết bị dạy học Thanh Thủy (TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) về tranh chấp trong hợp đồng mua bán thiết bị phục vụ cho việc dạy học. Giữa nguyên đơn và bị đơn có thỏa thuận miệng về việc mua bán thiết bị dạy học môn vật lý lớp 8 với phương thức thanh toán khi giao hàng là: giá bán hàng lấy giá của Bộ Tài chính chiết khấu 35% khi thanh toán phải xuất hóa đơn GTGT. Từ ngày 14/08/2005 đến ngày 18/11/2005 Công ty TNHH thiết bị Học tập đã xuất hàng và giao trực tiếp cho Doanh nghiệp Thanh Thủy 15 lần với tổng giá trị tiền hàng theo bảng thanh toán ngày 01/04/2006 là 3.732.142.993 đồng. Từ ngày 29/11/2005 đến ngày 01/04/2006 Doanh nghiệp Thanh Thủy đã thanh toán 5 đợt với số tiền là 1.800.000.000 đồng trong đó trả nợ 200 triệu vay ngày 27/07/2005 thanh toán tiền hàng là 1.600.000.000 đồng. Ngày 01/04/2006 doanh nghiệp Thanh Thủy lập bảng thanh toán hẹn đến ngày 15/05/2006 sẽ thanh toán số tiền 400.000.000 đồng. Số tiền hàng tồn còn lại là 1.732.142.000 đồng sẽ thống nhất bằng văn bản khác giữa hai bên. Doanh nghiệp Thanh Thủy còn hẹn lần cuối vào ngày 26/05/2006 sẽ thanh toán số tiền theo văn bản ngày 01/04/2006 và có kế hoạch tiếp đối với số tiền hàng tồn còn lại. Song do doanh nghiệp Thanh Thủy không thực hiện đúng cam kết nên Công ty TNHH thiết bị Học tập đã khởi kiện Doanh nghiệp Thanh Thủy tại Tòa án nhân dân huyện Điện Bàn, Quảng Nam. Sai sót trong việc giải quyết vụ án này là: Tòa án chưa thu thập chứng cứ từ cơ quan có thẩm quyền để giám định về số lượng chất lượng hàng đúng mẫu và đồng bộ để giải quyết vụ án cho đúng pháp luật; cũng không yêu cầu hai bên chứng minh và không thu thập chứng cứ kết luận của cơ quan chuyên môn mà đã buộc Doanh nghiệp thiết bị dạy học Thanh Thủy phải thanh toán tiền. Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét thẩm định tại chỗ xem hàng còn trong kho? Còn là bao nhiêu? Hay đã hết mà đã đưa ra phán quyết là giải quyết không triệt để, vụ án không thể thi hành án được. Nguyên đơn yêu cầu tính lãi nhưng không thu thập các quyết định công bố mức lãi suất nợ quá hạn của các Ngân hàng chính đang hoạt động trên địa bàn xảy ra tranh chấp để tính và áp dụng chính xác mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại. Bị đơn yêu cầu nguyên đơn phải thanh toán tiền lưu kho nhưng không yêu cầu nộp tiền tạm ứng án phí là vi phạm Điều 176, 178 BLTTDS. Bác yêu cầu tính lãi của nguyên đơn, tính tiền lưu kho của bị đơn nhưng không buộc các bên phải chịu án phí là vi phạm khoản 1 Điều 17 Nghị định 70/CP ngày 12/06/1997 của Chính phủ về án phí lệ phí Tòa án và Điều 131 BLTTDS. Với những vi phạm như trên Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục mà hủy bản án sơ thẩm để Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Ngoài những tồn tại trong hoạt động xét xử các tranh chấp kinh doanh thương mại đã nêu, thì trong công tác giải quyết tranh chấp tại Tòa vẫn còn một số khuyết điểm như: Công tác kiểm tra có đổi mới về phương thức, nhưng chất lượng kiểm tra chưa toàn diện, một số vụ án không phát hiện sai phạm để Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị. Công tác nhận đơn khởi kiện và giải quyết các tranh chấp vẫn chưa được chú trọng trong việc phân công cán bộ chuyên trách giúp Chánh án giải quyết đơn nên tình trạng tồn đọng đơn vẫn còn xảy ra. Việc tập huấn cập nhật những kiến thức về luật kinh tế chưa được thường xuyên. Nhiều luật đã ban hành chưa được hướng dẫn đầy đủ, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án. Với những khuyết điểm, tồn tại trong hoạt động xét xử cũng như trong công tác giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa kinh tế; thì nhiều nguyên nhân cụ thể được đưa ra đó là do tính chất các vụ án ngày càng phức tạp; việc nhận thức, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật của một số thẩm phán chưa đúng, chưa thống nhất... Nhưng cho dù xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hay khách quan thì những sai phạm xảy ra là điều không tốt, ảnh hưởng đến uy tín của Tòa kinh tế cũng như sự công bằng của pháp luật. Việc khắc phục những thiếu sót đó là vấn đề cấp bách bởi vì Tòa án là cơ quan xét xử nằm trong hệ thống cấu trúc cơ quan Nhà nước, nhân danh Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, là nơi mà các chủ thể kinh doanh tin tưởng về sự công bằng trong môi trường kinh doanh. Đánh giá chung về các ưu khuyết điểm trong hoạt động giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam Những năm qua, mặc dù bối cảnh đất nước tiếp tục chịu sự tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, chỉ số phát triển kinh tế đất nước suy giảm,… ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân, trong đó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành Tòa án nói chung và của Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam nói riêng. Với sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, của Ban cán sự Đảng và lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành, nên các chỉ tiêu công tác đã đề ra từ đầu năm về việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại ở Tòa kinh tế đều thực hiện hoàn thành vượt mức, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội của tỉnh nhà. Nguyên nhân ưu điểm Trước hết nhờ sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, sâu sát và toàn diện của lãnh đạo Tòa án và các đoàn thể liên quan, sự phối hợp chặt chẽ của của cơ quan tiến hành tố tụng, đã tạo điều kiện cho Tòa kinh tế hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch; Tòa kinh tế đã có sự đầu tư, linh hoạt, nhạy bén trong công tác giải quyết các tranh chấp; tạo ra sự công bằng cho các chủ thể khi tham gia hoạt động kinh doanh trên địa bàn, tạo động lực thu hút đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên nhân khuyết điểm Về nguyên nhân chủ quan; công tác xây dựng, tuyển chọn, đào tạo,… tuy đã có nhiều cố gắng nhưng so với những yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhất là trong điều kiện sản xuất kinh doanh phát triển mạnh, kinh tế hội nhập khu vực và thế giới, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu; trình độ nghiệp vụ của một bộ phận Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký tòa chưa được đồng đều. Năng lực quản lý, điều hành của Chánh án, Phó chánh án còn hạn chế, thiếu nhạy bén, linh hoạt; chưa kịp thời đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác; chậm khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót trong chuyên môn nghiệp vụ; nhận thức chưa đầy đủ vai trò, vị trí và trách nhiệm của chính bản thân cán bộ trong Tòa trong thời kỳ đổi mới. Công tác kiểm tra, giám sát chưa thực hiện kịp thời để chấn chỉnh, uốn nắn thiếu sót, khuyết điểm. Về nguyên nhân khách quan; số lượng các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại mà Tòa phải thụ lý năm sau tăng hơn năm trước, mức độ tranh chấp của các vụ án ngày càng phức tạp. Tòa án nhân dân tối cao có tổ chức nhiều đợt hội thảo nhưng rất ít tổ chức tập huấn chuyên sâu các văn bản quy pham pháp luật và kỹ năng nghiệp vụ cho Thẩm phán, nên cách hiểu để áp dụng pháp luật còn chưa thống nhất, dẫn đến án được giải quyết bị hủy, bị sửa do lỗi chủ quan chưa giảm. Ngoài ra, kinh phí thường xuyên được cấp còn hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công vụ được giao. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có điều tiết của Nhà nước tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển năng động, đa dạng hơn. Chính từ sự phát triển này, các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh ngày càng nhiều và yêu cầu cần có cơ quan đứng ra để giúp các đơn vị kinh doanh giải quyết các tranh chấp đó. Ở Việt Nam Tòa án là cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại phổ biến nhất. Thực tế đã cho thấy việc ra đời của một tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế, góp phần quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đang ngày càng gia tăng trong nền kinh tế thị trường. Với những nghiên cứu về thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, tôi xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử cũng như hiệu quả của quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa kinh tế. 1. Giải pháp Về phương diện pháp luật Sửa đổi, bổ sung về pháp luật kinh doanh, thương mại Hiện nay, để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh, Tòa kinh tế dựa vào những quy định đã ban hành của pháp luật kinh doanh, cụ thể là BLTTDS và một số Luật chuyên ngành khác như Luật Thương mại, Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp,… Tuy nhiên, khi các quy định trong những văn bản Luật đó và các văn bản hướng dẫn không có sự thống nhất với nhau về nội dung thì sẽ dẫn đến tình trạng mơ hồ, không chính xác của Tòa án trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Trong các quy định về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại hiện nay trong pháp luật kinh doanh ở nước ta, vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn trong việc xác định các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Xác định đâu là tranh chấp kinh doanh thương mại hiện đang có nhiều quan điểm do việc không thống nhất trong các văn bản pháp luật và khiến không ít bản án sơ thẩm bị sửa, hủy. Khoản 1 Điều 29 BLTTDS quy định rõ rằng những tranh chấp về kinh doanh thương mại là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Theo quy định này thì điều kiện có đăng ký kinh doanh và mục đích lợi nhuận giữa các chủ thể tham gia là điều kiện bắt buộc. Nếu chỉ có một bên có đăng ký kinh doanh hoặc chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận thì là tranh chấp về dân sự. BLTTDS quy định rõ ràng như vậy nhưng khi Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao ban hành Nghị quyết 01/2005/NQ-HĐTP (ngày 31-3-2005) hướng dẫn thì việc áp dụng pháp luật không thống nhất đã xảy ra. Theo hướng dẫn, “Tòa Kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại… mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. Với những quy định như vậy, chúng ta có thẻ hiểu; hoặc những tranh chấp giữa một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận là tranh chấp về dân sự nhưng giao cho Tòa Kinh tế giải quyết, hoặc những tranh chấp đó là tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa Kinh tế. Việc hướng dẫn của Nghị định đã mở rộng ra khá nhiều so với quy định của Luật. Tòa án muốn xác định tranh chấp nào là tranh chấp về dân sự và tranh chấp nào là tranh chấp về kinh doanh thương mại thì phải căn cứ vào những quy định của BLTTDS. Điều này cũng có nghĩa là Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán đã sơ sót trong cách dùng từ nên gây ra nhiều cách hiểu nhầm khác nhau. Nếu xác định các tranh chấp mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận là tranh chấp về kinh doanh thương mại thì sẽ mâu thuẫn hoàn toàn với quy định của BLTTDS. Do đó, trong trường hợp giữa BLTTDS và nghị quyết có quy định khác nhau thì cũng phải áp dụng BLTTDS để giải quyết. Bởi BLTTDS là văn bản có hiệu lực cao hơn nghị quyết. Còn nếu xác định các tranh chấp theo hướng dẫn của Nghị quyết là tranh chấp về kinh doanh thương mại thì sẽ xảy ra trường hợp có những tranh chấp rất đơn giản nhưng tòa án cấp huyện không có thẩm quyền giải quyết. Chẳng hạn như tranh chấp về hợp đồng vay tài sản giữa ngân hàng với cá nhân không đăng ký kinh doanh nhưng có mục đích lợi nhuận thì tòa án cấp tỉnh mới có thẩm quyền giải quyết bất kể giá trị tài sản là bao nhiêu. Sẽ là một điều vô lý nếu những tranh chấp vay tài sản từ vài trăm ngàn đến vài triệu đồng vì mục đích lợi nhuận giữa ngân hàng với cá nhân mà TAND cấp huyện lại không thể xử. Thống nhất giữa các quy định trong văn bản luật và các văn bản hướng dẫn của pháp luật kinh doanh là điều cần thiết; giúp cho việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại được mau chóng và dễ dàng hơn; tạo điều kiện cho Tòa có thể đưa ra những quyết định đúng đắn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong quá trình tham gia tố tụng kinh doanh thương mại. Cùng với diễn biến ngày càng phức tạp của đời sống kinh tế - xã hội, các tranh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại không ngừng gia tăng về số lượng và sự đa dạng; mà để  giải quyết ổn thỏa các tranh chấp đó, đảm bảo quyền lợi cho các bên là một công việc không phải đơn giản. Ngoài mâu thuẫn giữa văn bản pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật, thì hiện nay tình trạng chồng chéo giữa các văn bản trong pháp luật kinh doanh vẫn còn tồn tại. Cụ thể đó là những quy định về cơ sở pháp lý được áp dụng để giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Theo quy định tại điều 29 BLTTDS thì tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án rất đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, trong đó có tranh chấp vừa được điều chỉnh bởi quy định của Bộ luật Dân sự, vừa được điều chỉnh bởi Luật chuyên ngành. Chính vì lý do này mà việc xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án còn một số lúng túng, vướng mắc hoặc sai lầm khi áp dụng quy định của Bộ luật dân sự và quy định của Luật chuyên ngành như Luật Thương mại (thường xảy ra khi giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản đã được quy định trong Bộ luật Dân sự), hợp đồng mua bán hàng hóa (được quy định trong Luật Thương mại), về hợp đồng dịch vụ (quy định trong Bộ luật Dân sự), hợp đồng cung ứng dịch vụ (được quy định trong Luật Thương mại), hợp đồng liên kết, liên doanh hợp đồng hợp tác kinh doanh... theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, hợp đồng bảo hiểm (được quy định trong Bộ luật Dân sự), hợp đồng bảo hiểm (quy định trong Luật Kinh doanh bảo hiểm)... Vướng mắc ở đây là trường hợp nào thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự, trường hợp nào thì áp dụng quy định của Luật chuyên ngành? Vì vậy, trong thực tiễn xét xử, việc áp dụng quy định của Luật chuyên ngành, của Bộ luật Dân sự để giải quyết vụ án của một số Tòa án chưa thống nhất như: có Tòa án áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự; có Tòa án áp dụng quy định của Luật chuyên ngành; có Tòa án áp dụng đồng thời quy định của Bộ luật Dân sự và quy định của Luật chuyên ngành... Sự chồng chéo và thiếu tính nhất quán đó ắt phải dẫn đến một hậu quả, đó là đưa ra những phán quyết thiếu khách quan, ảnh hưởng đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng. Để việc áp dụng pháp luật được đúng và thống nhất, Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tối cao đã đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn theo hướng: Khi giải quyết vụ án kinh doanh, thương mại mà tranh chấp đó vừa được điều chỉnh bởi quy định của Bộ luật dân sự, vừa được điều chỉnh bởi quy định của Luật chuyên ngành thì áp dụng theo quy định của Luật chuyên ngành để giải quyết. Nếu Luật chuyên ngành không có quy định thì mới áp dụng quy định của Bộ luật dân sự. Chỉ có như thế, việc giải quyết mới trở nên đơn giản, dễ dàng áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật và đưa ra những quyết định sáng suốt, công bằng.    Cần những quy định mới về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại Theo quy định tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31.3.2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì Toà Kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS 2004 Hiện nay quy định về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại khá cụ thể. Theo quy định tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31.3.2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì Toà Kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS 2004; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận.  Phân tích quy định của pháp luật hiện hành, bao gồm: BLTTDS 2004; Luật Thương mại năm 2005; Nghị quyết số 01 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, có thể thấy, những văn bản này không quy định hết các trường hợp mà Toà án Kinh tế có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại; đồng thời còn chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Thứ nhất là chưa quy định cụ thể về Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với trường hợp hoạt động thương mại không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi chọn áp dụng Luật Thương mại. Đối chiếu với quy định hiện hành cho thấy, Toà Kinh tế chưa được hướng dẫn giải quyết đối với trường hợp này. Theo quy định của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP, trong trường hợp căn cứ vào hướng dẫn tại Nghị quyết mà khó xác định được tranh chấp hoặc yêu cầu đó thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Toà chuyên trách nào, thì Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định phân công cho một Toà chuyên trách giải quyết theo thủ tục chung. Trường hợp sau khi thụ lý vụ việc dân sự mới phát hiện được vụ việc dân sự thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Toà chuyên trách khác, thì Toà chuyên trách đã thụ lý tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục chung. Như vậy, trên thực tế mỗi Toà án nhân dân cấp tỉnh có thể giao cho các toà chuyên trách khác nhau tiến hành giải quyết tranh chấp. Việc làm này tạo ra sự không thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể về quy định toà chuyên trách nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với trường hợp: Hoạt động thương mại không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật Thương mại. Có quan điểm cho rằng nên giao cho Toà Kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh giải quyết đối với trường hợp tranh chấp này. Vì, mặc dù một trong các bên không phải là thương nhân và bên không phải là thương nhân đó không hướng tới mục tiêu lợi nhuận trong quan hệ này, tuy nhiên họ đã chọn quy định của Luật Thương mại để điều chỉnh quan hệ pháp luật của mình, do vậy nếu giao cho Toà Kinh tế giải quyết sẽ bảo đảm hơn việc thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý theo đúng quy định của Luật Thương mại, phù hợp với ý chí đích thực của các bên; không những thế, Thẩm phán của Tòa Kinh tế giải quyết vụ việc chất lượng sẽ bảo đảm hơn. Thứ hai, các quy định về giải quyết tranh chấp trong quan hệ kinh doanh thương mại hiện nay thiếu lại chồng chéo và mâu thuẫn. Luật Thương mại là luật chuyên ngành điều chỉnh quan hệ thương mại giữa thương nhân, nhưng không có quy định cụ thể nào về tranh chấp thương mại. Do đó việc xác định chính xác thế nào là tranh chấp thương mại không có cơ sở, các quy định về tranh chấp thương mại hiện nằm rải rác trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, mỗi văn bản lại có cách quy định khác nhau. BLTTDS 2004 liệt kê các loại quan hệ thương mại gồm: Mua bán hàng hoá; Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng; Tư vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tư, tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Sự liệt kê này tương thích với quy định của Luật Thương mại năm 1997 và Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003. Tuy nhiên, hiện nay Luật Thương mại 2005 đã thay thế Luật Thương mại 1997 và quy định về hoạt động thương mại đã có sự thay đổi, theo đó hoạt động thường được hiểu là: Hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Do vậy quy định của Bộ Luật Dân sự (năm 2004) đã trở nên lạc hậu so với quy định của Luật Thương mại năm 2005.  Thực tế trên đòi hỏi cần sửa đổi và hoàn thiện hơn quy định về tranh chấp thương mại; các trường hợp Toà án Kinh tế thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại để việc áp dụng và thực thi pháp luật có hiệu quả hơn. Hoàn thiện pháp luật về mô hình, cơ cấu tổ chức Tòa án Theo quy định của pháp luật hiện hành, mô hình Tòa kinh tế trong hệ thống tòa án nhân dân của Việt Nam không phải là một tòa chuyên trách thực sự theo đúng nghĩa của nó. Mục đích khi thành lập Tòa kinh tế (1994) là để phân định thẩm quyền giữa Tòa Kinh tế với Tòa Dân sự về phạm vi thẩm quyền va thủ tục tố tụng áp dụng giải quyết tranh chấp kinh tế và tranh chấp dân sự. Nhưng từ khi thành lập đến nay, thực ra mục đích này đã không thực hiện được. Đặc biệt, sau thời điểm BLTTDS có hiệu lực, điều này đã trở nên không cần thiết vì thủ tục tố tụng được áp dụng tại Tòa kinh tế và Tòa dân sự là hoàn toàn giống nhau, thậm chí ngành tòa án vẫn thừa nhận Tòa kinh tế kiêm luôn việc giải quyết các án dân sự, hình sự, lao động, hành chính… Rõ ràng tính chất chuyên ngành của Tòa kinh tế trong thực tế không thể thực hiện được như mong muốn ban đầu khi quyết định thành lập nó trong hệ thống tòa án hiện hành. Trong nội dung cải cách tư pháp hiện nay, sự cần thiết phải thay đổi mô hình công tác tổ chức, nguyên tắc tổ chức của ngàng tòa án nói chung và Tòa kinh tế nói riêng được Đảng và Nhà nước xác định là trọng tâm, là yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của hệ thống tài phán nhà nước. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, đây là vấn đề mang tính thời sự, được nhiều nhà khoa học quan tâm, góp ý kiến. Điều đó cho phép khẳng định rằng, việc xây dựng và thực hiện chức năng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có yếu tố quyết định của mô hình tổ chức tòa án. Không thể nghĩ tới việc thành lập một Toà kinh tế độc lập tồn tại riêng ở các khu vực hoặc nhập Toà kinh tế vào Toà dân sự trong cơ cấu hiện hành của ngành toà án. Sự thay đổi của Toà kinh tế phải trên nền tảng sự thay đổi của toàn hệ thống toà án với một sự sắp xếp cơ cấu phù hợp theo chủ trương đường lối cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra đó là giản tiện về tố tụng, chuyên trách về công việc và bảo đảm hiệu quả cao trong giải quyết tranh chấp. Hoàn thiện công tác tổ chức thi hành Bản án, quyết định của Tòa án Sau quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại; các Bản án, quyết định của Tòa kinh tế cần được thi hành một cách nghiêm túc, đúng pháp luật để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên liên quan. Do đó, cần hoàn thiện công tác tổ chức của cơ quan thi hành án để các phán quyết về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại được thi hành một cách đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời. 1.2. Về các phương diện khác Hoàn thiện công tác đào tạo cán bộ trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại Trong quá trình tố tụng các tranh chấp kinh doanh, thương mại nói riêng và các tranh chấp khác được giải quyết tại tòa án nói chung, luôn cần đến sự hiểu biết, công tâm của những người tham gia tiến hành giải quyết. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp là điều mà các cán bộ của Tòa án luôn quan tâm và không ngừng hướng đến để hoàn thiện bản thân. Vì vậy, trong công tác đào tạo cán bộ của Tòa kinh tế để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại; cần tuân thủ một số vấn đề sau: Tiếp tục thực hiện Công văn số 91/BCS ngày 22/7/2009 của Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao về tăng cường công tác quản lý cán bộ và kỷ luật ngành; thực hiện chặt chẽ công tác quản lý bộ máy và công tác cán bộ, công chức Tòa án trong sạch vững mạnh, có phẩm chất , đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị - nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, kỹ năng tác nghiệp được nâng cao; nhạy bén, linh hoạt, có sáng kiến cải tiến trong các lĩnh vực công tác. Tăng cường đào tạo công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký tòa án, Hội thẩm nhân dân, nhất là tập trung đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý trong diện đã quy hoạch, bảo đảm đội ngũ kế thừa. Khuyến khích công chức học ngoại ngữ, tin học, để nâng cao năng lực, trình độ về mọi mặt, nhất là cán bộ trẻ có khả năng phát triển để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, bổ sungquy hoạch định kỳ và quản lý quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong ngành Tòa án nhân dân Quảng Nam theo tinh thần nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 5/12/2006 của Tỉnh ủy Quảng Nam. Tiếp tục thực hiện công tác luân chuyển, biệt phái, điều động, bổ nhiệm, chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ trong ngành theo nhu cầu và đặc điểm của từng Tòa án. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm đối với tập thể và cá nhân cán bộ, công chức trong ngành Tòa án có vi phạm, lợi dụng nghề nghiệp, chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ để tham nhũng, hối lộ, tiêu cực, lãng phí, móc ngoặc để trục lợi, cũng như các biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi pham quy tắc ứng xử cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân. Kiên quyết loại ra khỏi ngành những cán bộ, công chức vi phạm Quy chế hoạt động của ngành. Việc quản lý, sử dụng công sở, tài chính, công sản phải đúng quy định, đúng mục đích, đúng chế độ, hiệu quả, tiết kiệm và công khai, minh bạch. Thực hiện kịp thời các chính sách của Nhà nước đối với cán bộ, công chức; có kế hoạch điều hành tiết kiệm chi trong kinh phí, thực hiện tự chủ để chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, tạo động lực để phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Nếu thẩm phán được giao giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại nhưng do chủ quan, thiếu trách nhiêm, dô trình độ nghiệp vụ yếu kém, để án bị hủy từ 1,16% trở lên hoặc để án bị sửa từ 4,2% trở lên, hoặc để án quá hạn luật định 3% trở lên phải kiểm điểm, giải trình. Thẩm phán đã phải kiểm điểm liên tiếp từ 3 năm trở lên phải tự nguyện thôi làm Thẩm phán, hoặc tự nguyện để điều động đến các huyện miền núi ít án, phù hợp với năng lực bản thân. Nếu không tự nguyện thì sẽ áp dụng biện pháp tổ chức giải quyết nghỉ theo Nghị định 132/2007/NĐ-CP ngày 8/8/2007 của Chính phủ quy định chính sách tinh giản biên chế với lý do là nhiều năm không hoàn thành nhiệm vụ. Tiêu chí này cũng được áp dụng với Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân hai cấp; Chánh tòa, Phó Chánh tòa các Tòa chuyên trách. Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án làm việc tại phòng giám đốc kiểm tra được phân công kiểm tra giám đốc án huyện nhưng không phát hiện sai phạm nghiêm trọng tham mưu Chánh án kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm , để Viện trưởng Viện kiểm sát phát hiện và kháng nghị, được Ủy ban Thẩm phán xét xử chấp nhận kháng nghị hủy án sơ thẩm từ 1 vụ trở lên thì khi kiểm điểm cuối năm xếp loại công chức không hoàn thành nhiệm vụ và không xét thi đua. Trưởng phòng, Phó trưởng phòng giám đốc kiểm tra nếu quản lý điều hành không phát hiện tham mưu Chánh án kháng nghị từ 3 vụ trở lên cũng thực hiện theo tiêu chí này. Nâng cao chất lượng xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân Đối với thẩm phán Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ chức Tòa án nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung. Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng, vì thế số lượng, chất lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ thẩm phán là yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn nữa về tính chuyên nghiệp của thẩm phán trên tất cả các lĩnh vực như: cơ chế bảo đảm, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nhiệp, kỹ năng xét xử... để có thể xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp. Việc đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của thẩm phán và xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp là yếu tố quan trọng mang tính tiên quyết để nâng cao địa vị của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp và đối với xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử. Pháp luật đã có những quy định về quyền và nghĩa vụ cho Thẩm phán trong các văn bản như Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án Nhân dân, … Vì vậy, cần phải nghiên cứu xem xét điều chỉnh chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của thẩm phán trong hoạt động xét xử nhằm đảm bào cho việc ra bản án khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Địa vị và chất lượng xét xử của thẩm phán chỉ được nâng cao khi đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc xét xử của Tòa án phải dựa trên cơ sở pháp luật mới bảo đảm tính khách quan, vô tư không bị phụ thuộc bởi bất kỳ tác động khách quan hay chủ quan nào. Số lượng và chất lượng thẩm phán là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả xét xử cũng như địa vị của thẩm phán. Ngành Tòa án cần có chiến lược quy hoạch đào tạo nguồn thẩm phán. Quy hoạch thẩm phán vừa là căn cứ để thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán vừa là cơ sở để tiến hành chuẩn bị nhân sự tuyển chọn bổ nhiệm thẩm phán. Đối với các Thẩm phán trước khi được bổ nhiệm mới đều phải được học lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử. Đây cũng chính là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lương đội ngũ thẩm phán. Việc quy hoạch thẩm phán phải có lộ trình cụ thể đảm bảo hài hòa giữa tỷ lệ thẩm, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử thì đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán cần được chú trọng. Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi người Thẩm phán phải có trách nhiệm tự hoàn thiện mình, luôn hướng tới chân, thiện, mỹ; thấu hiểu được hoàn cảnh của các đương sự, của những người liên quan trong vụ án để giải quyết. Việc tự rèn luyện để nâng cao đạo đức, nghề nghiệp của người thẩm phán phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình công tác của người thẩm phán. Xuất phát từ công việc hàng ngày, thông qua mối quan hệ xã hội, quan hệ với các đồng nghiệp, tiếp xúc với đương sự, thông qua các phiên tòa xét xử giúp cho người thẩm phán nhìn nhận, đánh giá lại chính mình, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước công việc, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để khắc phục những khuyết điểm, xây dựng và hoàn thiện những ưu điểm, những phẩm chất tốt đẹp của chính bản thân mình, cá nhân thẩm phán phải có tinh thần tự giác, ý thức được trách nhiệm trước công việc, ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng mọi người, khắc phục mọi khó khăn, mọi cám dỗ đời thường. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho thẩm phán là việc làm thường xuyên mà trước hết thuộc về trách nhiệm của mỗi thẩm phán và của cả hệ thống chính trị và sự giúp đỡ, giám sát của nhân dân. Đối với Hội thẩm nhân dân Hội thẩm là một chế định quan trọng thể hiện tính chất dân chủ trong hoạt động xét xử của Toà án, chế định hội thẩm đã được quyết định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Các Hội thẩm nhân dân đa số là cán bộ chủ chốt hoặc đại diện các Ban, ngành đoàn thể ở cấp tỉnh và cấp huyện, phần lớn các Hội thẩm nhân dân có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân chuyên ngành khác và đều đã được Tòa án nhân dân các cấp tập huấn về công tác xét xử, công tác hội thẩm. Để đội ngũ Hội thẩm ngày càng lớn mạnh và không phải là “chậu cảnh” trong mỗi phiên tòa, họ rất cần được bồi dưỡng pháp luật, cập nhật những kiến thức, kỹ năng mới. Bên cạnh đó là việc nâng cao mức thù lao cho Hội thẩm nhân dân để động viên, khuyến khích họ làm việc tốt hơn. Thực hiện công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật Trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi đất nước ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, hàng loạt các chế định pháp luật được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với sự đòi hỏi của khu vực và thế giới các thuật ngữ như: Cạnh tranh không lành mạnh; chống bán phá giá; thương mại điện tử; chống độc quyền xuất hiện ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong kinh doanh sẽ từng bước nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong kinh doanh thương mại của các thương nhân, góp phần lành mạnh hoá thị trường, củng cố niềm tin vào tương lai phát triển bền vững của các doanh nghiệp, thương nhân tham gia kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Việc thiếu hiểu biết pháp luật kinh doanh cũng là một trong những nguyên nhân là gia tăng các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Hiểu biết về pháp luật kinh doanh tuy không tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng nó lại có vai trò to lớn trong việc nâng cao nhận thức và khả nhăng vận dụng các kiến thức pháp luật trong quá trình tham gia kinh doanh trong môi trường của nền kinh tế thị trường. Phát huy hơn nữa vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến pháp với chức năng chuyển tải kiến thức pháp luật vào đời sống doanh nghiệp, xây dựng lòng tin của doanh nghiệp vào pháp luật, để  pháp luật thực sự đi vào cuộc sống gắn thực thi pháp luật với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, tạo hành lang pháp lý an toàn cho doanh nghiệp phát triển ngày càng bền vững. 2. Kiến nghị Việc đẩy mạnh hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án là việc làm cần thiết để đảm bảo cho việc thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của Tòa kinh tế. Do đó, cần có những việc làm cụ thể để nâng cao chất lượng của hoạt động giải quyết tranh chấp. Với những gì thực tế cho thấy qua quá trình thực tập, tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau nhằm hoàn thiện công tác xét xử cũng như công tác giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại đối với Tòa kinh tế Nhanh chóng tiến hành sửa đổi và bổ sung những vướng mắc trong các quy định về pháp luật kinh doanh. Tổ chức các lớp tập huấn và các buổi tuyên truyền về pháp luật kinh doanh, nhằm nâng cao nhận thức của các chủ thể khi tham gia vào môi trường kinh doanh trên địa bàn; từ đó có thể giảm thiểu các tranh chấp phát sinh do sự thiếu hiểu biết về pháp luật kinh doanh của các chủ thể. Tổ chức tập huấn cho cán bộ chuyên trách của các Tòa Kinh tế các huyện về nghiệp vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng như các kiến thức pháp luật về kinh doanh, thương mại qua đó chủ động tham mưu cho cấp uỷ chính quyền địa phương để triển khai công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật. KẾT LUẬN Trong bối cảnh đất nước đang phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội; hoạt động kinh doanh thương mại của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại những tác động cũng như đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung của đất nước. Sự phát triển của các thành phần kinh tế, sự gia tăng số lương các doanh nghiệp đã và đang tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn nhưng cũng không kém phần phức tạp và cạnh tranh gay gắt. Các tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng từ đó mà phát sinh với số lượng ngày càng tăng qua các năm cùng với tính chất phức tạp của nó; đòi hỏi phải có sự can thiệp và giải quyết của cơ quan Tòa án, để giúp các doanh nghiệp tránh được những hậu quả tiêu cực do mâu thuẫn và xung đột lợi ích gây ra. Tuy vẫn còn tồn tại trong các quy định về pháp luật kinh doanh; nhưng nhìn chung, với những nỗ lực của Đảng và nhà nước, Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền, tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại đã được hạn chế đáng kể; tạo được niềm tin vào môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh cho mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế. Với mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, đảm nhận vai trò giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát sinh trong nền kinh tế trên địa bàn. Qua những bước phát triển và trưởng thành, Tòa kinh tế ngày càng khẳng định được vị thế và vai trò là một thiết chế tài phán, đại diện cho nhà nước bảo vệ lợi ích cho các đơn vị kinh doanh. Tòa kinh tế đang cố gắng đem lại sự công bằng trong môi trường kinh doanh cho các chủ thể bằng những chủ trương và hành động thiết thực của mình. Với những gì đã đạt được từ khi hoạt động, Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã làm tốt công tác, nhiệm vụ được giao ngay từ những việc làm nhỏ nhất xứng đáng, là nơi gửi gắm niềm tin của Đảng, Nhà nước, của các đơn vị kinh doanh vào sự công bằng trong pháp luật kinh doanh trên địa bàn tỉnh. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự KDTM : Kinh doanh, thương mại TNHH : trách nhiệm hữu hạn TP : thành phố NoN & PTNN : nông nghiệp và phát triển nông thôn TÀI LIỆU THAM KHẢO Hiến pháp nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Bộ luật tố tụng dân sự số 24/2004/QH11 ngày 15/06/2004. Bộ luật dân sự số 33/2005/QH ngày 14/06/2005. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 33/2002/QH10 ngày 02/04/2002. Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14/06/2005. Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại tập II, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội, 2008. Ban Chấp hành Trung ương Đảng CS Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW về Đề án Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Báo cáo tổng kết công tác các năm 2006, 2007, 2008, 2009, 2010 của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Website: Website:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuyende_tand_qnam_8745.doc