Đặc sắc ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh

Bằng phương tiện ngôn ngữ, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng lên một xã hội giao thời với đầy đủ mọi hạng người trong xã hội, với những lối sống, cách sống, những tập tục của cả thôn quê lẫn thành thị Nam Bộ. Hồ Biểu Chánh đã ghi lại những cái hay, cái đẹp cũng như chỉ ra những mặt trái, sự xấu xa của xã hội. Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chúng ta được sống lại với những khung cảnh, sinh hoạt hàng ngày của mọi tầng lớp người trong xã hội. Đó là những bác sỹ, văn sỹ, ký giả, thầy lang, thầy thuốc, thầy dây thép, thầy thông, thầy ký, ông cò, ông cò tàu, nhà buôn, thợ may, người bán rong, trẻ bán vé số, xếp ga, cai ngục, thầy bá, thầy tướng, biện lý, chưởng khế, mái chín, bác vật, chệc khách, chà và, cu ly, quan kinh lý, quan trường tiền, chánh bố, chánh tổng, ông phủ, tá điền, điền chủ, hương bộ, hương sư, hương quản, cai tuần, chúa tàu, từng khạo, đà công, trạo phu, kẻ trộm, kẻ cướp, gái giang hồ

pdf8 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5375 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc sắc ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 103 Đặc sắc ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh Nguyễn Quang Tuấn (a) Tóm tắt. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ ra những đặc sắc ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh: sử dụng đắc địa từ địa ph−ơng và lớp từ của khẩu ngữ; vận dụng thành ngữ, tục ngữ linh hoạt, sáng tạo; tạo phong cách khẩu ngữ cho câu văn; bảo l−u những mặt tích cực của câu văn biền ngẫu; du nhập vốn từ ngoại lai. Những đặc sắc này đã tạo nên phong cách ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, khẳng định đóng góp của nhà văn đối với sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. ồ Biểu Chánh đ−ợc xem là một trong những ng−ời mở đ−ờng và có những đóng góp lớn cho sự hình thành nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Trong những yếu tố đ−a tới thành công của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có yếu tố phong cách ngôn ngữ. ở bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích những điểm đặc sắc trong ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh để góp phần lý giải cái sức hút mạnh mẽ mà tác phẩm của ông có đ−ợc đối với độc giả một thời. 1. Sử dụng đắc địa từ địa ph−ơng và lớp từ của khẩu ngữ Tr−ớc Hồ Biểu Chánh, nhiều nhà văn Nam Bộ đã có công khai thác và đ−a vốn từ ngữ bình dân Nam Bộ vào trong địa hạt văn học nh− một phong cách ngôn ngữ. Trong những truyện thơ Lục Vân Tiên, D−ơng Từ-Hà Mậu, Ng− tiều y thuật vấn đáp, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng những từ ngữ, những cách nói sinh động của bản thân đời sống, của ngôn ngữ dân gian Nam Bộ. Tr−ơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản… là những tác giả đầu tiên dùng chữ quốc ngữ để viết văn xuôi. Các tác phẩm Chuyến đi Bắc Kỳ năm ất Hợi (1876), Chuyện khôi hài (1882) của Tr−ơng Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn (1885) của Huỳnh Tịnh Của, Truyện thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản… đã sử dụng lớp từ của khẩu ngữ khá linh hoạt và đạt hiệu quả cao. Nếu nh− Tr−ơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản là những ng−ời tiên phong đặt nền móng cho văn xuôi quốc ngữ thì Hồ Biểu Chánh là một trong những ng−ời làm cho văn quốc ngữ phong phú hơn. Ông chắt lọc lời ăn tiếng nói của nhân dân và vận dụng vào sáng tác của mình khá thuần thục. Về ph−ơng diện ngữ âm, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh cho ng−ời đọc thấy đ−ợc đặc điểm phát âm của ng−ời Nam Bộ. Ông đã thể hiện một cách chân thật, sinh động cách nói năng của ng−ời dân miền Nam. Nhà văn ghi lại các biến thể phát âm trong lời đối thoại của nhân vật. Những biến thể phát âm này th−ờng diễn ra ở bộ phận âm chính nh− bá nhựt (bá nhật), chác nghĩa (chuốc nghĩa), đờn cầm (đàn cầm), h−ỡn b−ớc (hoãn b−ớc), h−ờn công (hoàn công), đờn ông (đàn ông), bất nhơn (bất nhân), n−ng (nâng), huê (hoa), ph−ớc (phúc), hun (hôn), kiếng (kính), mơi (mai), bịnh (bệnh), v−ng (vâng), chánh đáng (chính đáng), hiệp ý (hợp ý), chính chiên (chính chuyên)… Hồ Biểu Chánh cũng sử dụng những biến thể phát âm về phụ âm đầu nh−: day (quay), nhắm nhía (ngắm nghía), Nhận bài ngày 05/12/2006. Sửa chữa xong 28/12/2006. H Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 104 hửi (ngửi), mắc (đắt), nhỏ mức (nhỏ sức), hực hỡ (rực rỡ), giồi (dồi), chắt lót (chắt mót), đôi tôi (thôi nôi), giọi (rọi), giợt (lợt), guộn (cuộn), khoả (thỏa), lún thún (lún phún), nhếu nháo (lếu láo), vắn (ngắn), vồng (trồng), xăng xái (hăng hái)… ở ph−ơng diện từ vựng, độc giả gặp rất nhiều từ ngữ đ−ợc nhà văn sử dụng phù hợp, phản ánh đ−ợc đặc tr−ng nói năng của ng−ời dân vùng đất cực Nam Tổ quốc. Đó là những từ chỉ cây cối, sản vật gắn với một vùng sông n−ớc mênh mông: mắm, đ−ớc, bầu, tràm, dừa n−ớc, bông súng, cây còng, cây tra, đậu hũ, đậu phộng, bánh ú, bông l−ờng, bông lồng đèn, bông vông, cá chẽm, cá hố, cá ngác… Đó là các từ ngữ chỉ trạng thái, tính chất, chẳng hạn: buồn nghiến, nằm dàu dàu, ngồi chồm hỗm, đứng xớ rớ, đi lầm lũi, nói mờ ơ, ngủ nhầu, ngó chằng chằng, nhẹ hều, buồn hiu, lừ lừ, im re, đứng dụ dự một hồi, ngồi ngó cững, n−ớc mắt n−ớc mũi choàm ngoàm, ngồi chim bỉm, mừng quýnh, chết điếng, buồn so, tròn vìn, nín khe, mặt chừ bự, ngó chừng xăn văn xéo véo, nằm không cục cựa, râu lún thún, nhảy xoi xói… Hồ Biểu Chánh cũng có những cách diễn đạt hết sức Nam Bộ, với những tình thái từ: nghen, hen, vậy ta, hôn, há, chớ…; với những cách x−ng hô: qua, má, tía, thẩy, cổ, cỏn, thẳng, sắp nhỏ, ảnh, chỉ, bả, ổng, tao, má nó, mầy, tao, hắn, y, mình… và những ngữ khí từ đặt ở cuối câu hoặc dùng để nhấn mạnh ý: bất nhân hôn, dữ hôn, mắc giống gì, còn ức nỗi gì, làm giống gì, thiệt chớ, nhiều hôn, mà làm gì, biết hôn, đ−ợc hôn, nghe hôn, giàu giống gì, nh− vầy nè, phải hôn, nghĩ nỗi gì… Nhân vật trong tiểu thuyết của ông là những con ng−ời Nam Bộ với những cái tên bình dị, chân chất, đặt theo thứ và cách x−ng gọi thứ kết hợp với tên: Hai, Ba, T−, út…, Hai Liền, Hai Cam, Hai Phục, Ba Có, Ba Điệp, Ba Thời, T− Cu, T− Kiến, T− Đỏ, T− Tiền, Năm Đào, Năm Kiêu, Sáu Lý, Sáu Quýt… Những con ng−ời đó gắn liền với tên ấp, tên làng, tên chợ, tên kênh rạch hết sức Nam Bộ: xóm Rạch, xóm Chí Hoà, xóm Củi, làng Bình Thạnh Đông, kinh Vĩnh Tế, cầu Rạch Bần, cầu Ông Lãnh, cầu Khánh Hội, chợ Mỹ Lợi, chợ Giồng, chợ Lớn, chợ Đủi, chợ Gạo, chợ Gò Công, chợ Cần Thơ, chợ Bến Thành, chợ Thủ, cầu Kho, chợ Cầu Nổi... Đó là môi tr−ờng để ng−ời dân Nam Bộ sinh sống với những ngành nghề gắn liền với quê h−ơng sông n−ớc miền Nam nh− chăn vịt, len trâu, nghề theo gánh xiếc rong, làm v−ờn, ruộng, rẫy, câu rê, lái tàu, chèo ghe… Nhiều từ địa ph−ơng nếu không đ−ợc đ−a vào một ngữ cảnh cụ thể thì sẽ rất khó hiểu. Có thể so sánh một số từ địa ph−ơng trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh với từ “phổ thông” để thấy rõ điều đó: chác nghĩa = chuốc nghĩa, mang nghĩa; cháng = choáng; chau vau = mất tinh thần, vẻ mặt nh− ng−ời mất ngủ; chạy tờ = báo cáo; chiết: sẻ, chia; chim bỉm = không nói, không có ý kiến, nín thinh; chừ bự: thụng mặt khi giận dữ; cừ ngạnh = cứng đầu, chống đối; đáo để = tận đáy, tận cùng; đếm = mua sỉ, bán sỉ; leo cheo = lời qua tiếng lại; l−ng túc = thiếu thốn; mảng = chuyên chú; nhụt nhụt = không còn mới; tầm ruồng = lòng vòng, không có chủ đích; thả rều = đi dạo không có mục đích; trịt = kéo xuống, xệ xuống; trộ trạo = trừng Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 105 trợn; ui ui = có mây che, không đủ ánh sáng; vi kiến = vây cánh; viết não = viết nháp; vúc vắc = múa tay, múa chân; xẳng = nói nặng; xáng = thoáng; xốc = đảo lộn để kiểm điểm; xọp = teo, xẹp; xơ xải = xơ xác, tơi bời; xạc lơ = không nhiệt tình; tửng = sang lại… Ngôn ngữ bình dân trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh giản dị nh−ng không kém phần độc đáo. Các từ láy vừa có tác dụng gợi thanh, gợi hình, vừa diễn tả đ−ợc tâm t−, tình cảm của nhân vật. Những từ láy đ−ợc Hồ Biểu Chánh sử dụng trong tiểu thuyết th−ờng xuất hiện d−ới dạng phó từ, động từ. Trong khi sử dụng từ láy, để tăng thêm tính hình t−ợng, sinh động và cụ thể trong việc miêu tả ngoại hình, tâm lý, tính cách nhân vật, Hồ Biểu Chánh đã dùng những từ láy t− điệp âm. Lớp từ này xuất hiện với tần số khá cao, ch−a xuất hiện trong các từ điển tiếng Việt phổ thông nh− lu ầm lu ì, ní na ní nần, rấm ra rấm rít, lao nhao lố nhố, dấp dính dấp d−ởi, hun trơ hút trất, xăng văng xéo véo, xí xô xí xào, lăng nhăng lít xít, bù xa bù xích, chộn rộn chàng ràng, chết ngắt chết ngỏm, bè hè bặc hặc, lững thững lờ thờ… Những từ láy nói trên thể hiện rất rõ tính chất ph−ơng ngữ Nam Bộ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Đ−a từ địa ph−ơng và lớp từ của khẩu ngữ vào sáng tác văn học là một đặc điểm chung của văn xuôi quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Đây là một thao tác tất yếu của văn học giai đoạn giao thời từ trung đại chuyển sang hiện đại. Văn học hiện đại Việt Nam đã dần dần từ bỏ cách sử dụng ngôn ngữ sang trọng, đài các, khuôn mẫu của văn học trung đại để đi đến cách viết tự nhiên, bình dị, gần gũi với nhân dân lao động. Cùng với nhiều nhà văn khác, Hồ Biểu Chánh đã khai thác tối đa lớp từ khẩu ngữ Nam Bộ, không những dùng trong lời đối thoại của các nhân vật mà cả trong lời thuật truyện, mô tả của tác giả. Sự xuất hiện của lớp từ khẩu ngữ đã làm cho tiểu thuyết của ông có sự gần gũi, quen thuộc với công chúng bình dân. Các nhà nghiên cứu đã lập bảng kê những từ ngữ th−ờng dùng trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh để độc giả “có đ−ợc một nhịp cầu ngôn ngữ với quá khứ và có thể phát triển nó cho t−ơng lai” [2, 305]. Do ông sáng tác nhiều mà dấu ấn ông để lại trên ph−ơng diện này có đậm hơn so với những nhà văn Nam Bộ cùng thời. Hiển nhiên, không thể không xem đây là một đóng góp quan trọng của Hồ Biểu Chánh đối với văn học (tr−ớc hết là tiểu thuyết) đầu thế kỷ XX, dẫu rằng trong việc sử dụng lớp từ khẩu ngữ, Hồ Biểu Chánh ch−a đạt tới sự thành thục khéo léo nh− Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân sau này… 2. Vận dụng sáng tạo thành ngữ, tục ngữ Hồ Biểu Chánh khi viết tiểu thuyết đã dùng khá nhiều thành ngữ, tục ngữ. Nhà văn vận dụng thành ngữ, tục ngữ một cách uyển chuyển, linh hoạt, sáng tạo. Nhờ vậy, việc ghi lại cuộc sống của ng−ời dân Nam Bộ trong tiểu thuyết của ông vừa hình t−ợng, vừa khái quát, hấp dẫn và có sức thuyết phục cao. Hồ Biểu Chánh có nhiều cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ… Có khi nhà văn sử dụng thành ngữ ở dạng nguyên bản, không thay đổi, thêm bớt. Ví dụ: mẹ góa Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 106 con côi, quả báo nhãn tiền, no cơm ấm áo, trôi sông lạc chợ, đền ơn đáp nghĩa, n−ớc đổ lá môn, khắc cốt ghi tâm, an c− lạc nghiệp, tan x−ơng nát thịt, ngậm đắng nuốt cay… Kết cấu của thành ngữ vốn “chặt chẽ nh− nắm đấm”, do vậy, khi sử dụng nó, ng−ời ta th−ờng dùng liền một khối. Nh−ng trong nhiều tr−ờng hợp, Hồ Biểu Chánh lại sử dụng khá biến hoá. Ông tách thành ngữ ra từng bộ phận, đảo vị trí hoặc xen vào những yếu tố phụ để nhấn mạnh ý nghĩa của thành ngữ, tục ngữ. Chẳng hạn: - “Họ cũng liệu cơm mà gắp mắm chứ” (Một đời tài sắc). - “Từ ấy về sau vợ chồng Quảng Giao ở với nhau mặt càng yêu lòng càng mến, tình càng mặn, nghĩa càng nồng, trên d−ới thuận hoà, trong êm ngoài ấm” (Một chữ tình). - “Hay là khiến cho gái hồng nhan phải dày gió dạn s−ơng” (Ngọn cỏ gió đùa). - “Đàm Tự Chấn nghe nói chuyện đó thì ông giận, Kim Diệp làm con gái không biết trọng danh tiết, cha mẹ không định mà giám trộm nhớ thầm yêu con trai, bởi vậy ông cau mày xụ mặt” (Ngọn cỏ gió đùa). Một điểm mới của Hồ Biểu Chánh khi dùng thành ngữ là nhà văn đã cải biến cách phát âm đối với nhiều từ trong đó để chúng phù hợp với ph−ơng ngữ Nam Bộ (cũng có thể trong ph−ơng ngữ này, nhiều thành ngữ đã có hình thức nh− thế, giờ đ−ợc ông sử dụng lại - dù sao đây cũng cần đ−ợc xem là một sự lựa chọn hợp lý). Một số thành ngữ đ−ợc cải biến cách phát âm: tu nhơn tích đức (tu nhân tích đức), nhắm mắt đ−a chơn (nhắm mắt đ−a chân), phú quý vinh huê (phú quý vinh hoa), tâm đầu ý hiệp (tâm đầu ý hợp), cải tử huồn sinh (cải tử hoàn sinh)… Không chỉ cải biến cách phát âm đối với nhiều từ trong thành ngữ, Hồ Biểu Chánh còn tiến hành sự thay thế từ vựng: ghẹo nguyệt giỡn hoa (ghẹo nguyệt trêu hoa), nghèo cho sạch, rách cho thơm (đói cho sạch, rách cho thơm), chuột sa hũ nếp (chuột sa chĩnh gạo), xót ruột bầm gan (bầm gan tím ruột), dàu s−ơng gội nắng (dầm s−ơng dãi nắng), góp gió làm bão (góp gió thành bão), ham phú phụ bần (tham phú phụ bần), nâng khăn sửa tráp (nâng khăn sửa túi)… Có thể nói, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong văn học Việt Nam truyền thống mới chỉ diễn ra ở thơ và truyện thơ Nôm. Tiểu thuyết Việt Nam trung đại chủ yếu viết bằng chữ Hán, các tác giả không thể sử dụng tục ngữ, thành ngữ Việt. Đến đầu thế kỷ XX, tục ngữ, thành ngữ đã đ−ợc dùng trên địa hạt văn xuôi chữ quốc ngữ. Hồ Biểu Chánh là một trong những ng−ời đã vận dụng thành công tục ngữ, thành ngữ vào sáng tác của mình. 3. Tạo phong cách khẩu ngữ cho câu văn Việc sử dụng nhiều từ của khẩu ngữ và từ địa ph−ơng trong tác phẩm là một trong những điều kiện quan trọng giúp nhà văn có đ−ợc sự cách tân ở câu văn. Bàn về văn phong của Hồ Biểu Chánh, Thanh Lãng cho rằng ông là ng−ời đầu tiên làm cách mạng vì đã đập vỡ khuôn khổ văn ch−ơng đài các đ−ơng thời. Nhận định này là đúng nếu đem so sánh văn Hồ Biểu Chánh với lối văn trang trọng của các tác giả miền Bắc lúc bấy giờ. Đây cũng chính là một cách Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 107 phản ứng của Hồ Biểu Chánh đối với những hình thức ngôn ngữ vốn có trong văn học cổ, th−ờng gắn liền với chữ Hán, có nhiều điển tích, điển cố mang tính −ớc lệ và là cách thể hiện ý thức dân tộc trong việc bảo vệ tiếng nói dân tộc chống lại âm m−u Pháp hoá của thực dân Pháp. Tr−ớc khi tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ra đời, các tác giả của Nam Bộ đã bắt đầu có ý thức viết câu văn xuôi gần với khẩu ngữ hàng ngày của nhân dân. Các câu sử dụng phần lớn là từ thuần Việt khá nôm na. Nhờ báo chí phát triển, phong trào dịch thuật tiểu thuyết ph−ơng Tây ngày càng rầm rộ nên câu văn xuôi tiếng Việt không ngừng thay đổi theo chiều h−ớng diễn đạt rõ ràng, đầy đủ và chính xác hơn. Hồ Biểu Chánh đã viết những câu văn giản dị, tự nhiên, bình dân để thể hiện sắc nét hơn tính cách bộc trực, mạnh mẽ, đôn hậu, thẳng thắn, “ăn mặn nói ngay”, nghĩ sao nói vậy, không che đậy, ngụy trang… của con ng−ời Nam Bộ. Một ví dụ tiêu biểu là đoạn đối thoại giữa Ba Thời với chồng: - “Ban đầu má nó hỏi: - Mấy năm nay mình đi làm ăn khá hay không? - Sao lại không khá. - Khá sao không về, bỏ tôi ở nhà khổ hết sức vậy? - Về làm giống gì? - Nh− mình đi mình tính không về, thời hồi đó dắt tôi đi theo, chớ sao lại bỏ tôi l−u vong ở nhà vậy. - Mầy ở nhà s−ớng hòng chết, còn ức nỗi gì? - Mình đừng có nói vậy. S−ớng giống gì? Tôi biết hết; mình mắc dắt con vợ bé bên Cần Đ−ớc đi với mình, nên không chịu dắt tôi đi chớ gì. - ừ, tao dắt vợ bé đi đa, mầy làm sao tao? - Nói chuyện mà nghe vậy chớ ai làm sao mình đ−ợc. - Tao đi, mầy ở nhà có đ−ợc một đứa con, còn ức hiếp gì nữa mà nói” (Cay đắng mùi đời). Có thể nói, nếu Tr−ơng Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của còn dò dẫm b−ớc đi với những câu văn xuôi quốc ngữ mộc mạc, thô kệch, nếu Nguyễn Trọng Quản còn ng−ợng nghịu khi vận dụng kỹ thuật viết tiểu thuyết theo lối Tây ph−ơng thì Hồ Biểu Chánh đã có những b−ớc đi vững vàng, vừa Tây hoá kỹ thuật viết văn, vừa bảo tồn sắc thái ngôn ngữ địa ph−ơng, dân tộc. Những cố gắng cách tân của ông đã đ−a ngôn ngữ đậm phong cách khẩu ngữ trở thành ngôn ngữ văn ch−ơng. 4. Bảo l−u những mặt tích cực của câu văn biền ngẫu Chịu ảnh h−ởng của tiểu thuyết cổ điển, Hồ Biểu Chánh nhiều lần sử dụng câu văn biền ngẫu. Nhà văn đã tạo nên cách diễn đạt súc tích, kiệm lời, có nhịp điệu cân đối, tạo nên vẻ đẹp đối xứng hài hoà, phù hợp với thẩm mỹ ph−ơng Đông. Hồ Biểu Chánh sử dụng câu văn biền ngẫu ở ba khía cạnh chính là: tả cảnh, khắc họa ngoại hình nhân vật và thể hiện tâm trạng nhân vật. Những lời văn có đối, có vần tự nhiên, l−u loát là một trong những yếu tố tạo ra sức hấp dẫn của tác phẩm Hồ Biểu Chánh. Đọc tiểu thuyết của ông, ta gặp những câu văn tả cảnh, tả vật, sự việc nghe rất êm đềm, du d−ơng. Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 108 - “Gió thổi hiu hiu, trăng soi vằng vặc, hoa đơm chớm nở, lá giũ lào xào. Trăng chào hoa trăm đoá hữu duyên, hoa mừng trăng một vừng tỏ rạng” (Đoá hoa tàn). - “ở chung quanh chợ Tân Châu nhà nào cũng sửa soạn đốt đèn sập cửa, ng−ời lo ôm củi vào bếp, kẻ lo đuổi gà vào chuồng, đầu này inh ỏi giọng mẹ hát ru con, đầu nọ ngâm nga tiếng học trò đọc sách” (Chúa tàu Kim Quy). Hồ Biểu Chánh đã sử dụng những câu văn cầu kỳ, trau chuốt để miêu tả ngoại hình nhân vật, chẳng hạn: “Một ng−ời mỹ nữ, chừng m−ời tám, m−ời chín tuổi thủng thẳng b−ớc ra, mình mặc một bộ đồ lụa trắng, chơn mang một đôi dép da đen, môi đỏ nh− thoa son, da trắng nh− dồi phấn, mặt sáng rỡ nh− hoa t−ơi, tóc láng m−ớt nh− huyền giồi” (Đoá hoa tàn). Ngay cả khi miêu tả tâm trạng nhân vật, lời văn trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh cũng nhịp nhàng đăng đối, lên bổng xuống trầm. Ví dụ: - “Có nhiều khi canh khuya trò chuyện, có nhiều lúc d−ới nguyệt nhìn nhau, trai bát ngát lòng vàng, gái ngẩn ngơ dạ ngọc, sóng tình dồi dập, biển ái mênh mông, chàng không thể dằn lòng đ−ợc, muốn mở miệng ép liễu nài hoa” (Vì nghĩa vì tình). - “Thủ Nghĩa tay nắm chèo, chơn kềm lái, chí tang bồng khấp khởi với dòng xanh, nhớ chuyện cũ, tính đ−ờng đi, lòng ân oán chập chồng nh− non cả … Mắt trông trời cao ngậm ngùi nhớ ơn cha nghĩa mẹ, tai nghe sông bủa đau đớn thay mối thảm đoạn sầu, ngồi d−ới tàu mà lòng dạ ở Tân Châu, trong tàu chứa bạc hai ngàn nén, vàng hơn một ngàn thoi mà lòng ảo não khác chi ng−ời bạch thủ” (Chúa tàu Kim Quy). Lối văn biền ngẫu trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam thời kỳ đầu hay đ−ợc nhìn nhận một cách tiêu cực. Thật ra, tính thẩm mỹ của nó không phải là không có, nếu nó đ−ợc khảm một cách khéo léo vào giữa dòng văn diễn đạt theo lối tự nhiên, bình dị. Chính trong các sáng tác mẫu mực của Nguyễn Tuân sau này, câu văn biền ngẫu thỉnh thoảng vẫn trở về và gây đ−ợc mỹ cảm tốt. Tuy nhiên, nếu sử dụng quá nhiều câu văn biền ngẫu, tác phẩm dễ trở nên khuôn sáo, chú trọng vẻ đẹp hình thức réo rắt du d−ơng mà làm hại nội dung t− t−ởng và diễn tả sai lệch bản chất của hiện thực đ−ợc phản ánh. Có lẽ ý thức đ−ợc điều đó nên càng về sau, Hồ Biểu Chánh càng ít dùng câu văn biền ngẫu mà chú tâm trau dồi một lối văn hiện đại, bình dị. 5. Du nhập vốn từ ngoại lai Ngôn ngữ là một sản phẩm có tính xã hội, qua ngôn ngữ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, chúng ta sẽ thấy đ−ợc một xã hội Nam Bộ những thập niên đầu thế kỷ XX. Nam Bộ là vùng đất cuối cùng của đất n−ớc về phía Nam, nằm trọn vẹn trong l−u vực của sông Đồng Nai và sông Mê Kông. Ng−ời Việt đến khai phá vùng đất này vào khoảng thế kỷ XVI. Cuối thế kỷ XVIII, Mạc Cửu đem ng−ời Trung Quốc vào lập nghiệp ở Hà Tiên. Ng−ời Khơ me đến khai phá vùng này vào thế kỷ XVIII. Còn ng−ời Chăm thì đến định c− ở đây vào thế kỷ XIX. Nam Bộ lại là nơi đầu tiên chịu sự thống trị của ng−ời Pháp. Nh− vậy, nói đến nền văn hoá Nam Bộ là nói đến sự giao thoa văn hoá giữa hai Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 109 nền văn hoá ph−ơng Đông và ph−ơng Tây. Nam Bộ cũng là vùng văn hoá có nhiều tôn giáo tín ng−ỡng cùng đan xen tồn tại. Ngoài các tôn giáo lớn ở n−ớc ngoài du nhập vào nh− Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Hồi giáo, Nam Bộ còn có các tôn giáo tín ng−ỡng địa ph−ơng nh− Cao Đài, Hoà Hảo… Bằng ph−ơng tiện ngôn ngữ, Hồ Biểu Chánh đã xây dựng lên một xã hội giao thời với đầy đủ mọi hạng ng−ời trong xã hội, với những lối sống, cách sống, những tập tục của cả thôn quê lẫn thành thị Nam Bộ. Hồ Biểu Chánh đã ghi lại những cái hay, cái đẹp cũng nh− chỉ ra những mặt trái, sự xấu xa của xã hội. Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chúng ta đ−ợc sống lại với những khung cảnh, sinh hoạt hàng ngày của mọi tầng lớp ng−ời trong xã hội. Đó là những bác sỹ, văn sỹ, ký giả, thầy lang, thầy thuốc, thầy dây thép, thầy thông, thầy ký, ông cò, ông cò tàu, nhà buôn, thợ may, ng−ời bán rong, trẻ bán vé số, xếp ga, cai ngục, thầy bá, thầy t−ớng, biện lý, ch−ởng khế, mái chín, bác vật, chệc khách, chà và, cu ly, quan kinh lý, quan tr−ờng tiền, chánh bố, chánh tổng, ông phủ, tá điền, điền chủ, h−ơng bộ, h−ơng s−, h−ơng quản, cai tuần, chúa tàu, từng khạo, đà công, trạo phu, kẻ trộm, kẻ c−ớp, gái giang hồ… Trong quá trình viết tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã góp phần làm phong phú, làm giàu thêm cho vốn từ vựng của ngôn ngữ dân tộc. Đó là kết quả tự nhiên của sự giao l−u giữa các nền văn hoá. Hồ Biểu Chánh đã Việt hoá những từ ngữ n−ớc ngoài vào câu văn một cách linh hoạt. Đó có thể là những từ x−ng hô: toa, moa, mông xừ, ma đam, sốp phơ, đốc tơ, nị, ngộ, momcher, ma femme, khách, còm mi, chệc, chệc khách, chà Chetty, chà và, cặp rằn… Đó là những từ chỉ vật dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày: canô, cam nhông, cà ra hoách, cà vạt, đèn pha, hộp số, ghế tônê, ghế xa lông, giấy săng, location, măng sông, ma nhê tô, mề đay, mu soa, pyjima, su dê, tút xơ, bu ri, bê rê, bành tô, mề đay, đrap... Đó là những từ chỉ thức ăn, đồ uống, thuốc chữa bệnh: xúc xích, sô đa, sâm banh, sa bô chê, ram bon, pa tê, lave, ký ninh, măng, lu cu ma… Hồ Biểu Chánh cũng hay dùng một số từ thông dụng khác: bót, đíp lôm, đít cua, ríp lê, xẹt, lon ton, măng đa, séc, ma rông, mốt, nôte, phắt tơ, tơ nít, tút xo, vecni… Đọc tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, độc giả hiểu đ−ợc quá trình giao l−u, tiếp xúc giữa Việt Nam với các n−ớc láng giềng, các n−ớc trong khu vực và các n−ớc ph−ơng Tây trên bình diện ngôn ngữ, qua những từ ngữ ngoại nhập m−ợn từ Hán tự, Hoa ngữ truyền khẩu và Pháp ngữ phiên âm. Có thể nói, ngôn ngữ chính là ph−ơng tiện giao tiếp, thúc đẩy quá trình giao l−u văn hoá của các quốc gia. Hồ Biểu Chánh đã có đóng góp tích cực cho quá trình bảo tồn, phát huy văn hoá dân tộc, làm phong phú và giàu thêm hệ thống ngôn ngữ của ng−ời Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Nhìn chung, toàn bộ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là một bức tranh truyền thần bằng chữ hết sức sống động và chính xác về cuộc sống và phong tục của ng−ời dân Nam Bộ. Từ tâm lý, tính cách, diện mạo của nhân vật đến khung cảnh sinh hoạt, môi tr−ờng sống của con ng−ời, tất cả đều đ−ợc thể hiện qua những từ ngữ và cách nói rất riêng của nhân dân Nam Bộ. Ông không chỉ xác Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 1b-2007 110 lập đ−ợc chỗ đứng riêng cho mình trong lòng độc giả mà còn góp công rất lớn vào việc tạo nên truyền thống văn học riêng cho miền đất cực Nam của Tổ quốc. Truyền thống đó đã đ−ợc các nhà văn thế hệ sau nh− Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi, Sơn Nam, Lê Văn Thảo, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc T−, Trầm Nguyên ý Anh, Nguyễn Thị Diệp Mai… tiếp nối làm nên những tác phẩm đặc sắc đ−ợc công chúng cả n−ớc quan tâm, tìm đọc. Ông, cùng với họ, đã thực sự cho thấy vai trò, vị trí của văn học Nam Bộ ở quá khứ cũng nh− hiện tại là rất quan trọng. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Khuê, Chân dung Hồ Biểu Chánh, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1998. [2] Trang Quan Sen, Phan Tấn Tài, Nguyễn Văn Nở (chủ biên), Hồ Biểu Chánh - ng−ời mở đ−ờng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Văn nghệ, TP. Hồ Chí Minh, 2006. [3] Website Summary Language distinctions of Ho Bieu Chanh’s novels In this article, we’d like to mention language distinctions of Ho Bieu Chanh’s novels: propitious use of dialect and spoken language; flexible and creative use of idioms and proverbs; spoken language style used in sentences; strong point’s reservation on parallel constructions; borrowed words imported. These distinctive features create Ho Bieu Chanh’s own style in his novels, affirming his contribution to the establishment and development of modern Vietnamese novels. (a) Cao học 12 Văn, Tr−ờng Đại học Vinh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf13nguyenquangtuan8tr103_110_091105152720_9841.pdf
Luận văn liên quan