Về cơ cấu chi phí đầu tư của mô hình lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp và mô
hình tôm sú, chi phí con giống tôm càng xanh chiếm tỉ lệ cao nhất 69,2% ở mô
hình kết hợp (Hình 4.6), và 44% ở mô hình tôm sú (Hình 4.8). Như vậy, để
nuôi có hiệu quả thì đòi hỏi tỷ lệ sống của tôm cá nuôi cao. Riêng đối với mô
hình kết hợp có lẽ chỉ nên trồng lúa kết hợp với thả cá mà không nên thả tôm
càng xanh do chi phí sản xuất cao và thời gian nuôi ngắn ở vùng nhiễm măn.
Thu nhập từ tôm càng xanh và cá lần lượt là 1.419.000 đồng/ha/vụ và 800.000
đồng/ha/vụ, tương ứng là 14% và 8%/tổngthu.
40 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3745 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá khía cạnh kinh tế-kỹ thuật của hai mô hình lúa-tôm càng xanh-cá kết hợp và tôm sú nuôi trong mùa mưa ở tỉnh Sóc Trăng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ở Bangladesh nuôi tôm càng xanh
trong ruộng lúa bằng giống tự nhiên do thủy triều đưa vào năng suất tôm cá
thu được từ 280-450 kg/ha (Haroom và Karim, 1998 - trích dẫn bởi Đoàn Văn
Vũ, 2004). Ở Israel nuôi ghép tôm càng xanh với cá rô phi và cá chép với mật
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
4
độ 0,5-1,5 con/m2 cho năng suất 220- 780 kg/ha/vụ, trọng lượng tôm đạt 45-90
g/con (Cohen, 1984 được trích dẫn bởi Phạm Minh Truyền, 2003). Còn ở
Philippines canh tác theo mô hình này năng suất đạt 150-180 kg/ha/vụ
(Guerrero, 1982 được trích dẫn bởi Phạm Minh Truyền, 2003).
2.1.1.2 Mô hình lúa-cá
Mô hình lúa-cá được xem là một phương thức lý tưởng cho việc sử dụng đất
do năng suất lúa và cá được tạo ra từ mô hình này (Coche, 1969 – trích dẫn
bởi Nguyễn Văn Hảo và ctv., 2001). Theo Sevileja (1986) được trích dẫn bởi
Padmanabhan, 2001 cho rằng, mô hình canh tác lúa-cá kết hợp đã làm tăng
thêm khoảng 40 % thu nhập cho người nông dân so với mô hình độc canh cây
lúa. Phương thức canh tác này đang được phát triển ở nhiều quốc gia. Trong
đó, Indonesia là nước có diện tích canh tác lúa giành cho mô hình này chiếm
cao nhất so với các nước trong khu vực Châu Âu (trích dẫn bởi Nguyễn Văn
Hảo và ctv., 2001) Ở Bangladesh, có hơn 1/3 diện tích cả nước dùng cho việc
trồng lúa (11,5 triệu ha), nuôi ghép các loài cá (chép, trôi ấn độ, mè trắng)
trong ruộng lúa, năng suất cá lúa đạt lượt là 590 kg/ha/năm và 5.828
kg/ha/năm, lợi nhuận mang lại từ mô hình này là 50.504 TK (Roy, 2001).
Bằng cách nuôi các loài tôm, cá kết hợp trong ruộng lúa, quá trình kiếm ăn của
chúng làm tăng quá trình trao đổi khí của rễ lúa, cá ăn các loài sâu, rầy, cỏ dại
và các loại thức ăn tự nhiên có trong ruộng (Lettle, 1987 - được trích dẫn bởi
Nguyễn Thanh Phương và ctv., 2001). Theo Rothius et al., 1999 cho rằng cá
có khả năng diệt hiệu quả từ 54% đến 97% cỏ dại trên mặt ruộng và diệt 92%
đến 100% các loại cỏ ngầm và cỏ nổi trên mặt nước. Bên cạnh đó, việc nuôi
ghép cá mè vinh, rô phi và cá chép có khả năng làm giảm ít nhất 93% lượng
sâu phao (case worm), giúp làm giảm đáng kể lượng sâu trưởng thành và phần
trăm thiệt hại do chúng gây ra so với mô hình không thả cá (Vroman et al.,
1998 - được trích dẫn bởi Đặng Kiều Nhân và ctv., 2001).
Trung tâm Học liệ ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
5
2.1.2 Trong nước
2.1.2.1 Tôm càng xanh
Việt Nam là một trong 13 nước có tôm càng xanh phân bố tự nhiên với sản
lượng lớn hơn một số nước trong khu vực Đông Nam Á. Chúng phân bố chủ
yếu ở Nam Bộ, tập trung ở lưu vực sông Hậu, sông Tiền (Dương Tấn Lộc,
2001).
Do nguồn giống tôm càng xanh tự nhiên ngày càng cạn kiệt nên việc phát triển
nghề nuôi tôm càng xanh giống nhân tạo là một xu hướng tất yếu. ĐBSCL
được coi là vùng có diện tích nuôi tôm càng xanh lớn nhất nước. Trong năm
2002, tổng diện tích và sản lượng tôm nuôi đạt 10.000 ha và 1.400 tấn. Diện
tích và sản lượng tôm càng xanh tiếp tục gia tăng và đạt con số 5.680 ha và
2.760 tấn trong năm 2005 (Lê Xuân Sinh và ctv., 2006 - trích dẫn bởi Trương
Hoàng Minh, 2006). Theo số liệu gần đây, sản lượng tôm càng xanh nuôi của
cả nước ước đạt 6.400 tấn, trong đó các tỉnh Nam Bộ chiếm 6.012 tấn trong
năm 2005 (Báo con tôm số 121 - tháng 2/2006).
Theo kế hoạch của Bộ Thủy sản (2006), diện tích nuôi tôm càng xanh của cả
nước sẽ đạt 32.000 ha và sản lượng tương ứng đạt 60.000 tấn vào khoảng 2010.
Riêng các tỉnh ĐBSCL, diện tích nuôi trong năm 2005 và kế hoạch 2006 được
thống kê trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1: Diện tích nuôi tôm càng xanh ở các tỉnh ĐBSCL trong năm 2005 và
kế hoạch phát triển năm 2006.
Tỉnh Đơn vị 2005 Kế hoạch 2006
Long An ha 422 500
Tiền Giang ha 38 -
Vĩnh Long ha 500 -
Đồng Tháp ha 250 500
An Giang ha 588 927
Cần Thơ ha 291 500
Bến Tre ha 2000 2100
(Nguồn: www.mekongfish.net.vn)
Nghiên cứu trước đây cũng cho thấy, giống tôm thả trong ruộng lúa hầu hết có
nguồn gốc ngoài tự nhiên trọng lượng 5-10 g/con, mật độ thả từ 0,5-2 con/m2.
Tôm không được cung cấp thức ăn hoặc bổ sung thêm cám, tấm, bột mì, cá
bằm cho ăn một lần/ngày, lượng thức ăn chiếm từ 1-3 % trọng lượng đàn tôm.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
6
Ở Cần Thơ năng suất tôm biến động tùy nơi, ở Phụng Hiệp đạt từ 100-200
kg/ha, ở Thốt Nốt đạt 268 kg/ha (Trần Thị Thanh Hiền và ctv., 1998). Ở Tiền
Giang tôm càng xanh được nuôi trong ruộng lúa sử dụng giống tự nhiên và
thức ăn chủ yếu là cá tạp, đạt năng suất 200-300 kg/ha/vụ (Sở Thủy Sản Tiền
Giang, 1999). Còn ở Trà Vinh cũng với mô hình trên, năng suất đạt 150 kg/ha
(Sở Thủy Sản Trà Vinh, 1999). Năm 2002, Hội nghị báo cáo khoa học về tôm
càng xanh nuôi trong ruộng lúa ở tỉnh Trà Vinh cho thấy với mật độ thả nuôi
2-3 tôm giống/m2 cho ăn thức ăn công nghiệp và tươi sống kết hợp, sau 6
tháng nuôi đạt năng suất trung bình 159 kg/ha/vụ, tỷ lệ sống 20 %, khối lượng
bình quân 43,2 g/con (Sở Khoa Học và Công Nghệ tỉnh Trà Vinh, 2002).
Nghề nuôi tôm càng xanh phổ biến ở các tỉnh An Giang, Cần Thơ, Đồng
Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh với các mô hình nuôi khác nhau bao gồm
nuôi tôm trong ruộng lúa, nuôi tôm trong mương vườn, nuôi tôm đăng quầng,
nuôi bán thâm canh, thâm canh và nuôi trong ao đất. Trong đó, mô hình nuôi
tôm kết hợp với lúa đạt năng suất bình quân 184 kg/ha/vụ; nuôi tôm luân canh
với lúa đạt 686 kg/ha/vụ; nuôi trong ao đạt 1,2 tấn/ha/vụ và nuôi đăng quầng
trên sông đạt bình quân 4,12 tấn/ha/vụ (Vũ Nam Sơn và ctv., 2003). Tại Châu
Thành - Cần Thơ nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa bằng giống nhân tạo, cỡ
giống dài 1,5 cm, nặng trung bình 0,045 g/con, thời gian nuôi 7 tháng, năng
suất 180-200 kg/ha/vụ (Lê Thị Minh Tâm, 2002). Ở Ô Môn nuôi tôm trong
ruộng lúa bằng giống nhân tạo, cỡ giống dài 3-5 cm/con, mật độ thả 1-2
con/m2, năng suất tôm nuôi đạt 90-157 kg/ha/vụ (Trần Tấn Huy, 2002). Theo
Phạm Minh Truyền (2003), mô hình nuôi tôm càng xanh kết hợp trồng lúa ở
Trà Vinh, với mật độ 2 và 3 con/m2 đạt năng suất tương ứng là 150 kg/ha/vụ
và 163 kg/ha/vụ sau 6 tháng nuôi. Trọng lượng và tỷ lệ sống tôm bình quân
tương ứng là 53,6 g/con và 14,1% (ở 2 con/m2), 46,3 g/con và 12,4% (ở 3
con/m2). Ngoài ra, theo báo cáo của Nguyễn Văn Hạnh (2001), tôm càng xanh
trong ruộng lúa ở Trà Vinh với mật độ 2,5-5 con/m2 cho năng suất từ 42-375
kg/ha, với tỷ lệ sống từ 7,5-60%. Báo cáo gần đây cũng cho thấy tiềm năng
của tôm càng xanh nuôi theo các mô hình khác nhau cũng cho năng suất khả
quan. Theo Lê Quốc Việt (2005), năng suất tôm càng xanh nuôi trong ruộng
lúa và mương vườn ở tỉnh Vĩnh Long tương ứng đạt 150-350 kg/ha/vụ (mật độ
1-4 con/m2) và 300-537 kg/ha/vụ.
Về khía cạnh kinh tế, nhiều nghiên cứu cho thấy rằng việc nuôi cá, tôm kết hợp
với lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với độc canh cây lúa. Theo
nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv. (1999) - được trích dẫn bởi
Trương Hoàng Minh (2006), năng suất cá bình quân trong mô hình lúa cá trong
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
7
năm 1996-1997 đạt 429 kg/ha/vụ, và năng suất cao hơn ở những năm sau đó
(801 kg/ha/vụ). Tác giả cũng báo cáo rằng, sự gia tăng năng suất cá nuôi là do
thay đổi về cơ cấu thành phần loài và mật độ cá thả nuôi, trong đó, tôm càng
xanh được đánh giá là đối tượng có giá trị kinh tế cao nhất so với các loài thủy
sản nước ngọt nuôi kết hợp trong ruộng lúa. Theo báo cáo gần đây cho thấy, lợi
nhuận bình quân đạt 8,3 triệu đồng/ha.vụ. Đa số các hộ (77% số hộ điều tra) có
lợi nhuận từ 1,4 đến 49 triệu đồng/ha/vụ (Lê Quốc Việt, 2005).
2.1.2.2 Tôm sú
Tôm sú (Penaeus monodon) là loài quan trọng nhất và chiếm ưu thế trong các
mô hình nuôi thủy sản ven biển Việt Nam. Đặc biệt ĐBSCL chiếm 80-85%
tổng diện tích 70-75% sản lượng tôm nuôi của cả nước (hình 2.1a & b). Trong
năm 2003, khoảng 460.000 ha diện tích được sử dụng cho nuôi tôm với sản
lượng đạt 223.000 tấn (Bộ Thủy sản, 2004). Sản lượng tôm nuôi vẫn tiếp tục
gia tăng và đạt 330.200 tấn trong tổng sản lượng 1.437.400 tấn sản phẩm thủy
sản Việt Nam năm 2005 (Bộ Thủy sản, 2006). Năng suất tôm nuôi đạt 250-
300 kg/ha/vụ đối với mô hình quảng canh cải tiến, 2.5-3 tấn/ha/vụ ở mô hình
bán thâm canh và 5-7 tấn/ha/vụ đối với mô hình thâm canh (Bộ Thủy sản,
2004 & 2005).
Theo Bộ Thuỷ sản (2003), trong tổng diện tích nuôi tôm của ĐBSCL (476.528
ha) thì Cà Mau (224.000 ha), Bạc Liêu (109.258 ha) và Sóc Trăng (51.044 ha)
là các Tỉnh có diện tích nuôi lớn nhất, chiếm tỷ lệ đáng kể nhất so với các
Tỉnh ven biển khác trong vùng Đồng Bằng Nam Bộ (Hình 2.2).
0
100000
200000
300000
400000
500000
600000
D
iệ
n
tíc
h
(h
a)
1991 1994 1999 2000 2001 2002 2003
Việt Nam
ĐBSCL
0
20,000
40,000
60,000
80,000
100,000
120,000
140,000
160,000
180,000
200,000
Sả
n
lư
ợn
g
(tấ
n)
1991 1994 1999 2000 2001 2002 2003
Việt Nam
ĐBSCL
Hình 2.1b. Sản lượng tôm nuôi của
ĐBSCL và Việt Nam, 2003
Hình 2.1a. Diện tích nuôi tôm nước lợ
của ĐBSCL và Việt Nam, 2003
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
8
Nghề nuôi tôm sú ở ĐBSCL phát triển không chỉ có các mô hình nuôi chuyên
tôm như quảng canh cải tiến, bán thâm canh-thâm canh mà còn có các mô hình
nuôi kết hợp như rừng-tôm, rừng-tôm-cua; và mô hình tôm-lúa luân canh. Bên
cạnh đó, mô hình tôm-cá luân canh cũng đang được phát triển gần đây, do sự
chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ canh tác lúa một vụ không hiệu quả sang nuôi
trồng thủy sản đã làm cho diện tích canh tác tôm-lúa luân canh ở các Tỉnh Cà
Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, … Điều này làm cho diện tích nuôi tôm-lúa luân
canh gia tăng đáng kể (Hình 2.3).
Riêng đối với mô hình tôm-lúa luân canh, đây là mô hình canh tác đã được
đánh giá là bền vững về khía cạnh kinh tế và môi trường (ACIAR, 2003).
Theo Trương Hoàng Minh và ctv. (2003), chất lượng nước trong ruộng nuôi
tôm (ở mô hình tôm-lúa luân canh) hoàn toàn phù hợp cho sinh trưởng và phát
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
ha
Soc Trang Bac Lieu Ca Mau Long An Kien Giang
Provinces
1999
2000
2001
Hình 2.3. Sự phát triển mô hình tôm-lúa luân canh ở các
Tỉnh ven biển ĐBSCL
23%
11%
9%
6% 5%
46%
Cà Mau
Bạc Liêu
Kiên Giang
Sóc Trăng
Bến Tre
Các Tỉnh Khác
Hình 2.2: Tỷ lệ diện tích nuôi tôm giữa các
Tỉnh của ĐBSCL, 2003
Trung tâm Học liệu ĐH Cầ Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
9
triển của tôm nuôi. Tăng trưởng đặc biệt đạt 0,23 g/ngày và năng suất 392
kg/ha/vụ. Nghiên cứu khác về ảnh hưởng của việc thay nước lên năng suất
tôm nuôi theo mô hình tôm-lúa luân canh cũng đã được thực hiện gần đây.
Theo Trần Thị Tuyết Hoa và ctv. (2003), áp dụng biện pháp ít thay nước trong
mô hình tôm-lúa luân canh sẽ cho năng suất (132,5 kg/ha/vụ) cao hơn so với
thay nước thường xuyên (10 kg/ha/vụ). Điều này cho thấy tính rủi ro có liên
quan đến tần xuất thay nước cho ruộng nuôi tôm.
Theo báo cáo của Trần Thanh Bé (2002), đang có xu hướng tích tụ ruộng đất
và diện tích của nông hộ tăng trong những năm qua và đạt 1,82 ha/hộ ở Mỹ
Xuyên và 1,70 ha/hộ ở Giá Rai. Mật độ thả nuôi tôm sú tăng dần lên từ 0,72-
1,4 con/m2 ở Giá Rai và từ 1,58-2,34 con/m2 ở Mỹ Xuyên. Ngoài ra một số hộ
thử nuôi theo phương thức bán thâm canh hoặc thâm canh với mật độ rất cao
10-15 con/m2 nhưng chưa thành công đồng đều. Tỷ lệ sống bình quân của tôm
sú rất thấp từ 14,5-22,1% ở Mỹ Xuyên và Giá Rai chỉ 1,3-4,25%, nguyên nhân
là do chất lượng tôm giống kém và dịch đốm trắng gây chết tôm hàng loạt.
Ngoài ra, theo báo cáo của Thiều Lư (2001), tỷ lệ sống của tôm nuôi trong mô
hình tôm-lúa luân canh ở các tỉnh ĐBSCL giảm theo sự gia tăng mật độ nuôi
(Bảng 2.2).
Bảng 2.2: Mật độ và tỷ lệ sống tôm nuôi trong mô hình tôm-lúa luân canh ở
ĐBSCL (Thiều Lư, 2001)
Huyện Năng suất (kg/ha/năm) Tỷ lệ sống (%)
Mật độ 6 m -2 6 m -2
Mỹ Xuyên
(Sóc Trăng)
295 427 458 31.1 22.4 16.0
Giá Rai
(Bạc Liêu)
272 270 140 23.6 15.8 10.4
Phước Long
(Bạc Liêu)
232 459 - 33.3 19.8 13.1
Đầm Dơi
(Cà Mau)
139 304 267 15.7 10.4 6.9
Trung bình 234,5 365 288,3 25,9 17,1 11,6
Khi phân tích về khía cạnh kinh tế của mô hình tôm-lúa luân canh, theo báo
cáo của Thiều Lư (2001) cho thấy, tỷ suất lợi nhuận (B:C) của vụ nuôi tôm
bình quân là 170%, một vài trường hợp đặc biệt có thể đạt 400% (Trương
Hoàng Minh và ctv., 1999). Nhìn chung, tỷ suất lợi nhuận của vụ nuôi tôm
thấp hơn so với trồng lúa (230%) nhưng lợi nhuận mang lại từ vụ nuôi tôm cao
hơn nhiều so với trồng lúa (2,4 lần). Tuy nhiên, chi phí đầu tư cho vụ nuôi tôm
cao gấp 9,3 lần so với trồng lúa (Nguyễn Văn Vượng, 2001 được trích dẫn bởi
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
10
Trương Hoàng Minh, 2006) . Bên cạnh đó, nếu tăng mật độ nuôi và mức độ
đầu tư cho vụ nuôi tôm thì tỷ lệ sống tối thiểu để đạt ngưỡng hoà vốn là 8%
đối với nuôi mật độ thấp và không cho ăn) và 17% đối với mô hình nuôi tôm
mật độ cao và có cho ăn (Brennan et al., 1999).
2.2 Tình hình nuôi tôm của tỉnh Sóc Trăng
Sóc Trăng nằm cuối hạ lưu sông Hậu có bờ biển dài 72 km. Điều kiện tự nhiên
đã phân chia Sóc trăng thành hai vùng sinh thái rõ rệt. Tỉnh Sóc Trăng gồm có
9 huyện, thị trong đó có 4 huyện, thị là vùng có hệ sinh thái mặn, lợ. Sóc
Trăng là một trong những tỉnh ở ĐBSCL có tiềm năng rất lớn để phát triển
nuôi trồng thủy sản với khoảng 100.000 ha (Sở Thủy Sản Sóc Trăng, 2005)
bao gồm các loại hình nuôi ao, mưong vườn, nuôi kết hợp trong ruộng lúa, kết
hợp trồng rừng và vùng nuôi chuyên tôm.
Trong năm 1998, diện tích nuôi tôm sú là 22.599 ha, đạt sản lượng 5.749,81
tấn, nhưng đến năm 2002 thì diện tích nuôi tôm sú là 34.160 ha, đạt sản lượng
16.100 tấn (Sở Thủy Sản Sóc Trăng, 2002). Đến năm 2005 diện tích nuôi thủy
sản là 55.199ha, trong đó diện tích nuôi tôm sú chính vụ là 43.311 ha (lấp vụ
8.792 ha), tổng sản lượng thu được từ nuôi và khai thác là 52.151 tấn, trong đó
tôm 37.200 tấn chiếm 71,3% (Hình 2.4a và b). Từ kết quả này cho thấy diện
tích và sản lượng nuôi thủy sản của Tỉnh trong năm 2005 tăng tương đối
nhanh gấp 1,9 lần diện tích và 6,5 lần sản lượng của năm 1998. Kim ngạch
xuất khẩu của Tỉnh cũng tăng lên và đạt 320 triệu USD (Sở Thủy Sản Sóc
Trăng, 2005).
Hình 2.4a. Diện tích nuôi tôm
của tỉnh Sóc Trăng qua các năm
Hình 2.4b. Sản lượng nuôi tôm của
tỉnh Sóc Trăng qua các năm
22.599
34.16
43.311
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
1998 2002 2005
Năm
ha
5.74981
16.1
37.2
0
5
10
15
20
25
30
35
40
1998 2002 2005
Năm
Ng
hì
n
tấ
n
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
11
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi đó, nghề nuôi thủy sản của Tỉnh
cũng gặp không ít những khó khăn làm hạn chế đến hiệu quả sản xuất như giá
vật tư, nhiên liệu, giá tôm xuống thấp, từ đó ảnh hưởng đến tình hình nuôi và
đời sống nhân dân ngày càng bấp bênh hơn, cụ thể là năm 2005 đã có 36,5%
số hộ nông dân nuôi thủy sản bi thua lỗ và huề vốn (Sở Thủy Sản Sóc Trăng,
2005). Từ đó càng cho thấy rủi ro về mặt kinh tế của nghề nuôi tôm là rất cao.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
12
CHƯƠNG III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ tháng 9/2005 đến 2/2006 tại ấp Trung Hoà, xã Gia
Hoà 1, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
3.2 Bố trí thử nghiệm
Hai ruộng nuôi (còn mặt trảng) có diện tích lần lượt là 10.000 m2/ruộng 1 và
4.500 m2/ruộng 2 được chọn làm thử nghiệm từ hai hộ dân ở địa bàn nghiên
cứu. Hai ruộng này đã nuôi tôm sú trong mùa khô trước khi làm thử nghiệm.
Ruộng 2 (4.500m2) tiếp tục nuôi tôm sú trong mùa mưa và ruộng 1 (10.000m2)
trồng lúa và thả tôm càng xanh, cá kết hợp vào mùa mưa. Trong thử nghiệm
này, mỗi ruộng được ngăn (bằng mê bồ) làm 2 lô thử nghiệm tương đương
nhau và tương ứng ở mỗi nghiệm thức. Thử nghiệm được bố trí hoàn toàn
ngẫu nhiên với hai nghiệm thức và hai lần lặp lại gồm:
Nghiệm thức 1: lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp
Các lô thử nghiệm có diện tích 5.000 m2/lô thử nghiệm, mức nước ở mương
bao là 1-1,2 m, mức nước trên mặt ruộng là 30-40 cm. Tôm càng xanh kích cỡ
2-2,5 cm được mua từ Cần Thơ và thả nuôi với mật độ 2 con/m2 (sau khi cấy
lúa 1 tháng). Cá mè vinh, cá trôi và cá mè trắng được mua ở Sóc Trăng, với
kích cỡ trung bình là 4,5 g/con. Mật độ cá thả nuôi là 0,4 con/m2, trong đó, cá
mè vinh chiếm 12,4%, cá trôi 43,8% và cá mè trắng 43,8% trong cơ cấu đàn
cá nuôi (cá được thả sau khi cấy lúa 2 tháng). Tôm càng xanh và cá nuôi trong
thử nghiệm không cho ăn, nước được thay thường xuyên do nhu cầu nước cho
canh tác lúa.
Nghiệm thức 2: tôm sú nuôi trong mùa mưa
Các lô thử nghiệm có diện tích là 2.250 m2/lô thử nghiệm. Mức nước trên mặt
ruộng là 40-50 cm và ở mương bao từ 1,2-1,5 m. Tôm sú PL15 với kích cỡ 13-
15 cm được mua và thuần đến 1‰ ở các trại giống trước khi thả. Mật độ thả là
2 con/m2, không cho ăn và ít thay nước trong quá trình thử nghiệm.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
13
Sơ đồ bố trí thử nghiệm:
Hình 3.2: Sơ đồ khu vực nghiên cứu
MẶT RUỘNG
CỐNG
MẶT RUỘNG
TẤM NGĂN BẰNG
MÊ BỒ
CỐNG
MƯƠNG BAO
M
Ư
Ơ
N
G
B
A
O
LÔ 2 LÔ 1
LÔ 2
LÔ 1
Hình 3.1a: Sơ đồ bố trí thử nghiệm NT
lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp.
Hình 3.1b: Sơ đồ bố trí thử nghiệm NT
tôm sú nuôi trong mùa mưa.
LƯỚI CƯỚC
LƯỚI CƯỚC
Địa điểm
nghiên cứu
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
14
3.3 Phương pháp thu và phân tích mẫu
Chỉ tiêu sinh trưởng: tôm sú, tôm càng xanh và cá các loại được thu theo
định kỳ 15 ngày/lần bằng cách chài ngẫu nhiên 5 điểm/lô thử nghiệm và cân
tổng trọng lượng của mỗi loài tôm, cá ở mỗi lô thử nghiệm.
Tỷ lệ sống tôm, cá: được xác định bằng cách chài ở 5 điểm khác nhau (đầu, giữa
và cuối ruộng) ở mương bao của mỗi lô thử nghiệm. Số tôm, cá được đếm sau
mỗi lần chài, đếm số chài và diện tích chài để tính được tỷ lệ sống theo công
thức:
Ni
SR(%) = --------- * 100
Nđ
Trong đó:
SR(%): tỷ lệ sống
Ni: số cá thể thu được
Ni = Ntb/diện tích trung bình chài*S (Ntb: số cá thể trung bình đếm
được qua các chài; S: diện tích ao nuôi)
Nđ: số cá thể ban đầu
Tăng trưởng tuyệt đối: Cân trọng lượng các cá thể tôm hoặc cá ở mỗi đợt thu
mẫu tại các lô thử nghiệm và ghi nhận số liệu. Tăng trưởng trọng lượng tuyệt
đối được tính theo công thức sau:
Wc-Wđ
DWG = ----------- * 100
Tc-Tđ
Trong đó:
DWG: tăng trưởng tuyệt đối (g/ngày)
Wđ, Wc trọng lượng đầu (g), trọng lượng cuối (g)
Tđ, Tc thời gian đầu , thời gian cuối
Ngoài ra, năng suất được tính dựa trên trọng lượng của từng đối tượng thu
hoạch ở mỗi nghiệm thức.
Bên cạnh đó, các số liệu về khía cạnh kinh tế của các nghiệm thức cũng được
ghi nhận trong suốt quá trình nghiên cứu.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
15
3.4. Phương pháp điều tra
Các khía cạnh kinh tế và kỹ thuật của hai mô hình tôm sú và lúa-cá cũng được
đánh giá thông qua việc điều tra ngẩu nhiên 22 hộ nuôi tôm sú trong mùa mưa
(mật độ dưới 5 con/m2) và 14 hộ canh tác lúa-cá cũng đã được thực hiện thông
qua phiếu phỏng vấn soạn sẳn, với kỹ thuật đánh giá nhanh nông thôn (Rapid
Rural Appraisal-RRA, FAO, 1996) trên địa bàn huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc
Trăng.
Các chỉ tiêu về kinh tế mô hình được tính toán như sau:
- Tổng chi = Chi phí cố định + Chi phí biến đổi
- Tổng thu = giá * trọng lượng thu hoạch được
- Lợi nhuận (đồng/ha) = tổng thu - tổng chi
- Tỷ suất lợi nhuận (B:C): lợi nhuận/tổng chi
3.5. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu về giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và vẽ đồ thị cũng như phân tích
ANOVA để so sánh giá trị trung bình của các biến về kinh tế và kỹ thuật của
hai mô hình được xử lý bằng phần mềm Excel.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
16
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1 Khía cạnh kinh tế và kỹ thuật của hai mô hình lúa-cá và tôm sú
4.1.1 Về khía cạnh kỹ thuật
Kinh nghiệm canh tác và mức độ thành công
Kết quả điều tra 14 hộ canh tác mô hình lúa-cá kết hợp (ít hơn so với dự kiến
20 hộ) và 22 hộ nuôi tôm sú trong mùa mưa cho thấy, mô hình canh tác lúa-cá
kết hợp đã có cách đây nhiều năm (>13 năm) (chiếm 92,9% số hộ điều tra)
(Bảng 4.1), vì thế người dân có rất nhiều kinh nghiệm canh tác theo mô hình
này và ít bị thua lỗ (92,9% số hộ thành công) (Bảng 4.2). Trong khi đó, mô
hình nuôi tôm sú trong mùa mưa chỉ mới phát triển trong vài năm gần đây, vì
thế kinh nghiệm nuôi tôm sú trong mùa mưa chưa nhiều và mức độ rủi ro cao
(31,8% số hộ thất bại) (Bảng 4.2).
Bảng 4.1. Kinh nghiệm canh tác theo hai mô hình lúa-cá và tôm sú
Số năm canh tác lúa từ 13 đến > 13 năm; số năm nuôi tôm sú từ 10 năm
Bảng 4.2. Mức độ thành công của hai mô hình lúa-cá và tôm sú
Mô hình Mức độ thành công Tần suất (n) Phần trăm (%)
1/4 1 7,1 Lúa-cá 4/4 13 92,9
1/4 7 31,8
2/4 8 36,4
3/4 3 13,6 Tôm sú
4/4 4 18,2
Mức độ thành công thấp đến cao nhất: 1-4
Lúa-cá Tần suất Phần trăm(%) Tôm sú Tần suất Phần trăm(%)
> 13 13 92.9 > 10 4` 18,2
13 1 7.1 5-9 12 54,5
< 5 6 27,3
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
17
Đặc điểm ruộng nuôi
Diện tích trung bình ruộng nuôi và mương bao lần lượt là 13.200 m2 và 2.000
m2 ở mô hình lúa-cá kết hợp; 15.000 m2 và 3.000 m2 ở mô hình nuôi tôm sú
trong mùa mưa. Mực nước trung bình là 1,2 m (mô hình lúa-cá) và 1,3 m (mô
hình nuôi tôm sú). Tỷ lệ diện tích mương bao ở mô hình lúa-cá và tôm sú lần
lượt là 14,4% và 20% (Bảng 4.3). Kết quả này khá cao so với nghiên cứu
trước đây. Theo Nguyễn Văn Hảo và ctv. (2001), tỷ lệ mương bao so với diện
tích ruộng ở Gò Công Đông, Gò Công Tây và Tân phước là 1-11%. Theo Lê
Xuân Sinh (1995), tỷ lệ năng suất lúa có khuynh hướng giảm khi tỷ lệ diện
tích mương bao vượt quá 20%/tổng diện tích canh tác.
Bảng 4.3. Diện tích, độ sâu và tỷ lệ mương bao của hai mô hình khảo sát
Cải tạo ruộng nuôi
Mô hình tôm sú nuôi trong mùa mưa, việc cải tạo ruộng nuôi cẩn thận hơn so
với mô hình lúa cá kết hợp, nghĩa là sên vét bùn đáy, bón vôi, phơi đáy ruộng,
lấy nước vào ruộng nuôi qua túi lọc để hạn chế trứng và cá tạp, diệt tạp bằng
dây thuốc cá và có bón phân gây màu nước.
Đối với mô hình lúa-cá kết hợp thì việc cải tạo ruộng nuôi đơn giản hơn nghĩa
là người dân chỉ tháo cạn nước, bừa và chan bằng mặt ruộng, không cày mặt
ruộng hay bón vôi, lấy nước vào ruộng không cần qua túi lọc.
Mùa vụ
Mô hình lúa-cá, mùa vụ canh tác bắt đầu từ tháng 6-12 dương lịch. Trong đó,
57,2% số hộ bắt đầu canh tác từ tháng 6 (DL), 21,4% số hộ canh tác từ tháng 7
và tháng 8 (DL) (Bảng 4.4). Kết quả trên cho thấy, phần lớn hộ canh tác từ
tháng 6 do mưa sớm và có nước ngọt trên sông. Bên cạnh đó, do đây là vùng
trũng và năm sâu trong nội địa nên nước mặn xâm nhập ít vào các tháng mùa
mưa. Những hộ canh tác vào tháng 7 & 8 (DL) có lẽ là do giống lúa thời gian
trưởng ngắn, hoặc có thể do thời gian nuôi tôm sú ở vụ trước kéo dài.
Trung bình
Đặc điểm ruộng nuôi
Lúa - cá Tôm sú
Diện tích ruộng (m2) 13.200±8.000 15.000±6.000
Diện tích mương bao (m2) 2.000±1.200 3.000±2.000
Độ sâu mực nước (m)
Phần trăm diện tích mương bao (%)
1,2±0,1
14,4
1,3±0,2
20
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
18
Mô hình tôm sú trong mùa mưa, mùa vụ nuôi tôm bắt đầu từ tháng 7-11 dương
lịch. Trong đó, 50% số hộ thả tôm từ tháng 7 (DL), 31,8% số hộ thả vào tháng
8 (DL), 13,6% số hộ thả nuôi vào tháng 10 (DL) và 4,6% số hộ thả tôm vào
tháng 11 (DL). Bên cạnh đó, nguồn giống các hộ nuôi tôm sú mua về chủ yếu
từ các trại giống trên địa bàn Nhu Gia (68,2% số hộ) và 31,8% số hộ mua
giống từ nơi khác chuyển tới (Cần Thơ, Bạc Liêu, Miền Trung) (Bảng 4.4).
Bảng 4.4: Tháng canh tác và nguồn giống của hai mô hình khảo sát
Tháng canh tác Tần suất Phần trăm (%)
Lúa
6 8 57,2
7 3 21,4
8 3 21,4
Tôm sú
7 11 50
8 7 31,8
10 3 13,6
11 1 4,6
Nguồn giống
Địa phương (Nhu Gia) 15 68,2
Nơi khác (Cần Thơ, Bạc Liêu) 7 31,8
Về mật độ nuôi
Ở mô hình nuôi tôm sú trong mùa mưa, mật độ nuôi trung bình là 4±1 con/m2.
Trong đó, mật độ 4 con/m2 chiếm tỷ lệ cao nhất (40,9% số hộ khảo sát), mật
độ 5 con/m2 chiếm tỷ lệ 31,9% số hộ (Bảng 4.5). Kết quả này cho thấy, mật độ
tôm sú nuôi có xu hướng tăng ở địa bàn nghiên cứu. Việc gia tăng mật độ nuôi
cũng ảnh hưởng đến năng suất và tỷ lệ sống của tôm nuôi theo mô hình này.
Theo Trần Thanh Bé (2002), mật độ tôm nuôi tăng từ 1,58-2,34 con/m2, tỷ lệ
sống bình quân đạt từ 14,5-22,1% ở huyện Mỹ xuyên. Theo Thiều Lư (2001) ở
các Tỉnh ĐBSCL, tôm sú nuôi ở mật độ từ 3-6 con/m2 cho năng suất 365
kg/ha/vụ và tỷ lệ sống là 17,1%. Vì vậy, để có được năng suất và tỷ lệ sống
cao thì mật độ nuôi vừa phải. Mật độ được đề nghị cho mô hình tôm-lúa luân
canh là 2-4 con/m2 (Thiều Lư, 2001).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
19
Bảng 4.5. Mật độ tôm nuôi trong mùa mưa ở Mỹ Xuyên, Sóc Trăng năm 2005
Mật độ nuôi (con/m2) Tần suất (n) Phần trăm (%)
2 3 13,6
3 3 13,6
4 9 40,9
5 7 31,9
Trung bình 4±1
Chăm sóc và quản lý
Mô hình lúa-cá kết hợp, việc quản lý và chăm sóc tương đối đơn giản. Chỉ bón
phân (18 kg/1000m2) cho lúa, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu. Cá chỉ thả nhưng
không cho ăn. Nước được trao đổi thường xuyên theo thủy triều.
Mô hình tôm sú (mùa mưa), tôm được cho ăn 3-4 lần/ngày (77,3% số hộ) với
các loại thức ăn công nghiệp, chủ yếu là CP (45,5% số hộ). Bên cạnh đó, việc
thay nước ruộng nuôi của các hộ dân cũng không giống nhau, 40,9% số hộ
không thay nước, 59,1% số hộ thay nước tùy theo thời điểm cần thiết (Bảng
4.6).
Bảng 4.6: Loại thức ăn, số lần cho ăn và cách trao đổi nước của các hộ nuôi
tôm sú trong mùa mưa
Loại thức ăn
Số lần cho ăn
(lần/ngày) Thay nước
CP
Thức ăn khác
(UP, Thần Tài,
Tomboys,…)
0-2 3-4 5 Không Thay khi cần thiết
Tần suất (n) 10 12 2 17 3 9 13
Phần trăm
(%) 45,5 54,5 9,1 77,3 13,6 40,9 59,1
Tỷ lệ sống và năng suất
Mô hình lúa-cá kết hợp, năng suất bình quân đạt 4,7±4,1 tấn/ha/vụ và 136±17
kg cá/ha/vụ. Kết quả này tương tự với nghiên cứu trước đây đối với mô hình
tôm-lúa luân canh, nghĩa là 5-6,3 tấn/ha/vụ (Tô Phúc Tường và ctv., 2003).
Theo Lê Xuân Sinh và ctv. (2001), năng suất lúa trong mô hình lúa-cá đạt 5,6
tấn/ha/vụ. Bên cạnh đó, năng suất cá nuôi đạt 136 kg/ha/vụ (mật độ 0,3
con/m2). Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu trước đây trong mô hình kết
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
20
hợp lúa-cá. Theo Nguyễn Văn Hảo và ctv. (2001), năng suất cá nuôi ở Tân
Phước (Tiền Giang) từ 25-103 kg/ha/vụ (mật độ 0,3 con/m2).
Đối với mô hình tôm sú nuôi trong mùa mưa, tỷ lệ sống và năng suất bình
quân của mô hình này đạt lần lượt là 55±11,6% và 415±254 kg/ha/vụ. Kết quả
này cao hơn so với các nghiên cứu trước đây. Theo kết quả điều tra của Thiều
Lư (2001), tỷ lệ sống và năng suất của tôm đạt lần lượt là 17,1% và 365
kg/ha/vụ (mật độ 3-6 con/m2).
4.1.2 Về khía cạnh kinh tế
Kết quả điều tra cho thấy, lợi nhuận thu được từ mô hình lúa-cá kết hợp là
7.242.000 đồng/ha/vụ thấp hơn so với mô hình tôm sú nuôi trong mùa mưa
(11.170.000 đồng/ha/vụ) (Bảng 4.9a & 4.9b). Lợi nhuận từ nuôi tôm sú cao
gấp 1,5 lần so với mô hình lúa-cá kết hợp, nhưng tỷ suất lợi nhuận (B:C) chỉ
đạt 0,5, trong khi ở mô hình canh tác lúa-cá là 1,97. Bên cạnh đó, số hộ thua lỗ
trong mô hình tôm sú chiếm 18,2% số hộ, trong khi không có hộ thua lỗ ở mô
hình lúa-cá. Ngoài ra, để đạt được ngưỡng hòa vốn trong nuôi tôm sú thì tỷ lệ
sống của tôm nuôi ở mật độ 5 con/m2 phải đạt 17,6%. Điều này càng cho thấy
mức rủi ro về mặt kinh tế của việc nuôi tôm sú trong mùa mưa là rất cao.
Nhiều nghiên cứu trước đây cũng cho thấy, ngưỡng hòa vốn đối với mô hình
nuôi tôm sú ở mức 17,1% tỷ lệ sống với mật độ từ 3-6 con/m2 (Thiều Lư,
2001). Theo Brennan et al. (1999), ngưỡng hòa vốn của mô hình nuôi tôm sú
(có bổ sung thức ăn) ở mức 17% tỷ lệ sống.
Đối với mô hình lúa-cá kết hợp, chi phí sản xuất cho mô hình này tương đối
thấp, ít rủi ro hơn so với mô hình nuôi tôm sú trong mùa mưa. Chi phí sản xuất
của các hộ canh tác theo mô hình lúa-cá là 3,67 triệu đồng/ha/vụ thấp hơn 6
lần so với các hộ nuôi tôm sú (22 triệu đồng/ha/vụ). Trong khi đó, lợi nhuận từ
nuôi tôm sú chỉ chiếm 50% (khoảng 11 triệu đồng/tổng lợi nhuận 22 triệu
đồng) so với tổng chi phí cho vụ nuôi tôm. Điều này cho thấy, nếu thất bại
trong vụ nuôi tôm sú thì khả năng đầu tư tái sản xuất của nông hộ là rất khó.
Mặt khác, lợi nhuận thu được từ mô hình lúa cá là 7.242.000 đồng/ha/vụ,
trong đó nguồn thu từ cá chiếm 12,5% trong tổng thu nhập của nông hộ (Hình
4.1). Bên cạnh đó, trong tất cả các khoản chi phí sản xuất theo mô hình lúa-cá
thì chi phí phân bón và công lao động chiếm tỷ lệ cao nhất, lần lượt là 27,2%
và 21,2% (Hình 4.2). Trong khi đó, mô hình nuôi tôm sú trong mùa mưa thì
chi phí thức ăn và tôm giống lại chiếm tỷ lệ cao nhất lần lượt là 62,4% và
12,3% trong tổng chi phí sản xuất (Hình 4.3). Mặt khác, nếu xét về giá thành
sản xuất thì chi phí để sản xuất 1 kg lúa là 710 đồng/kg và cá là 6.200
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiê cứu
21
đồng/kg. Trong khi đó, chi phí sản xuất 1 kg tôm sú thì phải tốn 53.000
đồng/kg.
Bảng 4.9a: Chi phí sản xuất và lợi nhuận của mô hình lúa-cá kết hợp ở Mỹ
Xuyên, Sóc trăng năm 2005
Chi phí trên ha Triệu đồng/ha/vụ
Đào mương 0,24
Sên vét 0,35
Công lao động (cấy/suốt…) 0,78
Thuế 0,64
Cá giống 0,246
Lúa giống 0,294
Phân 1
Hoá chất 0,128
Tổng chi 3,678
Thu
Từ lúa 9,56
Từ cá-tôm 1,36
Tổng thu 10,92
Lợi nhuận 7,242
B/C 1,97
87.5%
12.5%
Lúa
Cá-tôm
Hình 4.2: Tỷ lệ các chi chi phí sản
xuất trong mô hình lúa-cá kết hợp
Hình 4.1: Tỷ lệ thu nhập từ lúa và
cá trong mô hình lúa-cá kết hợp
6.5
9.5
21.2
17.46.7
8.0
27.2
3.5
Đào mương
Sên vét
Công lao động
(cấy/suốt…)
T huế
Cá giống
Lúa giống
Phân
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
22
Bảng 4.9b: Chi phí và lợi nhuận từ mô hình canh tác tôm trong mùa mưa ở huyện
Mỹ Xuyên, Sóc Trăng 2005
Chi phí trên ha Triệu đồng/ha/vụ
Đào mương 0,2
Sên vét 1,97
Công lao động 1,47
Máy bơm 0,59
Dầu/vận chuyển 0,73
Con giống 2,71
Thức ăn 13,74
Thuốc/hoá chất 0,62
Lượng TĂ (kg) 780
Lượng tôm (kg) 415
FCR 1,9
Tổng chi 22,03
Tổng thu 33,2
Lợi nhuận 11,17
B/C 0,51
Hình 4.3: Tỷ lệ các chi phí sản xuất trong mô hình nuôi tôm sú trong mùa mưa ở
huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng năm 2005
0.9%
8.9%
6.7%
2.7%
3.3%
12.3%62.4%
2.8%
Đào mương
Sên vét
Công lao động
Máy bơm
Dầu/vận chuyển
Con giống
Thức ăn
Thuốc/hoá chất
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
23
4.2 Sự tăng trưởng của tôm, cá nuôi ở hai mô hình thử nghiệm
Ở nghiệm thức lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp
Kết quả thử nghiệm cho thấy, tôm càng xanh đạt trọng lượng 13,7 g/con, sau
130 ngày nuôi (Hình 4.4), với mức tăng trưởng tuyệt đối là 0.10 g/ngày. Năng
suất và tỷ lệ sống tôm càng xanh chỉ đạt 21,5 kg/ha và 7,9% (Bảng 4.9). Kết
quả này khá thấp so với các nghiên cứu trước đây ở mô hình kết hợp lúa-tôm
càng xanh ở vùng nước ngọt. Theo Phạm Minh Truyền (2003), trọng lượng
trung bình tôm càng xanh nuôi kết hợp trong ruộng lúa ở tỉnh Trà Vinh (mật
độ 2 con/m2, cỡ 0,036 g/con) đạt 56,6 g/con (sau 6 tháng nuôi), với tốc độ tăng
trưởng tuyệt đối là 0,7 g/ngày. Một nghiên cứu khác cho thấy, tốc độ tăng
trưởng tuyệt đối của tôm càng xanh (giống 2-3 cm) nuôi trong ruộng lúa ở tỉnh
Vĩnh Long là 0,16 g/ngày, trọng lượng thu hoạch đạt 26 g/con, tỷ lệ sống và
năng suất lần lượt là 40,3% và 344 kg/ha (Lý Văn Khánh, 2005). Kết quả thử
nghiệm này thấp hơn so với các nghiên cứu khác có lẽ do kích cỡ tôm nuôi
nhỏ (2,2 cm) và thời gian nuôi quá ngắn (130 ngày) so với các nghiên cứu
khác (180 ngày). Theo Trần Ngọc Hải và ctv. (2001), trọng lượng tôm càng
xanh nuôi trong ruộng lúa đạt 18,2-30 g/con sau 6 tháng nuôi. Mặc dù năng
suất tôm nuôi thấp nhưng kết quả nghiên cứu này cho thấy tính khả thi (nếu
thời gian nuôi dài hơn) của việc nuôi kết hợp tôm càng xanh với lúa ở vùng
nhiễm mặn theo mùa của huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
0
2
4
6
8
10
12
14
16
1 40 55 75 90 110 130
Hình 4.4: Tăng trưởng tôm càng xanh nuôi trong ruộng lúa ở huyện Mỹ
xuyên, tỉnh Sóc Trăng năm 2006
Tr
ọn
g
lư
ợn
g
(g
/c
on
)
Ngày nuôi
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiê cứu
24
Các loài cá
Kết quả cho thấy, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối của cá mè trắng, mè vinh và cá trôi
đạt lần lượt là 0,44 g/ngày, 0,56 g/ngày và 0,58 g/ngày sau 100 ngày nuôi. Trọng
lượng bình quân là 58,9 g/con (cá mè trắng), 60,2 g/con (cá mè vinh) và 66,7 g/con
(cá trôi). Tỷ lệ sống của cá mè trắng, mè vinh và trôi lần lượt là 52%, 93% và 6%
(Bảng 4.10). Năng suất các loài cá nuôi đạt 80 kg/ha, trong đó cá mè trắng là 45 kg,
cá mè vinh là 28 kg, và cá trôi 7 kg. Kết quả thí nghiệm cho thấy, năng suất cá chỉ
đạt 80 kg/ha/vụ thấp hơn so với kết quả điều tra 1,7 lần (136 kg/ha/vụ) và cũng
thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Hảo và ctv. (2001) từ 1,9-2,5
lần (300-400 kg/ha/10 tháng), với mật độ là 0,3 con/m2. Từ kết quả nghiên cứu
cho thấy các loài cá này có khả năng sinh trưởng tốt trong ruộng lúa ở vùng nhiễm
mặn theo mùa của huyện Mỹ Xuyên.
Bảng 4.10. Tăng trưởng tuyệt đối, trọng lượng trung bình, tỷ lệ sống và năng suất
của các loài tôm, cá nuôi trong ruộng lúa ở huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng năm 2006
Đối tượng Tăng trưởng (g/ngày)
TL TB
thu hoạch
(g/con)
Tỷ lệ sống
(%)
Năng suất
(kg/ha)
TCX 0,10 13,7 7,9 21,5
Mè trắng 0,44 58,9 52 45
Mè vinh 0,56 60,2 93 28
Trôi 0,58 66,7 6 7
Ở nghiệm thức nuôi tôm sú trong mùa mưa
Kết quả cho thấy, trọng lượng trung bình tôm thu hoạch là 53,3 g/con (sau 115
ngày nuôi), tốc độ tăng trưởng tuyệt đối là 0,46 g/ngày (Hình 4.5). Năng suất
và tỷ lệ sống của tôm nuôi khá thấp chỉ đạt 15,6 kg/ha và 1,5% sau 115 ngày nuôi.
Nguyên nhân có lẽ do độ mặn lúc thả nuôi khá thấp (1‰) mặc dù tôm đã được
thuần hóa nên ảnh hưởng đến tỷ lệ sống tôm. Theo nhiều nghiên cứu trước đây, độ
mặn của nước có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của tôm sú nuôi. Theo Châu Tài Tảo và
ctv. (2004), tôm sú PL15 không thể sống hơn hai tháng ở nồng độ muối 0‰. Theo
Dương Thúy Yên và ctv. (2003), tỷ lệ sống của tôm giảm nhanh sau 15-45 ngày thả
nuôi ở độ mặn 0‰. Bên cạnh đó, trong quá trình thử nghiệm thấy có xuất hiện rất
nhiều cá tạp (cá lóc, cá rô phi), mặc dù ruộng đã được diệt tạp trước khi thử nghiệm,
điều này cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống thấp. Do tỷ lệ sống của tôm thấp nên tốc độ
tăng trưởng của tôm khó xác định theo định kỳ nữa tháng/lần.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
25
0
10
20
30
40
50
60
1 60 115
Ngày nuôi
Hình 4.5: Tăng trưởng của tôm sú nuôi trong mùa mưa ở huyện Mỹ Xuyên,
Sóc Trăng năm 2006
4.3 Hiệu quả kinh tế của hai mô hình thử nghiệm
Kết quả nghiên cứu cho thấy, lợi nhuận mang lại từ mô hình lúa-tôm càng
xanh và cá kết hợp là 4.439.000 đồng/ha/vụ. Tỷ suất lợi nhuận của mô hình
này đạt 0,7. Kết quả này thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây và kết quả
điều tra trong nghiên cứu này (7.242.000 đồng/ha/vụ và 1,97). Trong khi đó, ở
mô hình tôm sú nuôi trong mùa mưa bị lỗ (240.000 đồng/ha/vụ) (Bảng 4.11a
& b). Kết quả này thấp hơn so với kết quả điều tra của các hộ nuôi tôm sú
trong mùa mưa ở cùng địa bàn nghiên cứu. Nguyên nhân có lẽ là việc thuần
hóa từ trại giống chưa đảm bảo, đồng thời việc cải tạo cũng như quản lý ruộng
nuôi của hộ thử nghiệm chưa tốt nên ảnh hưởng tới kết quả thử nghiệm.
Về cơ cấu chi phí đầu tư của mô hình lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp và mô
hình tôm sú, chi phí con giống tôm càng xanh chiếm tỉ lệ cao nhất 69,2% ở mô
hình kết hợp (Hình 4.6), và 44% ở mô hình tôm sú (Hình 4.8). Như vậy, để
nuôi có hiệu quả thì đòi hỏi tỷ lệ sống của tôm cá nuôi cao. Riêng đối với mô
hình kết hợp có lẽ chỉ nên trồng lúa kết hợp với thả cá mà không nên thả tôm
càng xanh do chi phí sản xuất cao và thời gian nuôi ngắn ở vùng nhiễm măn.
Thu nhập từ tôm càng xanh và cá lần lượt là 1.419.000 đồng/ha/vụ và 800.000
đồng/ha/vụ, tương ứng là 14% và 8%/tổng thu.
Tr
ọn
g
lư
ợn
g
(g
/c
on
)
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
26
Bảng 4.11: Chi phí và lợi nhuận của hai mô hình thử nghiệm lúa, tôm càng
xanh, cá kết hợp và tôm sú nuôi trong mùa mưa ở huyện Mỹ Xuyên, Sóc
Trăng năm 2006
Triệu/ha
Chi phí
TCX Tôm sú
Cải tạo 0,5 1,3
Giống tôm 4 1,1
Giống cá 0,73
Lúa 0,35
Phân, thuốc 0,2 0,1
Tổng chi 5,78 2,5
Thu
Tôm càng xanh 1,419
Cá 0,8
Lúa 8
Tổng thu 10,219 2,262
Lợi nhuận 4,439 -0,238
Tỷ suất lợi nhuận (B:C) 0,7 -0,1
Hình 4.6: Tỷ lệ các chi phí sản xuất nghiệm thức lúa, tôm càng xanh và cá kết
hợp ở Mỹ Xuyên năm 2006
8.7
69.2
12.6
6.1 3.5 Cải tạo
Giống tôm
Giống cá
Lúa
Phân, thuốc
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
27
Hình 4.7: Tỷ lệ thu nhập từ mô hình lúa, tôm càng xanh và cá kết hợp ở huyện
Mỹ Xuyên, Sóc Trăng năm 2006
Hình 4.8: Tỷ lệ các chi phí sản xuất trong mô hình thử nghiệm nuôi tôm sú
trong mùa mưa ở Mỹ Xuyên năm 2006
Tóm lại, từ kết quả thử nghiệm và điều tra cho thấy, mô hình lúa-cá kết hợp
mang lại hiệu quả kinh tế cao và ít rủi ro hơn so với nuôi tôm sú trong mùa
mưa.
Mặc dù mô hình lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp này được coi là có tính khả thi
về mặt sinh trưởng của tôm, cá nuôi, nhưng trong thực tế nếu đứng trên khía
cạnh kinh tế xã hội thì mô hình này chưa được người dân chấp nhận do một số
lý do như: (i) nguồn tôm càng xanh giống (2-3 cm) khó mua và giá cao (200
đồng/con), trong khi tôm sú giống dễ mua và giá rẻ hơn tôm càng xanh (50
đồng/con); (ii) thời gian nuôi tôm càng xanh dài hơn (6 tháng) so với tôm sú
(4 tháng); (iii) giá tôm tôm càng xanh (kích cỡ thu hoạch) thấp (50.000-70.000
đồng/kg) hơn so với tôm sú (90.000-120.000 đồng/kg); (iv) người dân chưa có
52%44%
4%
Cải tạo
Giống tôm
Phân, thuốc
14%
8%
78%
Tôm càng xanh
Cá
Lúa
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
28
kinh nghiệm cũng như kỹ thuật nuôi tôm càng xanh, trong khi họ có nhiều
kinh nghiệm cũng như quan điểm làm giàu từ con tôm sú; (v) rất nhiều hộ dân
nuôi tôm sú đã bị thất bại trong nhiều vụ nuôi và đã rơi vào tình trạng thiếu nợ
(ngân hàng hoặc người dân xung quanh), nên tâm lý muốn trả nợ bằng lợi
nhuận cao từ con tôm sú; và (vi) chưa có mô hình trình diễn cũng như mức độ
thành công đáng kể của mô hình lúa-tôm càng xanh kết hợp trên địa bàn
nghiên cứu, nên khó thuyết phục người dân áp dụng mô hình canh tác này.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
29
PHẦN V
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
Qua điều tra, mô hình lúa-cá kết hợp cho lợi nhuận thấp (7.242.000 đồng/ha/vụ)
hơn so với mô hình tôm sú trong mùa mưa (11.170.000 đồng/ha/vụ), nhưng mức
đầu tư thấp (16,7% so với chi phí nuôi tôm sú) và tỷ suất lợi nhuận (B:C) cao
(1,97) gấp 4 lần so với mô hình tôm sú (0,5).
Mô hình lúa-cá kết hợp có mức rủi ro về kinh tế thấp (0% số hộ thua lỗ) hơn so với
mô hình nuôi tôm sú trong mùa mưa (31,8% số hộ thua lỗ).
Sự sinh trưởng của các loài cá ở nghiệm thức lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp là
(0,44 g/ngày mè trắng, 0,56 g/ngày mè vinh và 0,58 g/ngày cá trôi) đối với
tôm càng xanh (0,10 g/ngày). Năng suất và tỷ lệ sống đạt lần lượt là 21,5
kg/ha và 7,9% (tôm càng xanh), 80 kg/ha và 50,3% (cá) ở nghiệm thức lúa-
tôm càng xanh, cá kết hợp và 15,6 kg/ha và 1,5% ở nghiệm thức tôm sú.
Mặc dù mức lợi nhuận của nghiệm thức lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp tương
đối thấp nhưng hiệu quả kinh tế (4,4 triệu/ha/vụ) cao hơn so với nghiệm thức
tôm sú (thua lỗ 240.000 đồngha/vụ). Lợi nhuận ở nghiệm thức lúa-tôm càng
xanh, cá kết hợp chủ yếu từ lúa (92,8%) và cá (7,2%).
5.2. Đề xuất
Mô hình lúa-tôm càng xanh,cá kết hợp trong mùa mưa nên được khuyến cáo
nông dân áp dụng ở những vùng nhiễm mặn theo mùa để giảm thiểu rủi ro
kinh tế cho nông hộ.
Cần khuyến cáo cho nông dân không nên phát triển mô hình nuôi tôm sú trong
mùa mưa vì rủi ro kinh tế cũng như khả năng thất bại cao hơn so với mô hình
lúa-cá kết hợp.
Cần tiếp tục nghiên cứu chọn đối tượng và cơ cấu đàn cá nuôi thích hợp trong
mô hình lúa-tôm càng xanh, cá kết hợp để nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế
năng suất của mô hình này.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
30
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ACIAR, 2003. Rice- Shrimp farming system in the MeKong Delta:
Biophysical And Socioeconomic Issues. Technical report 52e, 2003.
2. Báo con tôm số 121 – tháng 2/2006. Trang 12.
3. Bộ thủy sản, 2003. Kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2002, kế hoạch và giải
pháp thực hiện năm 2003.
4. Bộ thủy sản, 2004. Kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2003, kế hoạch và giải
pháp thực hiện năm 2004.
5. Bộ thủy sản, 2005. Kết quả nuôi trồng thủy sản năm 2004, kế hoạch và giải
pháp thực hiện năm 2005.
6. Bộ thủy sản, 2006. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch Nhà
Nước năm 2005, phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
năm 2006 của Ngành Thủy sản.
7. Brennan, D., Clayton, H., Tran Thanh Be and Tran The Nhu Hiep,
1999. Socioeconomic characteristics and farm management practices in
the brackish water region of Soc Trang and Bac Lieu provinces,
Mekong Delta, Vietnam: results of a 1997 survey.
8. Bùi Như Ý. 2004. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) luân canh và xen canh trong ruộng lúa ở Ô Môn, Cần Thơ.
LVTN. ĐHCT. 36 trang.
9. Châu Tài Tảo và Đỗ Thị Thanh Hương, 2004. Khảo sát thay đổi một số
chỉ tiêu sinh lý của tôm sú (Penaeus monodon) trong môi trường nuôi
có nồng độ muối thấp. Tạp chí thuỷ sản Đại học Cần Thơ chuyên ngành
nuôi trồng thuỷ sản. Trang 91-95.
10. Dương Tấn Lộc. 2001. Ương giống và nuôi tôm càng xanh thương phẩm ở
Đồng bằng sông Cửu Long (Macrobrachium rosenbergii). NXB Nông
Nghiệp. 108 trang.
11. Dương Thuý Yên, Nguyễn Anh Tuấn và Lý Văn Khánh, 2004. Thử
nghiệm nuôi tôm sú (Penaeus monodon) ở nồng độ muối thấp. Tạp chí
Trung tâm Học liệu ĐH ần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
31
thuỷ sản Đại học Cần Thơ chuyên ngành nuôi trồng thuỷ sản. Trang
318-328.
12. Đặng Kiều Nhân, Nico Vromant, Lê Thành Đương, 2001. Sản lượng cá
và sự chấp nhận mô hình canh tác lúa-cá trên vùng đất đã được thủy lợi
hóa ở ĐBSCL: Những yếu tố kỹ thuật và kinh tế xã hôi. Trong: Kỹ yếu
hội thảo quốc tế canh tác lúa-cá. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. Trang 59-
64.
13. Đoàn Văn Vũ. 2004. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa
tại Ô Môn, Cần Thơ. LVTN. ĐHCT. 29 trang.
14. FAO, 2002. The state of World Fisheries And Aquaculture 2000.
15. Lê Quốc Việt. 2005. Điều tra hiện trạng và thực nghiệm nuôi tôm càng
xanh (Macrobrachium rosenbergii) trong ao đất với mật độ khác nhau
ở tỉnh Vĩnh Long. LVCH. ĐHCT. 80 trang.
16. Lê Thị Minh Tâm. 2002. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh
(Macrobrachium rosenbergii) trong ruộng lúa ở Tân Phú Thạnh, Châu
Thành, Cần Thơ. Tiểu luận tốt nghiệp, Khoa Thủy Sản, Trường Đại học
Cần Thơ. 20 trang.
17. Lê Xuân Sinh. 1995. The effects of Aquaculture on Farm Household
Economy. A Case Study of Omon District, Can Tho Province,
Vietnam, Dissertation, AIT, Bangkok, Thailand. The summary was
published on NAGA January,1996. p50-52. It was presented at World
Aquaculture 1996 (WAS’96), Bangkok, Thailand, 29 Jan-2 Feb, 1996,
abstracts p372.
18. Lê Xuân Sinh, 2001. Những mối quan tâm chủ yếu về các khía cạnh
kinh tế xã hội của hệ thống canh tác lúa-cá ở ĐBSCL, Việt nam. Trong:
Kỹ yếu hội thảo quốc tế canh tác lúa-cá. Nhà xuất bản Nông Nghiệp.
Trang 41-53.
19. Ling, S.W. 1969. Method of rearing and culturing Macrobrachium
rosenbergii (Deman). FAO Fish Red. 57 (3) 607.
20. Lý Văn Khánh. 2005. Nghiên cứu khía cạnh kinh tế và kỹ thuật trong
nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa và trong mương vườn ở tỉnh Vĩnh
Long. Báo cáo đề tài cấp trường. Khoa Thủy Sản. ĐHCT. 84 trang.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
32
21. Nguyễn Minh Niên, 2003. Hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản các tỉnh ven
biển ĐBSCL và xu thế phát triển. Trong: Tuyển tập hội thảo toàn quốc
về NC & ƯD KHCN trong NTTS. Trang 101-113.
22. Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải. 2004. Kỹ thuật sản xuất
giống và nuôi giáp xác. Khoa Thủy Sản. ĐHCT. 102 trang.
23. Nguyễn Thanh Phương, Nguyễn Thanh Long, Bùi Minh Tâm, 2001.
Cải thiện hiệu quả sản xuất ở vùng canh tác lúa qua kết hợp với nuôi
trồng thủy sản. Trong: Kỹ yếu hội thảo quốc tế canh tác lúa-cá. Nhà
xuất bản Nông Nghiệp. Trang 54-58.
24. Nguyễn Thành Phước. 2001. Nuôi tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) trong ruộng lúa tại Tam Bình - Vĩnh Long. LVTN. ĐHCT.
25. Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Trọng Hiền, Phạm Đình Khôi, Nguyễn Thọ
Đan và Don Griffiths, 2001. Những kết quả bước đầu về phát triển hệ
thống canh tác lúa-cá ở Tiền Giang. Trong: Kỹ yếu hội thảo quốc tế
canh tác lúa-cá. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. Trang 123-139.
26. Nguyễn Văn Hạnh. 2001. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh trong
ruộng lúa ở Trà Vinh. LVTN. ĐHCT.
27. Padmanabhan, P.G. (2001). Đánh giá hiệu quả kinh tế-xã hội của mô
hình sử dụng tài nguyên tổng hợp bền vững ở Kuttanad. Trong: Kỹ yếu
hội thảo quốc tế canh tác lúa-cá. Nhà xuất bản Nông Nghiệp. Trang 65-
96.
28. Phạm Minh Truyền. 2003. Khảo sát các yếu tố môi trường và sinh học
trong mô hình tôm - lúa ở Trà Vinh. LVCH, Đại học Cần Thơ. 73
trang.
29. Rothuis, A.J., Vromant, N., Xuan, Vo Tong., Richter, C.J.J. and
Ollevier, F., 1999. The effect of rice seeding rate on rice and fish
production in derect seeded rice-fish culture. Aquaculture Research
172: p255-p274.
30. Roy, J.K., 2001. Tổng quan về mô hình lúa-cá ở Bangladesh. Trong:
Kỹ yếu hội thảo quốc tế canh tác lúa-cá. Nhà xuất bản Nông Nghiệp.
Trang 22-40.
Trung tâm Học liệu ĐH Cầ Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
33
31. Sở Thủy Sản Tỉnh Tiền Giang, 1999. Trong: Hội thảo phát triển nuôi
tôm càng xanh ở đồng bằng nam bộ. UBND tỉnh An Giang, 1999.
32. Sở Thủy Sản tỉnh Trà Vinh, 1999. Trong: Hội thảo phát triển nuôi tôm
càng xanh ở đồng bằng nam bộ. UBND tỉnh An Giang, 1999.
33. Sở Khoa Học Công Nghệ Và Môi Trường Trà Vinh, Trường Đại Học
Cần Thơ, 2002. Nghiên cứu phát triển mô hình nuôi tôm càng xanh
trong ruộng lúa tỉnh Trà Vinh.
34. Sở thủy sản Sóc Trăng, 1998. Báo cáo tổng kết 1998 phương hướng kế
hoạch năm 1999.
35. Sở Thủy Sản Sóc Trăng, 2002. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản
năm 2002 và biện pháp thực hiện kế hoạch nuôi trồng thủy sản năm
2003, tỉnh Sóc Trăng.
36. Sở Thủy Sản Sóc Trăng, 2002. Báo cáo kết quả nuôi trồng thủy sản
năm 2005 và kế hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản năm 2006, tỉnh
Sóc Trăng.
37. Tô Phúc Tường, Ngô Đăng Phong, B.A.M Bouman, 2003. Đánh giá
năng suất lúa trong các hệ thống lúa-tôm ở ĐBSCL Việt Nam: Cách
tiếp cận mô hình hóa. Trong: ACIAR, 2003. Hệ thống canh tác lúa tôm
ở ĐBSCL: những vấn đề sinh lý và kinh tế xã hội. Báo cáo kỹ thuật
ACIAR 52e. Trang 103-112.
38. Thiều Lư. 2001. Đề tài điều tra tổng kết các mô hình nuôi kết hợp tôm
lúa, tôm rừng ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Long. LVTN. ĐHCT.
39. Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền, Đặng Hữu Tâm,Võ Thành Toàn,
Nguyễn Thanh Phương và Marcy N. Wilder, 2001. Culture of fresh
water prawn (Macrobrachium rosenbergii) in rice-fields using
hatchery reared postlarvae in Tam Binh district, Vinh Long province.
In: proceeding of the annual workshop of JIRCAS Mekong Delta
project, Cantho University, Vietnam, November 27-29, 2001. p159-
p166.
40. Trần Tấn Huy. 2002. Thực nghiệm nuôi tôm càng xanh trong ruộng lúa
từ giai đoạn giống. LVTN. ĐHCT.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
34
41. Trần Thanh Bé, 2002. Kết quả dự án hợp tác nghiên cứu “Đánh giá tính
bền vững hệ thống canh tác lúa-tôm vùng nước lợ ĐBSCL từ năm
1997-2000”.
42. Trần Thị Thanh Hiền, Trương Hoàng Minh, Nguyễn Thanh Phương
and M.N. Wilder, 1998. Current status of freshwater prawn culture in
the Mekong delta of Vietnam. JIRCAS Journal No. 6: p89-p100.
43. Trần Thị Tuyết Hoa, Trương Hoàng Minh, Lê Bảo Ngọc và Tạ Văn
Phương, 2003. Ảnh hưởng của quá trình thay đổi nước lên chất lượng
nước, lượng bùn lắng tụ và sự sinh trưởng của tôm sú trong mô hình
tôm-lúa. Trong: ACIAR, 2003. Hệ thống canh tác lúa tôm ở ĐBSCL:
những vấn đề sinh lý và kinh tế xã hội. Báo cáo kỹ thuật ACIAR 52e.
Trang 35-39.
44. Trương Hoàng Minh, 1999. Chất lượng nước và sinh trưởng tôm sú trong
ruộng nuôi luân canh tôm lúa. Trong : Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa
học, 1999. Tr156- Tr160.
45. Trương Hoàng Minh, Christopher J. Jackson, Trần Thị Tuyết Hoa, Lê
Bảo Ngọc, Nigel Preston Và Nguyễn Thanh Phương, 2003. Sự tăng
trưởng và tỷ lệ sống của tôm sú (Penaeus monodon) trong mối tương
quan với các đặc điểm lý tính trong ruộng lúa-tôm ở ĐBSCL. Trong:
ACIAR, 2003. Hệ thống canh tác lúa tôm ở ĐBSCL: những vấn đề sinh
lý và kinh tế xã hội. Báo cáo kỹ thuật ACIAR 52e. Trang 27-34.
46. Trương Hoàng Minh. 2006. Nghiên cứu nâng cao tính bền vững mô
hình tôm lúa luân canh thông qua nuôi bổ sung một số đối tượng thủy
sản có giá trị kinh tế cao kết hợp trồng lúa. Báo cáo khoa học. Đề tài
nghiên cứu cấp bộ. ĐHCT. 46 trang.
47. Vũ Nam Sơn, Yang Yi và Nguyễn Thanh Phương, 2003. Nuôi tôm
càng xanh đăng quầng trên sông ở ĐBSCL. Trích trong Tạp chí khoa
học Đại Học Cần Thơ chuyên ngành thủy sản, 2004. Trang 240-247.
48.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiê cứu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_nc_lam_405.pdf