Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do hoàn toàn thống trị là việc xuất khẩu hàng hóa sang các nước kém phát triển hơn. Nhưng đến cuối thế kỷ 20, với sự hình thành các tổ chức độc quyền, thì trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xuất hiện thêm hình thức xuất khẩu mới-xuất khẩu tư bản. Bằng việc xuất khẩu tư bản, nhà tư bản tổ chức việc sản xuất ở nước ngoài, hàng hóa sản xuất ra của các xí nghiệp nước ngoài sẽ thay thế một phần cho việc xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hình thức đầu tư quốc tế.
CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ( FDI : FOREIGN DIRECT INVESTMENT ).
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI ĐÀ NẴNG.
CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.
65 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2874 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch đất đai là tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho các nhà đầu tư yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài ở Đà Nẵng.
Điểm đặc thù ở Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng đó là đất đai là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân. Các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu về đất đai.
Các loại văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là Luật Đất đai, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nghị định 18/CP ngày 13/02/1995 quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh về và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được phép góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất đai, mặt nước, mặt biển đưa vào góp vốn được xác định trên cơ sở mức tiền thuê đất quy định cho các trường hợp đầu tư nước ngoài. Mức tiền thuê đất được xác định tuỳ thuộc vào:
Mức quy định khởi điểm cho từng vùng;
Địa điểm của khu đất;
Kết cấu hạ tầng của khu đất;
Hệ thống ngành nghề.
Theo quyết định số 1477-TC/TCĐN ngày 31-12-1994 của Bộ Tài chính ban hành bản quy định về quyền cho thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài.
Khung giá cho thuê đất đô thị quy định từ 0,375 USD/m2/năm đến 1,7 USD/m2/năm tuỳ theo nhóm đô thị. Theo quyết định này khung giá cho thuê đất được áp dụng cho 5 nhóm đất đô thị. Trong đó, nhóm 1 có mức giá từ 1,70 USD đến 13,6 USD/m2/năm, nhóm 2 có mức giá từ 1,50 USD đến 12,0 USD/m2/năm, nhóm 3 có mức giá từ 1,25 USD đến 9,0 USD/m2/năm, nhóm 4 có mức giá từ 0,75 USD đến 6,0 USD/m2/năm, nhóm 5 có mức giá từ 0,375 USD đến 3,0 USD/m2/năm. Đất nông nghiệp đã được chuyển đổi mục tiêu sử dụng sang cho các dự án công nghiệp thường nằm trong khung giá tiền thuê đất đô thị nhóm 5 từ 0,375 USD/m2/năm.
Riêng đất công nghiệp được sử dụng đối với các dự án chế biến nông, lâm, hải sản không phải đất đô thị được hưởng giá thuê đất từ 150 USD/m2/năm đến 750/USD/m2/năm.
Cách tính giá trị quyền sử dụng đất cho bên Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng như sau:
Giá
Giá
Hệ
Hệ
Hệ
Thời
trị
tiền
số
số
số
diện
hạn
quyền =
thuê *
địa *
hạ *
ngành *
tích *
Góp
sử
đất
điểm
tầng
nghề
vốn
dụng
khởi
đất
điểm
Đối với đất đã được giao cho bên Việt Nam sử dụng, khi hợp tác đầu tư với nước ngoài mà không thay đổi mục đích sử dụng đất thì sau khi được cấp giấy phép đầu tư, nhà đầu tư có quyền triển khai ngay các thủ tục về thiết kế, xây dựng hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh khác theo quy luật hiện hành.
Ngày 24-02-1998, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 179/1998/QĐ-BTC về việc ban hành quyết định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong bản quyết định này, quy định đối tượng không phải trả tiền thuê đất, việc miễn, giảm tiền thuê đất và việc nộp tiền thuê đất theo khung giá mới ưu đãi hơn so với các quy định trước.
Tuy vậy, chính sách đất đai áp dụng đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài vẫn còn những vướng mắc nhất định:
Giá thuê đất của Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù, giải toả thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là yếu tố làm giảm sức cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư. Thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa hợp lý.
Việc giao đất nhất là các dự án có đền bù và giải toả kéo dài, trong nhiều trường hợp việc giải toả này kéo dài trong một số năm thậm chí có dự án kéo dài đến 5 năm. Thủ tục thuê, cấp đất, giá đền bù, giải phóng mặt bằng còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Hiệu lực pháp luật của các quy định về đất đai còn thấp. Luật Đất đai mặc dù đã sửa đổi song thiếu những văn bản hưởng dẫn chi tiết.
Thiếu quy hoạch chi tiết cho việc thu hút FDI.
2. Chính sách thuế và các ưu đãi tài chính
Mục tiêu của chính sách thuế và ưu đãi về tài chính là tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn thông qua việc áp dụng tỷ lệ thuế thấp, thời gian và mức độ miễn giảm thuế đảm bảo cho việc tăng tỷ lệ lợi nhuận cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, các nhà đầu tư nước ngoài phải nộp thuế lợi tức từ 10% đến 25%. So với các nước trong khu vực, đây là mức thuế ưu đãi. Trong trường hợp khai thác dầu khí và tài nguyên quý hiếm thì mức thuế lợi tức có thể cao hơn. Nếu đầu tư vào vùng miền núi có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn thì mức thuế lợi tức có thể thấp hơn.
Ngoài ra, nhà đầu tư nước ngoài có thể được miễn và giảm thuế trong những trường hợp nhât định. Việc miễn thuế có thể diễn ra trong 2-3 hoặc 4 năm đầu hoạt động. Việc giảm thuế 50% cho hai năm tiếp theo và tối đa là 4 năm. Tổng số thời gian miễn giảm thuế tối đa là 8 năm. Nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển lợi nhuận về nước phải nộp thuế chuyển lợi nhuận về nước. Mức thuế chuyển lợi nhuận về nước từ 5% đến 10%. Nếu nhà đầu tư nước ngoài sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư thì thuế chuyển lợi nhuận này được hoàn trả lại.
Mức thuế suất thuế lợi tức 10% được áp dụng trong 15 năm kể từ khi dự án bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với các dự án đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX, dự án đầu tư vào KCN, KCX thì thuế suất thuế lợi tức ưu đãi nêu tại điều này được áp dụng trong suốt thời gian thực hiện dự án đầu tư.
Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có quyền dùng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp theo quy định cảu pháp luật. Doanh nghiệp phát triển cơ sở hạ tầng KCN được phép cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thuê lại đất chưa cho thuê để các doanh nghiệp này cho các doanh nghiệp khác thuê lại.
Giá tính thuế thu nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc diện nộp thuế nhập khẩu được xác định theo giá hoá đơn hàng hóa nhập khẩu. Nếu không có hoá đơn thì ghi giá do Bộ Tài chính quy định.
Nhìn chung, chính sách thuế và các khuyến khích tài chính đã đạt được mục tiêu đặt ra trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế này đã hấp dẫn hơn so với đầu tư trong nước. Tuy nhiên, các loại thuế áp dụng đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn chồng chéo, nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn đóng nhiều loại lệ phí khác nhau.
3. Chính sách về lao động:
Chính sách lao động có mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, kỹ năng cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao động.
Trong thời gian qua, số người lao động làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 18 vạn người. cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ Châu Á vừa qua đã làm giảm một khối lượng đáng kể lao động làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài.
Lực lượng lao động Đà Nẵng làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là lao động từ các doanh nghiệp nhà nước, số lao động ở các thành phần kinh tế khác và số còn lại từ nguồn lao động xã hội.
Số lao động của Đà Nẵng làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn là lao động trẻ, có khả năng thích ứng nhanh với yêu cầu công nghệ sản xuất tiên tiến nhưng hạn chế về thể lực, kinh nghiệm và tay nghề. Một số lao động xuất thân từ nông thôn do đó kỹ thuật lao động chưa cao. Sự hiểu biết về pháp luật lao động của người lao động còn hạn chế, không hiểu đẩy đủ các quyền và nghĩa vụ đã cam kết.
Nhiều lao động do không có việc làm mà buộc phải chấp nhận thiệt thòi, khi không chấp nhận sự thiệt thòi này thì thường phản ứng với giới chủ. Nhiều người lao động còn trẻ tuổi thường không chấp nhận sự đối sử thô bạo của giới chủ. Đây là mầm mống của những phản ứng lao động tập thể.
Tình trạng này do một số nguyên nhân sau:
Nhiều giám đốc doanh nghiệp kể cả người đươc uỷ quyền điều hành không nắm vững những quy định của pháp luật lao động hoặc cố tình không tuân thủ những quy định pháp luật như kéo dài thời gian làm việc trong ngày, kéo dài thời gian thử việc hoặc không ký hợp đồng lao động cá nhân, thoả ước lao động tập thể.
Phần đông thiếu sự hiểu biết về các quy định của pháp luật lao động, chưa nắm vững các chính sách, quyền lời và nghĩa vụ của mình để tiến hành ký hợp đồng lao động nên nhièu hợp đồng còn mang tính hình thức, bị thiệt thòi bị áp đặt dẫn đên mâu thuẫn phát sinh tranh chấp.
Một số trường hợp người lao động đòi hỏi vượt qua mức quy định của pháp luật và đặc biệt là sự hạn chế về ngoài ngữ nên có những bất đồng do không hiểu nhau nên dẫn đến mâu thuẫn.
Hiện nay, có hiện tượng một số cán bộ đại diện bên Đà Nẵng trong liên doanh chỉ chăm lo đồng lương và lợi ích cá nhân của mình, chuă thật sự quan tâm đến lợi ích của người lao động, lợi ích phía Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Tình trạng yếu kếm về trình độ và phẩm chất là một trong những nguyên nhân chính gây thiệt thòi, sơ hở trong hoạt động của các nhà liên doanh.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được đặt ra xong chưa giải quyết được nhiều và có tính chất tạm thời, chất lượng chaư cao. Mặc dù có nhiều trung yâm đào tạo baồi dưỡng lao động, nhưng chất lượng đào tạo thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc cung ứng lao động giữa các trung tâm đã bộc lộ những hạn chế và tiêu cực.
Những vướng mắc trong chính sách lao động còn bộc lộ ở quy định doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tuyển lao động thông qua cơ quan lao động cấp thành phố, chứ doanh nghiệp không có được tuyển trực tiếp.
Điều này gây ảnh hưởng đến tính chủ động của các nhà đầu tư. Hiệu lực thực hiện của chính sách không cao, luật lao động thực hiện không nghiêm, việc xử lý các vi phạm chưa hợp lý. Các cơ quan quản lý nhà nước còn lúng túng khi xử lý các tranh chấp về lao động và tiền lương.
Việc tuyển dụng lao động còn nhiều trường hợp chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật. Có doanh nghiệp chưa ký hoạt động lao động, hoặc có thì nội dung đơn giản, không bảo về quyền lưọi của người lao động.
4. Chính sách về công nghệ
Mục tiêu của chính sách công nghệ là thu hút công nghệ, may móc thiết bị hiện đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, đào tạo đội ngũ kỹ thuật, công nhân lành nghề, thực hiện nội địa hoá công nghệ để tăng năng lực nội sinh cảu công nghệ. Điều này được khẳng định trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư theo chiều sâu vào các cơ sở kinh tế hiện có thu hút công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu.
Qua thẫm định của các dự án cho thấy, nhiều dự án phát huy tác dụng tốt trong việc chuyển giao công nghệ tiên tiến, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác dầu khí, viễn thông,các ngành cơ khí công nghiệp, máy công cụ, máy phục vụ ngành công nghiệp nhẹ… Do đó đã góp phần tăng giá trị sản lượng và năng suất lao động.
Tuy nhiên công nghệ tiên tiến nhập vào chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết cả về số lượng, lẫn quy mô, chưa cân đối giữa các ngành kinh tế, nhất là ở một số ngành then chốt có tác dụng tạo môi trường công nghệ cho công nghiệp như cơ khí, giao thông, công nghiệp … cũng như giữa các vùng. Mức độ hiện đại và tinh vi của bản thân công nghệ còn thấp. Do sử dụng công nghệ lạc hậu đã xảy ra hàng trăm tai nạn chết người. Các thế hệ công nghệ chuyển giao vào Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng chủ yếu là công nghệ của những năm 50 và 60. Đây là những công nghệ mà các nước phát triển đã không sử dụng cách đây hàng chục năm. Mặt khác, giá công nghệ được chuyển giao vào Đà Nẵng chưa hợp lý. Nhiều công nghệ lạc hậu, công nghệ đã qua sử dụng nhưng giá tính vào góp vốn đước các nhà đầu tư cố ý nâng cao hơn từ 10% đến 15% so với mặt bằng giá thế giới. Việc tăng giá công nghệ góp vốn vào các dự án còn thông qua việc khai tăng chi phí đào tạo công nhân làm cho cơ quan nhà nước khó thẫm định được chính xác giá ccông nghệ. Ngoài ra, việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết công nghệ còn kém.
IV. Những tồn tại hiện nay và nguyên nhân
1. Những vấn đề tồn tại:
Hầu hết các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chưa thể hiện việc các nhà đầu tư mang công nghệ mới, hiện đại của thế giới vào Việt Nam. Ngoài việc họ đưa nước ta công nghệ điện tử có tính thời đại nhưng hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài này sản xuất ra vẫn kém tính cạnh tranh so với công ty mẹ của họ. Ngoài ra những dự án chúng ta rất mong mỏi như cơ khí chế tạo, công nghiệp vật liệu, công nghệ kỹ thuật cao thì đến nay vẫn chưa vào Việt Nam. Ngay một số dự án ta vừa ưu đãi trên chính sách, vừa ưu đãi thực tế như công nghiệp ô tô, công nghiệp xe máy…cũng chỉ ở trình độ lắp ráp. Hầu hết các phụ tùng, phụ kiện đòi hỏi sản xuất bằng công nghệ cao đều được chế tạo ở các nước khác rồi đưa vào Việt Nam để lắp ráp.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp FDI tăng qua các năm 2000,2001 nhưng tốc độ tăng không cao, thậm chí năm 2000 chỉ được 01 dự án và giảm so với năm 1997(05 dự án).
Khi lập dự án không ít các nhà đầu tư thường đẩy cao tỷ lệ xuất khẩu (80% hoặc thậm chí 100%) để được cơ quan cấp giấy phép đầu tư nhanh chóng phê duyệt. Tuy nhiên,khi triển khai thực hiện dự án,các doanh nghiệp thường không đảm bảo được tỷ lệ xuất khẩu theo quy định.
Một số các nhà đầu tư e ngại khi đầu tư vào miền Trung nói chung và Đà Nẵng nói riêng là do tình trạng kinh tế xã hội.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, nhưng một số nguyên nhân phải kể đến là:
+ Phần lớn các doanh nghiệp FDI đều muốn tiêu thụ sản phẩm của mình ở nước tiếp nhận đầu tư .
+ Khả năng cạnh tranh của mặt hàng do các doanh nghiệp FDI Việt Nam sản xuất trên thị trường khu vực cũng như thế giới thấp(ví dụ như ô tô, xi măng, sắt thép, giấy…) do đầu tư công nghệ chưa phải là tiên tiến, chất lượng, mẫu mã sản phẩm chưa thật sự hấp dẫn, giá cả còn quá cao do khấu hao đầu tư quá lớn.
+ Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu á dẫn tới mội số doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất ,tạm ngừng sản xuất bộ phận hoặc đình chỉ sản xuất cả nhà máy.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán ra thị trường các loại hàng hoá rất đắt so với nước sở tại và so với các nước lân cận trong khi chính chúng ta vẫn tạo ra các hàng rào bảo hộ cho các loại hàng hoá này. Thể hiện rõ nhất là các dự án lắp ráp ô tô, xe gắn máy. Ngoài ra doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không xuất khẩu hàng tạo ra sự khủng hoảng thừa về hàng hóa, nhất là hàng vật liệu xây dựng.
2. Nguyên nhân
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp FDI chịu sự điều chỉnh của Luật Đầu tư và các luật có liên quan, việc có nhiều quy phạm pháp luật tham gia điều chỉnh cùng một quan hệ pháp luật sẽ không tránh khỏi mâu thuẫn chồng chéo, thậm chí trái ngược lẫn nhau.
Thứ hai, về thủ tục hải quan: mặc dù ngành Hải quan đã có nhiều cải cách nhằm đơn giản hoá thủ tục và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp FDI nhưng trên thực tế vẫn còn quá nhiều trở ngại cho doanh nghiệp như việc áp sai mã thuế, xử lý hàng giao thừa… Thêm vào đó trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ của nhân viên hải quan còn hạn chế cộng với tinh thần thái độ cửa quyền, hách dịch, vòi vĩnh của họ tạo ra ảnh hưởng tiêu cực không đáng có cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Đà Nẵng
Một vấn đề đáng ngại làm nản lòng không ít các nhà đầu tư nữa là các quy định còn rườm rà, phức tạp và trùng lắp về thủ tục cũng như các giấy tờ không cần thiết đã trở thành các rào cản phi thuế quan đáng quan tâm.
Việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước không được thực hiện tốt cũng gây nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp FDI trong hoạt động kinh doanh (giữa Bộ thương mại và Tổng cục Hải quan hay Bộ Thương mại và Bộ Tài chính…)
Thứ ba, về thuế xuất nhập khẩu: các quy định về thuế và mức thuế không nhất quán gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các dự án,không khuyến khích đầu tư mới do thiếu tính ổn định của chính sách thuế.
Thứ tư, ngoài các trở ngại thường gặp như đối với bất kỳ dự án nào trong quá trình cấp giấy phép và phê duyệt sau giấy phép như thủ tục thành lập công ty,các thủ tục về đất đai,giấy phép xây dựng,giấy phép xuất nhập khẩu…,các doanh nghiệp FDI phải đối mặt với một loạt khó khăn được tạo ra bởi các chính sách không mấy hấp dẫn trong những lĩnh vực đầu tư
Sự bảo hộ do các cơ chế thương mại đặt ra hàng năm còn rất cao và bao gồm một diện rộng các mặt hàng. Thương mại bị thu hẹp do các mức thuế quan cao và hay bị thay đổi do các biện pháp phi thuế (hạn ngạch, giấy phép) còn khá phức tạp, cộng với tệ hành chính quan liêu giấy tờ diễn ra thường xuyên ở các cơ quan quản lý.
Các giới hạn về kinh doanh hàng hóa tại Việt Nam và các sản phẩm của mình để tiếp thị hoặc để thoả mản nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được, đã làm giảm tính cạnh tranh và không nhất quán với nền kinh tế thị trường.
Phân biệc đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI vẫn còn tồn tại. Điều này gây ảnh hưởng không chỉ cho tính vận hành có hiệu quả của nền kinh tế thị trường mà còn ảnh hưởng đến môi trường thu hút vốn đầu tư đang sa sút nghiêm trọng như hiện nay.(Ví dụ như chi phí vận chuyển,chi phí cho các tiện nghi sản xuất của các doanh nghiệp FDI cao hơn nhiều so với doanh nghiệp trong nước).
Cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém, làm cho các nhà đầu tư gặp khó khă trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như vận chuyển hàng hoá. Không những thế khí hậu khắc nghiệt, nếu nóng thì rất nóng, còn nếu mưa thì mưa rất lâu ngày mà cơ sở hạ tầng còn quá đơn sơ sẽ gây nên ngập lụt làm tắt nghẽn giao thông cũng như ảnh hưởng đến quá trình sản xuất.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
I. Định hướng hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Đà Nẵng
Hướng tới thế kỷ 21, vào năm 2010 Đà Nẵng sẽ trở thành một trong bốn thành phố lớn của cả nước
Thành phố Đà Nẵng sẽ là một thành phố biển trung tâm vùng kinh tế biển miền Trung, có vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, với vị trí là trung tâm công nghiệp, dịch vụ và du lịch; trung tâm tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông; là một trong những trung tâm về văn hoá, giáo dục, đào tạo, trung tâm khoa học và công nghệ miền Trung. Đà Nẵng là thành phố cảng, đầu mối giao thông quan trọng (cảng biển, sân bay quốc tế,giao thông xuyên Việt, xuyên Á) về vận chuyển và vận tải quốc tế của miền Trung-Tây Nguyên và các nước trong khu vực sông Mê Kông. Thành phố Đà Nẵng còn giữ vị trí trung tâm then chốt về an ninh quốc phòng khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên.
Mục tiêu và định hướng thu hút FDI
1.1. Mục tiêu
Mục tiêu chung: Xây dựng Thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm kinh tế - văn hoá của miền Trung và cả nước.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Phấn đấu đạt mức tăng bình quân tổng sản phẩm ( GDP ) trên địa bàn là 13,5% thời kỳ 2001- 2010.
GDP bình quân đầu người đạt 2000 USD năm 2010.
Phấn đấu tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 21-23%/năm.
Phát triển mạnh các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, xã hội .Giảm tốc độ phát triển dân số tự nhiên xuống dưới mức 1,2% vào năm 2010. Giải quyết việc làm cho khoản 2,2-2,5 vạn lao động mỗi năm. Đến năm 2010 phổ cấp trung học cơ sở trên địa bàn nông thôn, trên 95% số hộ nông thôn được sử dụng nước sạch.
Giảm thiểu các hiện tượng ô nhiễm môi trường ở các khu, cụm công nghiệp, tạo sự trong sạch môi trường sống đô thị.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn thành phố.
Cơ cấu kinh tế của thành phố đến năm 2010 là công nghiệp và xây dựng, dịch vụ, nông, lâm, thuỷ sản
Định hướng
1.2.1. Định hướng phát triển kinh tế-xã hội của thành phốĐà Nẵng trở thành đô thị hiện đại, văn minh, phát triển ổn định và bền vững.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tăng tỉ trọng phát triển công nghiệp hướng vào công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng phục vụ cho xuất khẩu, công nhân vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất, từng bước tăng tỷ trọng dịch vụ và du lịch.
Phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường sinh thái nhằm bảo đảm sư phát triển bền vững của thành phố, bảo vệ sức khoẻ và nâng chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Tạo nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao trình độ dân trí. Tăng cường đầu tư khu vực nông thôn, miền núi .
Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế đa dạng hóa các loại hình sản xuất kinh doanh: phát huy tốt nội lực, tạo môi trường đầu từ thuận lợi, thông thoáng để thu hút vốn và công nghệ mới từ bên ngoài, tăng cường giao lưu kinh tế với các địa phương trong nước và quốc tế .
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi trọng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới.
1.2.2. Định hướng phát triển các ngành kinh tế chủ yếu
Công nghiệp
Cơ cấu công nghiệp cần được điều chỉnh hợp lý hơn theo hướng hình thành các công nghiệp chủ lực trên cơ sở phát triển những ngành có lợi thế về thị trường lao động, tăng cường thiết bị và công nghệ tiên tiến, hiện đại tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Công nghiệp chế biến hải sản, công nghệ thông tin, công nghiệp cơ khí, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, công nghiệp cảng phục vụ kinh tế biển. Đặc biệt ưu tiên đầu tư phát triển những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng lớn về xuất khẩu và hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu.
Hướng phát triển các ngành chính:
Ngành dệt – may – da – giày: củng cố phát triển cả về năng lực sản xuất cũng như chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu, đầu tư đôngf bộ công nghệ n, lựa chọn thiết bị tiên tiến, nâng cao tay nghề công nhân và tổ chức quản lý tốt hoạt dộng sản xuất kinh doanh
Xây dựng từ hai đến ba cơ sở may mặc mạnh. Khuyến khích phát triển các cơ sở may ngoài quốc doanh. Đầu tư một nhà máy sản xuất các phụ kiện cho ngành may. Vừa dáp ứng cho ngành may tại chỗ vừa cung ứng cho các tĩnh lân cận.
Ngành sành sứ, thuỷ tinh, xi măng-vật liệu xây dựng: theo hướng dổi mới công nghệ, thiết bị sản xuất , nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá chủng loại mẫu mã và tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ sán phẩm.
Ngành cơ khí, luyện kim, điện tử: các loại sản phẩm cần chú ý phát triển trong thời gian tới: máy máo phục vụ cho ngành nông lâm thuỷ sản và chế biến, các loại phụ tùng cho ngành công nghiệp nhẹ, công nghiẹp thực phẩm, các cấu kiện kim loại phục vụ xây dựng cơ bản, sản phẩm cơ khí tiêu dùng, hang ngũ kim, khuôn mẫu bằng kim loại phục vụ các ngành sản xuất.
Đầu tư mở rộng, nâng công sức nhà máy cản kéo thép Đà Nẵng. Xây dựng nhà máy sản xuất thép công suất 250-500 nghìn tấn/năm. Đầu tư một nhà máy sản xuất tôn mạ màu và mạ nhôm,
Ngành điện tử cẩn chuyển nhanh sang lắp ráp sản phẩm ở dạng kinh nghiệm rời( IKD) và tiếng tới sản xuất từng phần sản xuất linh nghiệm. Đồng thời mở rộng sang các sản phẩm tin học( máy vi tính ), hệ đièu khiển tự động bằng điện tử để trang bị cho các máy móc sản xuất ngành công nghiệp .
Ngành hoá chất-cao su-giấy: Đầu tư mở rộng và hiện đại hoá Nhà máy bột giặc hoà khánh. Xây dựng mớicơ sở sản xuất hoá dầu, sơn, vẹc ni và chất chống thấm. Đầu tư một nhà máy sản xuất soda. Lắp đặt thêm một dây chuyền sản xuất ôxy tại nhà máy dưỡng khí Đà Nẵng. Hình thành xí nghiệp sản xuất muội than từ dầu cạn phục vụ cho công nghiệp cao su, nhựa. Phát triển các cơ sở sản xuất phân bón tổng hợp phân vi sinh.
Nâng cấp, đồng bộ hoá công nghệ sản xuất xăm lốp ô tô, xe đạp và mô tô. Đầu tư xí nghiệp sản xuất nhựa cứng phục vụ nhu cầu xây dựng cơ bản, trang trí nội thất. Mở rộng sản xuất các sản phẩm từ platic.
Tổ lãnh thổ công nghiệp và hướng phát triển các khu công nghiệp:
Cụm công nghiệp Liên Chiểu với diện tích 373,5 ha. Ngành nghề thu hút: luyện cán thép, ximăng, vật liệu xây dựng, hoá chất, cao su, dịch vụ cảng biển, kho tàng.
Cụm công nghiệp Hoà Khánh: diện tích 423,5 ha. Các loại hình công nghiệp đầu tư: cơ khí lắp rápm hoá chất, nhựa, giấy, sản phẩm sau hoá dầu, sản xuất từ khoáng phi kim loại.
Khu công nghiệp An Đồn: diện tích 63 ha. Thu hút các ngành nghề: dệt và may mặc, giày da và các sản phẩm may da hoặc giả da, sản xuất và lắp ráp thiệt bị điện tử và điện tử, chế biến sản phẩm công nghiệp, thực phẩm và thức uống, sản xuất bao bì, in ấn, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, nữ trang, sản xuất đồ nhựa, lắp ráp tủ lạnh và các sản phẩm có liên quan khác.
Khu công nghiệp Hà Khương: diện tích dự kiến quy hoạch là 300 ha. Các loại hình công nghiệp ưu tiên đầu tư: vật liệu xây dựng, cơ khí, hoá chất, nhựa.
Thương mại
Xây dựng Đà Nẵng trở thành trung tâm giao lưu hàng hóa của miền Trung, đẩy mạnh xuất khẩu. Hình thành các kho trung chuyển, các trung tâm thương mại, khu dịch vụ thương mại tổng hợp và trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế.
Chuyển đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp, các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao thuộc các ngành công nghiệp da, giày, điện, điện tử, sản phẩm nông lâm hải sản chế biến chất lượng cao va xuất khẩu tại chỗ qua hoặc động du lịch, giảm xuất khẩu các sản phẩm thô hoặc sơ chế.
Nghiên cứu và chuẩn bị để phát triển xuất khẩu dịch vụ kỹ thuật phần mềm.
Xuất khẩu dự kiến tăng bình quân 28%/năm thời kỳ 1996-2000 và kim ngạch xuất khẩu đạt 380 USD vào năm 2000, tăng 25%/năm thời kỳ 2001-2010, đạt 3500 triệu USD vào năm 2010.
Định hướng về nhập khẩu : cần đổi mới, hiện đại hoá thiết bị và công nghệ phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển các chợ và các hợp tác xã thương mại dịch vụ theo hướng:cải tạo và nâng cấp cácchợ hiện có ở các quận, thị trấn, đầu tư xây dựng các chợ ở nông thôn, miền núi theo cụm, vùng.
Hình thành một số trung tâm thương mại ở các quận, mộy số siêu thị thương xá ở khu vực Chợ Cồn, Vĩnh trung, chợ Hàn, Bạch Đằng Đông. Quy hoạch khu hội chợ và triển lãm lớn tại khu vực nội thành.
Du lịch: xây dựng du lịch Đà Nẵng trở thành trung tâm du lịch biển kết hợp với du lịch núi, đa dạng hoá các loại hình du lịch như: nghĩ dưỡng, tắm biển, du lịch sinh thái, tham quan; coi trọng cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá địa phương và dân tộc, giá trị tài nguyên thiên nhiên. Gắn du lịch Đà Nẵng với tổng thể du lịch Huế-Đà Nẵng-Quảng Nam (Hội An-Mỹ Sơn) để thực sự là một trong những trung tâm du lịch cả nước.
Hình thành các khu du lịch quốc tế và du lịch nội địa, các điểm du lịch vệ tinh. Nâng cấp bảo tàng Chàm, tôn tạo những di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh hiện có. Xây dựng một số khách sạn tiêu chuẩn quốc tế. Tạo thêm nhiều điểm vui chơi giải trí, văn hoá, thể thao hấp dẫn phục vụ khách du lịch và dân cư.
Dịch vụ: phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ như cảng biển, sân bay, kho vận, vận tải, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, thông tin, tiếp thị…
Thuỷ sản, nông, lâm nghiệp
Thuỷ sản: hướng phát triển đối với kinh tế ven bờ kể cả các hải đảo là thực hiện phương thức kinh doanh hỗn hợp bao gồm đánh bắt, nuôi trồng, chế biến. Xây dựng các đội tàu mạnh đánh bắt xa bờ, trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại và cơ sở hậu cần nghề cá đảm bảo đánh bắt lâu dài trên biển. Chuyển dần chế biến thủ công, sản phẩm thô sang chế biến các sản phẩm tinh có giá trị cao trong xuất khẩu.
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản vên biển. Hình thành các làng cá với các hộ gia đình vừa là dịch vụ du lịch, vừa cung cấp thực phẩm tươi sống có giá trị cao.
Nông nghiệp: phát huy các lợi thế so sánh và các yếu tố cạnh tranh của những vùng nông nghiệp ven đô nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đạt hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích nông nghiệp. Phát triển một ngành nông nghiệp sạch theo hướng đa dạng hóa. Thâm canh cao các cây lương thực chủ yếu với chất lượng luôn cải thiện, đồng thời phát triển nhanh các cây thực phẩm, rau, đậu đỗ, các loại cây ăn quả, hoa,cây cảnh, chăn nuôi “bao gồm cả nuôi trồng thuỷ sản”… với tỷ suất hàng hóa ngày càng cao, đáp ứng yều cầu thị trường, nhất là phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của ngay thành phố.
Phát triển mạnh chăn nuôi gia súc và gia cầm, lấy chăn nuôi hộ gia đình làm nòng cốt, coi trọng chất lượng giống gia súc. Mở rộng nuôi bò lai, bò sữa, lợn nạt và nuôi gà theo phương pháp công nghiệp để tăng hiệu quả chăn nuôi đáp ứng yêu cầu thị hiếu tiêu dùng của thị trường.
Lâm nghiệp: bảo vệ, khôi phục rừng tự nhiên, phát triển trồng rừng trên đất trống đồi trọc, trồng cây chống các và rừng cảnh quan ven biển theo phương thức kết hợp cây lâm nghiệp và cây công nghiệp, cây ăn quả dược liệu, chăn nuôi đại gia súc… theo không gian nhiều tầng. Đưa rừng về gần các đô thị, các khu công nghiệp, khu du lịch và nghĩ dưỡng…
Chuyển lâm nghiệp sang bảo vệ xây dựng và phát triển vốn rừng bảo vệ hệ sinh thái bền vững.
Xây dựng rừng Sơn Trà thành vườn rừng quốc gia. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng và bảo vệ hệ thống rừng phòng hộ đầu nguồn, đồng thời bảo vệ và xây dựng các khu rừng bảo tồn thiên nhiên khu vực Bà Nà, Hải Vân và các khu di tích lịch sử khác… để phục vụ nghiên cứu khoa học và tham quan du lịch.
Giáo dục, khoa học, y tế, văn hoá, xã hội
Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, phát triênt hệ thống trường dạy nghề. Đặc biệt ưu tiên đổi mới công nghệ trong các ngành kinh tế chủ lực.
Xây dựng một hệ thống cơ sở phòng và chữa bệnh hợp lý, đồng bộ, hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.
Phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá thông tin, xã hội hóa công tác thể dục thể thao.
II. Một số giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI
Các giải pháp chủ yếu tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư của FDI ở Đà Nẵng:
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện thuận lưọi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển theo đúng định hướng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản luật pháp về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng: thiết lập một mặt hàng pháp lý cho các đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh; đồng thời áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp đối với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ.
Khi kinh doanh trong một môi trường bình đẳng với các doanh nghiệp của nước chủ nhà sẽ làm cho các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) yên tâm hơn vì họ được nước chủ nhà tôn trọng theo nguyên tắc ngang bằng dân tộc trọng quan hệ quốc tế. Nhằm tạo ra sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các doanh nghiệp trong nước (DNTN) và các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cần sửa đổi các quy định được áp dụng khác nhau giữa DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Trước mắt, rà soát lại tất cả các loại dịch vụ, lệ phí để có sự điều chỉnh hợp lý, thu hẹp khoảng cách giá đối với DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN, giữa giá trong nước và giá của các nước trong khu vực. Thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài theo Quyết định số 53/1999 QĐ-TTg ngày 26 tháng 03 năm 1999 của Thủ tương Chính phủ. Từ đó tạo sân chơi bình đẳng trong hoạt động kinh doanh cho các DNTN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng như tạo môi trường đầu tư cạnh tranh với các nước khu vực.
Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý tăng cường khả năng hợp tác đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với nhà nước và đa dạng hoá hơn nữa các hình thức đầu tư
Tạo điều kiện hơn nữa cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia hợp tác với nước ngoài. Cho phép các dân doanh được góp vốn bằng quyền giá trị quyền sử dụng đất, thành lập công ty cổ phần để huy động góp vốn liên doanh nhằm tăng tỷ lệ tích luỹ đầu tư trong nước và tăng tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam trong hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp FDI được thí điểm chuyển đổi từ công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần được phép ban hành cổ phiếu huy động thêm vốn mở rộng đầu tư, thí điểm thực hiện cho phép nhà ĐTNN mua cổ phần của các DNTN theo một tỷ lệ khống chế nhất định. Tất nhiên hình thức này phải được tiến hành một cách thận trọng cùng với khả năng kiểm tra, kiểm soát cuả nhà nước về kế toán tài chính và ngoại hối đối với doanh nghiệp FDI.
Thứ ba, để khuyến khích và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn DTNN cần phải kết hợp đúng đắn giữa chính sách đầu tư, chính sách thương mại và các chính sách khuyến khích hỗ trợ khác. Lấy chính sách đầu tư làm trọng tâm và chính sách thương mại, chính sách tài chính là công cụ quan trọng định hướng các nhà DTNN. Chính sách thương mại cần được công khai và ổn định trong một thời kỳ dài và theo các cam kết của Việt Nam đã ký trong hiệp định thương mại Việt - Mỹ và trong các hiệp định thương mại song phương với 52 nước và vùng lãnh thổ.
Tiếp tục triển khai thực hiện tốt cơ chế một cửa trong công tác xúc iến đầu tư theo đề án thực hiẹn cải cách thủ tục hành chính của trung tâm xúc tiến đầu tư và ban hành chỉ thị của UBND thành phố về những biện pháp cải tiến thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài (đã có dự thảo và được các sở, ban, ngành tham gia); Tổ chức giao ban về đầu tư thương mại, du lịch định kỳ để kịp thời xử lý các trường hợp phát sinh.
Bảo đảm tổ chức triển khai thực hiện tốt các chính sách ưu đãic của Trung ương cũng như của địa phương đã ban hành như chính sách về thuế, giá thuê đất, các vấn đề liên quan đến đất đai, giải toả đền bù, đặc biệt là quyết định 25/2003/QĐ-UBND do UBND Thành phố ban ngày 03-03-2003.
Đề nghị các ngành hữu quan sớm hoàn thành bản đồ quy hoạch quỹ đất và các nguồn tài nguyên dành cho đầu tư phát triển từng ngành, lĩnh vực… để giới thiệu và định hướng cho các nhà đầu tư.
Vận động mở thêm nhiều chuyến bay quốc tế trực tiếp đến Đà Nẵng từ các nước trong khu vực và thế giới… và các chuyến bay nội địa.
Quan tâm đầu tư phát triển các doanh nghiệp địa phương đủ mạnh để trở thành các đối tác tin cậy và có tiềm năng; khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ để tạo môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư.
Đồng thời nâng cao chất lượng công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài.
Đề nghị UBND Thành phố bố trí ngân sách phù để xây dựng chiến lược xúc tiến đầu tư của thành phố, trong đó xác định rõ các liữnh vực, các đối tác, các địa bàn trọng điểm cần vận động đầu tư. Trên cơ sở đó đề ra các chương trình xúc tiến đầu tư cụ thể hằng năm hàng quý.
Nâng cao chất lượng việc xây dựng danh mục dự án gọi vốn FDI, trong đó các thông tin về mục tiêu, địa điểm hình thức đầu tư, đối tác thực hiện dự án … có độ chính xác và tin cậy cao để làm cơ sở cho việc vận động đầu tư.
Thứ tư, giải quyết kịp thời những khó khăn , vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện dự án.
Đẩy nhanh tiến dộ đền bù, giải phóng mặt bằng, tạo thuận lợi cho việc khai thác các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Uỷ ban nhân dân địa phương kiên quyết tổ chức cưỡng chế thực hiện giải phóng mặt bằng các trường hợp đã được đối xử theo đúng chính sách quy định của Nhà nước nhưng vẫn không chấp hành.
Ban hành các văn bản hướng dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt động trong Khu công nghiệp, Khu chế xuất.
Ban hành các văn bản hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghiã vụ của các bên đối với đất góp vốn vào liên doanh trong trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản hoặc giải thể trước thời hạn.
Thứ năm, hệ thống hoá các văn bản pháp luật và các văn bản pháp quy mới nhất còn hiệu lực, tinh giảm và làm rõ các nội dung cần thiết.
Hoạt động đầu tư nước ngoài không những chịu sự điều chỉnh của Luật ĐTNN mà còn liên quan và chịu sự điều chỉnh của một số luật khác như: Luật Đất đai, Luật Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường, các nghị định và thông tư hướng dẫn nhiệm vụ v.v… Đây là một trong những khó khăn đối với các nhà ĐTNN trong quá trình tìm hiểu, khai thác thị trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Không ít các nhà đầu tư phàn nàn rằng sự đắn đo của họ khi đầu tư vào Việt Nam không phải chỉ vì luật ĐTNN của Việt Nam mà còn một số điều chưa thông thoáng, mà còn do tìm hiểu vận dụng các luật của Việt Nam vào thực tiễn hoạt động đầu tư rất khó khăn và phức tạp. Các văn bản pháp luật chưa ổn định, phải sửa đổi bổ sung liên tục, nhiều điều luật không rõ ràng phải có những văn bản hướng dẫn thực hiện v.v… Vì những lý do trên mà đã làm nản lòng các nhà ĐTNN dẫn đến sự giảm sut đầu tư trong thời gian qua.
Để khắc phục tình trạng đó, ngoài việc hình thành các cơ quan tư vấn pháp luật tư vấn cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN hoặc các cá nhân, tổ chức nước ngoài muốn đầu tư vào. Điển hình như Đà Nẵng đã thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. Đồng thời thường xuyên rà soát, đối chiếu với các văn bản pháp luật có liên quan, tinh giảm, loại bỏ các nội dung trùng lặp, hệ thống hóa các văn bản pháp quy mới nhất để giới thiệu kịp thời cho các giới ĐTNN nhằm giúp họ dễ dàng nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng trong thực tiễn.
Hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI
Thứ nhất, cần xoá bỏ hạn chế về số lượng đối với ccác mặt hàng thuộc diện không cấm nhập khẩu, các linh kiện, nguyên liệu, sản phẩm trung gian không thuộc diện ưu tiên trọng điểm cho chương trình nội địa hoá.
Hiện nay, những quy luật về nội địa hoá, mua và sử dụng nguyên liệu trong nước của Việt Nam đối với một dự án đầu tư như: ngành sản xuất lắp ráp ôtô, lắp ráp xe máy, điện tử dân dụng, nước giải khác v.v… tuy không vi phạm hiệp định WTO-TRIMs nhưng ngày một khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong những ngành yêu cầu tỷ lệ nội quy hoá. Nhiều doanh nghiệp FDI cho rằng tỷ lệ nội quy hoá mà chỉnh phủ Việt Nam đã ra cho họ là quá cao và rất khó thực hiện. Tỷ lệ nội địa hoá đối với các sản phẩm của họ càng cao thì họ càng bị lỗ nhiều vì thuế xuất nhập khẩu đánh vào linh liện rời và cụm linh kiện cao hơn so với hàng nguyên chiếc. Đầu tư mới vào các ngành có yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa cao sẽ không được khuyến khích cao. Nên chăng có thể giảm tỷ lệ nội địa hoá, cho phép các nhà đầu tư tự do nhập khẩu các chi tiết linh kiện để hạ giá thành sản phẩm tăng sức cạnh tranh khuyến khích họ xuất khẩu mà không cần có quyết định khống chế mức giá trần của sản phẩm.
Thứ hai, cho phép các doanh nghiệp FDI được quyền huy động hàng hóa không do họ sản xuất để xuất khẩu.
Các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vốn đã có sẵn mạng lưới tiêu thụ, họ đã quen bạn hàng trên thị trường thế giới, với uy tín và thông tin nhanh nhạy các doanh nghiệp FDI có thể nhanh chóng mở rộng thị trường xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói chung.
Một số doanh nghiệp FDI muốn được kinh doanh thương mại thuần tuý là hoàn toàn hợp lý và chính đáng trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt khi hiệp định Thương mại Việt - Mỹ kí kết ngày 23 tháng 07 năm 2000.Tuy nhiên, Chính phủ không nên cho phép tràn lan mà trước mắt chỉ cho doanh nghiệp đã đầu tư tại Việt Nam được ít nhất 5 năm, làm nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước Việt Nam nghiêm chỉnh được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu thuần tuý. điều này không chỉ có lợi cho người tác động mà còn buộc các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu khẩu Việt Nam phải tự vươn lên khi chúng ta đang trên lộ trình xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng và kiện toàn hệ thống chính sách thuế phù hợp với điều kiện trong nước và thông lệ quốc tế, đa dạng hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt sắc thuế áp dụng các thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo tính ổn định, lâu dài của chính sách thuế.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính, tiền tệ, thông qua việc tạo lập môi trường hành chính lành mạnh, thông thoáng góp phần duy trì các cân đối lớn trong nền kinh tế, vận dụng linh hoạt có hiệu quả các công cụ gián tiếp trong chính sách tiền tệ như:
Xác lập cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng theo xu hướng thả nổi có điều tiết lãi suất theo cung - cầu trên thị trường, từng bước bãi bỏ việc khống chế lãi suất trần. Thực hiện chính sách lãi suất theo thời gian ngắn. Phát triển thị trường vốn tiền tệ với các hình thức đa dạng, thích hợp nhằm thu hút các nguồn vốn dài hạn và trung hạn. Tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển, đây là điều kiện cần thiết thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại tệ và điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng thị trường, hạ giá trị đồng nội tệ, thực hiện chính sách tỷ giá hợp lý, nhất là khi chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) trong khuôn khổ các nước ASEAN.
Thứ năm, chú trọng thức hiện chính sách khuyến khích đầu tư có trọng điểm các ngành công nghệ tiên tiến mà Việt Nam có lợi thuế so sánh…
Dành ưu tiên ưu đãi hơn nữa đối với các dự án FDI đầu tư vào các ngành nông – ngư nghiệp, nghành công nghiệp chế biến nông nghiệp - hải sản, ngành điện tử viễn thông và công nghệ sinh học, những dự án đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, các dự án liên doanh đầu tư vào dạy nghề, xử lý ô nhiễm môi trường.
Trên thực tế, hiện tại Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng đang có lợi thế so sánh nhất định trong nông – lâm- ngư nghiệp, dựa trên những ưu thế sẵn có về tự nhiên đất đai (đất đai, vùng biển, khí hậu nhiệt đới) và về lao động (lực lượng dông, giá nhân công thấp).
Tăng cường thu hút vốn FDI vào Đà Nẵng trong thời gian tới
Mở rộng hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: ngoài các hình thức đầu tư FDI như luật hiện nay quy định, thì Đà Nẵng nên mở rộng và đa dạng hoá các hình thức hơn nữa để các đối tác nước ngoài có thể tự do lựa chọn cho mình một hình thức kinh doanh thích hợp nhất.
Cải tiến các quy chế đầu tư vào các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) ở Đà Nẵng như KCX An Đồn, KCN Hòa Khánh, KCN Liên Chiểu để thu hút mạnh hơn nữa các dự án FDI, cụ thể như:
Giảm gía thuê đất trong các KCN, KCX để đảm bảo cho các chủ đầu tư có lợi, thúc đẩy họ đầu tư vào các KCN, KCX.
Thành phố phải đầu tư đồng bộ để xây dựng kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN, KCX nhằm tạo điều kiện thuận lợi giúp cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của các dự án FDI.
Cần xác định rõ số lượng các lệ phí và phí mà các chủ đầu tư phải có trách nhiệm chi trả, cũng như mức thu của từng loại lệ phí. Tránh tình trạng thu lệ phí quá nhiều, chồng chéo, quá nhiều tổ chức, cơ quan đến thu lệ phí.
Quy hoạch KCN, KCX phải đảm bảo sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Do đó, diện tích đất sử dụng cho mỗi dự án phải phù hợp trước mắt cũng như phát triển lâu dài của dự án.
Phải để nhà đầu tư tự do lựa chọn địa điểm vị trí dự án (trong KCN hay ngoài KCN).
Tu sửa và xây dựng mới kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Kết cấu hạ tầng giữ vai trò quan trọng, nó tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, qua đó quyết định sự tăng trưởng kinh tế, tạo ra chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế đặc biệt là công nghiệp xây dựng và dịch vụ, tạo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Vì vậy, trong thời gian tới thành phố phải tập trung vốn cho việc tu bổ và xây dựng cơ sở hạ tầng. Thành phố phải đầu tư tập trung vào các vùng trọng điểm quyết định tới tăng trưởng kinh tế.
Thành phố phải nhanh chóng có những ưu đãi rõ ràng cụ thể đối với các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT vào các địa bàn trọng điểm để hình thừc nhanh chóng được các nhà đầu tư triển khai và thực hiện, góp phần hôc trợ vốn đầu tư cho ngân sách. Bên cạnh đó khuyến khích đầu tư xây dựng KCN, KCX và đặc biệt trong tương lai không xa thành phố phải nghĩ tới việc thành lập các đặc khu kinh tế để triển khai cơ sở hạ tầng.
Ngoài việc huy dộng FDI cho xây dựng cơ sở hạ tầng, chúng ta phải huy động tối đa vốn ODA và vốn trong nước để đầu tư hổ trợ cho các dự án, đặc biệt là những địa bàn khó khăn. Tiềm năng nông thôn chúng ta còn lứon, nếu thành phố xây dựng hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho khu vực này, điều đó sẽ tạo đà thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Quy hoạch thu hút vốn FDI
Sở kế hoạch và đầu tư cấn nhanh chóng lập quy hoạch các ngành, lãnh thổ, cơ cấu kinh tế thống nhất trên phạm vi cả nước. Trước hết, cần khẩn trương quy hoặc KCN, các sản phẩ m quan trọng thuộc các ngành công nghiệp chế biến như: chế biến thực phẩm, dệt, may; công nghiệp chế tạo như cơ khí vật liệu xây dựng, công nghệ thông tin. Trên cớ sở đó sác định các dự án trong nước có thể kêu gọi đầu tư theo ngành và lãnh thổ cũng như sác định yêu cầu tương ứng với công nghệ thiết bị. Hướng dẫn các công ty, các tập doàn lớn tập trung đầu tư vào các khu vực công nghiệp trọng điểm của Đà Nẵng
Nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động để tạo dụng chíh sác hình ảnh tích cực về thành phố Đà Nẵng trong con mắt nhà đầu tư thông qua việc tăng cường chất lượng và hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền về tiềm năng, cơ hội và môi trường đầu tư tại thành phố thông qua các hội thảo, báo chí, truyền hình và mạng internet.
Đa dạng hoá các hình thức xúc tiến đầu tư, kết hợp xúc tiến thương mại, du lịch với vận động đầu tư; Xây dựng website chuyên về xúc tiến đầu tư kết nối với website của thành phố. Đẩy mạnh việc sử dụng mạng internet trong vận động đầu tư, tiến tới việc hỗ trợ cấp giấy phép qua mạng.
7. Tăng cường công tác huấn luyện đào tạo lại đội ngũ lao động, nâng cao chất lượng nguồn cung cấp lao động cho doanh nghiệp. Quan tâm hơn nữa trong việc tăng thêm thu nhập về tiền lương và chế độ chăm sóc sức khoẻ tới người lao động để phát huy được yếu tô con người trong chiến lược phát triển xuất khẩu hàng hóa trong những năm tới.
Lao động là nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng mọi hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây đang là một trong những nhân tố chủ yếu, hạn chế sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Tại nhiều doanh nghiệp lực lượng lao động được cung cấp không đủ trình độ, không thích nghi được chế độ làm việc, hiệu quả đạt được không cao. Nước ta là một nước có lực lượng dồi dào, giá nhân công rẻ, nhưng để có thể huy động đủ lực lượng lao động đảm bảo trình độ làm việc trong các KCX, KCN lại là một điều khó khăn.
Nguyên nhân của tình trạng này, một phần xuất phát từ hạn chế trong lĩnh vực, ngành nghề đào tạo, từ chính khả năng đáp ứng của thị trường lao động Đà Nẵng. Nhưng đồng thời là do doanh nghiệp chưa gắn hoạt động của mình với thị trường lao động, với các cơ sở đào tạo, nơi sẽ cung cấp lực lượng lao động cho doanh nghiệp của mình. Bởi vậy, khi tiếp nhận lao động thường chỉ được đào tạo về mặt lý thuyết, chưa chuyên sâu, chuyên môn, chưa có sự hiều biết về ngành nghề, về doanh nghiệp, dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao. Nên chăng các doanh nghiệp cần có sự liên kết chặt chẽ với các cơ sở đào tạo, gắn hoạt động đào tạo với quá trình sử dụng, tiến hành các hoạt động tài trợ cho các cơ sở đào tạo để hướng người lao động vào những lĩnh vực cụ thể, qua đó doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc và tuyển chọn ra những lao động giỏi nhất, thích hợp nhất.
Bên cạnh đó cần phải có những biện pháp khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, đảm bảo điều kiện lao động, thời gian làm việc, tạo sự bình đẳng giữa các đối tượng lao động trong doanh nghiệp.
Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tièn lương cũng là một vấn đề vướng mắc cần giải quyết. Đó là sự bất hợp lý về tiền lương giữa người lao động Việt Nam với người lao động nước ngoài và với mặt bằng chung của khu vực và thế giới. Vì cùng một khối lượng công việc, cùng một vị trí như nhau trong một công ty nhưng nhìn chung các lao động Việt Nam lại được trả lương thấp hơn so với lao động là người nước ngoài. Để xây dựng một mức lương hợp lý nhà nước đã ban hành những quy định về mức lương tối thiểu đối với lao động làm trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đã cố tình vi phạm, trả lương cho lao động dưới mức tối thiểu, hoặc vi phạm các quy định về lao động như tăng giờ làm, cắt giảm điều kiện lao động. Nếu các vướng mắc này nhanh chóng không được giải quyết sẽ gây nên tình trạng không đảm bảo về sức khỏe, ức chế tâm lý trong lao động dẫn đến giảm hiệu xuất lao động, thậm chí có thể dẫn tới những phản ứng gây bất lợi cho doanh nghiệp như đình công đòi tăng tiền lương, giảm giờ làm.
Để tránh tình trạng này, về căn bản các doanh nghiệp phải tuân thủ những quy định về tiền lương, về chế độ đãi ngộ lao động, về điều kiện làm việc cho người lao động. Một mặc đảm bảo sức lao động, phù hợp với mặc bằng xã hội và các nước trong khu vực, cũng như đảm bảo cho sự cạnh tranh của công nghiệp. Có như vậy mới tạo ra tâm lý tích cực, thoải mái yên tâm trong người lao động, từ đó mới đem lại hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
8. Các biện pháp hỗ trợ khác
Hỗ trợ các nhà đầu tư tại chỗ trong việc triễn khai thực hiện dự án.
Tổ chức cung ứng tốt các dịch vụ (miễn phí) hỗ trợ các dự án triển khai sau khi cấp phép (thủ tục thành lập công ty, cấp đất, giấy phép xây dựng, đấu thầu, nhập khẩu máy móc thiết bị, tuyển lao động …)
Giải quyết nhanh chóng và hiệu quả những khó khăn vướng mắc của các Doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong quá trình sản xuất – kinh doanh.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tăng vốn mở rộng sản xuất hoặc đầu tư thêm dự án mới.
Xây dựng các mối quan hệ hiệu quả hỗ trợ công tác xúc tiến đầu tư.
Tăng cường sự phối hợp giữa Trung tâm Xúc tiến Đầu tư với các sở, ban, ngành liên quan của thành phố trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu, cung cấp thông tin cho nhà đầu tư, thực hiện hoạt động xúc tiến đầu tư và hỗ trợ nhà đầu tư trong việc xây dựng và triển khai dự án
Phối hợp chặt chẽ với các vụ liên quan thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Trung tâm Xúc tiến Đầu tư miền Trung để tranh thủ sự hỗ trợ của Bộ cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài vào thành phố.
Cũng cố mối quan hệ thường xuyên với một số sứ quán và tham tán kinh tế, thương mại Việt Nam ở nước ngoài và các sứ quán, văn phòng kinh tế, thương mại nước ngoài, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố đà nẵng.doc