Nhà nước còn có vai trò, tổ chức các hội nghị, triển lãm ở trong nước
và quốc tế để quảng bá cho sản phẩm của Việt Nam. Qua các hội nghị, triển
lãm này sẽ kích thích được người tiêu dùng mua hàng hóa của doanh ngiệp.
Nhà nước, thông qua các cơ quan chuyên trách của mình sẽ hỗ trợ, cung
cấp thông tin, tư vấn để các doanh ngiệp có thể mở rộng thị trường trong nước
cũng như thị trường thế giới.
44 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2572 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm đối với các doanh nghiệp công nghiệp ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng việc tiêu
thụ sản phẩm, việc nghiên cứu kinh nghiệm của họ sẽ giúp các doanh nghiệp
của chúng ta có những bài học quý báu về tiêu thụ sản phẩm: sau đây là một
vài ghi nhận về việc thâm nhập thị trường Trung Quốc của công ty sản xuất
máy tính cá nhân Dell của Mỹ.
Công ty Dell ra đời ngày 3/5/1984, do Michael Dell sáng lập (lúc đó
Ông mới tròn 19 tuổi) và đến nay thì công ty Dell đã trở thành công ty dẫn
đầu thế giới về sản xuất máy tính cá nhân (mỗi năm sản xuất khoảng hơn 4tr
chiếc và chiếm khoảng 13% thị phần máy tính cá nhân toàn cầu).
Một nền kinh tế khổng lồ, Trung Quốc đã là thị trường máy tính cá
nhân đứng thứ 5 thế giới (sau Mỹ, Nhật, Đức, Anh) đầu thế kỷ 21. Cùng các
đối thủ cạnh tranh như Compaq, IBM, và Hewlet Packard, Dell kết luận rằng
thị trường máy tính cá nhân Trung Quốc chỉ đơn giản là quá lớn để có thể bỏ
qua. Tránh thị trường bán lẻ tiêu dùng (một cá nhân gần 2 năm dành dụm mới
mua được một máy tính cá nhân ở Trung Quốc), Dell quyết định bán trực tiếp
cho các tập đoàn. Ngược lại, các đối thủ cạnh tranh cơ sở Mỹ dựa vào các
trung gian. Tránh chi phí ở mước trung bình, Dell tin rằng hãng có thể đưa
sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng ở mức giái thấp hơn và cạnh
tranh hơn. Thực tế là thị phần Trung Quốc của Dell đã gấp 3 lần so với năm
1999 và đạt 1,2%, trong khi thị phần của Compaq giảm từ 3,5 xuống 2,7% và
khả năng mà hãng trở thành hãng bán máy tính cá nhân lớn thứ 8 ở Trung
Quốc trong vòng 8 tháng là bằng chứng cho niềm tin này. Làm các đối thủ
cạnh tranh và các nhà phân tích kinh ngạc, Dell học rất nhanh cách thức bán
cho các doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc. Đóng góp vào thành công này
là khả năng của Dell để có được sự hỗ trợ của người đứng đầu bộ phận thông
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 20
tin của các doanh nghiệp này-đây là các viên chức của doanh nghiệp, người
tìm ra và đưa vào doanh nghiệp các giá trị của tốc độ, sự thuận tiện về dịch vụ
gắn với sản phẩm của Dell. Thêm vào đó, lực lượng bán hàng của Dell nhận
thức được rằng các nhà quản trị thông tin trong các doanh nghiệp nhà nước là
những người hiểu biết về công nghệ. Vì khả năng ngày càng tăng trong việc
giải quyết các vấn đề kỹ thuật của họ, các nhà quản trị này và các nhân viên
của họ không cần đến những dịch vụ kỹ thuật lớn (và đắt tiền) cung cấp bởi
các đối thủ cạnh tranh của Dell. Nói về sự thuận tiện của Dell, một giám đốc
của một công ty Trung Quốc cho biết “Dell cung cấp chính xác những cái
chúng tôi cần, và với Dell chúng tôi có thể chọn được chính xác cái chúng tôi
muốn.’’
Như vậy với mô hình kinh doanh trực tiếp, không qua các khâu trung
gian Dell đã đánh bại được các đối thủ cạnh tranh của mình nhờ có giái bán
thấp hơn và đáp ứng được chính xác được những mong muốn của khách hàng.
Đây cũng là một kinh nghiệm tốt cho các doanh nghiệp của chúng ta học tập
về tiêu thụ sản phẩm ở những thị trường mới.
PHẦN II
THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM Ở CÁC DOANH NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY.
I. Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp nước ta
hiện nay
1.Khái quát tình hình kinh tế- xã hội ở nước ta trong những năm gần đây
Sau hơn 15 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn
trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội, đồng thời đã tạo ra bước
phát triển mới về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, hội nhập kinh tế
quốc tế, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng
cao, tạo ra thế và lực mới cũng như khả năng độc lập tự chủ của đất nước
được cải thiện, tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Tốc độ tăng trưởng GDP không ngừng tăng lên, năm 2001 tăng 7,3%,
còn năm 2002 dự kiến tăng 7%. Tích lũy nội bộ không ngừng tăng đạt 27,2%
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 21
năm 2000. Từ một nền kinh tế khủng hoảng thiếu nghiêm trọng, sản xuất
không đáp ứng được cầu của nền kinh tế, nay đã đáp ứng được nhu cầu ở
trong nước và hướng ra xuất khẩu. Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội có bước
phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực.
Quan hệ kinh tế được thiết lập với nhiều nước trên thế giới, chủ động
từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới: đã kí kết nhiều hiệp định thương
mại song phương với nhiều nước trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu không
ngừng tăng lên, nếu như kim ngạch xuất khẩu cả nước năm 1990 chỉ là hơn
2,4 tỉ USD thì đến năm 1995 con số này đã là trên 5,449 tỉ USD, đến năm
1999 kim ngạch xuất khẩu của cả nước là trên 11,5 tỉ USD, năm 2000 con số
này là 14,3 tỉ USD và tính đến tháng 8/2002 kim ngạch xuất khẩu của cả nước
đạt 8tỷ USD.
Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện,
thu nhập bình quân đầu người hiện nay là hơn 400 USD so với đầu những
năm 90 là khoảng hơn 200 USD. Trình độ khoa học, giáo dục, y tế không
ngừng được nâng cao, chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên đáng kể.
Tuy đã có những phát triển như vậy, nhưng nước ta vẫn là một nước
nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển. Nhiều tiềm năng của đất
nước chưa được khai thác và chúng ta vẫn là một trong những nước nghèo
trên thế giới. Một số mặt yếu kém của nền kinh tế- xã hội cần khắc phục:
Nền kinh tế mới chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế
thị trường nên sức cạnh tranh còn yếu. Tích lũy nội bộ và sức mua còn thấp,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa
gắn với thị trường, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lí. Tình trạng bao cấp còn
diễn ra phổ biến, đầu tư nhà nước chưa hiệu quả dẫn đến thất thoát và lãng
phí.
Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc cơ cấu lại và đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, mặc dù đã có chủ trương cổ phần háo doanh nghiệp nhà
nước nhưng tiến trình của nó còn diễn ra quá chậm. Việc thực hiện luật ở
nhiều nơi, nhiều doanh nghiệp còn chưa nghiêm túc, nặng tính hình thức, cơ
chế quản lí, chính sách phân phối chưa hợp lí, chưa có sự tiết kiệm cần thiết,
năng suất lao động chưa cao, chưa kích thích được đầu tư phát triển, chênh
lệch giàu nghèo có xu hướng tăng lên.
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 22
Hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động còn nhiều bất cập do thiếu một
cơ chế thống nhất, có hiệu quả vì vậy nó chưa tạo điều kiện và hỗ trợ cho các
doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.
Khoa học- công nghệ của chúng ta còn lạc hậu, chưa bắt kịp được
trình độ của thế giới, vì vậy nó chưa trở thành động lực cho sự phát triển kinh
tế xã hội.
Trình độ tay nghề đội ngũ lao động của chúng ta còn nhiều hạn chế,
điều này là do công tác đào tạo nghề của chúng ta còn quá kém, không đáp
ứng được nhu cầu của thị trường lao động.
Tình hình kinh tế- xã hội đã tác động mạnh tới các hoạt động tiêu thụ
của doanh nghiệp. Một nền kinh tế phát triển đồng với nhu cầu tiêu dùng của
nó tăng lên, điều này sẽ kích thích sản xuất phát triển và tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp nâng cao khả năng sản xuất của mình, sự phát triển của kinh tế-
xã hội cũng đồng nghĩa với môi trường kinh doanh thay đổi, do đó nó cũng
gây cản trở đối với các doanh nghiệp không thích ứng được, thậm chí nó còn
đánh bật các doanh nghiệp này ra khỏi thị trường.
2. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp hiện
nay.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển
đáng kể mặc dù tình hình thế giới có nhiều biến động. Đầu tiên là sự sụp đổ
của Liên xô và đông Âu làm cho thị trường xuất khẩu chính của chúng ta bị
thu hẹp lại, gần đây là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Á và Đông
Nam Á, gần đây nhất là vụ khủng bố 11/9/2001 ở Mỹ, nó đã tác động đến nền
kinh tế toàn cầu.
Đóng góp bước phát triển của nền kinh tế nước nhà, các doanh nghiệp
công nghiệp đã đạt được những hành tựu lớn góp phần quyết định tốc độ tăng
trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sản xuất liên tục tăng trưởng ở mức cao, bình quân ngành năm (1996-
2000) tăng 13,5% năm. Những xản phẩm quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng giá trị sản xuất công nghiệp, so với năm 95 năm 2000 các sản phẩm sản
xuất tăng cao: Dầu thô khai thác gấp 2,2 lần tăng 16,4% năm, thép cán tăng
gấp 3,6 lần, động cơ Điêzen gấp 3,6 lần, tăng28,9% năm, xi măng gấp 2,3 lần,
tăng18,2% năm,Giầy da tăng 2,0 lần tăng 14,9% năm, Giầy vải gấp 1,8 lần
tăng 12,5% năm, Quần áo may sẵn tăng 1,9 lần tăng 14,2% năm...
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 23
Do không ngừng tăng lên trong sản xuất, các doanh nghiệp công nghiệp
góp phần cải thiện đáng kể nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và đa dạng của
toàn xã hội, tăng khối lượng và chủng loại xản phẩm xuất khẩu, đã một số có
mặt hàng cạnh tranh với hàng ngoại nhập, có nhiều sản phẩm mới có chất
lượng cao được cấp chứng chỉ ISO bổ xung và thay thế hàng ngoại nhập như,
ôtô, xe máy, tủ lạnh, máy giặt, máy văn phòng, mạch in điện tử, thiết bị
chuyền thông, những sản phẩm ngành tin học.... Nhiều sản phẩm xuất khẩu có
chất lượng giá trị lớn như: Dầu thô, thuỷ hải sản chế biến, giầy dép, quần áo
may sẵn.
Tăng trưởng liên tục ở mức cao của các doanh nghiệp công nghiệp góp
phần tác động đến chuyển dịch cơ cấu chung của nền kinh tế, các cơ sở vật
chất kỹ thuật cho sản xuất được tăng cường, nhiêu công nghệ mới đuợc áp
dụng mang lại hiệu quả kinh doanh cao cao cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên
cũng có một số các doanh nghiệp chưa đổi mới công nghệ vẫn sử dung những
công nghệ của những năm 60, công suất sử dung thấp vốn đầu tư trong các
doanh nghiệp tăng nhanh, tuy nhiên chỉ có các doanh nghiệp công nghiệp lớn
là đảm bảo được mức vốn cần thiết. Hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp
vừa và nhỏ mức vốn còn quá thấp, không đủ tiền năng để phát triển nhanh .
Có thể nói sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp trong
những năm gần đây đã đạt hiêu quả cao cả về mặt kinh tế và xã hội, góp phần
thúc đẩy lưu thông, thông suốt hàng hoá từ thành thị đến nông thôn, tư miền
xuôi đến miền ngược, đảm bảo quy luật cơ bản của kinh tế thị trường là ở đâu
có cầu là ở đó có cung. Điều này được thể hiện rõ ở nhiêù doanh nghiệp công
nghiệp trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
Trong nước các doanh nghiệp đã dần khắc phục tình trạng nhập khẩu sản
phẩm công nghiệp từ nước ngoài, các sản phẩm đã có sức canh tranh trên thị
trường, một số sản phẩm có thể đánh bại hàng ngoại trên thị trường trong
nước tạo được uy tín với khách hàng.
Công ty Tribeco là doanh nghiệp sản xuất nước giải khát tại thành phố
HCM, đã có lúc công ty phải điu đứng do không cạnh tranh nổi với hai đại gia
đến từ Mỹ, đó là Pepsi và Coca Cola, hai công ty này đã đánh bật Tribeco ra
khỏi thị trường của chính mình trong cuộc chiến giảm giá. Nhưng chỉ sau hai
năm, năm 2001 Tribeco đã phục hồi và nay đang chuẩn bị trở thành công ty
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 24
cổ phần 100% vốn tư nhân sản xuất nước giải khát đầu tiên niêm yết cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán.
“Cuộc chiến giảm giá nước ngọt những năm 1998- 1999 của Pepsi và
Coca Cola’’ đã đẩy các chai nước giải khát có ga của Tribeco về miền Đông.
Sản lượng thời hoàng kim của công ty (1993- 1994) là 30 triệu lít/năm, đến
năm 1999 chỉ còn 4 triệu lít. Lợi nhuận sau thuế của công ty ở mức 6,8 tỉ
đồng năm 1995 rớt xuống còn 200 triệu đồng năm 1999.
Tuy bị thất điên bát đảo trên thị trường như vậy nhưng Tribeco cầm cự
được là nhờ có sự chuẩn bị của những người điều hành công ty thời trước đó.
Năm 1995 họ đã liệu rằng nước ngọt có ga của mình sẽ giảm thị phần tring
tương lai, công ty đã khai thác một thị trường mới, đó là nước giải khát không
ga: sữa đậu nành đóng chai. Sản phẩm này chưa có đối thủ quốc tế cạnh tranh.
Năm 2000 cuộc chiến giảm giá kết thúc, Tribeco lại có cơ hội phát triển. Từ
cuộc cạnh tranh này Tribeco đã nhận ra rằng họ phải cải tổ lại toàn bộ mới
mong có cơ hội phát triển, công ty đã duy trì chiến lược giá thấp hơn các đối
thủ cạnh tranh để không mất thị phần ở các tỉnh. Công ty cũng đang có chiến
lược sản xuất nước uống “xanh’’, đó là nước uống làm từ trái cây. Lợi nhuận
sau thuế của công ty tăng nhanh: năm 2000 đạt 6,6 tỉ đồng, năm 2001 đạt 8,3
tỉ đồng, năm 2002 dự kiến đạt 29,4 tỉ đồng. Việc Tribeco tham gia thị trường
chứng khoán sẽ mở ra một thời kỳ phát triển mới cho công ty.
Cùng với sự tăng lên của thu nhập, đời sống vật chất tăng lên thì nhu cầu
về may mặc cũng tăng theo. Đây là cơ hội tốt cho ngành dệt may việt nam
phát triển, có rất nhiều công ty đã lắm bắt được cơ hội này và tổ chức kinh
doanh có hiệu quả trong đó phải kể đến như công ty may Chiến Thắng, công
ty may Nhà Bè, cong ty may Nam Phương…, các công ty này đã không
ngừng đầu tư, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cho ra thị
trường những sản phẩm có chất lượng cao không thua kém gì hàng ngoại
nhập nhưng có giá thấp hơn nhiều so với hàng ngoại, do đó hàng hóa của các
công ty này đã chiến lĩnh được thị trường trong nước và gây được thiện cảm
đối với khách hàng. Sản phẩm của các công ty này được tiêu thụ từ Bắc vào
Nam, nhờ đó mà người lao động của công ty có việc làm ổn định với thu nhập
bình quân trên dưới 1 triệu đồng.
Bên cạnh sự thành công của các công ty dệt may, các công ty da giầy
cũng rất thành công trong việc chiếm lĩnh thị trường nội địa và vươn ra thị
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 25
trường thế giới, kim ngạch xuất khẩu của ngành ước tính đạt 1,25 tỉ USD,
trong đó phải kể đến sản phẩm của Biti’s, Bitas. Hai công ty này đã lắm bắt
được nhu cầu, thị hiếu về giầy dép ở trong nước, từ đó tung ra thị trường
những sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng.
Sản phẩm của các công ty này đã nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường
trong nước bàng chất lượng và giá cả, sản phẩm của Bitis hiện đang thâm
nhập thị trường Mỹ vàcũng có được những thành công bước đầu. Hy vọng
cùng với các chiến lược hợp lí trong tương lai hai công ty này còn thành công
hơn nữa.
Thời báo thương mại số 4/ 98 công ty Thiên Long thành lập năm 81 đã
trải qua những thăng chầm của nền kinh tế của thập kỷ 80, hơn ai hết công ty
hiểu rằng để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường không thể dựa
vào ai khác mà phải bằng chính nỗ lực của toàn thể công nhân viên trong
công ty. Hiên nay công ty đang củng cố và phát triển chất lượng sản phẩm, uy
tín của mình, công ty đã tung ra thị trường 12 lọai sản phẩm bút bi và mực
viết các loại như: Bút dạ, bút kim, dạ đỏi màu, but dạ quang, mực viết .. và đã
chiếm lĩnh thị trường với mạng lưới phân phối rộng khắp.
Được cấp giấy phép đầu tư 9/ 1990 xí nghiệp liên doanh Sài Gòn
vewong là đơn vị được hình thành trên liên doanh giữa công ty lương thực
TP.HCM và tập đòan vewong ( Đài Loan) sản phẩm đầu tiên công ty tung ra
thị trường là mỳ ăn liền cao cấp mang nhãn hiệu A-ONE Lúc đầu do sản
phẩm chưa được người tiêu dùng biết đến, chi phí cao... nên sản lượng tiêu
thụ thấp.Công ty cho nghiên cứ thị trường và biết rằng muốn chinh phục được
khách hàng thì sản phẩm sản xuất ra phải có chất lương cao, giá cả hợp lý,
nhận thức được diều này công ty đã thực hiện một số những thay đổi về chiến
lược sản xuất kinh doanh của mình là quảng cáo tiếp thị để A- ONE được
người tiêu dùng biết đến, nâng cao chất lượng sản phẩm. Với những thay đổi
đó công ty đã đạt được những thành công lớn sản phẩm được người tiêu dùng
biết đến với chất lượng cao, giá cả hợp lý và được bình chọn là hàng việt nam
chất lượng cao năm 2000.
Nhìn chung trong những năm gần đây hoạt động tiêu thụ của các doanh
nghiệp trong nước đã có nhiều chuyển dịch tích cực. Từ chỗ mọi sản phẩm
sản xuất ra đều được tiêu thụ theo hình thức phân phối theo chỉ tiêu nhà nước
giao. Đến nay, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được chủ động
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 26
từ khâu thiết kế đến lên kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Doanh
nghiệp phải tìm cách đưa sản phẩm của mình đến với người tiêu dùng, doanh
nghiệp tự tạo lập hệ thống mạng lưới tiêu thụ để đáp ứng kịp thời nhu cầu của
người tiêu dùng, tạo ra lợi thế so với hàng ngoại nhập và từng bước thay thế
nó. Tuy nhiên trong thời gian tới, để nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng
hóa ngoại nhập thì các doanh nghiệp của chúng ta phải đặc biệt trú trọng đến
việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, nâng cao
hiệu quả sản xuất qua đó giảm giá thành, đổi mới công nghệ, áp dụng các tiêu
chuẩn về chất lượng sản phẩm của quốc gia cũng như của quốc tế…
Ngành thép của Việt Nam, sức cạnh tranh còn rất kém, nếu không có sự
bảo hộ của nhà nước thì sẽ không thể cạnh tranh nổi với hàng thép ngoại
nhập. Hầu hết các doanh ngiệp sản xuất thép của chúng ta đã hết khấu hao
hoặc gần hết khâu hao tài sản cố định, do đó giá thép của chúng ta đắt hơn
nhiều so với giá thép nhập. Mặt khác do được Nhà nước bảo hộ nên công
nghệ, kỹ thuật, tay nghề còn nhiều yếu kém. Một số công ty liên doanh sản
xuất thép, tuy chất lượng tốt nhưng giá cả còn quá cao so với thép nhập. Vì
vậy để hội nhập vào khu vực, nhất thiết ngành thép của chúng ta phải đổi mới
cung cách làm ăn, từ hoạch định chiến lược đến sản xuất, không ngừng đầu tư
đổi mới công nghệ, tăng cường đào tạo cán bộ, công nhân để nâng cao tay
nghề của họ. Chỉ có như vậy thì ngành thép của chúng ta mới bắt kịp các
nước trong khu vực.
Bên cạnh ngành thép, ngành giấy Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn
khi mà giá giấy sản xuất ra đắt hơn giá giấy nhập khẩu khoảng 11%, do đó
lượng giấy tồn kho là rất lớn mà nguyên nhân chủ yếu là đầu tư không hiệu
quả và quá trình đổi mới còn chậm, không đáp ứng được nhu cầu thực tế đặt
ra. Đây là điều đáng báo động cho ngành giấy Việt Nam vì chẳng còn bao lâu
nữa Việt Nam sẽ chính thức ra nhập AFTA, lúc đó thuế nhập khẩu giấy còn
rất thấp, thậm chí là bằng không. Nếu không có sự đổi mới kịp thời thì ngành
giấy Việt Nam khó có thể tồn tại được trong những năm sắp tới.
Trong thời gian gần đây, với sự đầu tư đúng đắn cùng với những nỗ lực
trong sản xuất cũng như tiêu thụ các doanh nghiệp của chúng ta đã không
những chiếm lĩnh được thị trường trong nước mà còn vươn ra thị trường thế
giới như EU, Mỹ, Nhật, Bắc Mỹ…và kết quả là tổng kim ngạch xuất liên tục
tăng với tốc độ tăng xuất khẩu 26%/năm(thời kỳ 91-95), năm 96 tổng kim
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 27
ngạch xuất khẩu đạt 18,4 tỷ USD chiếm 46,4% tổng kim ngạch của 5 năm 91-
95(39,14 tỷ USD), tuy nhiên do cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 97-
98 đã làm cho hàng xuất khẩu của việt nam có xu hướng giảm. các mặt hàng
xuất khẩu chủ yếu của chúng ta là dệt may, giầy dép, bánh kẹo và trong thời
gian tới sẽ có cả tên mặt hàng nhựa. Tuy vậy hàng xuất khẩu của chúng ta vẫn
chủ yếu là những hàng hóa thô hoặc mới qua sơ chế hoặc là gia công cho
nước ngoài, nên giá trị xuất khẩu không cao.
Trong những năm gần đây, cao su và cà phê luôn được mùa nhưng giá cả
lại luôn lên xuống thất thường, do đó nó tác động sấu đến các doanh nghiệp
chế biến xuất khẩu hai mặt hàng này, mặt khác các doanh nghiệp của ta mới
chủ yếu là chế biến và xuất ở rạng thô nên giá trị là rất thấp và hay bị ép giá:
Công ty xuất nhập khẩu Đồng Nai(DONIMEX) với hai mặt hàng xuấtkhẩu
chính là cao xu và cà phê. Trong những năm gần đây mỗi năm công ty xuất
khẩu khoảng 10 nghìn tấn cao su chủ yếu sang thị trường Trung Quốc. Từ
cuối năm 96 đến nay việc xuất khẩu cao su gặp nhiều kho khăn do giá cao su
phía Trung Quốc mua với giá thấp hơn so với giá tổng công ty cao su Việt
Nam bán cho các doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường xuất
khẩu cao su của ta hạn chế dẫn đến việc bị ép giá mà vẫn phải chịu, đây là
trường hợp phổ biến của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam
trong thời gian qua, điều đó thể hiện sự hạn chế về thị trường, sức mạnh của
sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Điều này cần tập
chung giải quyết trong thời gian tới.
Ngành dệt may đã lớn mạnh cùng với sự phát triển của đất nước, nó
chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của việt nam. Hàng năm tốc độ
tăng trưởng của ngành đạt 20-30%, năm 2001 các doanh nghiệp may đã xuất
khẩu hàng hóa với tổng giá trị gần 3 tỉ USD, chỉ đứng sau ngành dầu khí. Chỉ
tính đến tháng 9 năm 2002 các doanh nghiệp may việt nam đã xuất khẩu được
1,4 tỉ USD, trong đó xuất vào thị trường EU đạt 450 tỉ còn thị trường Mỹ đạt
420 tỉ USD. Công ty may thành công phải kể đến đó là công ty xuất khẩu Tân
Châu trực thuộc tổng công ty dệt may Việt Nam, tuy mới thành lập năm 92
nhưng đã nhanh chóng đạt được kết quả tốt trong sản xuất kinh doanh. Kim
ngạch xuất khẩu tăng từ 386000 USD năm 92 lên 8,1 triệu năm 98. năm 1999
công ty đạt doanh thu trên 25 tỉ đồng trong đó sản xuất hàng FOB là 3,2 tỉ
đồng. đạt được thành tích này là do nguồn hàng tương đối ổn định, tình hình
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 28
xuất khẩu gặp thuận lợi, trình độ tay nghề của công nhân cao đảm bảo chất
lượng hàng hóa xuất khẩu. Ngoài ra cũng phải kể đến Công ty may Chiến
Thắng, Công ty may Nhà Bè, Công Ty May 10, Dệt kim Thăng Long…tuy
các công ty may đã có bước phát triển rất đáng kể, nhưng để phát triển trong
tương lai thì vẫn còn nhiều việc phải làm, rào cản trước mắt đó là việu liên
minh châu Âu dùng hạn ngạch nhập khẩu đối với hàng may của Việt Nam,
còn Mỹ cũng đáng thuế hàng may của Việt Nam cao hơn các nước khác. Hơn
nữa hàng may xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là gia công cho các công ty
nước ngoài nên lợi nhuận thu được không đáng kể. Vì vậy trong thời gian tới
các doanh ngiệp của chúng ta phải chủ động đầu tư, đổi mới công nghệ,áp
dụng các tiêu chuẩn ISO, SA8000 vào sản xuất để nâng cao chất lượng sản
phẩm để từ đó sẽ xuất khẩu trực tiếp sản phẩm sang nước ngoài.
Gần đây mặt hàng nhựa đã trở thành mặt hàng xuất khẩu có giá trị của
Việt Nam. Sau hiệp định thương mại Việt- Mỹ, ngành nhựa thành phố HCM
đã kí thỏa thuận xuất khẩu sang Mỹ sản phẩm nhựa trị giá 20tr USD. Đầu
tháng 11/2002 các doanh ngiệp nhựa đã thỏa thuận với các nước châu Phi để
mở rộng thị trường ở đây, do chi phí vận chyển cao nên các doanh ngiệp nhựa
của chúng ta đã quyết định đầu tư 14tr USD để xây dựng hai nhà máy sản
xuất nhựa ngay tại châu Phi, đây là một hướng đi đúng của ngành nhựa Việt
Nam vì thị trường châu Phi là một thị trường lớn và đầy tiềm năng, nó hứa
hẹn sẽ mở ra một trang phát triển mới cho ngành nhựa Việt Nam. Ngoài thị
trường châu Phi, các doanh ngiệp nhựa còn có kế hoạch thâm nhập thị trường
Trung Đông và Tây Á . Ngành nhựa thành phố HCM đã có hợp đồng 1tr USD
với cac công ty hàng không của Iran, đây sẽ là cú hích cho ngành nhựa Việt
Nam phát triển ở thị trường Trung Đông. Các công ty sản xuất nhựa của
chúng ta đang tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, từng bước nâng cao chất
lượng sản phẩm với chiến lược hướng ra thị trường thế giới. Trong tương lai
không xa, sản phẩm nhựa sẽ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Như vậy trong những năm qua sản phẩm của các doanh nghiệp công
nghiệp nước ta đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của cả thị trường trong
nước cũng như thị trường xuất khẩu và dần được mở rộng nhất là sau hiệp
định thương mại Việt – Mỹ được ký kết một thị trường mới cho các doanh
nghiệp công nghiệp được mở ra tạo nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên các doanh nghiệp còn cần phải khắc phục nhiều hạn chế trong quá
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 29
trình thâm nhập thị trường mới đảm bảo được thăng lợi, cơ bản nhất là phải
bảo đảm về số lượng, chất lượng và chủng loại của sản phẩm xuất khẩu các
doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường về luật pháp để tránh tình trạnh vi
phạm pháp luật mà không biết.
II. Đánh giá chung về hoạt động tiêu thụ của các doanh ngiệp công
nghiệp trong thời gian qua.
Sau hơn 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành
tựu hết sức to lớn, góp phần làm ổn định đời sống của nhân dân, từng bước
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ sở hạ tầng ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên
vẫn còn những tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới.
1. Những thành tựu đạt được
Các sản phẩm công nghiệp đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng trong nướcvà dần dần thay thế hàng nhập khẩu, các doanh nghiệp chú
trọng phát triển những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Sản phảm
của nhiều doanh nghiệp đã được bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao
như sản phẩm giầy dép Biti’s, rượu vang Thăng Long, bút bi, mực viết Thiên
Long...
Nhiều doanh nghiệp được cấp chướng chỉ ISO 9000. ở một số lĩnh vực
hàng Việt Nam chiếm ưu thế hơn hẳn so với hàng ngoại nhập như chế biến đồ
hộp, bánh kẹo, nước giải khát...
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế cơ sở vật chất, kỹ thuật hạ tầng
được nâng cao dúp cho mạng lưới lưu thông hàng hóa được mở rộng và thông
suốthị trườngới từng ngõ ngách của thị trường những vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng sa, ngày càng tràn ngập hàng hóa phục vụ tốt nhu cầu mua sắm của
người dân, gó phần làm kingh tế phát triển, nâng cao trìng độ dân chí đời sống
vật chất tinh thần cho người dân.
Với thị trường trong nưôc có thể nói đây là nơi tiêu thụ, đại đa số các sản
phẩm của các doanh nghiệp dệt may, ngánh sứ, thủy tinh, thuốc lá, tạp phẩm,
nhựa,chế biến thực phẩm, chế biến gỗ,chất tẩy rửa. Đây là các loại sản phẩm
đã được sự giao lưu luân chuyển trong nước, có dung lượng tiêu thụ trong
nước lớn. Tuy nhiên những mặt hàng này nhiều khi bị hàng ngoại theo nhiều
hướng nhập vào cạnh tranh gay gắt đặc biệt là sản phẩm dệt,hàng dân dụng,
thuốc lá, song do biết lựa chon chiến lược sản xuất kinh doanh đúng đắn, tiêu
thụ phù hợp, cộng vớicác yếu tốvề chất lượng, giá cả... mà các doanh nghiệp
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 30
sản xuất hàng công nghiệp tiêu dùng vừa và nhỏ vẫn đang đứng vững và có
triển vọng đi lên, điển hìng là các doanh nghiệp làm giấy, thực phẩm... Ví dụ,
nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đã phối hợp liên doanh với các doanh nghiệp
trong tổng công ty giấy Việt Nam nghiên cứu thành công và đưa vào sản xuất
mặt hàng giấy Kraft làm vách ngoài của carton làn sóng. So sánh với nặt hàng
cùng loại của các nhà máy giấy trong nước, giấy của Hoàng Văt Thụ là tốt
nhấtnó có độ bền và độ chặt cao hơn hẳn, độ chống ẩm tốt, sử dụng cho cả
bao bì thủy hải sản đông lạnh, chính vì vậy sau khi đưa vào sản xuất đại chà,
nhà máy đã có nhiều khách hàng ổn định từ mọi miền của đất nước từ Hà Nội,
Hải Phòng, TPHCM, ngoài ra nhà máy còn sản xuất được 500 tấn giấy chất
lượng cao thay thế được một số giấy bao bì trước đây nhập ngoại đó là giấy
gói thuốc sát trùng. Thành công trong việc lựa chọn sản phẩm, kẽ hở của thị
trường này, cùng với các mặt hàng truyền thống lâu đời như giấy gói kiện
diêm... Đã tạo cơ sở cho nhà máy có quy mô vừa và nhỏ Hoàng Văn Thụ
đứng vững trong cơ chế thị trường.
Một điều dễ nhận thấy trong năm vừa qua đó là sự cạnh tranhmạnh mẽ
của các công ty bánh kẹo trong và ngoài nước bằng các hình thức như là đầu
tư vào việc nâng cao công nghệ sản xuất nhằm đưa ra những sản phẩm có
chất lượng cao, in bao bì với nhiều kiểu dáng và mẫu mã đẹp, sử dụng các
hình thức khuyến mại, giá cả hợp lý ví dụ như công ty Hải Hà đã giảm giá từ
28000đ đến 10000đ / 1gói, bánh của công ty Kinh Đô ... tất cả đều phù hợp với
túi tiền của người tiêu dùng có thể thấy bánh kẹo trong nước đã đần chiếm
được thị trường trước các loại bánh kẹo của Trung Quốc mấy năm gần đây
tiêu thụ rất chậmmặc dù giá rẽ hơn hàng Việt Nam từ 5000 – 1000đ điều này
thể hiện quẩn lượng tiêu thụ của các doanh nghiệp qua hai mùa trung thu vừa
qua năm 2000 và năm2001.
Thị trường ngoài nước, năm 2001 mở đầu thực hiện nghị quyết của Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 và chiến
lược 10 năm phát triển kinh tế xã hội, xây dựng nền tảng kinh tế đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, năm 2001 cũng là năm thực
hiện chiến lược xuất nhập khẩu đã được chính phủ phê duyệt năm 2000 với
chủ trương đó tính đến cuối tháng 8 năm 2001, kim ngạch xuất khẩu của cả
nước ước tính đạt1,45 tỷ USD tăng 12% cùng kỳ năm 2000 trong đó xuất
khẩu hàng tiêu dùng tăng 13% còn xuất khẩu dịch vụ tăng 15,2%. Cụ thể
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 31
hàng thủy hải sản ước tính đạt 360 tr USD tăng 5,5% gạo xuất khẩu hai tháng
đầu năm đạt 439tr tấn trị giá 73 triệu tăng 16% về lượng, cao su quý một ước
tính xuất khẩu70000 tấn đạt 49tr USD tăng 15%, mặt hàng lạc nhân những
tháng đầu năm 2001 xuất khẩu đã khởi sắc do khôi phục và mở rộng thị
trường ở vung miền đông Liên bang nga. Dự báo nếu xúc tiến thương mại tốt
và giải quyết tốt những khó khăn trong khâu thanh toán với Nga mặt hàng này
có khả năng tang trưởng mạnh.
Một số mặt hàng chủ chốt có tốc độ tăng kim ngạch xuất hẩu thấp hơn
mức tăng chung nhưng cao hơn cùng kỳ năm 2000 gồm có hạt điều, chè, hàng
điện tử, và linh kiện máy, hàng thủ công mỹ nghệ .
Từ những số liệu kể trên có thể khẳng định rằng do nhận thức đúng tình
hình các doanh nghiệp công nghiệp đã đạt được những kết quả nổi bật, đặc
biệt không thẻ không kể đến các doanh nghiệp trong ngành may và da giày đã
đóng góp không nhỏ vào vao việc nâng cao tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
năm của nước ta.
2. Những khó khăn, hạn chế cần khắc phục
Bên cạnh những thành công của nhiều doanh nghiệp cũng không ít các
doanh nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường và mắc phải những
sai lầm nghiêm trọng dẫn đến những khó khăn trong cạnh tranh.
Khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp trên trị trường trong
nước và nước ngoài thấp chỉ có một số doanh nghiệp cạnh tranh được với
hàng ngoại nhập còn lại hầu hết các mặt hàng công nghiệp chưa đủ sức cạnh
tranh với hàng ngoại nhập nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất ra do
không sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật cao, chủ yếu cung cấp cho các
đối tượng bình dân ở địa phương, tiêu thụ ở các địa phương khác không đáng
kể. Các sản phẩm cạnh tranh với hàng nước ngoài khá hiếm chủ yếu tập
chung vào ngành may, giầy dép, gia công, xuất khẩu gốm, sứ, mỹ nghệ.
Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ và đặc biệt là các doanh
nghiệp công nghiệp ngoài quốc doanh rất thiếu thông tin về thị trương công
nghệ, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, xu hướng phát triển ngành khoa học
kỹ thuật và mặt hàng do thiếu hệ thống cung cấp chuyên môn. Một kết quả
điều tra cho thấy một tỉnh 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ không biết về các
đối thủ cạnh tranh, không nắm được những thay đổi, đổi mới về công nghệ
trong và ngoài nước ngay trong lĩnh vực mình hoạt động. Quan hệ qua lại về
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 32
mặt cung cấp thông tin cho sản xuất kinh doanh và phát triển giữa các doanh
nghiệp quy mô lớn có tiền năng nghiên cứu phát triển nắm bắt thị trường cơ
hội đầu tư ... với các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp vừa và nhỏ chưa có
nề nếp, thiếu gắn bó và nhiều khi thiếu bình đẳng, chưa trên cơ sở gắn bó lợi
ích với nhau và nặng về “giúp đỡ”, “ nhờ vả”, “lệ thuộc”.
Lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp thường là các lao động có
tay nghề kém, trình độ quản lý thấp, năng suất chưa cao. Ngoại trừ các doanh
nghiệp công nghiệp quốc doanh và trung ương còn lại các doanh nghiệp công
nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương người lao động chưa được đào tạo cơ bản.
Rất ít các lao động được qua các trường dạy nghề chuyên ngành mà chủ yếu
là vừa học, vừa làm ngay tại cơ sở sản xuất.
Nhiều doanh nghiệp công nghiệp hoàn toàn thụ động trong việc tiếp cận
thị trường và định hướng khách hàng. Hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn sản
xuất các sản phẩm với giá trị gia tăng thấp trong khi nhu cầu thị trường thế
giới đã có sự chuyển đổi. Từ đó hiệu quả hoạt đông thấp, lại chịu ảnh hưởng
của các nhà sản xuất, tập đoàn quốc tế hùng mạnh
Vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp trên thị trường khu
vực và trên thế giới chưa được khẳng định phần nhiều các doanh phải dựa vào
đối tác nước ngoài về biểu trưng, thiết kế sản phẩm, quy trình công nghệ, tiếp
thị và phân phối sản phẩm. Có thể nói thách thức lớn nhất đối với các doanh
nghiệp trong lúc này là: làm sao tạo được biểu trưng, nhãn hiệu rêng cho sản
phẩm của mình, giao dịch trực tiếp với khách hàng và kiểm soát được kênh
phân phối. Chẳng hạn như kẹo dừa Bến Tre – sở dĩ thắng được kiện về quyền
sở hữu công nghiệp, tìm lại và mở rộng được thị trường của mình ở Trung
Quốc, Ma Cao, Hồng Công, chính là nhờ khẳng định được uy tín về chất
lượng và giá cả hợp lý.
Sự phối hợp của nhà nước và các doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao.
Trong vai chò là người hỗ trợ cho các doanh nghiệp, nhà nước chưa có chính
sách, cơ chế hợp lý thúc đẩy hoạt động tiêu thụ cho các doanh nghiệp nhất là
hoạt động xuất khẩu. Đề xuất của các doanh nghiệp thường phải trải qua một
hệ thống các quy tắc hành chính rất phức tạp đôi khi làm lỡ mất các cơ hội
kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng khi mắc phải sai lầm thường
không phải chịu trách nhiệm vật chất
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 33
Một số những tồn tại nhưng không thể phủ nhận là tiềm năng của các
doanh nghiệp công nghiệp là rất lớn mà lại thiếu các biện pháp đồng bộ, đủ
mạnh để khai thác tầm vĩ mô lẫn vi mô. Minh chứng cho nhận định này có thể
lấy miền núi, trung du làm ví dụ, đây là vùng có lợi thế về tài nguyên thiên
nhiên của rừng và trong lòng đất, là vùng nguyên liệu lý tưởng, nhưng lại
chậm phát triển và nhiều mảng thị trường còn bỏ trống và luôn được coi là
hưởng ưu đãi trong đầu tư, nhưng cụ thể sự ưu đãi đó ra sao thì chúng ta chưa
làm được cho nên công nghiệp hàng tiêu dùng ở đây vẫn còn èo ọt, chủ yếu là
các cơ sở cũ để lại.
Trên đây là một vài khó khăn tồn đọng, đòi hỏi các doanh ngiệp, chính
phủ cần lỗ lực hơn nữa trong việc cải thiện môi trường kinh doanh. Chính phủ
phải cố gắng tạo ra cơ chế, chính sách bình đẳng, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn về phía các
doanh nghiệp phải tập trung xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh
đúng đắn, phù hợp với năng lực của doanh ngiệp và với điều kiện môi trường
kinh doanh luôn biến động. Chỉ có như vậy thì ngành công nghiệp của chúng
ta mới có thể đứng vững trên thị trường nội địa, từng bước phát triển, vươn ra
thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 34
PHẦN III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG TIÊU
THỤ SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGIỆP CÔNG NGHIỆP
I.Định hướng phát triển kinh tế trong giai đoạn 2001- 2010
1. Mục tiêu.
Bước vào năm 2001 năm đầu của thế kỷ 21, đồng thời cũng là năm đánh
dấu bước đầu tiên thực hiện nghị quyết trung ươngcủa đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX Với mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 là: Đưa
đất nước ta khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rệt đời sống của nhân dân
cả về vật chất và tinh thần, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp hiện đại ... phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là nhiệm vụ trung tâm, cụ thể là.
Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy tốtlợi thế
cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như hàng
thủ công mỹ nghệ , may mặc, da giầy, giấy và một số ngành tiêu dùng khác
Phát triển rộng khắp cơ sở sản xuất công nghiệp vừa và nhỏ với ngành
nghề đa dạng. Đổi mới nâng, nâng cấp các công nghệ các cơ sở sản xuất hiện
có để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển nhiều hình thức liên
kết giữa các doanh nghiệp nhỏ vừa và lớn giữa sản xuất nguyên liệu và chế
biến, tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở đảm bảo hài hòa về lợi ích kinh tế. Tăng tỉ
lệ nội địa trong công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các mặt hàng công
nghiệp khác của nước ta trên thị trường quốc tế.
2. Phương hướng phát triển kinh tế.
Trước các mục tiêu trên đại hội IX cũng đã đề ra các phương hướng cho
các doanh nghiệp công nghiệp.
Phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư theo chiều sâu,
đổi mới công nghệ, thiết bị tiên tiến và tiến tới hiện đại hóa từng phần các
ngành công nghiệp.
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 35
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản phát triển mạnh theo hướng
đầu tư hiện đại, sản xuất ra các mặt hàng, sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước và nước ngoài, chú trọng các mặt hàng như chế biến thủy
hải sản, chế biến lương thực thịt, sữa, đường, nước giải khát, dầu thực vật,
phấn đấu đến năm 2005 đạt 8 – 10 lít sữa/người /năm và đưa kim ngạch xuất
khẩu sản phẩm sữa gấp hai lần so với năm 2000, nâng tỉ lệ sử dụng nguyên
liệu trong nước lên 20%…
Ngành giấy, đầu tư mở rộng các cơ sở sản xuất giấy hiện có, nghiên cứu
xây dựng thêm một số các cơ sở sản xuất bột giấy và giấy để có thể tăng công
suất lên 20 vạn tấn đưa tổng năng lực sản xuất lên 60 vạn tấn và đạt sản lượng
50 vạn tấn vào năm 2005
Ngành dệt may và da giầy, chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường
trong nước và nước ngoài, tăng cường hiện đại hóa một số khâu sản xuất, tập
chung đâù tư sản xuất dệt, sợi, thuộc da, chú trọng phát triển nguồn bông và
khai thác nguồn da các loại, tăng phần sản xuất trong nước về các nguyên liệu
và phụ liệu trong ngành dệt may và da giầy để nâng cao giá trị gia tăng các
sản phẩm xuất khẩu. Đến năm 2005 đạt sản lượng 2,5- 3 vạn tấn bông sơ 750
triệu mét vải, nâng sản lượng giày dép lên 410 triệu đôi.
Ngành công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, viễn thông thực hiện
đầu tư theo chiều sâu, giảm dần nhập khẩu tăng dần xuất khẩu, tăng nhanh tỉ
lệ nội địa hóa sản phẩm có công nghệ cao.
Đối với một số đất nước thì hội nhập là con đường duy nhất để phát triển
còn đối với từng doanh nghiệp thì không phải hoàn toàn như vậy. Chỉ có
doanh nghiệp nào chuẩn bị tốt để hôị nhập thì mới có cơ may tồn tại nếu
không thì nguy cơ bị đào thải, bị loại khỏi cuộc chơi là hoàn toàn hiện thực.
Việt Nam đã chở thành thành viên của ASEAN, APEC, và không bao lâu nữa
gia nhập AFTA(2006), WTO, thực hiện lộ trình cắt giảm thuế 4230 nhóm
mặt hàng. Tuy nhiên các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam vẫn chưa ý
thức được việc hội nhập là việc của doanh nghiệp mình vẫn quen với “vòng
tay bảo hộ” của nhà nước. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu, một
phần do các doanh nghiệp một phần do các yếu tố khách quan. Muốn hàng
hóa của Việt Nam có đủ sức cạnh tranh khi gia nhập AFTA và WTO, thì cần
phải thiết lập, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 36
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong
các doanh ngiệp công nghiệp
Để thực hiện mục tiêu, chiến lược và định hướng phát triển kinh tế của
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra thì trong thời gian tới hoạt động tiêu
thụ của các doanh ngiệp công nghiệp cần thực hiện một số giải pháp sau:
1.Về phía doanh nghiệp
Để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của mình, các doanh ngiệp cần thực
hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp phải có chính sách phát triển, đổi mới, cải tiến
và lựa chọn công nghệ phù hợp, từ đó sản xuất ra những sản phẩm có chất
lượng cao với chi phí thấp do tăng năng suất lao động, do đó sẽ nâng cao
dược khả năng cạnh tranh đối với các đối thủ của mình.
Thứ hai, có chính sách tuyển dụng, đào tạo, sử dụng lao động hợp lí, từ
đó nâng cao trình độ, chuyên môn của người lao động. Có chế độ đãi ngộ tốt
đối với người lao động, thực hiện chính sách thưởng phạt nghiêm minh và
công bằng, đánh giá người lao động phải dựa trên kết quả thực hiện công việc
của họ. Doanh nghiệp phải tạo môi trường làm tốt nhất cho người lao động, từ
đó họ sẽ phát huy tối đa khả năng sáng tạo cũng như làm việc của mình, vì
nếu được đối sử tốt thì người lao động sẽ luôn coi mình cũng là mộy thành
viên của doanh nghiệp và như thế họ sẽ cấu hiến hết mình cho doanh nghiệp.
Thứ ba, không ngừng đổi mới, cải tiến hệ thống sản xuất cũng như cơ
cấu tổ chức của doanh nghiệp. Xây dựng chính sách quản lí điều hành phải
mềm dẻo, linh hoạt để bắt kịp với môi trường kinh doanh luôn thay đổi.
Thứ tư, phải xây dựng được kế hoạch sản xuất thống nhất từ khâu
nghiên cứu, thiết kế, sản xuất đến tiêu thụ. Kế hoạch phải này phải dựa trên
kết quả nghiên cứu cung, cầu và khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
Thứ năm, tạo hiệu quả trong việc kết hợp các yếu tố để sản xuất sản
phẩm đầu ra, từ đó sẽ tiết kịêm được chi phí do đó hạ được giá thành và tạo ra
được lợi thế cạnh tranh về giá.
Thứ sáu, phải dựng kế hoạch bán hàng và tổ chức mạng lưới bán hàng
có hiệu quả. Doanh nghiệp có thể bán hàng thông qua các hội trợ thương mại
trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp của chúng ta thường hay nhầm lẫn,
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 37
họ nghĩ hội trợ là nơi để bán các sản phẩm tồn đọng hoặc chỉ đơn thuần là nơi
bán hàng nhưng thực chất hội chợ là nơi quảng bá, là nơi tiếp xúc trực tiếp
giữa người sản xuất với người tiêu dung, qua đó doanh nghiệp sẽ nhận được
thông tin phản hồi chính xác nhất từ khách hàng. Thông qua hội chợ thì khách
hàng có thể hiểu biết thêm về sản phẩm của doanh nghiệp từ đó hai bên sẽ đi
đến kí kết các hợp đồng mua bán có giá trị.
Ngay nay, với sự phá triển như vũ bão của công nghệ thông tin, do đó
doanh nghiệp có thể bán hàng thông qua mạng Internet. Đây là phương thức
bán hàng khá hiệu quả, nó đã được áp dụng phổ biến ở các nước phát triển
nhưng ở nước ta nó còn khá xa nạ đối với các doanh nghiệp. Trong tương lai
không xa đây sẽ là phương thức bán hàng chủ yếu của các doanh nghiệp.
Ngoài ra, vấn đề thương hiệu cũng trở nên vô cùng quan trọng đối với
các doanh nghiệp, thực tế đã cho thấy thương hiệu có tác động rất lớn đến kết
quả tiêu thụ. Một thương hiệu tốt, có uy tín, đã quen thuộc với khách hàng
tiêu dùng thì sẽ tạo ra một lợi thế so sánh vô cùng lớn cho doanh nghiệp trước
các đối thủ cạnh tranh. Cũng bởi vậy mà một công ty nước ngoài đã mua lại
thương hiệu kem đánh răng P/S của Việt Nam với giá 1 triệu USD.
Thật đáng buồn, một số doanh nghiệp của chúng ta do mải mê với thị
trường trong nước đã quên không đăng kí thương hiệu ở nước ngoài, vì vậy
đã bị người khác đăng kí mất thương hiệu của mình ở các nước đó. Chẳng hạn
như thương hiệu cà phê Trung Nguyên của Việt Nam đã bị đã bị người khác
đăng kí mất thương hiệu tại Mỹ, Nhật. Điều này khiến công ty cà phê Trung
Nguyên gặp nhiều khó khăn khi kinh doanh trên hai thị trường này. một công
ty khác cũng rơi vào tình trạng như công ty cà phê trung nguyên đó chính là
công ty may Chiến Thắng của Việt Nam đã bị người khác đăng kí mất thương
hiệu ở thị trường Mỹ, điều này làm công ty không thể xuất hàng trực tiếp
mang nhãn hiệu của chính mình sang thị trường Mỹ.
Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm của
các doanh nghiệp công nghiệp đó chính là đạo đức kinh doanh, một doanh
nghiệp kinh doanh có đạo đức thì sẽ chiếm được lòng tin của khách hàng, từ
đó sẽ nâng cao được hình ảnh của doanh nghiệp trong lòng khách hàng. Điều
này sẽ thúc đẩy khả năng tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp.
2. Về phía Nhà nước
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 38
Nhà nước là người đề ra các chính sách, pháp luật do đó nó tác động rất
lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, nó tác động trực tiếp đến
hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp công nghiệp.
Với các chính sách đúng đắn, nhà nước sẽ hỗ trợ, khuyến khích các
doanh ngiệp phát triển như luật đầu tư, luật doanh ngiệp, luật lao động….Nhà
nước tạo ra các khung pháp lí cho các doanh ngiệp hoạt động, đồng thời cũng
là trọng tài cho các doanh nghiệp.
Nhà nước, thông qua các ngân hàng sẽ hỗ trợ tài chính cho các doanh
nghiệp công nghiệp tiêu thụ sản phẩm, như cung cấp các khoản tín dụng ưu
đãi cho các doanh nghiệp.
Gần đây chính phủ đã chỉ đạo ngân hàng công thương Việt Nam cung
cấp một khoản tín dụng ưu đãi trị giá 20 triệu USD cho các doanh ngiệp của
Nga để các doanh nghiệp này mua hàng của Việt Nam, các mặt hàng mà ở
Nga có cầu rất lớn nhưng họ lại không có đủ tài chính để nhập hàng từ Việt
Nam. đây là một hướng đi đúng của chính phủ ta, nó giúp đỡ các doanh ngiệp
của chúng ta tiêu thụ đước sản phẩm.
Nhà nước còn có vai trò, tổ chức các hội nghị, triển lãm ở trong nước
và quốc tế để quảng bá cho sản phẩm của Việt Nam. Qua các hội nghị, triển
lãm này sẽ kích thích được người tiêu dùng mua hàng hóa của doanh ngiệp.
Nhà nước, thông qua các cơ quan chuyên trách của mình sẽ hỗ trợ, cung
cấp thông tin, tư vấn để các doanh ngiệp có thể mở rộng thị trường trong nước
cũng như thị trường thế giới.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, mở rộng quan hệ đối
ngoại : tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về thể chế chính sách… Thực hịên
các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta
đã tham gia, đặc biệt là các cam kết trong khuôn khổ ASEAN, AFTA, APEC,
ASEM, xúc tiến đàm phán để ra nhập WTO.
Đổi mới hệ thống hành chính, đơn giản hóa các thủ tục pháp lí cho các
doanh nghiệp.
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 39
KẾT LUẬN
Tiêu thụ sản phẩm luôn là một mắt xích quan trọng trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tiêu thụ không chỉ đơn thuần là việc bán
được hàng hóa mà còn bao gồm nhiều hoạt động phức tạp khác, như: nghiên
cứu thị trường, Marketinh, thiết kế sản phẩm …Việc thực hiện tốt hoạt động
tiêu thụ sẽ quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp trên thương trường.
Nền kinh tế Việt Nam mới chỉ đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới nên khả năng cạnh tranh là chưa cao. Vì vậy các doanh
nghiệp và các cơ quan hữu quan cần có nhiều cố gắng, quan tâm hơn nữa tới
hoạt động sản phẩm. Chúng ta cùng hy vọng rằng trong tương lai không xa
hàng hóa Việt Nam sẽ có mặt khắp nơi trên thế giới và có thể cạnh tranh được
đối với bất kỳ hàng hóa nào.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, TS Phạm Văn
Minh đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Hà nội, tháng 11/2002
Sinh viên
Nguyễn Danh Dụ
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Quản trị kinh doanh tổng hợp
2. Giáo trình Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp
3. Giáo trình Kinh tế quản lý
4. Giáo trình Marketinh
5. Tạp chí Công nghiệp
Số 9, 14, 23/00
Số 1+2, 3, 6, 7, 8/01
6. Con số và sự kiện
Số 3, 9, 12/00
Số 3/01
7. Tạp chí Kinh tế và phát triển
Số 43, 45, 47/01
8. Tạp chí Thương mại
Số 4/98
9. Thời báo Kinh tế Sài gòn
Số 39/99
Số 52/01
Số 6, 12, 48/02
10. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 41
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I – Lý luận chung về tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp 3
I. Khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của hoạt động tiêu thụ sản phẩm 3
II. Những nội dung của hoạt động tiêu thụ trong các doanh nhgiệp 4
III. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của các
doanh nghiệp 14
IV. Một số kinh nghiệm về tiêu thụ sản phẩm củacác doanh nhgiệp 18
Phần II- Phương hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ
sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp 21
I. Tình hình tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp
nước ta hiện nay 21
II. Đánh giá chung về hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh
nghiệp công nghiệp trong thời gian qua 29
§Èy m¹nh tiªu thô s¶n phÈm ®èi víi c¸c doanh nghiÖp c«ng nghiÖp ë níc ta hiÖn nay
Sinh viªn thùc hiÖn: NguyÔn Danh Dô 42
Phần III- Phương hướng và giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ
sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp 34
I. Định hướng phát triển kinh tế trong thời gian tới 34
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản
phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp 35
Kết luận 39
Tài liệu tham khảo 40
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm đối với các doanh nghiệp công nghiệp ở nước ta hiện nay.pdf