Tuy nhiên, dù đã có sự tiến bộ vượt bậc so với thời kỳ trước, sản xuất lúa gạo ở
nước ta vẫn còn biểu hiện những hạn chế khó tránh khỏi. Về mặt kỹ thuật, dù đã
áp dụng công nghệ mới nhưng nhìn chung vẫn còn lạc hậu, phải sử dụng lao động
thủ công trên đồng ruộng. Năng suất lao động, chất lượng sản phẩm tuy có sự cải
thiện rõ nét nhưng vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta thường chú trọng đến việc tạo ra số lượng gạo lớn nhằm đảm bảo an
ninh lương thực trong nước và xuất khẩu song lại không quan tâm nhiều đến việc
nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo sức cạnh tranh, nâng cao giá của mặt hàng
gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
38 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3438 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-Mix, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
180% và dự đoán năm 2001 là 400,8 triệu tấn. Để đảm bảo tiêu thụ ổn
định cần đạt mức sản xuất hàng năm gấp 1,5 đến 2 lần mức tăng dân số. Như vậy,
mức tiêu thụ gạo luôn bị khống chế bởi khả năng sản xuất và phụ thuộc vào số dân
toàn cầu nên nhìn chung nếu tính theo đầu người thì không tăng.
Trên thế giới, châu á là khu vực tiêu thụ gạo nhiều nhất với 362,1 triệu tấn, tức
90% so với lượng tiêu dùng toàn cầu vào năm 2001 (403 triệu tấn). Điều này được
giải thích bằng tập quán coi gạo là lương thực chính yếu ở châu á, nơi tập trung
trên 60% dân số toàn thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần, dân số các nước
này tăng mạnh trong khi diện tích trồng lúa giảm đáng kể do quá trình đô thị và
công nghiệp hoá. Thêm vào nữa, các thiên tai như lụt, bão, hạn hán... thường hay
xảy ra nên các nước này cũng phải nhập khẩu gạo phục vụ cho nhu cầu trong
nước. Các châu lục khác tiêu thụ 10% số lượng gạo còn lại. Tại châu Mỹ, châu Âu
và khu vực Trung Đông, tiêu thụ gạo đã tăng đáng kể trong những năm gần đây.
Cụ thể năm 2000, Bắc Mỹ tiêu thụ 4,1 triệu tấn, Mỹ Latinh 14,3 triệu tấn, EU 2
triệu tấn. Dự đoán năm 2001, các khu vực này lần lượt tiêu thụ 4,7 triệu tấn, 14,7
triệu tấn và 2,1 triệu tấn. Qua đó, có thể thấy rằng lượng gạo tiêu thụ phân bố
không đồng đều và phụ thuộc nhiều vào các nước châu á.
Bảng 1.2. Tình hình tiêu thụ gạo của thế giới (1998-2001)
Đơn vị tính: 1000 tấn
Nhập khẩu 1998 1999 2000 2001(ước)
Bắc Mỹ 4,108 4,439 4,718 4,747
Mỹ Latinh 13,778 14,085 14,272 14,661
EU 2,012 2,066 2,131 2,079
Tây Âu còn lại 48,000 50,000 53,000 55,000
Liên Xô cũ 1,130 1,119 1,136 1,311
Đông Âu 344,000 382,000 360,000 386,000
Trung Đông 5,779 6,159 6,499 6,435
Bắc Phi 2,982 2,984 3,097 3,177
Châu Phi còn lại 10,412 10,973 11,563 12,155
Nam á 104,835 110,412 113,711 114,989
Châu á còn lại 234,508 236,025 241,852 238,692
Châu Đại Dương 563,000 608,000 670,000 706,000
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại
1.1.1.3. Những nước sản xuất và tiêu thụ gạo chính trên thế giới
* Trung Quốc
Với số dân đông nhất thế giới (1,26 tỷ người và dự kiến lên tới 1,6 tỷ năm 2030)
và diện tích lúa trên 30 triệu ha, Trung Quốc là quốc gia có chủ trương đẩy mạnh
sản xuất lúa gạo nhằm đáp ứng nhu cầu về lương thực trong nước của mình. Đảm
bảo an toàn lương thực quốc gia là chiến lược hàng đầu của chính phủ nước này.
Trái với một số nước khác chú trọng tới các dự án phát triển cây trồng bằng cách
tăng cường sử dụng có hiệu quả hơn đất trồng và các nguồn tài nguyên khác như
nguồn nước, khí hậu… Trung Quốc tập trung chủ yếu vào công nghệ và khoa học.
Trung Quốc đã và đang đi tiên phong trong các giống lúa lai mới và đang dẫn đầu
về thử nghiệm lúa biến đổi gien. Tuy diện tích trồng lúa của Trung Quốc mấy năm
gần đây liên tiếp giảm do nhu cầu gạo chất lượng thấp giảm và lợi nhuận từ những
loại cây khác tăng lên, sản lượng gạo Trung Quốc năm 2001 dự kiến đạt 136,40
triệu tấn, tăng so với 130,9 triệu tấn năm 2000 nhờ năng suất tăng.
Từ năm 1992-1993, cùng với công cuộc đổi mới, hiện đại hoá đất nước, Trung
Quốc đã có nhiều cố gắng đẩy mạnh sản xuất lúa. Đến năm 2000, tiêu thụ gạo
trung bình tính theo đầu người vẫn bình ổn (96 kg/người/năm) mặc dù tổng tiêu
thụ tăng do dân số tăng. Nhu cầu về chất lượng cũng ngày càng tăng. Gạo chất
lượng cao như Japonica được trồng chủ yếu ở miền Bắc đã ngày càng trở nên phổ
biến hơn. Tiêu thụ gạo nói riêng và lương thực nói chung sẽ tăng theo xu hướng
của nền kinh tế. Gạo chất lượng kém ngày càng được chuyển sang dùng trong
công nghiệp hoặc cho những người có thu nhập thấp. Một trong những chiến lược
của Trung Quốc là phát triển ngành chăn nuôi và gạo vụ sớm sẽ là thức ăn tốt cho
gia cầm vì chất lượng phù hợp và giá thành rẻ.
Theo số liệu của Bộ Thương mại, năm 2000 Trung Quốc tiêu thụ 137,3 triệu tấn
gạo chiếm 34% tổng lượng gạo tiêu thụ toàn cầu. Ước tính năm 2001 lượng tiêu
thụ là 134,3 triệu tấn. Con số này nói chung không thay đổi nhiều so với các năm
trước. Với dự kiến nhu cầu tiêu thụ sẽ đạt được 220 triệu tấn gạo vào năm 2010 và
260 triệu tấn vào năm 2030, Trung Quốc đặt mục tiêu phát triển các giống lúa
mới, năng suất cao để đạt trung bình 8 tấn/ha so với 6,5 tấn/ha hiện nay.
* ấn Độ
Là nước đông dân thứ hai trên thế giới, ấn Độ cũng là nước sản xuất gạo lớn thứ
hai trên thế giới. Năm 1994, sản lượng lúa của ấn Độ đạt mức tăng kỷ lục (2,8%)
so với các nước khác. ấn Độ là nước đứng đầu trên thế giới về diện tích trồng lúa
và đang chiếm hơn 22% tổng sản lượng lúa gạo toàn cầu. Sản lượng gạo của ấn
Độ niên vụ 1999/2000 đạt 88,55 triệu tấn so với 406,57 triệu tấn của thế giới và dự
đoán niên vụ 2000/2001 đạt 87,30 triệu tấn so với 396 triệu tấn của thế giới. Cuối
năm 2000, Chính phủ ấn Độ có kế hoạch giải toả 3 triệu tấn gạo dự trữ để lấy chỗ
chứa gạo mới, gây sức ép tới thị trường gạo thế giới. Bên cạnh đó, ấn Độ là một
trong những nước đi đầu trong cuộc Cách mạng xanh, chủ yếu về giống lúa. Hiện
nay, Bộ Thương mại ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm ADN để bảo đảm
sự thuần chủng cho giống gạo mới, khuyến khích sản xuất và xuất khẩu các loại
gạo cao cấp.
Về tiêu thụ, ấn Độ cũng là quốc gia tiêu thụ gạo lớn thứ hai trên thế giới với lượng
tiêu thụ là 78,2 triệu tấn (năm 1998), 81,2 triệu tấn (năm 1999), 82,5 triệu tấn
(năm 2000) và ước tính năm 2001 là 83,5 triệu tấn, chiếm 20,8% so với tổng
lượng tiêu thụ toàn thế giới .
* Inđônêxia
Với sản lượng gạo năm 1999/2000 là 34,08 triệu tấn, dự đoán năm 2000/2001 là
34,80 triệu tấn, Inđônêxia hiện đang xếp thứ ba trên toàn thế giới về nước có sản
lượng gạo cao nhất. Năm 2001, nhờ triển vọng đạt sản lượng cao nên nhu cầu về
nhập khẩu của nước này có thể giảm 40% so với năm trước. Điều đó chứng tỏ
Inđônêxia đã tích cực hơn trong việc sản xuất lúa gạo nhằm đáp ứng tối đa nhu
cầu trong nước, tránh bị phụ thuộc vào số lượng gạo nhập khẩu từ các nước bên
ngoài.
Inđônêxia cũng là nước tiêu thụ gạo lớn thứ ba trên thế giới. Năm 2000, quốc gia
này sử dụng hết 35,9 triệu tấn gạo, chiếm 9% lượng tiêu thụ toàn cầu. Dự tính tiêu
thụ năm 2001 có giảm nhưng không đáng kể là 35,8 triệu tấn. Năm 2002,
Inđônêxia có kế hoạch nhập khẩu 700 ngàn tấn, trong đó sẽ nhập khẩu khoảng 500
ngàn tấn từ Việt Nam để có nguồn gạo đáp ứng đủ nhu cầu trong nước. Chính phủ
Inđônêxia đang dự kiến vay Ngân hàng phát triển Hồi giáo 102,5 triệu USD để
nhập khẩu số gạo trên.
Biểu đồ 1.1. Dân số và tiêu thụ gạo của 3 nước tiêu thụ lớn nhất
Dân số
Tiêu thụ gạo
1.1.2. Cơ cấu của thị trường gạo thế giới
1.1.2.1. Đặc điểm và triển vọng của thị trường gạo thế giới
* Đặc điểm của thị trường gạo thế giới
- Gạo là loại lương thực chủ yếu để nuôi sống hơn 50% dân số toàn cầu, tập trung
nhiều nhất ở châu á. Chính vì vậy, thị trường gạo thế giới mang đặc tính nhạy bén
vì mỗi khi có sự biến động về nhu cầu ở những nước tiêu thụ gạo chính như Trung
Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Bănglađét, Pakistan... thì cung cầu và giá gạo trên thị
trường thế giới lại thay đổi. Việc Chính phủ ấn Độ có kế hoạch giải toả 3 triệu tấn
gạo vào cuối năm 2001 là một ví dụ để gây sức ép với thị trường gạo thế giới.
Cuối tháng 3/2000, Inđônêxia đã quyết định ngừng nhập khẩu gạo chính ngạch
cũng tạo những biến động không nhỏ tới giá gạo nói chung. Tuy nhiên, độ nhạy
cảm của thị trường gạo còn phải phụ thuộc vào lượng dự trữ toàn cầu và của từng
nước cũng như tỷ giá giữa gạo và loại lương thực thay thế gạo như lúa mỳ, ngô...
- Gạo không những được buôn bán đơn thuần như một hàng hoá giữa các nước
khác nhau mà còn là một trong những mặt hàng chiến lược thực hiện chính sách
đối ngoại của các Chính phủ thông qua hình thức viện trợ. Mỹ là nước đã sử dụng
hình thức này như một chiến lược ngoại giao nhằm tăng cường sự phụ thuộc của
các nước khác vào nước mình trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Tương tự như
vậy, EU thường nhập khẩu gạo để cung cấp miễn phí cho các nước châu Phi để
đổi lại các điều kiện khác về kinh tế.
- Trên thế giới có rất nhiều loại gạo mậu dịch phân loại theo các cách khác nhau.
Sự phong phú về chủng loại tạo nên sự đa dạng cho thị trường gạo thế giới. Tương
ứng với mỗi loại gạo khác nhau, tuỳ thuộc chất lượng phẩm cấp khác nhau lại hình
thành một mức giá cụ thể. Tính đa dạng và phức tạp của giá cả gạo là biểu hiện
sinh động trong buôn bán quốc tế trong suốt nhiều năm qua.
* Triển vọng của thị trường gạo thế giới
Trong những năm gần đây, thị trường gạo thế giới có nhiều biến động phức tạp, cụ
thể là nhu cầu của các nước về gạo đặc biệt thấp. Mặc dù các nước xuất khẩu
không ngừng nỗ lực tìm kiếm thị trường nhưng giá gạo của tất cả các xuất xứ đều
giảm. Nhu cầu gạo của các nước nhập khẩu lớn như Bănglađét, Inđônêxia,
Braxin... hạn chế do sự phục hồi sản lượng sau 12 năm mất mùa. Theo dự báo của
FAO và Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng gạo thế giới đến năm 2005 sẽ có chiều
hướng tăng chậm hơn so với những năm trước, mức tiêu thụ tăng chậm. Do đó, tốc
độ tăng của lượng gạo giao dịch toàn thế giới cũng sẽ giảm. Dự đoán trong tương
lai, châu Phi sẽ tham gia tích cực hơn vào thị trường gạo, đặc biệt là nhập khẩu.
Châu á vẫn sẽ luôn là khu vực đứng đầu về sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu với
nhiều thay đổi về cơ chế chính sách. Xuất khẩu gạo từ châu Âu và châu Mỹ có xu
hướng giảm do việc thắt chặt các quy định của thương mại thế giới làm hạn chế
chính sách trợ giá xuất khẩu.
Xu hướng trong những năm tới sẽ có nhiều nước tham gia vào xuất khẩu lúa gạo,
tạo sự sôi động và cạnh tranh gay gắt trên thị trường lúa gạo thế giới, đặc biệt ở
châu á, do chính sách của nhiều nước cho phép khu vực tư nhân tham gia vào xuất
nhập khẩu gạo. Ngoài ra, trong những năm tới, giao dịch các loại gạo có chất
lượng cao có xu hướng tăng mạnh trong khi giao dịch gạo phẩm cấp thấp sẽ giảm
dần.
Gạo một mặt là hàng hoá thiết yếu đối với đời sống và sản xuất, mặt khác là hàng
hoá nhạy cảm và xuất khẩu có tính chiến lược ở một số nước, có xu hướng cạnh
tranh ngày càng trở nên gay gắt giữa các nước tham gia xuất khẩu. Các nước xuất
khẩu luôn luôn tăng sản lượng lúa gạo không chỉ để thoả mãn cho nhu cầu tăng
dân số mà còn nhằm mang lại nguồn ngoại tệ đáng kể. Vì vậy, trong tình hình hiện
nay, các nước đều đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu để giảm hao phí và hư hao,
đầu tư chiều sâu để tăng nhanh năng suất và sản lượng. Để tăng khả năng cạnh
tranh trên thị trường, các nước trang bị ngày càng tốt hơn từ việc chọn giống, thu
hoạch, bảo quản, chế biến, vận tải, bao gói và điều kiện giao hàng thích hợp với
đòi hỏi của thị trường thế giới.
1.1.2.2. Tình hình nhập khẩu gạo
* Tình hình chung
Nhập khẩu gạo của thế giới nhìn chung có xu hướng tăng lên nhưng không ổn
định trong những năm gần đây, tuỳ thuộc vào sản lượng lương thực trong năm và
khả năng thanh toán của những nước nhập khẩu. Đa số các nước xuất khẩu gạo đạt
sản lượng cao kỷ lục đã làm giảm mạnh giá gạo trên thị trường thế giới.
Lượng nhập khẩu gạo của toàn thế giới cũng như từng nước thường xuyên biến
động và mang tính thời vụ rõ rệt. Vì sản xuất gạo phụ thuộc vào điều kiện thiên
nhiên, tỷ lệ dự trữ, tồn kho lương thực nên thường bất ổn. Năm mất mùa, các nước
thường cần gấp, nên nhập khẩu nhiều nhưng năm khác lại giảm sản lượng nhập
đáng kể. Khi giá gạo tăng cao, các nước có thể chuyển sang nhập khẩu hàng thay
thế cho gạo như lúa mì hoặc các ngũ cốc khác, gây biến động không nhỏ cho sản
lượng nhập khẩu gạo của toàn thế giới.
Trong hơn 10 năm qua, sản lượng nhập khẩu tăng do nhu cầu tăng, đặc biệt là năm
1998 lên tới 27,67 triệu tấn. Những năm sau đó có giảm nhẹ vì được mùa ở các
nước nhập khẩu. Ước tính toàn năm 2001, thế giới nhập khẩu 22,30 triệu tấn gạo.
Bảng 1.3. Tình hình nhập khẩu gạo của thế giới (1998-2001)
Đơn vị: 1000 tấn
Nhập khẩu 1998 1999 2000 2001(ước)
Bắc Mỹ 840 4.439 4.718 4.744
Mỹ Latinh 3.357 14.085 14.272 14.661
EU 787 2.066 2.131 2.079
Tây Âu còn lại 60 50 53 55
Liên Xô cũ 321 1.191 1.346 1.311
Đông Âu 313 382 360 386
Trung Đông 3.224 6.159 6.499 6.435
Bắc Phi 188 2.984 3.097 3.177
Châu Phi còn lại 4.188 10.973 11.563 12.155
Nam á 2.765 110.412 113.711 114.989
Châu á còn lại 10.370 236.025 241.852 238.692
Châu Đại Dương 288 608 670 706
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu–Bộ Thương mại
Châu á luôn là khu vực nhập khẩu gạo nhiều nhất với khoảng hơn 55% lượng gạo
nhập khẩu toàn thế giới nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ tại các nước này. Châu
Phi chiếm tỷ trọng hơn 20% lượng gạo nhập khẩu và có chiều hướng tăng lên
trong thời gian qua tuy mức tăng không lớn. Trên thực tế các nước nghèo ở châu
lục này tiêu dùng gạo khá nhiều nhưng khả năng tài chính lại bị hạn chế rất đáng
kể. Do vậy, ở các nước này tuy thiếu gạo nhưng khả năng nhập khẩu có hạn. Châu
Mỹ cũng có khối lượng nhập khẩu chiếm khoảng 20% với nhu cầu ổn định và có
xu hướng tăng lên.
Nhập khẩu gạo trên thế giới cũng biến động theo nhóm nước. Tuỳ theo mức độ
thường xuyên, các nước chia theo hai nhóm: nhóm nước nhập khẩu gạo thường
xuyên và không thường xuyên. Nhóm thứ nhất bao gồm các nước luôn có nhu cầu
nhập khẩu gạo do mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất không đáp ứng
đủ nhu cầu về gạo. Nhóm nước này bao gồm Malaixia (hàng năm cần nhập
khoảng 400 ngàn tấn), Canađa (180 ngàn tấn), Angiêri (250 ngàn tấn)... Nhóm thứ
hai bao gồm những nước sản xuất gạo nhưng không thường xuyên cung cấp đủ
cho tập quán tiêu dùng trong nước. Lượng gạo nhập khẩu ở các nước này không
đều qua các năm. Tiêu biểu cho nhóm này là Inđônêxia, Trung Quốc, Nhật Bản...
* Một số nước nhập gạo chủ yếu trên thế giới
1) Inđônêxia
Hiện nay, nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới là Inđônêxia. Dù đã sản xuất một
lượng gạo không nhỏ cho tiêu dùng nhưng Inđônêxia vẫn phải nhập khẩu nhằm
đáp ứng nhu cầu trong nước, đảm bảo an ninh lương thực. Đặc biệt vào năm 1995,
nhập khẩu gạo của nước này tăng vọt lên tới 3,2 triệu tấn do chính sách dự trữ gạo
của Nhà nước và tốc độ tăng nhanh của dân số. Đến năm 1998, Inđônêxia tiếp tục
nhập gạo với sản lượng 6,1 triệu tấn cho tiêu dùng sau mất mùa. Năm 2000, Chính
phủ Inđônêxia tăng thuế nhập khẩu từ 0% lên 35% và cho phép tư nhân tự do nhập
khẩu gạo nhưng cấm các loại gạo chất lượng thấp. Tổng số lượng nhập khẩu năm
2000 giảm xuống là 1,3 triệu tấn, bằng 1/3 so với năm 1999 (3,9 triệu tấn). Năm
2001, dự đoán nước này cũng chỉ nhập khẩu khoảng hơn một triệu tấn gạo.
2) Iran
Trong nhiều năm qua, Iran thường xuyên nhập khẩu gạo với số lượng khá ổn định,
đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Inđônêxia. Năm 1999, Iran nhập 1,0 triệu tấn,
năm 2000 tăng lên 1,1 triệu tấn và ước tính năm 2001 sẽ lại giảm xuống mức 1,0
triệu tấn. Các số liệu trên đã cho thấy mức nhập khẩu tương đối cố định của đất
nước này. Với số dân 70 triệu, dự đoán trong tương lai, Iran vẫn là nước nhập
khẩu gạo lớn và có khả năng thanh toán cao. Nhà cung cấp gạo chủ yếu của Iran
là Thái Lan, Việt Nam, Pakistan.
3) Trung Quốc
Là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới nhưng Trung Quốc vẫn phải nhập khẩu
nhằm đảm bảo nhu cầu trong nước. Năm 2000, Trung Quốc nhập khẩu 238.598
tấn gạo, tăng 42% so với năm 1999, trong đó hầu hết là gạo có chất lượng cao của
Thái Lan. Nhập khẩu tăng do sản lượng gạo Trung Quốc giảm và tiêu dùng của
người dân đối với gạo thơm tăng lên. Khi tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO), nhập khẩu gạo sẽ tăng nhẹ do Trung Quốc ban đầu phải nhập khẩu
gần 3 triệu tấn mỗi năm nếu giá trị thị trường phù hợp với họ. Đến năm 2004, hạn
ngạch nhập khẩu dự kiến sẽ tăng tới 5,38 triệu tấn.
4) Braxin
Đây là nước duy nhất ở khu vực Nam Mỹ có mức nhập khẩu gạo khá lớn. Tình
hình nhập khẩu mặt hàng này ở Braxin trong đối ổn định và có xu hướng tăng
trong thời gian qua. Cụ thể năm 1989, lượng nhập khẩu của Braxin là 0,5 triệu tấn,
năm 1998 tăng lên 1,2 triệu tấn. Năm 1999, nước này tiếp tục là nước nhập khẩu
gạo lớn trên thế giới với mức nhập khoảng 1 triệu tấn. Năm 2000, sản lượng nhập
khẩu giảm xuống còn 0,7 triệu tấn và sẽ tiếp tục giảm trong năm 2001.
1.1.2.3. Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới những năm qua
* Tình hình chung
Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, tổng lượng gạo xuất khẩu
của thế giới trong những năm gần đây tăng và tăng khá. Nếu như năm 1975, thế
giới xuất khẩu chỉ có 7,7 triệu tấn gạo thì năm 1989 số lượng gạo xuất khẩu đạt
13,9 triệu tấn, mức cao nhất so với các năm trước đó. Tuy nhiên, trong hai năm
tiếp theo, số lượng gạo xuất khẩu giảm xuống còn 11,6 triệu tấn và 12,1 triệu tấn.
Đến năm 1998, số lượng gạo xuất khẩu tăng cao nhất là 27,7 triệu tấn. Trong 3
năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu có xu hướng giảm xuống: năm 1999 là 24,9
triệu tấn, năm 2000 là 22,9 triệu tấn và dự báo năm 2001 là 22,2 triệu tấn. Nhìn
chung, mức tăng trưởng chưa thật ổn định, có năm giảm so với năm trước và chưa
thực sự phản ánh khả năng dư thừa của những nước xuất khẩu và sự biến động
không ngừng tình hình cung cầu của thị trường gạo trên thế giới. Số lượng xuất
khẩu gạo của thế giới tăng lên nhờ những cải biến về mặt kỹ thuật, giống lúa và
các chính sách mới của các nước xuất khẩu gạo làm cho lượng gạo có xu hướng
tăng lên trong những năm gần đây.
Xuất khẩu gạo thế giới tập trung ở một số nước đang phát triển, chiếm 75%
đến 80% tổng số lượng xuất khẩu. Là châu lục sản xuất và tiêu thụ gạo nhiều nhất,
với tiềm năng, điều kiện thời tiết thuận lợi cho việc trồng lúa, châu á vẫn luôn là
khu vực xuất khẩu nhiều nhất. Bình quân hàng năm, châu á cung cấp khoảng 70%
lượng gạo xuất khẩu cho thị trường thế giới, đồng thời còn là nơi tập trung hầu hết
các nước có thế mạnh về gạo như Thái Lan, Việt Nam, ấn Độ, Trung Quốc....
* Các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới
1) Thái Lan
Tuy Thái Lan không phải là nước sản xuất gạo lớn trên thế giới nhưng lại là nước
có số lượng gạo xuất khẩu nhiều và ổn định nhất, đồng thời có tốc độ tăng trưởng
cao, gần 10%/năm. Từ năm 1977 đến nay, cụ thể vào năm 1998 Thái Lan xuất
khẩu 6,4 triệu tấn, năm 1999 đạt con số kỉ lục là 6,7 triệu tấn (25% lượng xuất
khẩu toàn thế giới), năm 2000 số lượng xuất khẩu đạt hơn 6,5 triệu tấn, giảm nhẹ
so với năm trước do ảnh hưởng của lũ lụt và bão nhiệt đới tại miền Đông Bắc.
Trong tình hình giá cả quốc tế biến động mà trong nước lại bội thu, Chính phủ
Thái Lan đã thực hiện chương trình can thiệp để ổn định giá gạo trong nước, giúp
nông dân duy trì phát triển trồng lúa. Các tổ chức quốc doanh Thái Lan đã mua
gạo lưu kho và thực hiện chính sách cho nông dân vay tín dụng dài hạn với lãi suất
thấp. Chính phủ Thái Lan đã thực hiện kế hoạch để phát triển ngành gạo, đặc biệt
tập trung vào thị trường gạo Jasmine, loại gạo đặc sản và là thế mạnh của Thái
Lan.
Năm 2001, dự kiến tổng xuất khẩu của Thái Lan đạt 6,7 triệu tấn. Chiến lược xuất
khẩu gạo Thái Lan gồm 3 điểm chính. Đối với sản xuất, Thái Lan tiến hành nghiên
cứu để giảm thất thoát trong quá trình thu hoạch. Đối với thương mại và thị
trường, Thái Lan áp dụng triệt để Marketing-mix, tập trung tuyên truyền dùng gạo
Hương nhài, xúc tiến bảo vệ và tăng chất lượng gạo. Đối với chính sách gạo, Nhà
nước phối hợp với tư nhân soạn thảo chính sách khép kín từ nghiên cứu, sản xuất,
tiếp thị cho tới chế biến.
Với vị trí đứng đầu xuất khẩu gạo, Thái Lan luôn chi phối sâu sắc tình hình biến
động cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới. Về chất lượng, gạo Thái Lan có
nhiều loại, đặc biệt là các loại gạo đặc sản được ưa chuộng ở khắp nơi và được
xuất đi nhiều nước. Thái Lan cũng là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của Mỹ trên thị
trường loại gạo hạt dài và chất lượng cao, đồng thời cũng cung cấp cho cung gạo
của thế giới gần 1/3 tổng lượng gạo chất lượng thấp. Thị phần của Thái Lan nhìn
chung tương đối ổn định. Giá bán thường cao hơn so với các nước xuất khẩu gạo
khác như Việt Nam hay Pakistan. Giá chuẩn quốc tế cũng thường căn cứ vào giá
gạo của Thái Lan (FOB Băngcốc).
2) Trung Quốc
Không chỉ là một nước sản xuất, tiêu dùng, nhập khẩu gạo lớn trên thế giới, Trung
Quốc cũng là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Trung Quốc nhập khẩu gạo
chất lượng cao song xuất khẩu gạo có chất lượng bình thường hoặc thấp. Năm
2000, mặc dù có hạn hán, quốc gia này đã vươn lên thứ ba trong số các nước xuất
khẩu gạo với số lượng là 2,95 triệu tấn, chỉ sau Thái Lan và Việt Nam, tăng 9% so
với năm 1999 (2,7 triệu tấn) nhưng giảm so với mức 3,7 triệu tấn năm 1998. Vị trí
này không ổn định trong các năm do sự biến động thất thường giữa cung cầu gạo
của nước này. Dự kiến năm 2001, Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm số lượng xuất khẩu
xuống còn 1,8 triệu tấn. Tuy nhiên, với ưu thế giá gạo rẻ và chất lượng ngày một
được cải thiện, gạo Trung Quốc đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, đặc biệt là
tại châu Phi và Nhật Bản.
3) Mỹ
Năm 2000, số lượng xuất khẩu gạo của Mỹ đạt 2,76 triệu tấn, đứng thứ tư trong số
các nước xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, những năm trước đây, Mỹ vẫn đứng thứ hai
trên thế giới sau Thái Lan mặc dù chỉ chiếm khoảng 1,5% tổng số lượng lúa toàn
cầu và xếp thứ 11 về sản xuất gạo.
Là nước xuất khẩu gạo truyền thống với thị trường rộng lớn trên khắp các châu
lục, chất lượng gạo của Mỹ nổi tiếng là cao (loại A), đứng đầu thế giới và có sức
cạnh tranh ưu việt hơn hẳn các loại gạo khác, kể cả của Thái Lan. Trong những
năm đầu thập niên 90, Mỹ cung cấp khoảng 20% thị phần gạo thế giới mà chủ yếu
là các nước Mỹ Latinh (Mêhicô và Braxin). Xuất khẩu gạo của Mỹ có được thành
công nhờ vào hai lợi thế:
+ Thứ nhất, sự phát triển vượt bậc về công nghệ sản xuất, chế biến đến bảo quản.
Mỹ có hệ thống lưu kho dự trữ lớn nên gạo xuất khẩu luôn được đảm bảo về mặt
chất lượng, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe nhất của các nước nhập khẩu.
Mỹ có thể xuất khẩu gạo ở các giai đoạn khác nhau của quá trình chế biến, ở mọi
chất lượng khác nhau cũng như đáp ứng mọi hình thức bao gói hay chuyên chở.
+ Thứ hai, sức mạnh kinh tế, chính trị và các mối quan hệ với bạn hàng. Gạo xuất
khẩu của Mỹ được coi là “nông phẩm chính trị” và nằm trong cơ chế bảo hộ của
Nhà Trắng với nhiều chính sách như chính sách trợ cấp thu nhập, chính sách trợ
giá xuất khẩu hay cấp tín dụng xuất khẩu... Chính phủ Mỹ thực hiện chính sách
can thiệp mạnh vào giá gạo, cả trong nước và xuất khẩu. Mỹ đã sử dụng gạo như
một vũ khí để thực hiện mục tiêu đối ngoại của mình trong các quan hệ kinh tế
như việc gây áp lực đối với mở cửa thị trường gạo của Nhật Bản và liên minh châu
Âu.
Năm 2001, do những biến cố suy thoái kinh tế, đặc biệt vụ khủng bố ngày 11
tháng 9 và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới, dự đoán số lượng xuất
khẩu của Mỹ sẽ giảm xuống còn 2,6 triệu tấn và sẽ gặp khá nhiều khó khăn trong
xuất khẩu mặt hàng này.
4) Pakistan
Là quốc gia nằm trong khu vực Nam á, với số dân gần 150 triệu người, Pakistan
có truyền thống xuất khẩu gạo từ nhiều thập kỷ nay, với lượng gạo trung bình
trong thời gian gần đây là 2 triệu tấn. Xuất khẩu gạo của nước này tương đối ổn
định với các loại gạo chất lượng trung bình và khá. Những năm gần đây, xuất khẩu
của Pakistan tăng nhẹ. Cụ thể là năm 1998 số lượng gạo xuất khẩu là 1,8 triệu tấn,
1999 là 1,85 triệu tấn, 2000 là 2 triệu tấn và dự đoán trong năm 2001 sẽ là 2,25
tấn, chiếm hơn 10% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới.
5) ấn Độ
ấn Độ là một quốc gia luôn ở trong tình trạng thiếu lương thực. Từ trước đến nay,
ấn Độ phải nhập khẩu một lượng gạo lớn chất lượng thấp nhưng đồng thời cũng
xuất khẩu gạo Basmati, một loại gạo đặc sản, sang các thị trường châu á và châu
Phi, đặc biệt là thị trường Trung Đông. Những năm gần đây, số lượng gạo xuất
khẩu của ấn Độ không ổn định do gặp nhiều thiên tai. Hoạt động xuất khẩu gạo
của ấn Độ đang có khó khăn vì Bănglađét, thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp thấp
chủ yếu của ấn Độ, bắt đầu thực hiện thả nổi việc đấu thầu mua gạo từ tháng
1/2000 với điều kiện thanh toán nghiêm ngặt. Cụ thể là số lượng gạo xuất khẩu
của ấn Độ từ 4,5 triệu tấn năm 1998, chiếm 16,2% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn
thế giới, năm 1999 còn 2,4 triệu tấn, năm 2000 chỉ còn 1,3 triệu tấn.
Hiện nay, Bộ Thương mại ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm AND để đảm
bảo sự thuần chủng cho giống gạo Basmati ấn Độ và sẽ khuyến khích xuất khẩu
gạo cao cấp này. Bên cạnh đó, ấn Độ cho phép Tổng công ty lương thực quyết
định giá xuất khẩu song không được thấp hơn giá bán cho người dân ấn Độ sống
dưới mức nghèo khổ. Các nhà xuất khẩu ấn Độ cho rằng gạo ấn Độ có cơ hội thâm
nhập vào các thị trường nước ngoài nếu như giá thấp như giá các xuất xứ khác. Bộ
Thương mại ấn Độ cũng đã xem xét kế hoạch xoá bỏ hạn chế xuất khẩu đối với
các sản phẩm như gạo, lúa mì, đường và hành. Gạo xay xát hiện đang được tự do
xuất khẩu, mặc dù các tư nhân muốn xuất khẩu vẫn buộc phải đăng ký hợp đồng
với Cơ quan phát triển nông nghiệp và xuất khẩu thực phẩm chế biến. Hiện tại, ấn
Độ đang thu hút các nhà nhập khẩu gạo như Nam Phi, Nigiêria, arập-Xêút. Mục
tiêu của ấn Độ trong những năm tới là giảm bớt chi phí của Chính phủ, khuyến
khích xuất khẩu và bảo đảm an toàn lương thực, đặc biệt là cố gắng xuất khẩu 3
triệu tấn gạo vào niên vụ 2000/2001.
1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
1.2.1. Vị trí chiến lược của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế quốc dân
Việt Nam là một nước đông dân, trong đó gạo là lương thực chính và khó có thể
thay thế. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của sản xuất gạo đối với nền kinh tế
quốc dân. Bên cạnh đó, khi đất nước đã có thể đảm bảo an ninh lương thực, xuất
khẩu gạo trong điều kiện kinh tế hiện nay có ý nghĩa quyết định đối với quá trình
hội nhập của nước ta và được thể hiện trên nhiều khía cạnh, mà chủ yếu là:
1.2.1.1. Xuất khẩu gạo tăng thu ngoại tệ, tích luỹ vốn cho quá trình Công nghiệp
hoá- Hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước
Quá trình CNH-HĐH đất nước được xác định tiến hành lâu dài và theo những
bước đi thích hợp. Để tiến hành thành công quá trình này, cần huy động tối đa mọi
nguồn lực của quốc gia, trong đó vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng. Có vốn
mới có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại,
đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực... Vốn thường được huy động từ nhiều nguồn
khác nhau: đầu tư nước ngoài, du lịch, vay vốn trong dân, xuất khẩu... trong đó
vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu có tác động lớn đến hoạt động nhập khẩu,
qua đó đẩy mạnh tiến trình CNH-HĐH đất nước.
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta những năm gần đây, kim ngạch từ
xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng khá lớn. Gạo đã trở thành một mặt hàng chủ lực
của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho thấy xuất khẩu gạo từ lâu
đã mang lại một nguồn vốn không nhỏ cho nước ta. Theo số liệu mới nhất của Bộ
Thương mại, trong suốt 11 năm từ 1989 đến 2000, tổng kim ngạch mà xuất khẩu
gạo mang lại đạt gần 7 tỷ USD, chưa kể đến xuất khẩu tiểu ngạch sang các nước
láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Như vậy, gạo đã chiếm tới khoảng
16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một tỷ lệ không nhỏ đối với riêng
một mặt hàng trong rất nhiều mặt hàng xuất khẩu khác.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gạo đối với quá trình CNH-HĐH đất nước,
Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng hơn tới tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến
vào sản xuất, đặc biệt chú ý tới những giống lúa có chất lượng và cho năng suất
cao, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu gạo nhằm đem lại nguồn vốn lớn phục
vụ công cuộc đổi mới đất nước.
1.2.1.2. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản
xuất phát triển
Khi Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo đồng nghĩa với việc tăng cường sản xuất
theo quy mô vùng. Hiện nay, ở nước ta đã và đang hình thành những vùng lúa tập
trung chuyên sản xuất gạo xuất khẩu bao gồm cả hai khu vực chủ yếu là đồng
bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Mỗi vùng phù hợp với những loại
giống lúa khác nhau. Như vậy, cơ cấu nông nghiệp sẽ thay đổi phát huy theo lợi
thế của từng vùng.
Khi đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cơ cấu ngành nghề cũng sẽ thay đổi. Hàng loạt các
nghề phụ liên quan đến sản xuất và chế biến gạo như xay sát, bảo quản, đánh
bóng... cũng phát triển theo. Đây là điều kiện thuận lợi đối với nền kinh tế dư thừa
lao động như nước ta, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp trong nông thôn và góp phần
cải thiện đời sống nhân dân.
Trong những năm gần đây, sản lượng lúa thu hoạch tăng cao. Xuất khẩu gạo tạo
điều kiện mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tránh ứ đọng, tồn kho. Khi khâu tiêu thụ
được giải quyết sẽ tạo tâm lý an tâm, khuyến khích nông dân tăng cường, đẩy
mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Như vậy, xuất khẩu đã tác động
ngược trở lại đối với sản xuất, là một tiền đề cho sản xuất phát triển, tạo điều kiện
mở rộng khả năng cung cấp và khả năng tiêu dùng của một quốc gia như Việt
Nam.
Khi tham gia xuất khẩu gạo, Việt Nam có điều kiện cạnh tranh, cọ xát với các sản
phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế. Đây vừa là thuận lợi, vừa là khó khăn đối
với mặt hàng gạo của Việt Nam vì chất lượng của ta còn kém hơn so với các nước
xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan. Tuy nhiên, để đảm bảo sự tồn tại của gạo
Việt Nam trên thị trường, các doanh nghiệp buộc phải tổ chức, xem xét lại khâu
sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, hạ giá thành sản phẩm đồng
thời nâng cao chất lượng. Các kênh phân phối cũng phải tổ chức lại một cách hợp
lý, giảm thiểu chi phí nhằm mang lại lợi nhuận tối đa.
1.2.1.3. Xuất khẩu gạo tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm
và cải thiện đời sống của nhân dân
Như trên đã phân tích, khi xuất khẩu gạo được đẩy mạnh sẽ kéo theo những ngành
nghề khác hỗ trợ cho sản xuất như các hoạt động thương mại, dịch vụ bao gồm các
công đoạn tổ chức thu mua thóc từ nông dân, tạo đầu vào cho xuất khẩu. Các hoạt
động này nếu được được tiến hành tốt, có sự chỉ đạo đúng đắn sẽ tạo ra sự khai
thông đầu ra cho sản phẩm thóc của nhân dân ở thời vụ thu hoạch, kích thích nông
dân canh tác, nâng cao năng suất. Từ đó tác động trở lại đối với sản xuất và xuất
khẩu. Như vậy, không chỉ sản xuất gạo xuất khẩu có thể giải quyết việc làm, tạo
thu nhập ổn định cho nhiều lao động mà những ngành nghề khác có liên quan
cũng góp phần giảm tỉ lệ thất nghiệp của nước ta.
Xuất khẩu gạo tạo một thị trường trong nước ít biến động, cân bằng được cung
cầu, không còn lượng hàng dư thừa và tồn kho trong nước, giá gạo nội địa sẽ ổn
định và cao hơn tạo thêm thu nhập cho người nông dân. Khi xuất khẩu gạo thu
được thêm ngoại tệ một phần để nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng mà trong nước
không sản xuất được. Điều đó góp phần cải thiện đáng kể đời sống nhân dân,
khuyến khích họ tăng cường sản xuất gạo xuất khẩu nhiều hơn nữa.
Xuất khẩu gạo tạo sự phân công lao động hợp lý trên phạm vi toàn thế giới. Dựa
vào lợi thế so sánh tương đối đối với các loại gạo Việt Nam, chúng ta cần biết sản
xuất loại gạo nào đạt hiệu quả cao nhất và có khả năng bán với số lượng lớn, giá
cao. Tham gia vào thị trường bên ngoài rộng lớn, chúng ta hiểu rõ hơn về nhu cầu
người tiêu dùng và khả năng cung cấp của các nước xuất khẩu khác để điều chỉnh
định hướng xuất khẩu cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta.
1.2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm qua
1.2.2.1. Tình hình chung
Nếu nhìn lại giai đoạn trước đổi mới, khi cả nước ta lâm vào cảnh thiếu đói triền
miên, các gia đình luôn phải tích trữ lương thực, trộn lẫn các loại gạo, sắn, khoai...
trong mỗi bữa ăn thì mới thấy được thành công to lớn của ngành lương thực nước
ta trong suốt thời gian qua. Dưới cơ chế tập trung bao cấp, sản xuất nông nghiệp
nước ta mang nặng tính tự cấp tự túc, sản xuất không đủ tiêu dùng, thiếu lương
thực trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Từ khi thực hiện
đổi mới sau nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới kinh tế nông nghiệp đến
nghị quyết 6 của Ban chấp hành Trung ương khoá VI, cùng với việc ban hành một
loạt các chính sách kinh tế mới, nông nghiệp nước ta đã có nhiều khởi sắc. Cơ chế
của nền nông nghiệp từ tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng
CNH-HĐH đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là trong xuất khẩu
gạo.
Năm 1989 là năm đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử xuất khẩu gạo của nước ta,
khi Việt Nam đứng ở vị trí thứ 3, sau Thái Lan và Mỹ, trong số những nước xuất
khẩu gạo trên thị trường thế giới. Số lượng gạo xuất khẩu tăng dần từ 1,327 triệu
tấn vào năm 1989 lên tới 1,478 triệu tấn năm 1990, giảm nhẹ vào năm 1991 với 1
triệu tấn do những biến động từ thị trường Nga và Đông Âu sau khi CNXH Liên
Xô và các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ. Sau năm này, số lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam không ngừng tăng. Năm 1995, Việt Nam xuất khẩu 2,025 triệu tấn
và xếp vào vị trí thứ 4 trong các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Sau quyết
định bai bỏ lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, khối lượng gạo xuất khẩu có
xu hướng tăng nhanh. Việt Nam tiếp tục vươn lên hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo vào
năm 1996 với số lượng hơn 3 triệu tấn, vượt qua Mỹ và chỉ xếp sau Thái Lan, ấn
Độ. Kết quả này thực đáng ghi nhận vì vào năm này, Việt Nam phải đối đầu với
một loạt các thiên tai như bão nhiệt đới, lũ lụt... Các năm tiếp theo, lượng gạo xuất
khẩu vẫn tăng đều mà đỉnh cao là năm 1999 với 4,559 triệu tấn, thu về kim ngạch
hơn 1 tỷ USD. Đến năm 2000, do những biến động trên thị trường thế giới, lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm xuống, chỉ còn 3,47 triệu tấn, kim ngạch thu về
đạt 667 triệu USD. Năm 2001, kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều khó khăn nên dự
đoán Việt Nam chỉ xuất khẩu 3,470 triệu tấn. Số liệu về xuất khẩu gạo giai đoạn
1989-2001 được thể hiện cụ thể trong bảng sau:
Bảng 1.4. Kết quả xuất khẩu (1989-2001)
Năm Số lượng % thay đổi so với năm trước Trị giá
(USD/ MT) Giá bình quân (USD/MT)
1989 1.372 100 310.249 226,1
1990 1.478 106 275.390 186,3
1991 1.016 -462 229.857 226,2
1992 1.954 938 405.132 207,3
1993 1.649 -305 335.651 203,5
1994 1.962 313 420.861 214,5
1995 2.025 63 538.838 266,1
1996 3.047 1022 868.417 285,0
1997 3.682 635 891.342 242,1
1998 3.793 111 1.005.484 265,1
1999 4.559 766 1.007.847 221,0
2000 3.470 -1089 667.000 192,2
2001 3.700(*) 226
Tổng 30.227 6.990.345(**)
(*): Dự kiến; (**): Chưa kể số dự kiến xuất khẩu năm 2001
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại
Kim ngạch xuất khẩu gạo biến động theo các năm, phụ thuộc vào hai yếu tố giá cả
và số lượng xuất khẩu. Năm 1999 là năm Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu cao
nhất cũng là năm số lượng gạo xuất lớn nhất, tuy giá gạo Việt Nam trên thị trường
thế giới không cao (221 USD/MT).
Về thị trường, khách hàng thường xuyên của gạo Việt Nam phần lớn là các nước
đang phát triển. Một số nước châu Âu mua gạo Việt Nam để chuyển sang các
nước châu Phi dưới hình thức viện trợ nhân đạo. Các nước còn lại nhập khẩu gạo
Việt Nam với mục đích tiêu dùng trong nước. Qua nhiều năm, thị phần gạo Việt
Nam đã tăng và có những cải thiện đáng kể.
Kể từ năm 1989, Việt Nam đã chuyển từ nước nhập khẩu sang xuất khẩu gạo, cải
thiện đời sống của một bộ phận lớn dân cư, gia tăng sức mua xã hội, giảm bớt
thâm hụt thương mại, là tiền đề chống lạm phát có kết quả, từ đó tác động tích cực
đến quá trình phát triển kinh tế Việt Nam trong những năm sau này. Kết quả trong
xuất khẩu gạo là một trong những thành quả nổi bật nhất về mặt kinh tế trong
những năm cuối thế kỷ 20, là bước khởi đầu cho quá trình chuyển đổi, vững bước
tiến lên CNH-HĐH, vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của
nước ta. Thành tựu này đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lương thực, tạo cho
nhân dân niềm tin vào sự lãnh đạo và đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước
ta, góp phần ổn định tình hình phức tạp và nhiều biến động trong nước.
Có được những thành quả nói trên là nhờ vào sự điều chỉnh và đề ra chính sách
mới đúng đắn, sự năng động của nông dân cùng với những nỗ lực của các nhà xuất
khẩu, các nhà xay xát, chế biến và cả những thuận lợi, may mắn do hoàn cảnh
khách quan. Nhưng yếu tố chủ yếu nhất vẫn là cơ chế, chính sách đã được hoàn
thiện trong nhiều năm và sẽ liên tục được phát huy trong những năm tới.
Nhìn chung trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu gạo đã có những đóng góp
rất quan trọng vào công cuộc phát triển chung của nền kinh tế. Xuất khẩu gạo
bước đầu có những thành công nhất định, chứng tỏ đường lối đúng đắn của Đảng
ta khi thực hiện chính sách mở cửa, đẩy mạnh tiến trình hoà nhập của Việt Nam
trên thị trường thế giới. Xuất khẩu gạo đã mang lại hiệu quả kinh tế xã hội to lớn
như đã phân tích là tạo nguồn thu ngoại tệ, kích thích sản xuất lúa phát triển, góp
phần đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, tạo việc làm ổn định cho lao động
trong khu vực nông nghiệp và mạng lưới lưu thông phân phối gạo rộng khắp cả
nước, cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào cho các ngành lương thực, thực phẩm.
1.2.2.2. Những tồn tại trong xuất khẩu gạo của nước ta
Ngoài những thành công đáng khích lệ, xuất khẩu gạo Việt Nam còn tồn tại những
yếu kém mà chúng ta cần xem xét, qua đó đề ra các biện pháp cần khắc phục. Cụ
thể là:
- Sức cạnh tranh trên thị trường thế giới của gạo Việt Nam vẫn còn kém.
Có nhiều nguyên nhân để giải thích song cần nhấn mạnh đến chất lượng gạo thấp
(qua khâu sản xuất và chế biến), cơ sở hạ tầng giao thông cần thiết theo yêu cầu đã
cũ kỹ, lạc hậu. Đây là điểm yếu cần khắc phục ngay của gạo Việt Nam.
- Xuất khẩu gạo của Viêt Nam nhìn chung chưa ổn định. Vì thời gian Việt
Nam tham gia xuất khẩu còn chưa lâu so với các nước khác nên không có được
những bạn hàng truyền thống. Hơn nữa, chính sách bạn hàng của ta còn nhiều bất
cập, khó giữ được lòng tin ở khách hàng. Các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam có
chất lượng gạo tốt hơn song về giá cả, gạo Việt Nam thường rẻ hơn dù trong thời
gian gần đây đã có những dấu hiệu đáng mừng trong giá gạo của Việt Nam trên thị
trường thế giới. Chính vì thế, chúng ta nên tập trung chủ yếu vào một số thị trường
nhất định như thị trường các nước đang phát triển để tìm kiếm nhanh chóng hợp
đồng.
- Xuất khẩu gạo Việt Nam phần lớn phải tiến hành qua khâu trung gian, rất
ít khi nhà xuất khẩu trực tiếp tham gia đấu thầu giành hợp đồng ở các nước nhập
khẩu lớn nên chưa có được những hợp đồng quy mô lớn, giao hàng với giá cả ổn
định, dài hạn mà chủ yếu là hợp đồng ngắn hạn, từng chuyến, theo mùa, giá cả bấp
bênh và xác suất rủi ro khá cao.
- Hiện tượng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước do
tranh mua, tranh bán dẫn đến đội giá mua lên cao, trình độ nắm bắt và xử lý thông
tin của doanh nghiệp vẫn còn yếu nên dễ dẫn đến bị thương nhân nước ngoài ép
giá.
Nói tóm lại, đi đôi với những thành tựu đạt được về xuất khẩu gạo chúng ta còn rất
nhiều khó khăn và thách thức phải vượt qua. Điều đó đòi hỏi tất cả các thành phần
kinh tế tham gia vào quá trình này phải nghiên cứu, tìm tòi những giải pháp khắc
phục, đồng thời có những đổi mới thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của
hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta.
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-
mix
2.1. Các khái niệm cơ bản về Marketing
2.1.1. Khái niệm chung về Marketing
Hiện nay trong các tác phẩm về Marketing trên thế giới, có đến trên 2.000 định
nghĩa về Marketing. Các định nghĩa đó về thực chất không khác nhau và mỗi tác
giả của các định nghĩa đều có quan điểm riêng của mình. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu vấn đề xuất khẩu gạo ở tầm vĩ mô, xin nêu ra một định nghĩa khá phù hợp với
khái niệm và thuật ngữ của Marketing:
“Marketing là tập hợp các phương thức (nghiên cứu thị trường, các chiến lược...)
mà một cơ quan, tổ chức sử dụng để gây ảnh hưởng lên thái độ, hành vi của tập
hợp người tiêu dùng đáng quan tâm theo chiều hướng thuận lợi cho việc thực hiện
các mục tiêu của cơ quan, tổ chức đó”.
Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, ngoài việc cân bằng cán cân thương mại, những mục
tiêu này bao gồm:
- Thứ nhất, sự ổn định vững chắc của kinh tế đất nước.
- Thứ hai, sự phân bố thu nhập đồng đều giữa người sản xuất, nhà xuất khẩu.
2.1.2. Khái niệm về Marketing-mix và các thành phần cơ bản của Marketing-mix
Theo Kotler, Marketing-mix là tập hợp những công cụ Marketing được sử dụng để
theo đuổi những mục tiêu Marketing của mình trên thị trường mục tiêu.
Marketing-mix bao gồm bốn yếu tố chính: chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả,
chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Meredith G.G
(1991), trang 9 có nói rõ về 4 yếu tố này như sau:
Bảng 2.1. Các thành phần của Marketing-mix
Sản phẩm Phân phối Xúc tiến Giá cả
Chủng loại Vị trí các đại lý Quảng cáo Giá cơ sở
Chất lượng Loại đại lý Tiêu thụ cá nhân Điều kiện tín dụng
Nhãn hiệu Kho chứa hàng Bán trực tiếp Điều kiện chuyển giao
Bao bì Sử dụng bởi nhà bán buôn Xúc tiến bán hàng Bảo hành
Dịch vụ Sử dụng bởi nhà bán lẻ Công cộng Chiết giá và bớt giá
Giao hàng Đại lý độc quyền Quan hệ với công chúng Chiết khấu
* Chiến lược sản phẩm
Chiến lược sản phẩm luôn được coi là quan trọng nhất trong chiến lược
Marketing. Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, chiến lược này bao gồm các nhiệm vụ như
phát triển sản xuất, kiểm tra chất lượng, định vị sản phẩm nhằm đáp ứng hai mục
tiêu chính: thứ nhất, mục tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường và tăng số lượng sản
phẩm bán ra; thứ hai, mục tiêu cân bằng hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài và sự
ổn định của thị trường trong nước nhằm đảm bảo an ninh lương thực.
* Chiến lược giá cả
Giá là một yếu tố rất quan trọng trong Marketing-mix. Chính sách giá phải đảm
bảo thu hút các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào thương mại hoá sản
phẩm nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu.
* Chiến lược phân phối
Là chiến lược bao gồm các vấn đề như thiết lập các kiểu kênh phân phối, lựa chọn
trung gian, thiết lập mối liên hệ trong kênh và toàn bộ mạng lưới phân phối, các
vấn đề dự trữ, kho bãi, phương thức vận chuyển... Hiểu theo nghĩa rộng, phân phối
có nghĩa là tập hợp tất cả các phương thức và hoạt động chuyển hàng hoá và dịch
vụ từ người bán đến người mua. Chiến lược này chú trọng đến các mục tiêu:
+ Mở rộng thị trường tiềm năng.
+ Tăng cường chất lượng các kênh thương mại.
+ Giảm thiểu chi phí trong phân phối.
* Chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh
Là chiến lược bao gồm mọi hoạt động nhằm truyền bá những thông tin về sản
phẩm như quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt động khuyến mại khác... tới
người tiêu dùng. Chiến lược này nhằm đẩy mạnh các luồng thông tin hai chiều
giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Như vậy, Marketing-mix là loại Marketing phối hợp hài hoà các yếu tố cơ bản của
nó sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của môi trường kinh doanh nhằm thu
được lợi nhuận tối ưu.
Về nội dung có thể đưa ra mô hình sau:
Đỉnh chóp của Marketing-mix toả ra 4 trục chính xuống các điểm của 4P là MM-
P1, MM-P2, MM-P3, MM-P4. Như vậy, đỉnh chóp MM đã hình thành sự phối hợp
giữa các P. Do đó, tại bất kỳ điểm P nào cũng luôn luôn có sự liên kết với các P
khác. Mối liên kết giữa các P là mối liên hệ qua lại hai chiều.
Nội dung phối hợp hài hoà 4P cần phải thực hiện đồng bộ theo một kế hoạch
thống nhất trong một thời gian nhất định nhằm đạt được hiệu quả tối ưu. Muốn có
được sự phối hợp thành công phải hiểu rõ vai trò của từng yếu tố P, vừa phát hiện
kịp thời mối liên hệ, tương tác giữa chúng.
2.1.3. Vai trò của Marketing-mix trong kinh doanh
Theo định nghĩa về Marketing-mix thì đó là tập hợp những công cụ được sử dụng
để tạo sự thích ứng giữa sản phẩm và thị trường mục tiêu. Như vậy, mục đích của
Marketing-mix là đảm bảo rằng sản phẩm có thể đáp ứng được thị trường mục
tiêu. Theo Kotler, 4P nằm dưới sự kiểm soát của người bán (nhà xuất khẩu) và
được sử dụng để tác động đến người mua. Theo quan điểm của người mua (nhà
nhập khẩu) thì mỗi công cụ của Marketing đều có chức năng cung ứng một ích lợi
cho khách hàng. Trong xuất khẩu nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng, nếu đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng một cách tinh tế, thuận tiện và thông tin hữu
hiệu thì sẽ giành được thắng lợi. Nói một cách khác, để tác động trực tiếp và có
hiệu quả tới khách hàng thì các thành phần của Marketing-mix phải được sử dụng
một cách tổng hợp.
Marketing-mix được thiết kế theo những thủ tục sau: sản phẩm được thu mua để
đáp ứng nhu cầu của khách hàng (sản phẩm); địa điểm mà khách hàng sẽ tìm
chúng (địa điểm) và khách hàng sẽ biết nó là loại sản phẩm gì, nó hoạt động như
thế nào (xúc tiến bán). Sau đó mức giá sẽ được ước lượng với sự cân nhắc đến
tổng lượng cung cấp cho khách hàng. Quyết định được đưa ra liên quan đến cả 4
yếu tố trong Marketing-mix, bởi vì các yếu tố này đều có ảnh hưởng đến quá trình
Marketing và đều có những đóng góp cho việc bán hàng.
2.2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix
2.2.1. Sản phẩm
Trong 4 yếu tố của Marketing-mix, sản phẩm đóng vai trò quan trọng nhất. Theo
đề tài, sản phẩm được hiểu là các loại gạo xuất khẩu, phân tích theo các bước cơ
bản: quá trình sản xuất, chất lượng và chủng loại...
2.2.1.1. Sản xuất lúa gạo - bước khởi đầu cho xuất khẩu
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp lương thực
trong nước và tạo ra lượng gạo dư thừa dành cho xuất khẩu. Sản xuất lúa gạo phụ
thuộc vào các yếu tố chính như diện tích đất trồng, khí hậu, nhân công, phân bón...
Là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống và làm việc bằng nghề nông, Việt
Nam coi sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất chính. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI năm 1986, với những thay đổi trong đường lối chính sách, chúng ta đã
đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất lương thực nói chung và lúa gạo
nói riêng. Từ chỗ thiếu lương thực phải nhập khẩu thường xuyên, sau năm 1989,
Việt Nam đã tự túc được lương thực và có khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng,
đứng thứ hai, thứ ba trên thế giới. Sản lượng lúa gạo tăng khá ổn định trên cả 3
mặt: diện tích, năng suất, chất lượng và hiệu quả.
- Thứ nhất, về diện tích đất trồng, Việt Nam có gần 7 triệu ha đất dành cho trồng
trọt, chiếm 21% tổng diện tích của cả nước. Hai vựa lúa chính là đồng bằng sông
Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã chiếm tới 5,6 triệu ha, trong đó đất trồng
trọt chiếm diện tích lớn. Cụ thể đồng bằng sông Hồng năm 1990 chiếm 17,5%,
đến năm 1998 có giảm nhưng đồng bằng sông Cửu Long tăng từ 42% lên 51,8%.
Nhìn chung diện tích đất trồng lúa cả nước tăng từ 5,89 triệu ha năm 1989 lên 7,33
triệu ha năm 1998, trung bình tăng 2,33%/năm.
- Thứ hai, về năng suất lúa cũng có những thay đổi đáng kể. Từ mức 26,6 tạ/ha
năm 1976-1980, năng suất lúa bình quân trên cả nước đã lên tới 32,5 tạ/ha năm
1981-1988; 34,8 tạ/ha năm 1989-1993; 38 tạ/ha năm 1994-1997 và 40 tạ/ha năm
2000, đạt nhịp độ tăng bình quân 4-5%/năm. Như vậy, khoảng 42-44% sản lượng
thóc tăng do tăng diện tích, còn lại do tăng năng suất. Điều đó có được nhờ ứng
dụng nhiều tiến bộ KHKT, nhất là những tiến bộ về giống lúa có năng suất và chất
lượng cao như CR 203, OM 80-81, IR 58, IR 64 và các giống lúa lai Trung Quốc.
Từ đó đã có những thay đổi trong cơ cấu mùa vụ, tránh né được nhiều thiệt hại do
thời tiết gây ra.
- Thứ ba, về sản lượng lúa. Do năng suất và diện tích sản xuất tăng và tăng với tốc
độ khá cao nên sản lượng lúa của cả nước cũng tăng. Giai đoạn 1995-2000 sản
lượng lương thực hàng năm của nước ta đạt trung bình 28,7 triệu tấn, cao nhất so
với những năm trước. Cụ thể năm 1995 đạt 24,9 triệu tấn, năm 1996 đạt 26,4 triệu
tấn, năm 1997 đạt 27,6 triệu tấn, năm 1998 đạt 29,1 triệu tấn, năm 1999 đạt 31,4
triệu tấn, đặc biệt năm 2000 sản lượng lúa lên tới 32,5 triệu tấn. Dự kiến năm 2001
con số này sẽ giảm nhẹ xuống 31,4 triệu tấn. Mặc dù tốc độ tăng dân số ở nước ta
còn cao nhưng tốc độ tăng trưởng của sản lượng lúa tăng nhanh hơn tốc độ tăng
dân số nên lương thực bình quân đầu người cũng tăng qua các năm.
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ thương mại
Nhìn chung, tình hình phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam trong những năm
qua có những dấu hiệu tích cực với những thành tích đáng kể. Có được thành công
đó là do thay đổi kịp thời và đúng đắn trong cơ chế quản lý, đặc biệt là cơ chế
“khoán 10” năm 1988. Bên cạnh đó, những tiến bộ trong các khâu cơ giới hoá,
thuỷ lợi hoá và nghiên cứu sinh học cải tạo giống lúa đã góp phần không nhỏ vào
việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, tăng diện tích đất gieo trồng,
thâm canh tăng năng suất lúa...
Tuy nhiên, dù đã có sự tiến bộ vượt bậc so với thời kỳ trước, sản xuất lúa gạo ở
nước ta vẫn còn biểu hiện những hạn chế khó tránh khỏi. Về mặt kỹ thuật, dù đã
áp dụng công nghệ mới nhưng nhìn chung vẫn còn lạc hậu, phải sử dụng lao động
thủ công trên đồng ruộng. Năng suất lao động, chất lượng sản phẩm tuy có sự cải
thiện rõ nét nhưng vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta thường chú trọng đến việc tạo ra số lượng gạo lớn nhằm đảm bảo an
ninh lương thực trong nước và xuất khẩu song lại không quan tâm nhiều đến việc
nâng cao chất lượng sản phẩm để tạo sức cạnh tranh, nâng cao giá của mặt hàng
gạo xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Trong thời gian tới, sản xuất lúa gạo sẽ tập trung thực hiện ba mục tiêu: đảm bảo
vững chắc an ninh lương thực quốc gia, thoả mãn nhu cầu lương thực cho tiêu
dùng trong bất cứ tình huống nào; đảm bảo đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế
biến và tăng khối lượng xuất khẩu với hiệu quả cao.
2.2.1.2. Chất lượng gạo xuất khẩu
* Chất lượng
Tuy trong những năm gần đây Việt Nam đạt vị trí cao về số lượng gạo xuất khẩu
nhưng về chất lượng thì có nhiều yếu kém. Chất lượng của gạo nói chung phụ
thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên và tác động của con người như đất đai, khí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cso_ttien_xk_gao_vn_tgian_toi_theo_qdiem_mar_va_tim_ra_huog_di_dug_da.pdf