Như vậy, qua quá trình phát triển giai đoạn 1954 -1975, ta có thể nhận thấ y 
giai đoạn này, miền Bắc đã làm tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là 
chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc đã dốc toàn lực và 
cuốc kháng chiến chống Mỹ cả sức mạnh và thành quả tổng thể của chế độ xã hội 
chủ nghĩa, đã tiến hành chiến đấu càng đánh càng mạnh, và không ngừng tăng 
cường tiềm lực kinh tế quốc phòng và căn cứ địa cách mạng bằng cách tiếp tục 
xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngay 
trong chiến tranh một cách thích hợp với thời chiến. Thắng lợi của cuộc kháng 
chiến chống Mỹ là thành quả của toàn dân tộc , của chế độ xã hội chủ nghĩa, của 
các lực lượng chiến đấu cho độc lập tự do. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 
là thử thách lịch sử to lớn nhất đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Một m ặt nó 
tiêu hao một bộ phận quan trọng những thành tựu mà chúng ta thu được và gây 
khó khăn cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng nó cũng là m ột cơ hội 
của sự phát triển, một sự thúc đẩy lớn với chuyên chính vô sản trên cả nước.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 60 trang
60 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6068 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề bài: Sự phát triển kinh tế - Xã hội miền bắc (1954 - 1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ượng không sản xuất vật chất phân bố chủ yếu trong: Khu vực hành chính 
sự nghiệp, ngân hang và khu vực dịch vụ khác.Lực lượng này luôn bcó biên chế 
đông nhất chiếm hơn 90% lực lượng trong khu vực không sản xuất vật chất, băng 
27,6 % tổng sood toàn bộ công nhân vien chức nhà nước. 
29 
 Đội ngũ công nhân viên chức tăng lên hàng chục vạn người so với ngày đầu 
tiếp quản miền bắc.Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc xây 
dựng và bảo vệ miền bắc.Tăng về số lượng cùng với quá trình phân bố, điều 
chỉnh nhân lực đã tạo nên sức mạnh mới cho giai cấp công nhân nói riêng và toàn 
bộ lực lượng lao động xã hội nói chung, 
 Thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, đội ngũ công nhân viên chức phát triển về 
mọi mặt. Lực lượng này bao gồm hai thế hệ: Một thế hệ trưởng thành trong giải 
phóng dân tộc- mà đa số công nhân chuyên nghiệp thuộc nhóm này.Hai là thế hệ 
mới trẻ trung, đâỳ năng lực, mới lớn lên sau hòa bình lập lại.cả hai đã cấu thành 
giai cấp nông thôn miền bắc mới. 
 Sự biến đổi của nhà nước VNDCH luôn gắn bó với sự phát triển của văn hóa – 
giáo dục. Thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, nghành giáo dục không ngưng lớn 
mạnh. Chế độ mới khuyến khích , tạo điều kiện cho thanh thiếu niên đến 
trường.Chính sách này đã tạo nên một thế hệ tương lai được hưởng một nền giáo 
dục dân chủ, có kiến thức và cơ sở tương đối đồng đều. 
 Bậc giáo dục đại học, số sinh viên, học sinh học cao đẳng ngày càng 
đông.Năm học 1959 – 1960 đã có 1482 sinh viên tốt nghiệp và con em thành 
phần công nông ngày càng chiêm số lượng lớn.Là nguồn nhân lực quan trọng bổ 
sung vào đội ngũ trí thức công nông.Đây là những năm tháng bản lề quyết định 
thành công của xu hướng quá trình công nông hóa đội ngũ khoa học kĩ thuật. 
3. Tiểu kết. 
 Như vậy , cải tạo xã hội chủ nghĩa 1958 – 1960 đã biến đổi cấu trúc xã hội 
lien quan đến mọi lực lượng ở cả nông thôn và thành thị. 
Địa bàn quan trọng nhất trong công cuộc cải tạo là nông nghiệp.Cuộc cải tạo 
đó đã tạo ra giai cấp nông dân tập thể. 
 Quá trình cải tạo thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ, tư bản tư doanh khác đã 
xóa bỏ quyền tư hữu về tư lieu sản xuất, xác lập quyền sở hữ công cộng dưới 
dạng toàn dân và tập thể.Sự chuyển đổi này đã tạo nên cơ cấu lao động, cơ cấu xã 
30 
hội mới.Mọi thành viên trong đó đã trở thành một bộ phận bị phụ thuộc, không 
thể tách rời cơ chế quản lý, điều hành chung. 
 Tuy nhiên ngoài hai giai cấp đã nêu, còn có những bộ phận khác, là những hộ 
cá thể, không muốn hoặc chưa được vào sản xuất tập thể, bao gồm những nông 
dân làm ăn riêng lẻ, thợ thủ công cá thể, tiểu thương…nhưng nói chung tỷ lệ này 
nhỏ và lực lượng của nhóm này ngà càng bị thu hẹp dần trong quá trình xây dựng 
XHCN mấy năm sau. 
 Nhìn tổng thể sau mấy năm xây dựng, lực lượng nông dân vẫn là lớn nhất trong 
bức tranh về cơ cấu xã hội miền bắc.Dù kinh tế tiểu nông không còn nữa, nhưng 
thực tế chỉ thay đổi quyền sở hữu ruộng đất ( từ tư nhân sang tập thể) chứ không 
thay đổi nhiều về tỷ lệ lao động xã hội.Kinh tế miền bắc vẫn chưa vượt qua rào 
chắn của xã hội tiền công nghiệp. Khuôn mặt chính của xã hội vẫn là nông dân. 
 Những thay đổi của xã hội nói chung và kết cấu giai cấp xã hội nói riêng phản 
ánh đúng những thay đổi về cơ cấu kinh tế của nước VNDCCH trong 1954 – 
1960. Sự xuất hiện, ra đời, trưởng thành của các giai cấp, tầng lớp mới vừa đánh 
dấu kết quả từng bước trưởng thành của nước Việt nam Mới, đồng thời vừa là 
động lực, nhân tố mới xây dựng xã hội tương lai. 
Đặt tiến trình xã hội miền Bắc trong những năm 1954 - 1975 trong tổng thể 
chung, lâu dài của quá trình biến đổi xã hội miền Bắc, có thể nói công cuộc khôi 
phục kinh tế, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong những năm 1955 - 
1957 chỉ là bước đệm, " phòng chờ" tạm thời trước khi toàn bộ lực lượng xã hội 
gồm các giai cấp, giai tầng được phân bố, sắp xếp lại vào các cơ sở công hữu 
thuộc khu vực toàn dân hay tập thể 
Từ một kết cấu kinh tế - xã hội hình thành trên cơ sở nhiều thành phần giai 
cấp gắn với nhiều khu vực kinh tế, phát triển tự do, thành một xã hội có kết cấu 
xã hội với kết cấu giai cấp, giai tầng tương đối thuần nhất, dựa trên một nền kinh 
tế có kế hoạch, có tổ chức, lấy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất làm nguyên 
tắc tổ chức xã hội. Đó là tiến trình phát triển lịch sử - xã hội của miền Bắc trong 
31 
giai đoạn (1954 - 1960) , đó cũng là một thời kì cam go ác liệt ở cả hai miền nam, 
bắc. 
V - Sự phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc (1961 -1975). 
1. Hoàn cảnh lịch sử. 
Thắng lợi của phong trào Đồng Khởi ở miền Nam đã tiếp thêm sức mạnh 
cho nhân dân cả nước tiếp tục vừa sản xuất vừa chiến đấu. 
 Thứ nhất đó là giai đoạn (1961 - 1965). Đây cũng là thời kỳ thực hiện kế 
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Kế hoạch 5 năm này nhằm xây dựng 
bước đầu cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đến thời kỳ này chúng ta 
lấy xây dựng xã hội chủ nghĩa là trọng tâm, đồng thời hoàn thành cải cách ruộng 
đất, nhưng chiến tranh đã xảy ra, do đó kế hoạch chưa hoàn thành. Do chiến 
tranh, phần lớn những xí nghiệp, công trình giao thông, trạm bơm,công trình thủy 
lợi, nhiều công trình thuộc sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa.... bị tàn phá 
Giai đoạn sau ( 1965 - 1968), là thời kỳ miền bắc vừa xây dựng vừa chiến 
đấu, tức là tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng chủ yếu là xây dựng ở các 
địa phương phân tán với quy mô nhỏ đề duy trì chi viện cho cuộc chiến đấu giải 
phóng ở miền Nam, để tránh những tổn thất do chiến tranh phá hoại gây ra, để 
thực hiện hậu cần tại chỗ trong chiến tranh, đồng thời tiếp tục duy trì và hoàn 
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh là một sự thử thách đối với 
chế độ, bởi chúng ta thắng Mỹ là nhờ chế độ xã hội ở miền Bắc - ở đây chưa có 
nền công nghiệp phát triển và những thiết bị chiến tranh hiện đại do ta sản xuất, 
mà dựa vào quần chúng nhân dân, phát huy tính nhất trí cao về tinh thần của nhân 
dân, bên cạnh đó cũng có sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa. 
Giai đoạn 1969 đến 1975, là thời kỳ chúng ta tranh thủ thời gian hòa bình, 
không còn chiến tranh phá hoại ở miền Bắc để khôi phục kinh tế. Sang đến 1972 
lại là một năm phá hoại ác liệt của đế quốc MỸ, nhưng quân dân miền Bắc vẫn 
cố gắng tiếp tục vừa sản xuất, vừa chiến đấu để chi viện cho miền Nam. Những 
cố gắng đó cuối cùng cũng được đền đáp hiệp định Pa ri được ký kết, miền Bắc 
bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ 
32 
thúc đẩy cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam phát triển, thực hiện mục 
tiêu " đánh cho Ngụy nhào" với đại thắng mùa xuân 1975 ở miền Nam. Thắng lợi 
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của tinh thần đoàn kết 
chiến đấu của nhân dân hai miền Nam, Bắc. Nếu không có chế độ xã hội chủ 
nghĩa ở miền bắc và sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa thì sẽ thiếu nhân tố 
quyết định sự thắng lợi, đó là vấn đề chúng ta cần tìm hiểu ở giai đoạn này. 
2. Nội dung của sự phát triển. 
Trong những năm (1961 - 1964) 
Thứ nhất về sự biến đổi cơ cấu kinh tế. 
Kế hoạch 5 năm ( 1961 - 1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất của 
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, trong đó thực hiện một bước công nghiệp hóa. 
Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ của cách mạng 
xã hội chủ nghĩa. Trong công nghiệp hóa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng 
được xác định mang tính chất quyết định đối với công cuộc xây dựng đất nước. 
Đó là phương hướng xây dựng, đầu tư của nhà nước trong kế hoạch 5 năm lần 
thứ nhất. 
Ngân sách đầu tư cho công nghiệp vào hai bộ phận: đó là các cơ sở do trung 
ương quản lý và một do địa phương quản lý. Trong 10 năm xây dựng miền Bắc, 
vốn đầu tư cho kinh tế trung ương rất cao chiếm khoảng 3/4 tổng ngân sách đầu 
tư của nhà nước vào kinh tế. 
Biến đổi kinh tế miền Bắc tạo nên cơ cấu sản lượng và cơ cấu thu nhập quốc 
dân mới. Giá trị sản lượng vào các ngành công nghiệp và nông nghiệp thay đổi 
khá nhanh, đến năm 1964, trước khi chuyển hướng xây dựng kinh tế miền Bắc, 
giá trị sản lượng công nghiệp đã vượt mức nông nghiệp. 
Trong khi miền bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất thì đế quốc 
Mỹ mở rộng chiến tranh ở Miền Nam, thực hiện cuộc chiến tranh phá hoại miền 
Bắc, Miền Bắc chuyển hướng xây dựng kinh tế, củng cố quốc phòng. 
Công cuộc xây dựng miền Bắc trong những năm 1961 - 1964 là sự tiếp nối 
sự nghiệp cách mạng đã được thực hiện một phần ở giai đoạn lịch sử trước.Đó là 
sự mở rộng, phát triển các thành phần kinh tế chủ nghã xã hội. Bởi xuất phát 
33 
điểm của kinh tế miền Bắc thấp, chủ yếu dựa vào nông nghiệp nên vấn đề xây 
dựng từ hạ tầng đến các cơ sở sản xuất công nghiệp được đặc biệt chú trọng. Quá 
trình ấy gọi là tổ chức lại sản xuất cho miền Bắc. Quá trình đó ảnh hưởng đến cơ 
cấu xã hội trên mọi phương diện. 
Biến đổi cơ cấu xã hội. 
Trong công cuộc công nghiệp hóa miền Bắc, đặc biệt là thời kì thực hiện kế 
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), lực lượng cán bộ, công nhân, viên chức 
trong biên chế nhà nước tăng trưởng không ngừng. Lực lượng đó ở cả trung ương 
và địa phương được chia làm hai khối: trực tiếp sản xuất vật chất và không trực 
tiếp sản xuất vật chất. Những khối này được phân định dựa trên những nghề 
nghiệp cụ thể. 
Riêng ngành công nghiệp, khu vực được ưu tiên phát triển kể từ năm 1960, 
số lượng công nhân viên chức ngày càng tăng. Trong ngành này, có định hướng 
phát triển công nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp cơ khí kể từ sau khi Mỹ mở 
rông ném bom miền Bắc, ngành cơ khíđược ưu tiên hàng đầu và đầu tư vào lực 
lượng lao động trong ngành này tằng nhằm xây dựng nó thành đòn bẩy đẩy mạnh 
công nghiệp hóa đất nước. 
 Thực hiện tăng về số lượng lực lượng lao động trong các ngành nghề đồng 
thời phát triển chất lượng và tay nghề của đội ngũ đó. 
Tiếp tục gây dựng củng cố lực lượng lao động trong khu vực kinh tế tập thể 
phi nông nghiệp. 
Sau thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các lực lượng tiểu thương, tiểu 
chủ, đa số thợ thủ công đã vào hợp tác xã thủ công nghiệp. Trong khi đó tỷ lệ tiểu 
thương được gom lại trong các hợp tác xã mua bán còn thấp vào cuối năm 1960. 
Số lượng thợ thủ công sản xuất cá thể, dù xu hướng có giảm sút vì tham gia 
vào sản xuất tập thể hay chuyển nghề thành nông dân, nhưng vẫn còn có từ bốn 
đến năm vạn thợ làm ăn riêng lẻ. 
So với lực lượng ở khu vực kinh tế quốc dân, lực lượng lao động trong các 
cơ sở tiểu công nghiệp có tay nghề, năng lực, trình độ sản xuất và năng lực kém 
hơn. 
34 
Thời kỳ 1961 - 1965 đã sắp xếp giai cấp công nhân với tư cách là một trong 
hai lực lượng lao động trụ cột của xã hội vào hệ thống lao động xã hội có tổ chức 
chặt chẽ từ trung ương xuống cơ sở, tuy nhiên nhiệm vụ cụ thể khác nhau, nhưng 
đều giống nhau ở khâu tổ chức. Đội ngũ công nhân có thể tham gia các tổ chức , 
đặc biệt các tổ chức đoàn và công đoàn, điều đó tạo điều kiện cho mỗi cá nhân 
phát triển hơn nữa. 
Những biến đổi của đội ngũ công nhân viên chức có ảnh hưởng trực tiếp đến 
diện mạo kinh tế - xã hội nông thôn và cơ cấu giai cấp nông thôn miền Bắc. 
Xây dựng đội ngũ nông dân tập thể. 
Trong thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, nhân khẩu nông thôn, 
nông nghiệp cũng như lực lượng lao đọng nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ rất cao 
trong cơ cấu xã hội miền Bắc. Tỷ lệ cơ cấu dân số giữa nông thôn và thành thị 
vẫn được phản ánh sâu sắc qua tỷ lệ giữa dân số nông nghiệp và phi nông nghiệp, 
dù chỉ số hai tỷ lệ này không giống nhau. Chỉ số cư dân nông nghiệp gần đây 
chiếm gần 85% dân số. 
Cấu trúc của xã hội nông dân miền Bắc ở thời kỳ này vẫn tồn tại hai bộ 
phận: nông dân tập thể và cá thể. Theo đà phát triển của công cuộc xây dựng xã 
hội chủ nghĩa và công nghiệp hóa, lực lượng xã viên hợp tác xã sản xuất nông 
nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong toàn bộ cư dân nông thôn. 
Theo định hướng phát triển từ trước, cơ cấu xã hội nông thôn biến động theo 
xu hướng. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, khu IV cũ và trung du, nơi có hợp tác xã 
phát triển mạnh, trọng tâm công tác vận động nông thôn là đưa nông dân từ hợp 
tác xã nông nghiệp bậc thấp lên bậc cao, đồng thời tiếp tục vận động các hộ cá 
thể vào làm ăn tập thể. 
Ở vùng phong trào sản xuất tập thể còn yếu, chủ yếu ở vùng miền núi, tiếp 
tục vận động bà con dân tộc ít người và tổ chức hợp tác xã bậc thấp. 
Nhà nước cũng đưa ra những nhân tố để phân định hợp tác xã bậc thấp và 
hợp tác xã bậc cao. Cùng sản xuất tập thể nhưng được chia ra làm xã viên của 
hợp tác xã bậc thấp, và xã viên thuộc hợp tác xã bậc cao. Nhìn chung số lượng xã 
35 
viên thuộc hợp tác xã bậc cao không ngừng tăng và có tỷ lệ thuận với chiều giảm 
xuống của các hộ thuộc đơn vị sản xuất bạc thấp. 
Phân loại nông dân, phan loại thành xã viên phụ và xã viên dự bị. xã viên 
phụ bao hàm nghĩa cá nhân - thế hệ lao động, còn xã viên dự bị mang tính gia 
đình - giai cấp. 
Trong bất cứ hợp tác xã nào, vai trò của chủ nhiệm hợp tác xã rất quan 
trọng. Thay mặt ban quản trị, chủ nhiệm nắm mọi khâu liên quan đến sản xuất, 
đời sống vật chất của cộng đồng dân cư mới. Hệ thống điều hành, quản lý kinh tế 
trực tiếp, toàn diện này là điều mới mẻ, chưa từng có trong lịch sử nông thôn 
miền Bắc. Vai trò thực tế của chủ nhiệm hợp tác xã ngày càng lớn cùng với đà 
mở rộng quy mô sản xuất tập thể. 
Sự mở rộng quy mô hợp tác xã nhằm thực hiện một bước xây dựng sản xuất 
lớn xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp. Trên thực tế, các kích cỡ to nhỏ khác 
nhau không làm thay đổi đặc tính cơ cấu và tổ chức xã hội của hợp tác xã cũng 
như không làm biến đổi đội ngũ nông dân tập thể, Tập hợp nhiều hay ít người vào 
một đơn vị sản xuất nông nghiệp không làm tăng khả năng sản xuất hay nâng cao 
tay nghề của người nông dân. Điều khác biệt là trong khi thực hiện bước thứ 
nhất, đã tách người lao động và trách nhiệm với sản phẩm cuối cùng ra khỏi đon 
vị cổ truyền là hộ nông dân. Đây là cơ sở để xóa đi những ranh giới tâm lý hay 
tập quán khác biệt ít nhiều những cụm cư dân này với cụm cư dân khác, đã từng 
được hình thành và biểu hiện trong lịch sử định cư nông nghiệp, qua bao biến 
động về địa lý và văn hóa xóm làng truyền thống. 
Ngoài hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, nông dân còn vào những tổ chức tập 
thể khác là hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng. Thực chất, hai tổ chức này 
đều tồn tại và hoạt động như một bộ phận phụ thuộc vào hợp tác xã sản xuất 
nông nghiệp, mục tiêu của nó là phục vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần cải 
thiện đời sống xã viên. 
Cơ cấu giai cấp nông dân tập thể là bản chất và nội dung chính của cơ cấu 
giai cấp nông thôn miền Bắc giai đoạn (1960 - 1975). Phong trào tập thể trong 
những năm 1961 - 1965 đã loại bỏ những nhân tố dẫn tới phân hóa xã hội nông 
36 
thôn. Nguyên tắc phân phối sản phẩm của hợp tác xã nông nghiệp đã tạo điều 
kiện cho các hộ nghèo trước kia có thể vươn lên, ngược lại các hộ vượt trội trước 
đây, trong điều kiện mới, dù có phát huy hết năng lực lao dộng của mình, cũng 
không vượt trội nhiều trong thu nhập vì sự kìm níu bởi định mức phân phối lương 
thực. Điều này càng thể hiện rõ hơn ở thời kỳ sau, khi đất nước bước vào thời kỳ 
kháng chiến chống Mỹ cứu nước những năm 1965 - 1975. 
Có thể nói, hợp tác xã nông nghiệp trong thời gian này là hình ảnh một xã 
hội được cấu thành bằng đội ngũ lao động dàn hàng ngang cùng làm cùng hưởng, 
được tự quản điều hành, nhưng sự ra đời và hướng tiến của nó phải tuân theo trục 
đường được vạch ra từ trước, từ trên. Dù ở khu vực nông thôn còn có những 
thành phần kinh tế tập thể khác và có những hộ nông dân cá thể tồn tại độc lập 
ngoài đội ngũ nông dân tập thể , song lực lượng này dần bị cuốn hút vào, hoặc bị 
chi phối, nói chung bị lu mờ trước đội ngũ xã viên tập thể đông đảo chiếm ưu thế 
tuyệt đối ở nông thôn. 
Phong trào hợp tác hóa, đặc biệt hợp tác hóa nông nghiệp, đã tháo gỡ hầu 
như tất cả những thang bậc cách biệt giữa các tầng lớp xã hội khác nhau ở nông 
thôn từng tồn tại hàng thế kỷ trước. Những ngôi thứ, phe pháp phức tạp trong 
công đồng xã hội, những quan điểm sĩ - nông - công - thương, những nghề phi 
nề, người buôn bán nhỏ.... dần biến mất, hoặc nếu có vẫn hành nghề cũ trước đây 
thì tư cách họ cũng khác. Họ không còn là người lao động chuyên nghiệp mang ít 
nhiều dáng vẻ phi nông nghiệp, mà nghiêng dần để rồi hòa nhập với nghề nông. 
Ở vùng rừng núi, nơi kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ dân du canh du cư của 
đồng bào các dân tộc còn lớn, nên tỷ lệ vào hợp tác xã còn thấp. vùng đồng bằng 
hay người Kinh sinh sống, có hai thành phần vẫn đứng ngoài kinh tế tập thể đó 
là: những hộ thuộc thành phần địa chủ, phú nông trước kia, có một số xin vào 
hợp tác xã nhưng chưa được chấp nhận. Hai là một số bà con nông dân chưa 
muốn vào làm ăn tập thể vì họ vẫn chưa thấy tác dụng hữu hiệu của việc vào hợp 
tác xã. Song vì lý do gì, các trường hợp đó hầu hết đứng ngoài cộng đồng xã hội. 
Một thay đổi khác trong xã hội nông thôn là quá trình di dân của các địa 
phương ở miền Bắc . Phân bố dân cư không đề ở miền Bắc, hiện tương thừa , 
37 
thiếu lao động cục bộ đã hạn chế sự phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa 
phương. 
Việc di chuyển dân cư có tổ chức trong những năm 1961 - 1964 ở miền Bắc 
có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế ở vùng nông thôn. Trước hết, dãn dân ở 
vùng mật độ dân số quá đông, "cấy" vào nơi thưa thớt, kinh tế chậm phát triển, đã 
làm giảm bớt căng thẳng về mặt kinh tế, xã hội ở nơi đất hẹp người đông ở vùng 
miền xuôi đồng bằng, lại vừa tạo điều kiện cho hàng chục vạn nhân khẩu có thể 
làm ăn ở nơi mới khấm khá hơn vùng quê cũ. Cuối cùng, nhưng không kém phần 
quan trọng, là góp phần tạo kích tố để phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi xa 
xôi. 
Nhìn ở góc độ khác, việc có hàng chục vạn nông dân miền xuôi lên sống đan 
xen với bà con nông dân vùng dân tộc ít người tạo nên một nhân tố xã hội mới ở 
vùng núi cao. Sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người, mà thực chất giao lưu giữa 
những người nông dân tập thể có quê quán khác nhau, trong đó việc xây dựng gia 
đình có tác động tích cực, góp phần làm thay đổi xã hội ở những nơi được cho là 
nghèo nàn, lạc hậu chỉ có đồng bào thiểu số sinh sống. Xa hơn nữa, ở thời kỳ sau, 
kết quả của di dân và giao lưu văn hóa sẽ tạo nên những thay đổi về cấu trúc xã 
hội: một thế hệ mới ra đời bởi dòng máu của đồng bào nhiều dân tộc sẽ toonf tại 
như một bộ phận xã hội mới trong lòng xã hội truyền thống. 
Từ năm 1960 đến giữa năm 1964, có khoảng năm vạn Việt kiều về nước. 
Các làng quê nông thôn, nơi quê hương cũ, là nơi họ tái định cư. Đa số bà con trở 
về hòa nhập với cuộc sống của cộng đồng trong lực lượng phi nông nghiệp. Họ 
làm nghề buôn bán nhỏ, thợ thủ công, nhưng đông nhất là thợ may. Hình ảnh 
những người Việt kiều về nước có ý nghĩa như đồng bào miền xuôi lên lập 
nghiệp mới ở miền núi, nơi cư trú của đồng bào dân tộc ít người, đó là theo con 
mắt của những người dân mới làm chủ đất nước. 
 Tóm lại, nếu như công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa kết thúc ở năm 1960, 
các lực lượng đã chiếm lĩnh trận địa của mình, thì từ đó cho đến khoảng cuố năm 
1964, đầu 1965, miền Bắc đã xây dựng xong những nhân tố căn bản, đồng bộ về 
cơ cấu giai cấp. 
38 
Có hai bộ phận chủ yếu cấu thành lực lượng xã hội miền Bắc, là giai cấp 
công nhân và nông dân tập thể, với hai khu vực kinh tế cơ bản, chủ chốt là kinh tế 
toàn dân và kinh tế tập thể. Giai cấp công nhân là một giai cấp có lực lượng đông 
đảo nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội. Giai cấp công nhân cùng 
với nông dân tập thể là lực lượng lao đọng xã hội quan trọng nhất, quyết định 
toàn bộ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
Địa bàn sản xuất chủ yếu của công nhân là mọi vùng trên khắp miền Bắc, 
nhưng quan trọng nhất vẫn là vùng đô thị, nơi tập trung đông dân cư và các trung 
tâm kinh tế chính trị. Nơi đó tập hợp những giai cấp tiên phong làm nòng cốt đó 
là đội ngũ công nhân viên chức. 
Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật nói chung và bộ phận trí thức công nông 
nói riêng đã trưởng thành vượt bậc về số lượng và tổ chức biên chế trong nửa đầu 
thập kỷ 60. Nếu như trong kháng chiến chống Pháp và trong thời kỳ đầu tiếp 
quản miền Bắc, lực lượng chủ yếu của những bộ phận này có nguồn gốc xuất 
thân từ gia đình trí thức cũ hoặc tầng lớp trên của xã hội, thì trong những năm 
1960 - 1965, số lượng cán bộ khoa học kỹ thuật, trí thức xuất thân từ gia đình 
công nhân, nông dân chiếm tỷ lệ tuyệt đối. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, lực 
lượng trí thức công nông trở thành một bộ phận tiên phong trong thời kỳ thực 
hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa miền bắc. 
Bốn lực lượng công - nông - binh - trí liên hiệp đã trở thành biểu tượng của 
xã hội miền Bắc kể từ những năm 60 trở đi. Hình ảnh cổ động quen thuộc này 
mang đại đoàn kết dân tộc, đồng thời phản ánh một phần thực chất của cơ cấu 
giai cấp xã hội miền Bắc. 
Nhìn khái quát biến đổi cơ cấu xã hội trong thời kỳ trước và sau năm 1960, 
ta thấy điều khác biệt là từ xã hội có hình thái cấu thành chiều dọc, với những 
giai cấp, giai tầng trên dưới khác nhau,sang một hình thái mới, cấu thành theo 
chiều ngang, thể hiện trong cơ cấu lao động xã hội. từ diện mạo một xã hội với 
nhiều giai cấp, sang một xã hội mà ở đó lấy ngành nghề làm tiêu chuẩn phân định 
khác biệt giữa bộ phận này với bộ phận khác. Và nếu như trước năm 1960, không 
thể không lấy cơ cấu giai cấp là tiêu chí cơ bản trong xem xét cơ cấu xã hội, thì 
39 
sau năm 1960, người ta có thể lấy nghề nghiệp làm tiêu chuẩn phân định quan 
trọng để sắp xếp cơ cấu xã hội mới. 
Cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc trong những năm 1965 - 1975. 
Sự thất bại của chiến lược " chiến tranh đặc biệt" ở Miền Nam dẫn tới quyết 
định của chính phủ Mỹ thực hiện " chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, đồng thời 
mở rộng phá hoại miền Bắc bàng không quân và hải quân nhằm ngăn chặn con 
đường tiếp tế bắc Nam. 
Trước tình hình đó, miền Bắc vẫn làm tròn vị trí hậu phương lớn đối với tiền 
tuyến miền Nam, " tất cả vì miền Nam ruột thịt", " tất cả vì tiền tuyến đánh thắng 
giặc Mỹ xâm lược", đồng thời để đảm bảo sinh mệnh và tài sản của nhân dân, 
miền Bắc chuyển hướng xây dựng từ thời bình sang thời chiến để phù hợp với 
yêu cầu mới. 
Tại hội nghị lần thứ XI 3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định 
nội dung chuyển hướng xây dựng kinh tế miền Bắc cho phù hợp với tình hình 
mới, tinh thần cơ bản là: xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương, tích cực 
phòng tránh, sơ tán những cụm công nghiệp, xí nghiệp lớn, trước mắt cần xây 
dựng những xí nghiệp cỡ vùa và nhỏ, đáp ứng yêu cầu anh ninh quốc phòng và 
phục vụ đời sống nhân dân. 
Nội dung. 
Thứ nhất về cơ cấu kinh tế. 
Đầu tư cho công nghiệp: trong bất cư thời điểm nào vốn đầu tư cho công 
nghiệp cũng là cao nhất. Trước năm 1965, vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm 
hơn 50% tổng vốn đầu tư cho mọi ngành kinh tế quốc dân.Từ 1965 - 1969 chiếm 
30%. Giai đoạn 19714 - 1975 vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm 40% tổng vốn 
đầu tư cho mọi khu vực kinh tế. 
Cơ cấu giá trị sản lượng ngành công nghiệp , khu vực công nghiệp quốc 
doanh tỷ trọng ngày càng cao. 
Đầu tư cho xây dựng cơ bản: thời gian này có chững lại,nhưng từ năm 1970 
trở đi luôn tăng và chiếm khoảng trên 10%. 
40 
Đầu tư chinhho thương nghiệp và cung ứng vật tư, vân tải - bưu điện cũng 
phát triển trong những năm đó. 
Mặc dù bị chiến tranh phá hoại, nhưng nhiều ngành kinh tế vẫn được đảm 
bảo tiếp tục phát triển điển hình như công nghiệp. 
 Tổng sản phẩm ngành công nghiệp không ngừng tăng, trong khi đó nông 
nghiệp giảm vài phần trăm. Với chỉ tiêu tổng sản phẩm xã hội mới đã tác động 
đến chỉ tiêu thu nhập quốc dân của mỗi ngành. 
Cơ cấu xã hội 1965 - 1975. 
Nét nổi bật nhất trong thời kỳ này trước hết thể hiện ở tỷ lệ nam - nữ miền 
Băc phát triển không bình thường. Trong cơ cấu xã hội Việt Nam, đây là thời kỳ 
có tỷ lệ nữ cao nhất, liên tục trong 10 năm liền. tình trạng nam giảm sút liên tục 
trong thời gian này vì phần lớn nam thanh niên và trung niên rời hậu phương 
tham gia chiến đấu trên các chiến trường. Đó là nét nổi bật mà ta cần nhắc đến ở 
đây. 
Sự phat triển dân số, phát triển lực lượng lao động trong các ngành nghề 
trong 10 năm ấy phản ánh những nội dung căn bản của tiến trình phát triển kinh 
tế - xã hội và thay đổi cơ cấu giai cấp, tầng lớp xã hội có tác động trực tiếp đến 
thể chế chính trị của xã hội miền bắc trong thời kỳ xây dựng và chiến đấu quyết 
liệt. 
Xây dựng và bố trí đội ngũ công nhân viên chức. 
Kết quả hơn 10 năm xây dựng miền Bắc (1954 - 1964) và nhất là tiến trình 
công nghiệp hóa - hiệ đại hóa đã xây dựng được đội ngũ công nhân lớn mạnh với 
lực lượng lao động công nghiệp khá đông cùng với nhiều nhân tố cơ bản khác 
cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân lành nghề trong thời kì mới. 
Lực lượng công nhân viên chức nhà nước, xuất thân từ các thành phần khác 
nhau nhưng nhiều nhất vẫn là con em nông dân, đi theo sự nghiệp cách mạng do 
Đảng lãnh đạo, nay con họ đã trưởng thành và đủ số lượng tham gia đội ngũ 
công nhân viên chức. Như vậy, thế hệ công nhân viên chức trẻ xuất thân từ gia 
đình công nhân viên chức chuyên nghiệp. 
41 
Lực lượng cấu thành đội ngũ lao động công nghiệp vẫn thuộc hai thành 
phần chính là công nghiệp quốc doanh và tiểu công nghiệp - thủ công nghiệp. Dù 
các cơ sở sản xuất không tập trung như trước, nhưng lực lượng lao động trong 
khu vực quốc doanh vẫn tăng liên tục trong suốt 10 năm chỉ trừ năm 1972, lực 
lượng lao động miền Bắc giảm 1 vạn người để chi viện cho miền Nam đánh Mỹ. 
Ở khu vực tiểu thủ công nghiệp, số lượng lao động tuy vẫn tiếp tục tăng 
trưởng về số lượng, nhưng giảm tỷ lệ cơ cấu lực lượng lao động phi nông nghiệp 
trong khu vực tập thể và cá thể, không kể nganhfh cá, muối, gỗ lên xuông thất 
thường trong thời kỳ Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, sau đó cả 
hai đề tăng từ năm 1969 đến 1975. 
Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức có vai trò to lớn trong hoạt động của 
mọi ngành kinh tế, mọi khu vực kinh tế và mọi hoạt động xã hội. Lực lượng này 
có vị trí cực kì quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thành 
phần của lực lượng này bao gồm từ những cán bộ lãnh đạo cao nhất của nhà 
nước, đội ngũ khoa học - kĩ thuật, hoạt động văn hóa...c ho tới những công nhân 
bình thường. 
 Về ngành giáo dục: qua 10 năm đất nước gặp muôn vàn những khó khăn 
thử thách, nhưng ngành giáo dục miền Bắc vẫn phát triển không ngừng. Sự mở 
rông phổ cập giáo dục toàn dân, đồng thời đào tạo hàng vạn người có trình độ đại 
học và trên đại học, trên 20 vạn cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp , đã 
tạo tiền đề xã hội để nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức. 
 Về đội ngũ khoa học - kĩ thuật , sự lớn mạnh của đội ngũ này là kết qur của 
công cuộc xây dựng đất nước và con người mới, đồng thời những thành tựu to 
lớn của sự nghiệp giáo dục của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nâng cao 
dân trí chonhaan dân miền Bắc và góp phần tích cực vào quá trình biến đổi xã 
hội. 
Với số lượng tuyệt đối, các nhà khoa học kỹ thuật xuất thân từ các thành 
phần cơ bản - bần cố nong và công nhân, cũng như chính sách đào tạo lúc ấy, làm 
tăng thêm lập trường giai cấp kiên định của lực lượng này và điều quan trọng lực 
42 
ượng này đủ phẩm chất, năng lực, trí tuệ để vượt qua những thử thách , hoàn 
thành nhiệm vụ của mình. 
Sự chuyển biến của lực lượng lao động phi nông nghiệp ngoài khu vực kinh 
tế nhà nước. 
Ở khu vực tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp lực lượng lao động vẫn 
được phân bố làm ba khu vực: Toàn dân, tập thể và cá thể. lực lương trong khu 
vực kinh tế quốc doanh. 
Đội ngũ thợ trong khu vực kinh tế tập thể và cá thể bao gồm hai bộ phận: 
lực lượng lao động chuyên nghệp và bán chuyên nghiệp. Bên cạnh lực lượng lao 
động chuyên nghiệp có số lượng khá đông và đóng vai trò chủ công còn có thợ 
bán chuyên, số lượng thay đổi không đều, luôn luôn bổ sung lực lượng lao động 
cho lao động chuyên nghiệp nơi có số lượng và việc làm tương đối ổn định. 
Ngành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nối mạng với hệ thống công 
nghiệp trung ương, tạo cho miền Bắc đáp ứng kịp thời những nhu cầu cơ bản của 
nền kinh tế, của dân sinh, nhất là trong điều kiện sự trao đổi giữa các vùng bị gián 
đoạn bởi chiến tranh. Đằng sau quan hệ đó là mối quan hệ lao động xã hội và kết 
cấu giai cấp xã hội mang tính chiến lược lâu dài.Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, lực 
lượng lao động ở vùng tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp cùng với bộ phận lao 
động thương nghiệp địa phương có vai trò như chiếc cầu nối trung gian giữa hai 
giai cấp lớn nhất của xã hội miền Bắc là giai cấp công nhân và nông dân. 
Bộ phận khác là những người làm công tác thương nghiệp, buôn bán nhỏ và 
kinh doanh dịch vụ. Lực lượng này tồn tại trong ba khu vực kinh tế nhà nước, tập 
thể và tư nhân với số lượn khác nhau. 
Có thể nói, dù lực lượng thương nghiệp, buôn bán dịch vụ nhỏ có số lượng, 
vị trí khác nhau trong các khu vực thuộc trung ương, địa phương hay trong môi 
trường buôn bán nhỏ ở chợ làng, dù chính sách đối với các lực lượng không 
giống nhau, nhưng cả ba bộ phận trên vẫn cùng tồn tại và mỗi bộ phận có những 
vai trò nhất định trong việc cung cấp, trao đổi hàng hóa hoặc những dịch vụ hữu 
ích cho xã hội. Cả ba bộ phận đề có những đóng góp tích cực nhất định và đẵ 
khắc phục những hạn chế của nền kinh tế chưa phát triển, lại bị chiến tranh chia 
43 
cắt, tàn phá, nó có đáp ứng được yêu cầu bức thiết, đa dạng cả trong thường nhật 
và những khi đột xuất của đời sống xã hội ở khắp mọi vùng. 
Về biến đổi của lực lượng công nhân. 
Cơ cấu nông dân miền Bắc ở thời kỳ này vẫn tồn tại hai bộ phận : xã viên 
hợp tác sản xuất nông nghiệp và nông dân cá thể. Nhưng tỷ lệ hai nhóm này đang 
dần nghiêng về bộ phận thứ nhất. 
Ở khu vực kinh tế tập thể và xã viên tập thể: dù có nhiều vấn đề nảy sinh 
trong quá trình xây dựng và củng cố hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, mà một 
trong những biểu hiện cụ thể của nó là số xã viên xin ra khỏi hợp tác xã có lúc rất 
đông, sản xuất đình đốn, đời sống nông dân gặp rất nhiều khó khăn... Nhưng tỷ 
lệ số hộ vào sản xuất tập thể và số hộ tham gia hợ tác xã sản xuất nông nghiệp 
ngày càng cao, chiếm tuyệt đại đa số các hộ nông dân. 
Do chiên stranh phá hoại ác liệt của địch, đêt đảm bảo mức sống cho nhân 
dân , để động viên được sức người sức của cho chiến trường. Nhà nước quy định 
chế độ phân công cho xã viên với phương châm " tối thiểu 13, tối đa 18" điều đó 
phù hợp với tình hình nước ta thời chiến. 
Khác với trước kia, sau năm 1965, nhất là nửa đầu những năm 70, các hộ 
thuộc thành phần địa chủ đã được tham gia hợ tác xã, không còn hạn chế như 
trước đây bởi phong trào hợp tác hóa mạnh.Hơn nưa trong quá trình chiến đấu 
giải phóng miền Nam, con em của những gia đình nay đã chiến đấu bảo vệ miền 
Bắc, giải phóng miền Nam, họ dũng cảm hy sinh như bao gia đình khác.Điều đó, 
học xứng đáng được đúng cùng với nhân dân trong các hợp tác xã, được nhìn 
nhận là một người công dân tốt. 
Bộ phận nông dân cá thể còn lại, có số lượng rất ít, thuộc nhiều thành phần, 
nhưng hầu như không có gia đình cố nông nào đúng ngoài hợp tác xã 
Ở miền núi, đa số những hộ vùng sâu, vùng xa, chưa thoạt khỏi tình trạng du 
canh du cư .Nhưng ở đâu cũng vậy, cũng như trước kia, nhóm cá thể này khá biệt 
lập trên nhiều phương diện với đời sống xã hội nông thôn, nơi đang mạng đầy 
không khí sôi động của thi đua phát triển. 
44 
Như vậy bộ mặt các hộ cá thể trở nên biệt lập hơn bao giờ hết với cộng đồng 
tập thể. Nhưng mặt khác, tính tự chủ, độc lập của nông dân cá thể không còn đầy 
đủ như thời kỳ trước. Trong nông thôn, những hộ làm ăn riêng lẻ vừa nằm ngoài 
vòng quay, ngoài phạm vi của phong trào sản xuất tập thể, vừa phụ thuộc và 
những nhân tố vật chất và tinh thần của cơ chế đó. Chính sức ép từ hai phía vừa 
bị tách biệt khỏi cộng đồng, vừa bị phụ thuộc vào tập thể của lực lượng sản xuất 
nông nghiệp cá thể, đã thúc đẩy những hộ nông dân riêng lẻ trở thành thành viên 
của hợp tác xã nông nghiệp trong những năm 1965 - 1967. 
Tiến hành xây dựng miền Bắc trong điều kiện chiến đấu chống Mỹ, cứu 
nước khốc liệt, lực lượng lao động của xã hội miền Bắc phải dành một bộ phận 
rất quan trọng phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, trong đó thanh niên nông thôn 
chiếm tỷ lệ cao nhất. 
Có thể nói, hình ảnh lực lượng vũ trang cách mạng là mối quan hệ tổng hòa 
của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau của miền Bắc, được tập hợp lại trong 
môi trường đặc biệt, làm nhiệm vụ đặc biệt. Nhìn lại số lượng, sức mạnh, quá 
trình trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thời kì 1954 - 1975, 
nhất là từ năm 1965 - 1975, càng thấy rõ thêm những mặt mạnh của xã hội miền 
Bắc và những đóng góp nhân sự go lớn như thế nào của các giai cấp, tầng lớp xã 
hội khác nhau để xây dựng đội quân bách chiến bách thắng. Mặt khác, cũng hình 
dung được mức độ thiếu vắng ở mức độ nào của bộ phận lao động xã hội trẻ, 
khỏe, năng động trong cơ cấu giai cấp, tầng lớp xã hội miền Bắc. 
Kết cấu xã hội miền Bắc trong những năm 1965 - 1975 là sự nối tiếp, phát 
triển những nhân tố cơ bản của cơ cấu xã hội đã ra đời từ những năm đầu thập kỷ 
60 của nước ta. Theo xu thế đó, trong mười năm (1965 - 1975), những bộ phận, 
tầng lớp nằm ngoài khung cơ cấu của xã hội thuộc khu vực toàn dân hay tập thể 
có xu hướng dần dần triệt tiêu bởi sự hội nhập của chúng vào những thành phần 
chính thống: hoặc ở khu vực Nhà nước hay tập thể. Tuy nhiên do những nhân tố 
mang tính tất yếu của sự phát triển xã hội và do tác động của nhân tố chiến tranh, 
nên khu vực kinh tế " phi xã hội chủ nghĩa" với những bộ phận xã hội khác nhau, 
45 
vẫn hiện diện , dù sự tồn tại ấy luôn bị khuất bóng sau đội ngũ đông đảo là công 
nhân và nông dân tập thể. 
 Đội ngũ nông dân tập thể và thợ thủ công, buôn bán gia nhập hợp tác xã 
ngày càng đông. Đến giữa năm 1975, hầu hết nông dân đã vào hợp tác xã sản 
xuất nông nghiệp bậc cao. Lực lượng sản xuất ở khu vực tập thể của các ngành 
khác, ở địa bàn thành phố vẫn tiếp tục được củng cố. 
3. Tiểu kết. 
Trên cơ sở nề tảng cơ cấu giai cấp xã hội đã có trong những năm 1961 - 
1964, từ 1964 đến giữa 1975, cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc nối tiếp, phát triển 
dứt khoát, đúng chiều véc tơ đã được định trước từ những năm trước. 
Trong những năm 1965 - 1975, đội ngũ công nhân viên chức phát triển rất 
nhanh. Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức tăng số lượng lên hàng chục vạn 
người và sau khi ban hành chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế. Địa bàn 
hoạt động của lực lượng này có xu hướng lan rộng tỏa về các địa phương , các 
vùng nông thôn để vừa đảm bao sản xuất, vừa phục vụ nhiệm vụ mới trong điều 
kiện giặc Mỹ ném bom phá hoại ác liệt. 
VI - Những thành tưu, hạn chế và bài học kinh nghiêm của 
miền Bắc trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1954 -1975. 
Qua 21 năm xây dựng và phát triển, cơ cấu xã hội miền Bắc hoàn toàn khác 
trước. Nó phủ nhận những nguyên tắc tồn tại của xã hội và cơ cấu xã hội của chế 
độ thực dân. Nó tạo lập cơ cấu xã hội mới, cái chưa từng có trong lịch sử dân tộc. 
Cơ cấu giai cấp - xã hội của chế độ mới mạng nhiều đặc điểm của một xã hội 
được xây dựng trong thời đại mới.Nó đã đoạn tuyệt với nhiều nhân tố xã hội 
trong cơ chế xã hội cổ truyền. Trong tiến trình xây dựng và phát triển của mình, 
xã hội miền Bắc không dung nạp những phần tử bóc lột. Đó là xã hội được cấu 
thành bằng lực lượng của những người lao động. thực chất biến đổi xã hội miền 
Bắc 1954 - 1975 là quá trình sắp xếp lực lượng lao động xã hội vào những khu 
vực kinh tế - xã hội khác nhau. Lao động là một chỉ số đo nhân phẩm con người, 
một hằng số, một tiêu chuần đánh giá giai cấp xã hội, đồng thời là động lực thúc 
đẩy sản xuất phát triển. 
46 
Đó là những nét cơ bản trong sự phát triển kinh tế - xã hội miền Bắc. Mỗi 
một chính sách phát triển đều có những thành tựu và hạn chế riêng, miền Bắc 
trong giai đoạn này cung vậy. Sau đây , ta sẽ tìm hiểu những thành tựu và hạn chế 
của miền Bắc trong quá trình phát triển kinh tế (1954 - 1975). 
1. Thành tựu . 
Miền Bắc đã giành được thắng lợi có tính chất quyết định trong cuộc cải tạo 
xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Lúc đầu, chúng ta xóa bỏ 
chế độ phong kiến, rồi đến hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công 
thương nghiệp tư bản tư doanh, xóa bỏ giai cấp tư sản, cũng tức là xoa bỏ mọi 
giai cấp bóc lột. Hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, tổ chức lại những ngành 
sản xuất thủ công theo chủ nghĩa xã hội, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những 
người buôn bán nhỏ, thực hiẹn chuyển một bộ phận những người bôn bán nhỏ 
sang sản xuất và một bộ phận nữa thì lựa chọn, giáo dục để sử dụng trong mạng 
lưới mậu dịch quốc doanh. 
Với thắng lợi quyết định của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, quan hệ 
sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập và giữ vị trí thống trị ở miền Bắc. Đó 
là cơ sở của chế độ xã hội miền Bắc. 
Xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, thực hiện tổ chức lại nền kinh tế 
cá thể, đó là việc hết sức khó khăn vì đối tượng của cuộc cách mạng xã hội chủ 
nghĩa là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một 
cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, cho nên đối tượng của nó nhiều lúc 
phải tìm ngay trong mỗi người, mỗi cán bộ, Đảng viên... đó là tính tư hữu, sự che 
giấu phân tán tài sản, thói quen của người sản xuất nhỏ... 
Chúng ta đã giành được thắng lợi quyết định trong việc thực hiện nhiệm vụ 
thay đổi, điều đó cho thấy đường lối của Đảng đề ra là đúng đắn trong thời điểm 
đó. 
Với thắng lợi của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện công hữu 
hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu đã xóa bỏ được cơ sở sản xuất nhỏ và từ đó mở 
đường cho sản xuất lớn tiến lên. Trong Nghị quyết của Trung ương có nêu rõ: 15 
người nông dân cá thể, nếu tổ chức lại, sẽ tạo ra một năng xuất lớn hơn năng xuất 
47 
của 15 người khi làm việc riêng rẽ cộng lại. Đó là việc đề cao tính đoàn kết, 
nâng cao vai trò của hợp tác xã để phù hợp với tình hình vừa phát triển vừa phỉ 
đề cao cảnh giác chông nguy cơ chiến tranh. 
Về mặt tổ chức sản xuất và lực lượng sản xuất, thắng lợi của công cuộc cải 
tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo ra một năng lực sản xuất mới , rõ nhất là nông nghiệp 
hợp tác hóa như ta đã tìm hiểu ở trên. 
Đảng đã nhận định kịp thời vấn đề về chế độ sở hữu là hạt nhân cơ bản của 
quan hệ sản xuất như J.Stalin đã nói gồm ba điểm: sở hữu tư liệu sản xuất thuộc 
về ai? Quan hệ giữa những tập đoàn người trong sản xuất xã hội như thế nào? 
Việc phân phối của cải làm ra như thế nào? ai được hưởng? 
Đó là những vấn đề cơ bản mà chế độ sở hữu được đưa lên hàng đầu, bên 
cạnh đó cần cải tiến sự phân phối và quản lý trong các hợp tác xã. Điều đó giúp ta 
phát huy được những mặt tích cực, hạn chế tối đa những mặt tiêu cực có thể có ở 
mỗi biện pháp phát triển kinh tế. 
Miền Bắc đã xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu của chủ 
nghĩa xã hội, bảo đảm hướng tiến lên của nền kinh tế sản xuất lớn xã hội chủ 
nghĩa hiện đại độc lập, tự chủ. So với yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất của chủ 
nghĩa xã hội thì những cơ sở bước đầu đó còn thô sơ, ít ỏi. Liên Xô trước đây 
phải trải qua hai kế hoạch 5 năm mới xây dựng xong cơ sở vật chất - kỹ thuật 
của chủ nghĩa xã hội. Điều đó cho thấy miền Bắc nói riêng và cả nước nói chung 
cần cố gắng rất nhiều. Tuy bị chiến tranh tàn phá, nhưng Đảng , nhà nước đã rất 
cố gắng khắc phục khó khăn đầu tư có chiến lược lâu dài, bởi vậy cơ sở vật chất - 
kỹ thuật của nước ta đã phát triển hơn rất nhiều. 
 Như vậy, có thể cho rằng miền Bắc đã có một cơ sở bước đầu của sản xuất 
lớn xã hội chủ nghĩa. Tuy chúng ta chưa có nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa 
nhưng những cố gắng của Đảng và nhân dân ta trong việc xây dựng xã hội chủ 
nghĩa ở miền Bắc, đã cho thấy nền móng cơ bản của nền sản xuất lớn xã hội chủ 
nghĩa. 
Miền Bắc vẫn giữ vững và phát triển được sản xuất ngay khi xảy ra chiến 
tranh ác liệt. Thu nhập quốc dân năm 1975 gấp đôi năm 1957. Năm 1964, trước 
48 
chiến tranh phá hoại miền Bắc đã đảm bảo được một phần lớn hàng tiêu dùng và 
nói chung, nền sản xuất xã hội chủ nghĩa đã đảm bảo được một phần của yêu cầu 
tích lũy. Đó là kết quả của việc phát huy tác dụng của quan hệ sản xuất xã hội 
chủ nghĩa, của việc sử dụng công suất của các cơ sở vật chất đã xây dựng. Tình 
hình phát triển đó cho thấy những cố gắng của miền Bắc trong việc thực hiện 
đường lối đã đề ra theo hướng tạo một cơ cấu kinh tế mới. 
Chúng ta đào tạo được một đội ngũ cán bộ đông đảo, gần nửa triệu cán bộ 
khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ và cán bộ quản lý, đào tạo thêm khối lượng lớn 
công nhân lành nghề. Tạo nên mọt đội ngũ quản lý kinh tế, sản xuất tiên tiến cho 
nền kinh tế. 
Đạt được những thành tựu về phương diện văn hóa, giáo dục, y tế. Tất cả 
mọi người đề được đi học và biết chữ. Dịc vụ an sinh xã hội được quan tâm. 
Xã hội miền Bắc cũng thay đổi tận gốc. Giai cấp công nhân đã lớn mạnh và 
ngày càng củng cố vai trò lãnh đạo của mình. Nôngdân đã trở thành một giai cấp 
mới,giai cấp nông dân tập thể xã hội chủ nghĩa. Tầng lớp tri thức xã hội chủ 
nghĩa ngày càng phát triển.Các dân tộc bình đẳng và đoàn kết. Phụ nữ ngang 
hàng với nam giới. Thanh niên xung kích trên khắp các mặt trận, chúng ta đã tạo 
được một tính thống nhất cao về chính trị và tinh thần trong xã hội. 
Đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện trong hòa bình và được giữ 
vững về một số nhu cầu cơ bản trong thời chiến. Để đánh giá đúng về lĩnh vự này, 
ngoài việc phải gánh vác trách nhiệm lớn lao là phục vụ tiền tuyến lớn, ngoài sự 
tàn phá của chiến tranh còn phải tính đến tình hình dân số tăng nhanh. Từ năm 
1954 đến 1974, dân số tăng chừng 40%. vì vậy chúng ta cần đảm bảo an ninh 
lương thực để tránh mất mùa, đói kém xảy ra. 
Về văn hóa - tư tưởng, hiện nay tư tưởng mác - lê nin đã ở vào địa vị chi 
phối, hướng suy nghĩ, tình cảm, việc làm của nhân dân lao động và tỏa ra đời 
sống tinh thần văn hóa của miền Bắc. 
Hệ thống tổ chức của chế độ , tức là sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản 
lý của nhà nước và vai trò của các đoàn thể quần chúng được củng cố và tăng 
cường. 
49 
Miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã cùng với miền Nam hoạt động nhịp nhàng, ăn 
khớp và đạt kết quả tốt trong việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, 
đúng đắn của Đảng. Chúng ta đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh 
em khác, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của hệ thống xã hội chủ nghĩa 
trong kháng chiến cũng như trong xây dựng, thắt chặt hơn tình đoàn kết chiên 
đấu của ba nước Đông Dương, tranh thủ sự ủng hộn nhiệt tình của các lực lượng 
yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Mở rộng quan hệ ngoại giao với nhiều nước 
trên thế giới, giúp cho Việt Nam được cộng đồng quốc tế chú ý đến và biết về 
cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam. 
Về cơ cấu xã hội 
Cơ cấu xã hội miền Bắc 1954 - 1975 góp phần quyết định sự nghiệp chông 
Mỹ cứu nước thắng lợi của toàn dân tộc. 
 Tạo những điều kiện khách quan xây dựng kết cấu hạ tầng, phúc lợi xã hội. 
Tuy cuộc sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, nhưng quá trình xác lập, phát 
triển giai cấp công nhân và nông dân tập thể đã tạo tiền đề khách quan thuận lợi 
cho xây dựng phúc lợi xã hội và cơ sở hạ tầng đô thị cả thành thị lẫn nông thôn. 
Tất cả những thành tựu nói trên thể hiện trong con người lao động, con 
người xã hội chủ nghĩa của miền Bắc nói riêng và ở tất cả những người yêu nước 
Việt Nam nói chung. Đó là con người có lý tưởng, có văn hóa và có sức khỏe, 
thấm nhuần tư tưởng " không có gì quý hơn độc lập tự do", sẵn sàng hy sinh, chịu 
đựng mọi khó khăn gian khổ để chống Mỹ, giành độc lập, thống nhất đất nước, 
biết kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Học 
tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, là tư tưởng mà con người Xã hội chủ 
nghĩa luôn hướng đến. 
2. Hạn chế 
Đường lối, chủ trương chưa được thể hiện thành bước đi, thành quy hoạch 
và kế hoạch cụ thể. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, khâu trung tâm của quá 
trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa không được nắm vững và cụ thể hóa 
theo đường lối, phương hướng của Đảng một cách đầy đủ, tích cực. 
50 
Bộ máy Nhà nước và hệ thống tổ chức quản lý kinh tế, tổ chức sản xuất 
mạng tính phân tán của nền sản xuất nhỏ, chưa thể hiện đúng nguyên tắc tập 
trung dân chủ, chưa thực hiện tốt phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa và 
chế độ quản lý tập trung thống nhất. 
Sau khi căn bản hoàn thành cải tạo chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, ta làm 
chưa tốt việc củng cố và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất mới. 
 Các cấp ủy Đảng chưa thực sự tăng cường sự lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo 
quản lý nhà nước, thiếu kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và kế 
hoạch kinh tế của Nhà nước. 
Xây dựng kinh tế xã hội là công việc rất mới, phức tạp, nhưng chúng ta chưa 
tích cực học tập về kinh tế, về quản lý, chưa đi sâu vào thực tế, chưa coi trọng 
tổng kết kinh nghiệm cho nên chậm khắc phục những khuyết điểm và nhược 
điểm. 
Cơ cấu xã hội, thời kỳ này cơ cấu xã hội không uyển chuyển với thời kỳ quá 
độ. Đây là hạn chế cơ bản nhất của quá trình xây dựng cơ cấu giai cấp, xã hội 
miền Bắc. Vì một hệ thống cơ cấu giai cấp, tầng lớp xã hội của bất cứ xã hội nào 
cũng phải qua kết quả phát triển nhất định của một nhân tố kinh tế. Chỉ yếu tố 
duy nhất là nền tảng kinh tế xã hội sẽ chọn lựa, đánh giá, thẩm định bộ phận xã 
hội nào đó tương ứng với nó. Làm ngược lại là phi lịch sử và nhìn lâu dài, không 
tạo điều kiện cho chính cơ cấu xã hội đó phát huy khả năng của mình. 
Thiếu năng động của môt cơ cấu xã hội đa dạng. 
Những hạn chế trong quá trình đơn giản hóa cơ cấu kinh tế - xã hội đã được 
khắc phục dần sau thời kỳ đổi mới. Sự phục hưng của một số thành phần kinh tế - 
xã hội vừa qua góp phần quan trọng tạo đà khởi sắc cho kinh tế Việt Nam hiện tại. 
Tuy nhiên, những hậu quả của quá trình xây dựng cơ cấu giai cấp - xã hội, cơ cấu 
kinh tế cứng nhắc của thời kỳ trước không phải khắc phục được ngay mag cần 
một quá trình lâu dài và sự cố gắng của toàn Đảng toàn dân. 
Những thành tự cũng như hạn chế của nhà nước ta, Đảng đã kịp thời phát 
hiện và đưa ra những bài học kinh nghiệm quý báu về công tác tổ chức sản xuất, 
51 
cải tạo kinh tế. Bài học về việc xây dựng cơ cấu giai cấp xã hội từ đó tạo đà cho 
việc phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn sau. 
Đất nước chúng ta hiện đang đứng trước những vận hội và thử thách. Sau 
hơn 10 năm đổi mới, nhiều nhân tố kinh tế, xã hội được phục hưng và phát triển 
nhan chóng. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, đó mới chỉ là 
thắng lợi bước đầu. Trên mọi lĩnh vực chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp 
đổi mới, mới có thể tránh khỏi nguy cơ tụt hậu. 
VII - Kết luận chung. 
Như vậy, qua quá trình phát triển giai đoạn 1954 -1975, ta có thể nhận thấy 
giai đoạn này, miền Bắc đã làm tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là 
chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc đã dốc toàn lực và 
cuốc kháng chiến chống Mỹ cả sức mạnh và thành quả tổng thể của chế độ xã hội 
chủ nghĩa, đã tiến hành chiến đấu càng đánh càng mạnh, và không ngừng tăng 
cường tiềm lực kinh tế quốc phòng và căn cứ địa cách mạng bằng cách tiếp tục 
xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ngay 
trong chiến tranh một cách thích hợp với thời chiến. Thắng lợi của cuộc kháng 
chiến chống Mỹ là thành quả của toàn dân tộc , của chế độ xã hội chủ nghĩa, của 
các lực lượng chiến đấu cho độc lập tự do. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 
là thử thách lịch sử to lớn nhất đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Một mặt nó 
tiêu hao một bộ phận quan trọng những thành tựu mà chúng ta thu được và gây 
khó khăn cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhưng nó cũng là một cơ hội 
của sự phát triển, một sự thúc đẩy lớn với chuyên chính vô sản trên cả nước. 
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, hai miền Bắc Nam đã gắn bó khăng 
khít cùng đoàn kết để thực hiện mục tiêu độc lập và thống nhất đất nước. Mỗi 
miền đều cố gắng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Với miền Bắc, việc xây dựng 
chủ nghĩa xã hội gặp không ít khó khăn cũng như hạn chê trong quá trình thực 
hiện, nhưng miề n Bắc đã phát hiện và khắc phục được những khó khăn và sai 
lầm đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội vững mạnh, phát triển là đầu tầu của cả 
nước, là nhân tố quyết định và cùng với miền Nam làm lên Đại thắng mù xuân 
1975 kết thúc thời kỳ thống trị của Mỹ và tay sai ở miền Nam, kết thúc thời kỳ 
52 
chia cắt đất nước. Đó là vai trò to lớn của miền Bắc trong suốt chiều dài của cuộc 
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 
VIII - Danh mục tài liệu tham khảo. 
1. Nguyễn Đình Lê, Trương Thị Tiến. Biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội 
Việt Nam (1945 - 2000) .Hà Nội - 2006. 
2. Nguyễn Đình Lê. Biến đổi cơ cấu giai cấp xã hội miền Bắc thời kỳ 
(1945 - 200). NXB Văn hóa thông tin. 1999. 
3. Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn văn Thư. Đại cương lịch sử Việt 
Nam (tập III). NXB Giáo dục Việt Nam. Hà Nội - 2000. 
4. TS. Nguyễn Chí Hải, PGS.TS. Nguyễn Văn Luân, TS. Nguyễn Văn 
Bảng, TS. Nguyễn Thùy Dương, Ths. Dương Thị Việt. Lịch sử Việt 
Nam và các nước. NXB Đại học quốc gia Hồ Chí Minh - 2006. 
5. Nguyễn Duy Trinh. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong quá trình thực 
hiện hai nhiệm vụ chiến lược. NXB Sự thật. Hà Nội- 1976. 
6. Nguyễn duy Trinh. Phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch phát 
triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965). NXB Sự thật. 
Hà Nội - 1963. 
7. Văn kiện Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt 
Nam Tập 16- 1955 .NXB Chính Trị quốc gia. 2002. 
8. Văn Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam 
Tập 21- 1960 . NXB Chính trị quốc gia. 
9. Văn Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam 
Tập 26 - 1965 . NXB Chính trị quốc gia. 
10. Văn Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam 
Tập 35- 1974 . NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2004. 
53 
54 
55 
56 
57 
58 
59 
60 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bien_doi_kinh_te_xa_hoi_viet_nam_9009.pdf bien_doi_kinh_te_xa_hoi_viet_nam_9009.pdf