Sau sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc 
tế WTO vào năm 7/11/2006, Việt Nam đã hội nhập sâu và rộng với thế giới, không chỉ
về kinh tế mà còn nhiều mặt của đời sống xã hội và đặc biệt là văn hóa. Số lượng người 
Việt Nam ra nước ngoài làm ăn cũng như những doanh nhân ngoại quốc tìm kiếm cơ
hội tại Việt Nam đều tăng lên nhanh chóng và cụm từ ―cú sốc văn hóa‖ (culture-shock) 
cũng được nhắc tới ngày càng nhiều. 
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế càng ngày được 
nâng cao do sức cạnh tranh từ các đối thủ khác và một trong những cách hữu hiệu, 
không tốn kém chính là thông qua con đường văn hóa. Muốn đạt được điều này, nghiên 
cứu văn hóa kinh doanh của các thị trường lớn trong đó có Australia là một việc làm 
cần thiết. Mặc dù văn hóa và văn hóa kinh doanh còn khá mới mẻ tại Việt Nam nhưng 
các doanh nghiệp cũng dần nhận thức được vấn đề này nhằm giảm thiểu những ―cú sốc 
văn hóa‖ để việc kinh doanh ngày càng thuận lợi và thu được kết quả tốt đẹp.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 113 trang
113 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3418 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Australia đến năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 doanh nghiệp Việt 
Nam không ưa thích những hợp đồng chi tiết, với những nghĩa vụ chặt chẽ. Do thiếu 
kinh nghiệm trên thương trường, và quen làm ăn dựa trên cơ sở lòng tin, các doanh 
nghiệp Việt Nam không am hiểu ngôn ngữ luật pháp. Trái ngược với người Australia, 
một hợp đồng quá chi tiết, với những thuật ngữ quá xa lạ sẽ làm cho phía Việt Nam e 
ngại là phía bên kia có thể gài bẫy họ hoặc không tin tưởng họ. Các doanh nghiệp Việt 
Nam thường chỉ ưa thích những hợp đồng ngắn gọn, với những điều khoản chủ chốt. 
 76 
Các điều khoản khác có thể sử dụng dựa trên những hợp đồng đã ký trước đó, hoặc 
thoả thuận miệng bổ sung. 
Người Việt Nam còn rất coi trọng tính tập thể, nên một đoàn đàm phán của 
người Việt Nam thường đông người và điều này cũng ảnh hưởng đến việc đưa ra quyết 
định của họ. Công việc này thường đòi hỏi nhiều thời gian và chịu ảnh hưởng nhiều 
bởi ý kiến của tập thể. Thông thường, trước khi ra quyết định, người Việt Nam thường 
xem xét mọi chi tiết có liên quan và cố gắng đưa ra một quyết định thoả mãn mọi áp 
lực xung quanh vấn đề này. Nếu tập thể không được tham khảo ý kiến trước, thì việc 
"đồng ý" vẫn đều có thể đổi thành "không đồng ý". Cách làm việc này có điểm tốt là 
dung hoà được ý kiến của mọi người trong cơ quan nhưng nhiều khi chậm trễ và rất 
phiền toái. Trong khi đó các nhà doanh nghiệp Australia lại thường ra quyết định dựa 
trên ý kiến cá nhân và nhanh chóng. 
 - Khác biệt về thói quen tiêu dùng. 
Các doanh nghiệp phải lưu ý tới điều này, chớ nghĩ rằng tâm lý của người tiêu 
dùng Australia giống với Việt Nam mà ngược lại rất khác nhau. Người Việt Nam có 
tâm lý ―ăn chắc mặc bền‖ nên thích mua sắm những loại hàng bền lâu, ngoài ra là tâm 
lý thích hư danh, chuộng hàng ngoại và chuộng nhãn mác. Trong khi đó người 
Australia lại rất kỹ tính trong việc lựa chọn sản phẩm, cái họ đòi hỏi vừa phải tốt lại 
vừa có giá cả phải chăng nhất có thể được, hàng hoá phải có sự thay đổi mẫu mã nhanh 
chóng và đa dạng. Do một thời gian dài chịu thiếu thốn, khả năng đánh giá chất lượng 
hàng hoá của người Việt Nam chưa cao, phần lớn dân chúng chọn hàng hoá theo thói 
quen, theo nhãn hiệu đã được ưa chuộng. Chẳng hạn, đã mua xe máy thì phải của 
Honda, đã mua T.V. thì phải của Sony... mà bỏ qua những hàng hoá chất lượng ngang 
bằng, thậm chí tốt hơn nhưng của các hãng khác. 
Người Australia có thói quen đi mua sắm ở siêu thị và cửa hàng bách hoá còn 
người còn người Việt Nam hành vi này chưa được phổ biến rỗng rãi, họ thường mua 
sắm hàng gia dụng ở những cửa hàng tư nhân đại trà, hay như hàng thực phẩm chế biến 
 77 
thì thường là ở các cửa hàng bán lẻ vừa và nhỏ, hàng thực phẩm tươi sống được mua về 
từ chợ. 
- Khác biệt trong nội dung quảng cáo 
Do người Việt Nam thường mua hàng theo những nhãn hiệu nổi tiếng nên, các 
hãng nước ngoài phải bỏ ra chi phí rất lớn cho quảng cáo để làm cho nhãn hiệu của 
mình trở thành quen thuộc với người Việt Nam. Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là 
sự thành công của hãng Electrolux ở Việt Nam. Đây là một hãng rất nổi tiếng về đồ gia 
dụng ở châu Âu nhưng khi hãng mới vào thị trường Việt Nam thì người Việt Nam lại 
đang quen dùng máy giặt, máy hút bụi, ... của các hãng Nhật Bản như Sony, Sanyo, 
Hitachi mà hoàn toàn thờ ơ với Electrolux. Hãng này phải mở một chiến dịch quảng 
cáo qui mô trên khắp các phương tiện thông tin đại chúng đánh vào tâm lý "ăn chắc 
mặc bền" của người Việt Nam bằng câu "Giá mà mọi thứ đều bền như Electrolux". Các 
chuyên gia của hãng này còn kỳ công tìm được một người nông dân vùng Đồng Tháp 
Mười, đã mua một chiếc tủ lạnh của Electrolux từ hơn 40 năm trước, từ khi tủ lạnh còn 
phải chạy bằng dầu chứ chưa có điện mà đến nay nó vẫn chạy tốt, để đem ra quảng 
cáo. Kết quả là trong con mắt người tiêu dùng Việt Nam hiện nay, Electrolux đã trở 
thành nhãn hiệu được ưa chuộng nhất, mặc dù giá cả cao hơn hẳn hàng hoá của Nhật 
Bản. 
Ngược với người Australia những hàng hoá có tính chất sử dụng lâu dài, 
người Việt Nam thường thích mua những hàng giá đắt và họ cho rằng giá cả tỷ lệ thuận 
với chất lượng và thêm nữa những nhãn hiệu này phản ánh vị thế xã hội của họ. Hai 
loại xe máy Dream và Astrea có kiểu dáng và tính năng gần như nhau, nhưng do xe 
máy Dream được chuộng hơn, đến mức một thời việc sắm xe Dream II được coi là biểu 
hiện cho sự giàu sang của gia đình, vì vậy, xe Dream bán được với giá cao hơn hẳn. 
Nắm được tâm lý này, các nhà sản xuất ô tô, xe máy muốn bán được hàng khi quảng 
cáo đều nhấn mạnh đến tính "sang trọng" trong hàng hoá của mình. 
Người Việt Nam còn có tâm lý thích được tặng quà. Vì vậy, các chương trình 
khuyến mại bán có giải thưởng xem ra rất có tác dụng. Doanh thu trong các đợt đó cao 
 78 
hẳn lên vì ai cũng hy vọng có được giải thưởng gì đó. Hãng Coca - cola đã rất thành 
công trong việc áp dụng chiến lược này. Do bị chậm chân hơn hãng Pepsi khi quay lại 
thị trường Việt Nam, hãng Coca - cola đã tiến hành một chiến dịch quảng cáo rầm rộ, 
kèm theo việc khuyến mại (tăng lượng Coca - cola trong một chai lên 50% mà không 
tăng giá) và một chương trình bán có giải thưởng - tặng một chiếc xe đạp cho ai sưu 
tập đủ số nút chai hoặc nắp hộp in đủ các bộ phận của một chiếc xe. Người Australia 
lại có xu hướng thực dụng trong tiêu dùng, chẳng hạn việc tăng 50% lượng nước ngọt 
trong chai Coca – cola mà giá không đổi không hấp dẫn người tiêu dùng nước này 
bằng việc giữ nguyên dung lượng chai và giảm giá 20% chẳng hạn. Doanh nghiệp Việt 
Nam khi quảng cáo ở thị trường này nên chú ý đặc điểm này để có thể kích thích tiêu 
dùng của khách hàng Australia. 
3.2. Đánh giá ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Australia đến năng lực cạnh tranh 
của hàng hóa Việt Nam. 
3.2.1. Những thành công của hàng hóa Việt Nam trên thị trƣờng Australia. 
 Sau hơn 20 năm kể từ khi Hiệp định thương mại hợp tác kinh tế Việt Nam-
Australia được ký kết vào tháng 6 năm 1990, giao thương giữa Việt Nam và Australia 
đã và đang phát triển nhanh chóng. Các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng tìm kiếm 
bạn hàng nhập khẩu, mở rộng thị trường và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang 
Australia. 
Nếu như trước đây hàng Việt Nam xuất hiện rất ít trên thị trường Australia và 
có một vị trí rất nhỏ bé thì đến nay hàng hoá Việt Nam đã chiếm một vị trí khá ổn định 
 79 
trên thị trường này, rất nhiều mặt hàng được bày bán rộng rãi trên thị trường Australia. 
Ông Michael Mann, Đại sứ Australia cho biết: ―Khi còn ở Australia, tôi khó lòng tìm 
mua được một đôi giày nhãn hiệu Australia, trong khi đó giày sản xuất tại Việt Nam lại 
rất nhiều‖. Cùng với giầy dép, cà phê Việt Nam cũng có chỗ đứng tương đối ổn định 
tại thị trường Australia, tuy nhiên vẫn là các sản phẩm chưa qua chế biến. 
 Các mặt hàng chính của Việt Nam xuất sang Australia không ngừng tăng lên 
về giá trị xuất khẩu. Điển hình là mặt hàng dầu thô, từ năm 2000 đến nay, Việt Nam 
luôn là nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất cho Australia, vượt qua cả Inđônêxia, 
Malaysia, Ảrập Xê-út, với giá trị xuất khẩu gần 2 tỷ AUD, chiếm hơn 80% kim ngạch 
xuất khẩu sang thị trường này. Trong năm 2006, Việt Nam là nước đứng thứ năm về 
xuất khẩu giày dép vào Australia, hai mặt hàng giày dép và may mặc chiếm tỷ trọng 
xuất khẩu khá cao: 3,7% kim ngạch xuất khẩu đạt giá trị 97,6 triệu AUD. Năm 2005 là 
năm có nhiều tin vui cho các xuất khẩu rau quả và thuỷ sản. Trong năm 2005 hai mặt 
hàng có tốc độ tăng trưởng khá cao, tương ứng 353% và 121% so với năm 2004, chiếm 
tỷ trọng 2,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Australia. 1 
Bảng 8: Danh mục hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Australia 
Sản phẩm 2002 2003 2004 2005 2006 
Dầu thô 335.15 756.25 1408.3 3250.11 4090 
Giầy dép 12.187 17.76 26.64 30.44 35.12 
Cà phê 35.02 45.65 51.89 70.258 89 
Quần áo 12.023 17.440 21.843 29.951 32.21 
Hạt điều 7.71 9.45 12.25 14.746 18.415 
Thuỷ sản 29.35 45.8 60.11 66.8 79 
1  
 80 
Rau - củ - 
quả 
30.22 43.682 57.325 72.144 76.2 
Nguồn: Đại sứ quán Australia. 
 Không chỉ tăng lên về giá trị xuất khẩu mà đồng thời số lượng các mặt hàng 
cũng ngày càng đa dạng. Trong những năm đầu, hàng Việt Nam xuất sang Australia 
chủ yếu là dầu thô, giầy dép, hàng dệt may, cà phê, hạt điều; dần dần sau nhiều năm, đã 
bắt đầu xuất hiện nhu cầu của người dân Australia về các mặt hàng lưu niệm, hàng thủ 
công mỹ nghệ, đồ gỗ, rau củ quả, thuỷ hải sản, các mặt hàng gia vị của Việt Nam... 
Sau hơn hai thập kỷ ký kết Hiệp định thương mại, giao thương giữa Việt Nam 
- Australia đã tăng lên nhanh chóng, đặc biệt trong những năm chuyển giao thiên niên 
kỷ này quan hệ thương mại giữa hai quốc gia đã vươn lên những đỉnh cao mới. Từ năm 
1992 đến nay, xuất siêu luôn nghiêng về phía Việt Nam và hiện nay Australia đã trở 
thành thị trường xuất khẩu lớn của các doanh nghiệp Việt Nam. 
3.2.2. Những khó khăn tồn tại của hàng hóa Việt Nam trên thị trƣờng Australia. 
 Hàng Việt Nam xuất khẩu sang Australia, trong những năm gần đây mặc dù 
tốc độ tăng trưởng rất lớn song do chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn nên sự tăng trưởng này 
có ảnh hưởng rất nhỏ tới tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, tuy các 
doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể khi thâm nhập vào thị 
trường Australia nhưng cho đến nay vẫn còn một số tồn tại vướng mắc của các nhà 
xuất khẩu. 
 Nằm ở hai bán cầu khác nhau, Việt Nam và Australia có mùa vụ trái ngược 
và có nhiều sản phẩm trái vụ để tăng cường trao đổi hàng lẫn nhau. Tuy nhiên trên thực 
tế doanh nhân hai nước vẫn chưa khai thác hết lợi thế địa lý này. Cơ cấu xuất khẩu của 
Việt Nam vẫn chưa đa dạng và chủ yếu phụ thuộc vào một vài nhóm hàng sơ chế và 
chưa qua chế biến như dầu thô và cà phê. 
 Nhiều mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào Australia dưới nhãn mác của nước 
khác. Điều này là do năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường Australia 
 81 
còn kém. Hàng giày dép và may mặc của Việt Nam xuất vào Australia rất nhiều nhưng 
vẫn chưa đủ sức cạnh tranh với các nhà xuất khẩu lớn như Trung Quốc, Thái Lan, 
Italia, Hồng Kông nên nhiều hàng hoá của ta trên thị trường Australia dưới nhẵn mác 
của Đài Loan. Bên cạnh đó, do các doanh nghiệp chưa chú ý nhiều tới đăng ký và phát 
triển thương hiệu sản phẩm nên rất nhiều sản phẩm gia vị của Việt Nam như nước 
mắm Phú Quốc, tương gừng... mang thương hiệu của Thái Lan. Điều này đã gây nhiều 
thiệt hại và hạn chế cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng sang Australia. 
 Thêm vào đó, Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được hệ thống các tiêu chuẩn 
kiểm dịch của Australia. Hai mặt hàng rau quả và hải sản tuy đang tăng trưởng với tốc 
độ cao nhưng do đây là hai mặt hàng chịu ảnh hưởng bởi các quy định kiểm dịch và an 
toàn thực phẩm của Australia nên vẫn còn hạn chế lượng hàng xuất khẩu sang thị 
trường này. Tương tự, hiện nay, Việt Nam là nhà cung cấp hàng đầu mặt hàng chuối 
(gồm chuối tươi và chuối sấy khô) vào thị trường Australia song khối lượng còn thấp 
so với năng lực sản xuất của Việt Nam cũng như nhu cầu tiêu dùng của thị trường 
Australia. Các mặt hàng hoa quả nhiệt đới như nhãn, vải, xoài, và thanh long có khả 
năng xuất khẩu lớn đều không được phép nhập khẩu vào Australia vì chưa hoàn tất 
IRAs (Chỉ tiêu đánh giá phân tích rủi ro nhập khẩu). 
 Ngoài ra, mỗi mặt hàng cụ thể nhập khẩu vào Australia đều phải thông qua 
một kênh lưu thông riêng, và mức cộng lãi qua các khâu trung gian rất cao, làm cho 
mức chênh lệch giữa giá nhập khẩu và giá bán lẻ trên thị trường rất lớn so với các thị 
trường khác. Bên cạnh đó, hàng của Việt Nam phải quá cảnh qua Singapore do không 
có luồng tầu trực tiếp giữa hai nước, nên dẫn đến giá thành cao vì phải chịu cước phí 
lớn. 
3.3. Giải pháp văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị 
trường Australia. 
Mặc dù trên thế giới khái niệm văn hóa kinh doanh đã phổ biến thì ở Việt 
Nam hiện nay khái niệm này vẫn còn mới mẻ. Xu hướng sử dụng văn hóa kinh doanh 
 82 
như một phương thức cạnh tranh diễn ra như một xu hướng tất yếu trong kinh doanh 
quốc tế. Trong điều kiện đó, nhận thức của các doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính 
sách Việt Nam về văn hóa kinh doanh còn thiếu. Do các doanh nghiệp nước ta chưa 
chú ý tới sự cần thiết tất yếu của văn hóa kinh doanh trong hoạt động của mình. Những 
áp lực kinh tế, nhất là áp lực chạy theo lợi nhuận, hiện không làm cho các doanh 
nghiệp chú ý tới vấn đề này hoặc coi là yếu tố phụ trợ. Các chính sách và cơ chế quản 
lý kinh doanh hiện hành cũng mới chỉ chú ý tới các khía cạnh kinh tế xã hội và môi 
trường kinh doanh. Sự thiếu vắng và mờ nhạt của khía cạnh văn hóa trong các chính 
sách và cơ chế quản lý có nguyên nhân rõ ràng từ sự thiếu hụt trong nhận thức của các 
nhà hoạch định chính sách. Ngoài ra, vẫn còn thiếu định hướng nhằm vào tạo dựng văn 
hóa kinh doanh, văn hóa tiêu dùng, tạo nên bầu không khí và dư luận đối với vấn đề 
này. 
Việc nâng cao nhận thức về văn hóa kinh doanh là việc làm cần thiết hiện nay. 
Hơn nữa để tiếp cận được với văn hóa của những thị trường xuất khẩu như Australia – 
một thị trường có văn hóa rất khác biệt với Việt Nam, không chỉ đòi hỏi vấn đề nhận 
thức mà còn cần những chính sách hỗ trợ từ phía nhà nước và những việc làm cụ thể từ 
phía doanh nghiệp. Nhằm thực hiện những mục tiêu đó, tác giả xin đề xuất một số giải 
pháp sau đây: 
3.3.1. Giải pháp vĩ mô. 
3.3.1.1. Nhà nước cần có những chính sách nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh 
xuất khẩu lành mạnh. 
Để phát triển được văn hóa kinh doanh không thể thiếu một môi trường sống 
cho nó giống như cá cần nước vậy. Văn hóa kinh doanh được hình thành để và ảnh 
hưởng mạnh mẽ tới môi trường kinh doanh của một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Trong 
 83 
môi trường kinh doanh của một quốc gia, vai trò quan trọng nhất chính là sự điều tiết, 
quản lý của Nhà nước. ở Việt Nam hiện nay, văn hóa kinh doanh đang tiềm ẩn nhiều tố 
bất lợi cho sự phát triển kinh tế. Tình trạng thiếu công bằng trong môi trường cạnh 
tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay đã tạo ra và dung túng cho các kiểu làm 
ăn phi văn hóa, bệnh cửa quyền, thói ―chạy chọt cửa sau‖ và tệ nạn tham nhũng phát 
triển. Một điều tra xã hội học ở TP. Hồ Chí Minh vào tháng 5/20031 cho thấy: 41% số 
người được phỏng vấn cho rằng trong kinh doanh không biết nhờ vả chạy chọt thì 
chẳng làm được gì hết!!!; 57% đối tượng tham gia điều tra này còn cho rằng: “trong 
kinh doanh, quen biết rộng nhiều khi quan trọng hơn cả năng lực”. Những hạn chế này 
bắt nguồn chính từ sự bất cập trong quản lý của Nhà nước trong việc tạo dụng một môi 
trường kinh doanh lành mạnh. Khi được hỏi “Nếu gặp khó khăn trong kinh doanh, theo 
ông/bà, nguyên nhân chính do đâu?”, ngoài các nguyên nhân như thiếu vốn, thiếu kinh 
nghiệm, công nghệ..., nguyên nhân được lựa chọn nhiều nhất (47%) là “Do chính sách 
và cách quản lý của Nhà nước”. Việc này làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu có năng 
lực thực sự và kinh doanh có văn hóa chịu nhiều thua thiệt, hơn nữa uy tín của các 
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng bị giảm sút trước con mắt người nước ngoài, 
trong đó có người Australia. 
Theo sự đánh gia của các chuyên gia nước ngoài, trong báo cáo của Diễn đàn 
kinh tế thế giới (World Economic Forum – WEF) về mức độ cạnh tranh toàn cầu năm 
2006 – 2007, Việt Nam xếp hạng 77/125 về chỉ số cạnh tranh tăng trưởng (GCI) và thứ 
53/125 về chỉ số cạnh tranh kinh doanh (BCI – business competitiveness index). Có thể 
thấy rằng những yếu kém trong môi trường kinh doanh không những làm nảy sinh 
nhiều tiêu cực trong văn hóa kinh doanh mà còn làm giảm hiệu quả kinh doanh của 
từng doanh nghiệp nói riêng cũng như khả năng cạnh tranh chung của toàn nền kinh tế. 
Những chính sách này phải xoá bỏ để tạo sự tin tưởng cho các doanh nghiệp 
xuất khẩu, khuyến khích họ thi đua làm giàu một cách lành mạnh. Nhà nước cần tạo 
1 Nguyễn Hoàng ánh, Vai trò của Văn hóa kinh doanh quốc tế và vấn đề xây dựng văn hóa dinh doanh ở Việt 
Nam, Luận án tiến sỹ 
 84 
môi trường pháp lý về kinh doanh, khẳng định tầm quan trọng của kinh doanh và coi 
đó như một nghề nghiệp chân chính, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp và 
doanh nhân. Việc duy trì môi trường pháp lý này cần phải được tiến hành thường 
xuyên và ổn định, các thông tin nên được công khai, cập nhật, có cơ chế đảm bảo sự 
bình đẳng trong mỗi quan hệ giữa các cấp quản lý của Nhà nước với doanh nghiệp 
cũng như với người dân. Bên cạnh đó, việc tạo lập môi trường pháp lý về văn hóa với 
những quy định phù hợp, thống nhất nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp, bảo vệ người 
tiêu dùng và của xã hội nói chung cũng cần được trú trọng. Nhà nước nên thiết lập cơ 
chế cạnh tranh công khai lành mạnh giữa các doanh nghiệp để đảm bảo tính văn hóa 
trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam. 
3.3.1.2. Nhà nước cần có biện pháp quản lý, giáo dục để đảm bảo tính văn hóa trong 
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. 
Trước hết, nhà nước cần đầu tư và tổ chức nghiên cứu về văn hóa dân tộc, văn 
hóa kinh doanh của Việt Nam cũng như của Australia và các nước khác là thị trường 
xuất khẩu của Việt Nam, từ đó phổ biến những kiến thức này cho các doanh nghiệp 
thông qua các chương trình tư vấn, hỗ trợ. Hoạt động này sẽ giúp tăng hiểu biết của các 
doanh nghiệp về bạn hàng của mình, từ đó hoạt động có hiệu quả hơn, tránh được 
những sai lầm mang tính văn hóa khi kinh doanh buôn bán với người Australia. 
Đồng thời nó định hướng văn hóa kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt 
Nam, phát huy bản sắc dân tộc như những đức tính cần cù, chịu khó, tinh thần đoàn 
kết. Cạnh tranh với nhau nhưng không phải là tự hạ thấp giá trị hàng hóa của ta khiến 
người thua thiệt lại chính là toàn thể doanh nghiệp trong nước. Và nhất thiết phải coi 
trọng triết lý ―lấy chữ tín làm đầu‖ khi quan hệ buôn bán với người Australia. ―Chữ 
tín‖ này ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn thiếu, mới chỉ có một số ít doanh 
nghiệp lấy đó làm phương châm kinh doanh tuy nhiên phần lớn lại chỉ là danh nghĩa. 
Trong khi người Australia đánh giá cao những mối quan hệ truyền thống dựa trên chữ 
tín. Do đó, nhà nước cần những định hướng chung như vậy thì các doanh nghiệp Việt 
 85 
Nam mới có thể phát triển bền vững mối quan hệ hợp tác lâu dài với người Australia 
được. 
3.3.1.3. Nhà nước cần đưa ra những chính sách ưu đãi khuyến khích doanh nghiệp 
xuất khẩu các mặt hàng có bản sắc văn hóa dân tộc. 
Điều này rất quan trọng trong chính sách xây dựng văn hóa kinh doanh Việt 
Nam. Bởi vì hiện tại các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam nói chung phải xoay sở tìm 
kiếm lợi nhuận. Họ có thể nhận thức ra tầm quan trọng của văn hóa kinh doanh song 
lại chưa có điều kiện kinh tế để vận dụng thực hiện nó. Những chính sách ưu đãi của 
chính phủ như hỗ trợ vốn, giảm thuế, thủ tục đơn giản... sẽ khuyến khích cổ vũ họ. Đối 
với các mặt hàng xuất khẩu mang bản sắc văn hóa Việt Nam thì điều này càng quan 
trọng. Nó mang đến hai lợi ích. Thứ nhất hỗ trợ phát triển các mặt hàng này sẽ đem đến 
lợi ích cạnh tranh, vì nó tạo được những nét độc đáo chỉ có ở hàng hóa Việt Nam. Thứ 
hai, đó cũng là phát huy thế mạnh của địa phương trong các sản phẩm và ngành nghề 
đặc thù của mình. Thế mạnh của Việt Nam trong nền tiểu thủ công nghiệp là điều đã 
được thấy rõ. Các sản phẩm gốm sứ, sơn mài mỹ nghệ, mây tre đan đều là những mặt 
hàng kết tinh những giá trị văn hóa của dân tộc, đồng thời có giá trị cao. Chính những 
mặt hàng mang tính văn hóa cao này khi thâm nhập sẽ tạo dựng hình ảnh của Việt Nam 
tại Australia, hơn nữa từ đó các mặt hàng khác sẽ có cơ hội được đánh giá cao hơn. 
Điều đó có ý nghĩa lớn vì có nhiều mặt hàng có chất lượng của Việt Nam nhưng lại 
phải vận chuyển qua một nước thứ 3, bị thay đổi bởi một nhãn hiệu có uy tín hơn mới 
đến được Australia. 
Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phần lớn lại là các 
doanh nghiệp tư nhân hoặc là các hợp tác xã đều có tình trạng chung là thiếu vốn, thiếu 
kinh nghiệm buôn bán ngoại thương, thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu, thiếu tổ 
chức. Bởi vậy, nhà nước cần hỗ trợ hơn nữa về vốn (giảm lãi suất và tăng qui mô cho 
vay), chính sách thuế. Đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các 
làng nghề giới thiệu sản phẩm ra nước ngoài hoặc tìm hiểu thị trường nước ngoài thông 
qua các văn phòng đại diện hoặc các cơ quan thương vụ ở nước ngoài. Hay giúp đỡ các 
 86 
doanh nghiệp, làng nghề đó thành lập hiệp hội nhằm chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn 
nhau, phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc. Cũng cần tổ chức những buổi hội thảo 
chuyên ngành nhằm tìm ra những giải pháp riêng hữu hiệu để phát triển mạnh ngành 
hàng này. 
3.3.1.4. Tổ chức nhiều hội chợ triển lãm, giới thiệu hàng hóa giàu bản sắc Việt Nam 
tại Australia 
Việc quảng bá giới thiệu hàng Việt Nam ở Australia là rất quan trọng trong 
chính sách xúc tiến thương mại tổng thể. Những cuộc hội chợ triển lãm hàng hóa giàu 
bản sắc Việt Nam sẽ cho người tiêu dùng Australia có cái nhìn trực tiếp hơn về hàng 
hóa và văn hóa của Việt Nam. Người Châu Á cũng không còn lạ lẫm đối với Australia 
nữa, tuy nhiên để phân biệt đâu là hàng hóa, văn hóa Việt Nam, đâu là hàng hóa, văn 
hóa Trung Quốc hay các nước Đông Nam Á khác thì vẫn có những nhầm lẫn. Những 
cuộc hội trợ triển lãm hàng hóa của Việt Nam phải tạo ra và khẳng định sự khác biệt 
của mình. Kinh nghiệm cho thấy những mặt hàng giàu bản sắc dân tộc luôn để lại được 
ấn tượng cho người tới xem. Những buổi như thế nếu được tổ chức vào các ngày hội 
dân gian của Việt Nam, đi kèm với biểu diễn những loại hình nghệ thuật dân gian có 
thể gây được ấn tượng mạnh hơn nữa đối với công chúng Australia. Người Australia 
thích sự cởi mở thân mật, vì thế các cuộc triển lãm hội trợ nên tạo ra một bầu không 
khí vui vẻ, gần gũi, thân mật sẽ có hiệu quả cao. 
3.3.1.5. Thông qua con đường giao lưu văn hóa mà thúc đẩy tiến trình giao lưu kinh 
tế, thâm nhập thị trường Australia 
Giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Australia đã diễn ra sớm từ khi các 
thương thuyền người Việt Nam di cư sang Australia. Ngày nay, quan hệ này phát triển 
với qui mô rộng và đa dạng hơn nhiều. Nhà nước phải làm sao cho mối quan hệ đó 
thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa hai nước, đặc biệt là sử dụng văn hóa như một công cụ 
để thâm nhập thị trường Australia. Kinh nghiệm của Hàn Quốc trong thời gian qua ở 
Châu Á đã cho ta nhiều bài học. Thông qua công nghiệp điện ảnh của mình Hàn Quốc 
đã gây được một ảnh hưởng lớn ở châu Á, thậm chí một phần châu Âu. Đi kèm với 
 87 
những hình ảnh diễn viên Hàn Quốc xinh đẹp là lượng tiêu thụ hàng mỹ phẩm, quần áo 
thời trang Hàn Quốc tăng mạnh. Một khi các diễn viên đó trở thành biểu tượng văn hóa 
(thần tượng của giới trẻ nhiều nước) thì hàng hóa của quốc gia ấy thâm nhập vào thị 
trường mới sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Việt Nam với truyền thống văn hóa lâu 
đời, bản sắc độc đáo hoàn toàn có điều kiện để làm như vậy. Vấn đề chỉ là ở chỗ đầu tư 
cho quá trình đó còn quá ít, một phần vì nhận thức còn yếu, một phần vì điều kiện kinh 
tế chưa cho phép. Việc này các doanh nghiệp không thể làm nổi, trách nhiệm thuộc về 
nhà nước. Những chương trình giới thiệu văn hóa cần được tiến hành thường xuyên 
hơn ở Australia thông qua nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau bằng những buổi triển 
lãm, tuần phim hay biểu diễn nghệ thuật khác... 
Trong những năm gần đây, việc hợp tác phát triển giáo dục giữa Việt Nam và 
Australia có nhiều kết quả khả quan. Số học sinh, sinh viên Việt Nam du học ở 
Australia cả học bổng và tự túc ngày càng tăng, tính riêng trường hợp tự trả phí, con số 
trung bình hàng năm là khoảng 4000. Số học sinh, sinh viên này sau khi được đào tạo 
trở về nước sẽ cung cấp rất nhiều kiến thức về kinh tế và văn hóa Australia. Sử dụng họ 
làm hạt nhân cho quá trình hợp tác, kinh doanh với người Australia sẽ rất hữu ích. 
3.3.2. Giải pháp vi mô. 
3.3.2.1. Khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng văn hóa kinh doanh 
Trước hết phải khẳng định: nhà nước chỉ có thể định hướng chứ không thể đưa 
ra kiểu văn hóa kinh doanh riêng cho từng doanh nghiệp được, kể cả doanh nghiệp nhà 
nước. Tự bản thân các doanh nghiệp phải xác định xây dựng văn hóa kinh doanh cho 
mình. Bởi như phần lý luận ở trên đã nói, văn hóa kinh doanh sẽ tạo ra sự phát triển 
bền vững cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước thường có điều kiện kinh tế 
hơn để quan tâm tới vấn đề này tuy nhiên họ lại mắc bệnh trì trệ, ỷ lại và bị phụ thuộc 
nếu muốn tạo ra văn hóa kinh doanh của riêng mình. Trong khi các doanh nghiệp ngoài 
quốc doanh thì lại cho văn hóa kinh doanh là vấn đề xa xỉ, không quan tâm. Nói chung 
các doanh nghiệp Việt Nam thường hành động theo lối cư xử chung, nghĩa là tuân theo 
 88 
những ―luật bất thành văn‖ như chạy chọt, tham nhũng... Vì vậy, quá trình xây dựng 
văn hóa kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn. Điều này chỉ có thể dựa trên sự tự giác của 
doanh nghiệp – vì pháp luật chưa điều chỉnh được. Quá trình tự giác đó phụ thuộc vào 
người lãnh đạo của doanh nghiệp. Người lãnh đạo giỏi có đạo đức sẽ là tấm gương để 
toàn bộ doanh nghiệp noi theo. Chính anh ta sẽ đóng vai trò chủ yếu tạo dựng và phát 
huy văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp. 
Các doanh nghiệp kinh doanh buôn bán quốc tế sau khi chọn ra cho mình 
được người lãnh đạo như vậy thì sẽ có nhận thức về sự cần thiết của văn hóa kinh 
doanh, xác định cho mình một lối kinh doanh có văn hóa, tuân thủ pháp luật và phù 
hợp với văn hóa dân tộc. Có thể quá trình xây dựng này không làm được ngay mà phải 
từ từ, nhưng điều quan trọng là nó được đã được tiến hành. 
3.3.2.2. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu phải tạo điều kiện đào tạo văn hóa 
kinh doanh cho đội ngũ cán bộ của mình 
Chỉ có bằng cách đó, các doanh nghiệp mới thực sự ―hiểu mình, hiểu người‖ – 
là cốt lõi của thành công trong cạnh tranh quốc tế. ―Hiểu mình‖ ở đây là hiểu văn hóa 
và những giá trị của dân tộc, những điểm yếu, điểm mạnh của con người Việt Nam. Để 
từ đó có những phương pháp phát huy điểm mạnh và hạn chế điểm yếu. Như tinh thần 
đoàn kết, sáng tạo của người Việt Nam chẳng hạn, cần được các doanh nghiệp phát 
huy. Trong khi, kiểu làm ăn manh mún bắt nguồn từ tính cách tiểu nông, chạy theo số 
đông hay là kiểu làm việc tuỳ tiện cần phải được hạn chế, cuối cùng là loại bỏ. Còn 
―hiểu người‖ là hiểu văn hóa và văn hóa kinh doanh của bạn hàng, ở đây là Australia. 
Nắm bắt được những điều đó, doanh nghiệp Việt Nam sẽ dễ dàng tiếp cận được với các 
doanh nhân, người tiêu dùng Australia; tiến tới kinh doanh có hiệu quả với người 
Australia. 
Quá trình đào tạo này, các doanh nghiệp có thể nhận được hỗ trợ từ phía nhà 
nước thông qua các hoạt động của bộ Thương mại như các lớp học, khóa học về văn 
hóa kinh doanh kèm theo các lớp nghiệp vụ cho cán bộ. Các cán bộ sau khi được đào 
tạo sẽ trở thành những doanh nhân quốc tế, họ sẽ có được khả năng thích nghi cần thiết 
 89 
tức là khả năng hiểu, nắm bắt nhanh, xử sự phù hợp khi tham gia kinh doanh quốc tế. 
Đó quả là một kết quả lớn đối với doanh nghiệp bỏ vốn khi so sánh với hình ảnh doanh 
nhân Việt Nam trước đó: thiếu tự tin, rụt rè không quyết đoán và cư xử tuỳ tiện, tất cả 
những cái đó đều bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết. Doanh nghiệp cần nghiêm túc nhìn 
lại cơ cấu tổ chức, phong cách quản lý của mình, xem xét lại Điều lệ doanh nghiệp, 
chính sách nhân sự,... có chính sách đầu tư cho con người. Một thực tế phổ biến khác 
là, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam không có triết lý kinh doanh của riêng mình, 
Điều lệ doanh nghiệp chủ yếu chỉ đề cập đến kỷ luật lao động, ít quan tâm đến việc đề 
ra tôn chỉ, mục đích hoạt động, xây dựng hệ thống giá trị tinh thần cho các thành viên, 
nên không gắn bó được các nhân viên với nhau và với công ty. Muốn cải tổ được tình 
hình này, doanh nghiệp cần có quá trình đầu tư dài hạn cả về vật chất lẫn thời gian, 
nhằm thiết lập những cơ cấu hữu hình và cả hệ giá trị tinh thần cho doanh nghiệp. 
Vậy cụ thể thì phải đào tạo như thế nào. Các doanh nghiệp cần tiếp cận các 
kênh thông tin khác nhau, cả trực tiếp và gián tiếp. Nếu có điều kiện thì nên gửi cán bộ 
sang Australia học tập, thực tế. Còn nếu không có điều kiện doanh nghiệp cũng vẫn có 
thể kiếm được các thông tin qua các nguồn, cơ quan trợ giúp của nhà nước, qua mạng 
Internet, qua các mối quan hệ với những người Australia đang làm việc tại Việt Nam, 
qua những người đã từng du học ở Australia về. 
3.3.2.3. Phát triển các sản phẩm mang tính văn hóa 
Đưa các yếu tố văn hóa vào sản phẩm là một trong các quá trình của văn hóa 
kinh doanh. Điều này là tất nhiên đối với các mặt hàng giàu bản sắc văn hóa dân tộc 
như đã nói ở trên. Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng phải chú ý tới giá trị sử dụng của 
mặt hàng đó, bởi dù mặt hàng có mang nhiều nét văn hóa Việt Nam tới đâu nhưng thị 
trường Australia không tiêu dùng được thì cũng không thể xuất khẩu. Mặt thứ hai của 
nó cần hiểu là đưa những yếu tố văn hóa Australia vào những mặt hàng khác xuất sang 
Australia. Những mặt hàng đó được cá biệt hóa để không những phù hợp với nhu cầu 
sử dụng mà còn phải thoả mãn nhu cầu văn hóa của người Australia. Chúng ta dễ thấy 
những sản phẩm không phù hợp, phản văn hóa của họ sẽ bị loại bỏ ngay. Ngược lại 
 90 
những mặt hàng đáp ứng được nhu cầu văn hóa - có nghĩa là đem đến cho khách hàng 
sự thích thú vì những yếu tố văn hóa quen thuộc đối với họ hoặc khiến cho họ cảm thấy 
tự hào có trong sản phẩm - sẽ tự nhiên có khả năng cạnh tranh cao hơn, thu hút được 
người mua nhiều hơn. Đến đây, phải phát triển các sản phẩm đó như thế nào thì lại cần 
đến chiến lược marketing – mix của doanh nghiệp. 
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần nghiên cứu các sản phẩm mới với 
những nét khác biệt về văn hóa với thị trường Australia nhằm thu hút người tiêu dùng 
vì những nét lạ, khác biệt tưởng như đối lập với văn hóa Australia nhưng vẫn có thể 
được tiêu thụ rất mạnh. Tất nhiên, đây là một công việc không dễ dàng, đòi hỏi những 
nghiên cứu về văn hóa và văn hóa kinh doanh Australia thấu đáo để có thể tìm ra 
phương hướng tiếp cận mới. 
Tóm lại, sau khi phân tích SWOT của hàng hóa Việt Nam tại thị trường 
Australia, tác giả đã đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của 
hàng hóa Việt Nam trên thị trường này. Tất nhiên là những khó khăn còn tồn tại sẽ là 
những rào cản đối với việc mở rộng thị trường Australia cho hàng hóa Việt Nam nhưng 
nhận thức được vấn đề này và giải quyết ra sao sẽ là nhiệm vụ của không chỉ doanh 
nghiệp mà còn của những nhà hoạch định chính sách Việt Nam. Bởi với những thuận 
lợi mà chúng ta đang có hiện nay sau khi gia nhập tổ chức thương mại WTO, những cơ 
hội mở ra với Việt Nam nói chung và hàng hóa Việt Nam nói riêng thực sự đầy triển 
vọng trong việc đưa hàng hóa Việt Nam đến với người tiêu dùng Australia cũng như 
các quốc gia khác trên thế giới. 
 91 
KẾT LUẬN 
Sau sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc 
tế WTO vào năm 7/11/2006, Việt Nam đã hội nhập sâu và rộng với thế giới, không chỉ 
về kinh tế mà còn nhiều mặt của đời sống xã hội và đặc biệt là văn hóa. Số lượng người 
Việt Nam ra nước ngoài làm ăn cũng như những doanh nhân ngoại quốc tìm kiếm cơ 
hội tại Việt Nam đều tăng lên nhanh chóng và cụm từ ―cú sốc văn hóa‖ (culture-shock) 
cũng được nhắc tới ngày càng nhiều. 
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế càng ngày được 
nâng cao do sức cạnh tranh từ các đối thủ khác và một trong những cách hữu hiệu, 
không tốn kém chính là thông qua con đường văn hóa. Muốn đạt được điều này, nghiên 
cứu văn hóa kinh doanh của các thị trường lớn trong đó có Australia là một việc làm 
cần thiết. Mặc dù văn hóa và văn hóa kinh doanh còn khá mới mẻ tại Việt Nam nhưng 
các doanh nghiệp cũng dần nhận thức được vấn đề này nhằm giảm thiểu những ―cú sốc 
văn hóa‖ để việc kinh doanh ngày càng thuận lợi và thu được kết quả tốt đẹp. 
Bài viết đã nêu ra những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt 
Nam cũng như những giải pháp văn hóa nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng 
Việt Nam trên thị trường Australia. Trong tiến trình hội nhập với thế giới hiện nay, văn 
hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là vũ khí 
Việt Nam trên con đường hướng sự phát triển bền vững. Với phạm vi của một khóa 
luận, tác giả mong muốn góp một phần vào việc nâng cao nhận thức về văn hóa kinh 
doanh và văn hóa kinh doanh Australia, đưa ra một số giải pháp để thực hiện điều đó. 
Vì thời gian, trình độ có hạn, cũng như vì văn hóa và văn hóa kinh doanh là lĩnh vực 
rộng lớn, nên khóa luận này cũng chỉ có tính chất gợi mở. Tác giả hy vọng đưa ra được 
cái nhìn mới về văn hóa kinh doanh cũng như những ý kiến đóng góp từ các thầy cô, 
bạn bè và độc giả. 
 92 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I. Tài liệu tham khảo tiếng Việt. 
1. Nguyễn Hoàng Ánh, Luận án Tiến sỹ, Vai trò của văn hóa kinh doanh quốc tế và 
vấn đề xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam, Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội, 
2004. 
2. Vũ Đình Bách và Lƣơng Xuân Quỳ, Đại học Kinh tế Quốc dân, Marketing: Lý 
luận và nghệ thuật ứng xử trong kinh doanh, NXB Đại học và Giáo dục chuyên 
nghiệp, 1992. 
3. Đỗ Minh Cƣơng, Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh, NXB Chính trị quốc 
gia, 2001. 
4. Trần Minh Đạo (chủ biên), Trường đại học Kinh tế quốc dân, Marketing, NXB 
Thống kê, 2000. 
5. Trịnh Huy Hoá (Biên dịch), Đối thoại với các nền văn hoá: Australia, NXB Trẻ, 
2002. 
6. Nguyễn Thị Hƣờng (chủ biên), Đại học kinh tế quốc dân, Giáo trình kinh doanh 
quốc tế, NXB Thống kê, 2001. 
7. Nguyễn Bách Khoa và Phan Thu Hoài, Đại học Thƣơng Mại, Marketing thương 
mại quốc tế, NXB Giáo dục, 1999. 
8. Lƣơng Huỳnh Khuê (chủ biên): Giáo trình lý luận văn hóa Mác-Lênin, NXB 
Chính trị quốc gia, 2002. 
9. Mark Mc Commack, Những điều người ta không dạy bạn ở Harvard, NXB Thống 
Kê, 1994. 
10. Phillip Kotler, Quản trị marketing, NXB Thống Kê, 1997. 
11. A. A. Radugin (chủ biên): Từ điển bách khoa văn hóa học (tài liệu dịch), Viện 
nghiên cứu nghệ thuật Hà Nội, 2001. 
12. Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999. 
 93 
13. Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại, Khám phá Australia - Con đường 
dẫn tới thành công, NXB Chính trị quốc gia, 2002. 
 14. Ban tƣ tƣởng - văn hóa TW, Bộ văn hóa - thông tin, Viện quản trị doanh 
nghiệp, Văn hoá và kinh doanh, NXB Lao động, 2001. 
Tạp chí: 
Minh Đức, Tiếp thị: Con dao hai lưỡi, hai quan điểm đối lập trên thế giới, Diễn đàn 
doanh nghiệp, 2001. 
Hoàng Hà, Tip trong xây dựng chiến lược xúc tiến, L’Entreprise. 
Tạp chí Doanh nghiệp Việt Nam, 2002. 
II. Tài liệu tham khảo nƣớc ngoài: 
Sách: 
1. David Merrett, Business Institutions and Behaviour in Australia, Routledge, 2000. 
2. Philip Kotler, Marketing:An introduction: Course, New Jersey: Prentice Hall, 
1997. 
3. Paul J.Peter và Jerry C.Olson, Consumer behavior and marketing strategy, Irwin/ 
Mc Graw- Hill, 1996. 
4. Kate Ritchie, Marketing to generation X, Lexington Books, 1995. 
Robert Treborling, Staying Sane in Australia, Major Mitchell Press, 1994. 
III. Nguồn điện tử, trang web: 
1. Australia: Building Business relation,  com/ 
truy cập trực tiếp: 
thời gian truy cập: 13:27/20/09/2007 
2. Australian Trade Commission, Export international business, Annual Report 
2001-2002,  
truy cập trực tiếp: :  
thời gian truy cập: 22:41/28/09/2007 
3. The Economist, Kick the habit of culture shock in doing business, 2007 
 94 
www.economist.com 
truy cập trực tiếp: 
thời gian truy cập: 23:19/3/10/2007 
PHỤ LỤC SỐ 1: 
BẢN ĐỒ AUSTRALIA 
 95 
PHỤ LỤC SỐ 2: 
 NGÔN NGỮ THÔNG TỤC TRONG TIẾNG ANH - AUSTRALIA 
A 
Ace Xuất xắc, ưu tú, tuyệt vời 
Amber fluid Bia 
Anyhow mate Thôi được rồi 
She‘ll be Apples! Tốt rồi! 
Arvo Buổi chiều 
Aussie Người Australia 
Ay? /Eh? Xin lỗi 
 (được sử dụng khi không hiểu ý ngưòi đối 
thoại) 
B 
Back hunder Hối lộ 
Bananas Phát điên 
Banana bender Người Queensland 
Bar Flies Sâu rượu 
Barbie or B.B.Q Liên hoan ngoài trời có món lợn quay hoặc 
gà quay cả con 
Have a Barney Hỗn chiến, tranh cãi 
Battler Người phải vật lộn để kiếm sống 
Beating around the bush Nói dài dòng, vòng vo 
You little Beauty, 
That‘s Beaut Rất tốt 
Give someonea Bell Gọi điện cho ai đó 
 96 
Belt up! Câm ngay 
Berko Cáu giận vô lý 
Better half Vợ hoặc chồng 
Bewdy! Rất tốt! Tuyệt vời! 
Going to have a Bex Thư giãn bằng một tách trà hoặc cà phê 
Bickie Một đôla 
Big note your self Ngụ ý bạn là một người đáng nể 
Block Đàn ông Australia 
Blowing your dough Tiêu hết sạch tiền 
Bloody oath I do ‗yes‘ Hoàn toàn đồng ý với ý kiến của người khác 
Blow in Khách ngoại lai 
Blue Heeler Cảnh sát 
Bolted Chuồn vội 
Bonzer there mate! Đó là một người bạn tốt! 
Bottoms up Uống (bia) cạn 100% 
Got no Brass, Brass razoo Nhẵn túi (hết tiền) 
Brekly Bữa sáng 
A Bruce Nam giới 
Bull dust Lời nói dối 
C 
Cheerio Tạm biệt 
Clobber Quần áo 
Cobber Bạn thân 
Got no coin Không có đồng nào 
Coldie Bia lạnh 
Put on your Cossie Mặc quần áo 
 97 
Stop the crap! Đừng có nói nhau nữa 
To make a crust Đi làm để kiếm tiền 
Have a cuppa Uống chè hoặc một tách cà phê 
Curly biệt danh cho người hói đầu 
D 
Dead cert Hoàn toàn chắc chắn 
Going to the dunny Đi nhà vệ sinh 
Dog‘s Breakfast Hỗn độn, bẩn thỉu 
It‘s a done deal Đi hoàn thành một việc gì đó 
I‘ve been Dudded Tôi bị lừa 
Dudder Kẻ ăn quỵt 
Dunlop Cheque Séc bị ngân hàng trả lại vì không có giá trị 
Durry, fag Thuốc lá 
E 
I could eat a horse 
and chase the jocky Đói meo 
F 
Fair go mate! Fair such of the sav Được dùng trong trường hợp người khác 
không cho bạn làm việc gì đó 
Fair enough OK Tôi đồng ý với ý kiến của bạn 
Fat chanve Đen đủi, sự không may mắn 
Fibber Kẻ nói dối 
Flaked out Ngủ thiếp đi 
Fred nexk Kẻ ảo tưởng 
In full feather Rất khoả mạnh 
 98 
Funny as afart in an elevator Chẳng có gì đáng buồn cười 
G 
Ga day/g‘day Xin chào 
Whats ‘your game đó là trách nhiệm của anh 
You‘er game Bạn cứ làm 
Gasbag Nói nhiều, lắm lời 
I need to go Bạn muốn đi nhà vệ sinh 
Going like hot cakes Bán chạy như tôm tươi 
Good as gold Tốt như vàng 
Good oh OK 
Good on ya mate Cho đáng đời 
Full as a GOod Kẻ say 
Goose Con ngỗng (dùng để chỉ những người khờ 
khạo) 
Go eat some grub Đi đánh chén 
Hope into the Grup Bắt đầu đánh chén 
Grizzle Người hay phàn nàn 
Grog Rượu 
Down the Gurgler Thất bại 
H 
Haggle Mặc cả 
Hang out Đi giải trí (với bạn bè) 
Hit the Hy of Đi ngủ 
Hit your kick Mở hầu bao 
 99 
Hoo-roo Tạm biệt 
I 
Something í a bit ify Rủi ro 
J 
I will fix your Jack and JIll Tôi sẽ trả tiền 
See you in a Jiffy Sớm gặp lại bạn 
I will job you Tôi sẽ đánh gục anh 
Journo Nhà báo 
K 
Kafuffle Tranh cãi hoặc một sự xáo trộn 
Kick the bucket Chết 
Kip Ngủ trưa 
Pack your KIt Đóng gói hàng hoá 
Knock-off Hàng giả mạo 
Knock shop Nhà thổ 
Knock off time Thôi đi đi! 
Gat Knotted 
L 
Lipple Thỏi son 
 100 
Liquid amber Bia 
Use your Loaf Suy nghĩ 
Lob-in someone Thăm hỏi ai mà không báo trước 
Do your Lolly Mất bình tĩnh 
Long as a month of 
Sundays 
Một thời gian dài 
M 
Milk bar Cửa hàng tạp phẩm 
Mundee Thứ hai 
N 
Nacked Bị bực mình 
I‘m Nacked Kiệt sức 
You‘ve got a Nick Biệt danh của bạn rất hay 
Get Nicked Thôi đi đừng có ba hoa 
No-hoper Kẻ tuyệt vọng 
Not bad ổn cả chứ 
O 
Ooroo Tạm biệt 
Orright! Tốt thôi 
Ow-yar-goin Bạn có khoẻ không? 
Oy! Or Oi! Được dùng để bắt xe buýt 
 101 
Oz Nước Australia 
P 
Pash or phashing Ôm hôn 
Pearl Tuyệt vời 
Pigs bum Sai, không đúng 
Piffle Vô nghĩa 
Plonk Rượu (loại rẻ tiền) 
Pommy or Pom Người Anh 
Possie Vị trí có lợi thế 
Q 
Quack Bác sỹ 
Quid Tiền 
R 
Racing off Người tình 
The rag Người phụ nữ hư hỏng 
Ratbag Người đê tiện 
Rellie Họ hàng 
Righto OK. Tốt thôi 
S 
Sacked Làm việc đến kiệt sức 
 102 
Sandshoes Giầy thể thao 
Satdee Thứ bảy 
Schooner Một vại bia lớn 
Shirty Cơn giận, buồn bã 
Shove off Cút đi 
Silly Season Ngày lễ Giáng sinh 
Snapping Việc ngon ơ 
Sundee Chủ nhật 
No Sweat Không sao, không hề gì 
T 
Ta Cảm ơn 
Tea Bữa tối 
Tea up Sắp xếp, sắp đặt 
Thunder box Nhà vệ sinh 
Hang on a tick Đợi một chút 
Too right! Quá đúng 
True Blue Người gốc Australia 
U 
Up shit creek Gặp trắc trở, khó khăn 
Up the gumtree Lâm vào tình thế khó xử 
V 
 103 
Verbal diarrhoea Nói nhảm nhí 
W 
Walking ticket (Bị cho) nghỉ việc 
Wanker Người bất tài 
Great wing-ding Đi dự tiệc lớn 
Y 
Yank Người Mỹ 
See you Yewse Hẹn gặp lại 
Chú ý: Những tiếng lóng trên đây chỉ được sử dụng trong những tình huống là bạn bè 
thân 
 104 
PHỤ LỤC SỐ 3 
HIỆP ĐỊNH THƢƠNG MẠI VÀ HỢP TÁC KINH TẾ GIỮA CỘNG HÒA XÃ 
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ AUSTRALIA 
 (Ký ngày 14-6-1990 tại Hà Nội) 
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Australia 
- Ghi nhận sự phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước là kết quả của Hiệp 
định thương mại ký kết giữa hai Chính phủ tại Canberra ngày 26-11-1974, 
- Với lòng mong muốn thúc đẩy và mở rộng hơn nữa quan hệ thương mại và hợp 
tác kinh tế cùng có lợi giữa hai nước, 
- Xem xét những quyền và nghĩa vụ quốc tế của mình, 
Đã thoả thuận sau: 
Điều 1. Mục tiêu 
Mục tiêu của Hiệp định nhằm: 
a) Tạo khuôn khổ để tăng cường sự tham gia của các xí nghiệp và tổ chức của hai 
nước vào việc hợp tác song phương về kinh tế, thương mại, khoa học và công 
nghiệp. 
b) Tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định các cơ hội đầu tư và thương mại cụ 
thể ở cả hai nước. 
c) Khuyến khích việc hợp tác cùng có lợi trong các lĩnh vực hai bên đều quan tâm , 
đặc biệt là những lĩnh vực hợp tác nêu trong điều 3 của Hiệp định này, và 
d) Khuyến khích việc mở rộng hợp tác về tài chính và ngân hàng. 
Điều 2. Hợp tác kinh tế, thƣơng mại, khoa học và công nghiệp. 
Để thúc đẩy các mục tiêu đề ra ở điều 1 của Hiệp định này, các bên sẽ: 
a) Xác định các dự án cụ thể và các cơ hội khác về hợp tác kinh tế, đầu tư trong 
kinh doanh buôn bán và chuyển giao công nghệ mới ở nước mình, có chiếu cố 
 105 
đặc biệt đấn khả năng chuyên môn và lợi ích của các xí nghiệp và tổ chức hữu 
quan ở nước kia. 
b) Xúc tiến và hỗ trợ các đoàn thương mại, marketing, các liên kết kinh doanh và 
tổ chức, các sáng kiến khác, và các cuộc tiếp xúc của các bạn hàng thương mại. 
c) Khuyến khích các xí nghiệp, tổ chức của nước bên kia tổ chức triển lãm, hội chợ 
và các hoạt động xúc tiến khác. 
d) Khuyến khích việc thăm viếng, trao đổi các đoàn và chuyên gia của các xí 
nghiệp quốc doanh, thương nghiệp, các viện nghiên cứu và các cơ sở kinh tế 
hữu quan và các tổ chức thích hợp khác. 
e) Xem xét các trở ngại đối với buôn bán có thể cản trở việc thực hiện các mục tiêu 
của Hiệp định này, có chú ý tới cơ chế nhằm mục đích đó dược xác lập bằng 
Hiệp định này. 
f) Khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật và quy trình công nghệ mới để thúc 
đẩy quá trình thích nghi và cải tiến các sản phẩm hiện có và sản phẩm mới. 
g) Khuyến khích việc thành lập các tổ chức tư vấn, liên doanh, các thoả thuận về 
licence và hợp tác khác giữa các xí nghiệp hai nước. 
h) Trao đổi ý kiến và thông tin thông qua các hình thức thích hợp về việc hình 
thành và áp dụng các chủ trương về khoa học và kỹ thuật, thúc đẩy hợp tác khoa 
học và kỹ thuật trong các lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm, nhất là các lĩnh 
vực có liên quan đến phát triển kinh tế và xã hội. 
i) Xác định các hình thức hợp tác khác có thể thích hợp với cả hai bên. 
Điều 3. Lĩnh vực hợp tác. 
1. Những lĩnh vực hợp tác chủ yếu là những lĩnh vực ưu tiên phát triển kinh 
tế, thương mại và công nghiệp của mỗi nứôc và có thể bao gồm: 
a) Năng lượng, khai khoáng. 
b) Tài nguyên thiên nhiên kể cả quản lý tài nguyên, lâm nghiệp, ngư nghiệp và 
chăn nuôi, trồng trọt. 
 106 
c) Phát triển cơ sở hạ tầng. 
d) Nông nghiệp và chế biến thực phẩm. 
e) Vận tải. 
f) Công nghiệp nhẹ kể cả vải sợi, quần áo, giày dép, len, bông, da và chế biến da. 
g) Khoa học kỹ thuật. 
h) Môi trường. 
i) Giáo dục. 
j) Khoa học thông tin kể cả viễn thông. 
k) Ngân hàng và tài chính. 
l) Du lịch. 
m) Các lĩnh vực hợp tác khác có thể do hai bên cùng nhau quyết định. 
2. Không có quy định nào trong điều khoản này ngăn cản các giới kinh 
doanh của cả hai nước tìm kiếm các cơ hội buôn bán các mặt hàng khác. 
Điều 4. Trao đổi thông tin. 
1. Các bên sẽ trao đổi thông tin kịp thời có liên quan đến: 
a) Những chiến lược, ưu tiên, kế hoạch và dự báo kinh tế quốc dân, các chủ trương 
quan trọng khác và các bước phát triển tác động đến thương mại giữa hai nước. 
b) Những luật pháp, pháp quy và tập quán của mỗi nước có liên quan đến thương 
mại và hợp tác kinh tế giữa hai nước hoặc có liên quan đến việc thực hiện các 
mục tiêu của Hiệp định này. 
c) Lợi ích của các xí nghiệp và tổ chức thương mại ở nước mình đối với việc xuất 
nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. 
d) Những cơ hội hợp tác kinh tế và đầu tư trong kinh doanh buôn bán ở nước mình, 
có chiếu cố đặc biệt đến khả năng chuyên môn và lợi ích của các xí nghiệp và tổ 
chức hữu quan ở nước kia. 
2. Khi cần thiết, các Bên sẽ nhanh chóng thông báo những tin tức như vậy 
có các xí nghiệp và tổ chức thương mại có liên quan ở nước mình biết. 
 107 
Điều 5. Miễn thuế nhập khẩu và các thuế khác. 
Theo đúng luật lệ và các pháp quy hiện hành ở mỗi nước, hai bên sẽ miễn thuế 
nhập khẩu và các thuế đánh vào hàng trưng bày ở hội chợ và triển lãm cũng như mẫu 
hàng để quảng cáo từ nước này vào nước kia. Những mặt hàng và mẫu hàng đó sẽ 
không được xử lý nhập vào nếu không có sự chấp nhận trước của cơ quan có thẩm 
quyền ở nước đó và nếu không trả thuế nhập khẩu và các loại thuế khác nếu có. 
Điều 6. Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc. 
1. Hai bên sẽ dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc trong việc cấp giấy 
phép xuất nhập khẩu và trong việc phân bổ ngoại tệ có liên quan đến 
việc xuất nhập khẩu đó, cũng như về mọi mặt liên quan tới thuế hải quan, 
các thứ thuế và lệ phí khác đánh vào hoặc có liên quan tới hàng hoá xuất 
nhập khẩu, và hải quan và các thủ tục, thể lệ, nội quy có liên quan khác. 
2. Những quy định và tiêu chuẩn liên quan tới chế độ ưu đãi thuế quan của 
Ôxtrâylia dành cho các nước đang phát triển vẫn tiếp tục áp dụng đối với 
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam như với các nước khác. 
3. Đoạn 1 và 2 của điều này sẽ không áp dụng đối với những ưu tiên hoặc 
ưu đãi mà Bên này hoặc Bên kia đã dành theo một chế độ ưu đãi đã có 
hoặc theo bất kỳ một thoả thuận hoặc sự dàn xếp nào hình thành hoặc 
đưa tới việc lập một khu vực tự do mậu dịch hoặc một liên hiệp quan 
thuế và không áp dụng đối với ưu tiên hoặc ưu đãi mà Bên này hay Bên 
kia dành cho việc buôn bán với các nước có chung đường biên giới với 
nước mình. 
Điều 7. Bảo vệ an tinh quốc gia, sức khoẻ con ngƣời, gia súc hoặc cây cối. 
Không có quy định nào của bản Hiệp định này được hiểu theo nghĩa là ngăn cản 
Bên này hay Bên kia áp dụng hoặc thi hành các biện pháp để bảo vệ nền an ninh quốc 
 108 
gia của mình, hoặc bảo vệ sự sống con người, gia súc hoặc cây cối hoặc để thực hiện 
những quyền và nghĩa vụ của mình theo luật pháp quốc tế. 
Điều 8. Thanh toán. 
Mọi điều thanh toán giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ôxtrâylia sẽ 
được tiến hành qua các ngân hàng ở hai nước đã cho phép mua bán ngoại tệ bằng Đôla 
Ôxtrâylia hoặc bằng các ngoại tệ tự do chuyển đổi khác mà hai bên chấp nhận theo 
đúng các quy định về ngoại hối hiện ở hai nước và theo tâp quán thông thương hoặc có 
thể được tiến hành toàn bộ hay từng phần bằng việc giao hàng theo các thoả thuận 
được hai bên chấp nhận. 
Điều 9. Việc tài trợ hàng xuất khẩu của Ôxtrâylia. 
Chính phủ Ôxtrâylia sẽ hết sức cố gắng đảm bảo dành cho nước Cộng hoà xã 
hội chủ nghĩa Việt Nam những điều kiện thanh toán thông thường để trang trải cho 
những hàng hoá xuất khẩu của Ôxtrâylia thông qua phương thức tín dụng, đặc biệt tín 
dụng trung và dài hạn của Chính phủ sẽ dành cho Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
trong những trường hợp thích hợp. 
Điều 10. Cơ chế phối hợp và tham khảo. 
1. Việc thực hiện Hiệp định này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ và tham khảo 
giữa hai bên. Do đó, các bên dồng ý thành lập một uỷ ban hỗn hợp về thương 
mại và hợp tác kinh tế để thực hiện các mục tiêu của Hiệp định này. Uỷ ban này 
gồm một Bộ trưởng của mỗi nước làm đồng chủ tịch và các thành viên khác. Uỷ 
ban hỗn hợp sẽ nhóm họp hàng năm hoặc khi cần thiết. Các phiên họp sẽ được 
tổ chức luân phiên ở Việt Nam và Australia. 
2. Uỷ ban hỗn hợp về thương mại và hợp tác kinh tế sẽ: 
 109 
a) Kiểm điểm lại những tién bộ trong quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế 
giữa các bên đã quy định trong Hiệp định này và có những kiến nghị 
nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác đó. 
b) Làm đầu mối liên lạc để phát hiện và giải quyết những trở ngại trong 
thương mại và hợp tác kinh tế có thể cản trở việc thực hiện các mục tiêu 
của Hiệp định như đã được quy định trong đoạn (e) của điều 2. 
c) Xem xét trong khuôn khổ của Hiệp định này, những đề nghị của Chính 
phủ Bên này hay Bên kia nhằm mở rộng và đa dạng hoá hơn nữa quan hệ 
buôn bán giữa hai nước. 
d) Xây dựng những quy định cần thiết theo đó các quan chức có thể trao đổi 
thông tin ở giai đoạn đầu về các dự án quan trọng tương lai. 
Điều 11. Hiệu lực của Hiệp định. 
1. Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày ký và tiếp tục hiệu lực trong 3 năm đầu. 
Sau đó, nó tiếp tục có hiệu lực đến ngày thứ 90 sau khi chính phủ bên này thông 
báo cho Bên kia bằng văn bản, qua đường ngoại giao, ý định của mình muốn kết 
thúc Hiệp định này. 
2. Khi Hiệp định này có hiệu lực, thì Hiệp định thươngmại ký giữa nước Việt Nam 
dân chủ cộng hoà và Australia ngày 26 tháng 11 năm 1974 tại Canberra sẽ chấp 
dứt hiệu lực. 
Những người ký dưới đây được Chính phủ nước mình uỷ quyền đã ký Hiệp định 
này. 
Làm tại Hà Nội, ngày 14 tháng 6 năm 1990 thành hai bản chính bằng tiếng Việt 
và tiếng Anh, cả hai bản đều có giá trị như nhau. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3678_8002.pdf 3678_8002.pdf