Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đó là chủ trương rất đúng đắn
của Đảng, nhà nước ta. Nước ta không thể tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, không thểthoát khỏi đói nghèo lạc hậu nếu đứng ngoài
biệt lập với thế giới. Đi lên chủnghĩa xã hội càng không thể đóng cửa
mà đi lên. Nếu không có lực lượng sản xuất hiện đại, lấy đâu ra nếu
không phải từ ngoài thông qua hội nhập kinh tế trao đổi, buôn bán, thu
hút vốn đầu tư từ nước ngoài thông qua đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, biết lợi dụng khôn khéo những mâu
thuẫn giữa các nước, song hội nhập kinh tế quyết không thểhoà tan tự
đánh mất mình, chưa nói các nước xã hội chủ nghĩa, ngay cả các quốc
gia tư bản chủ nghĩa với nhau đã vậy.
37 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bàn về mối quan hệ giữa xây dựng, mối quan hệ độc lập tự chủ và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển” và “chủ động tham gia
cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế
quốc tế một cách chọn lọc với bước đi thích hợp”
Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển
như vũ bão, trình độ quốc tế hoá sản xuất và đời sống nhân loại đang
tăng lên mạnh mẽ, Đại hội IX của Đảng đã đưa ra quan điểm hội nhập
kinh tế khác hẳn tình trạng bị bao vây, cô lập, đóng cửa.
“Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở rộng, giao lưu kinh tế và
khoa học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu; là quá trình
tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội có tính chất toàn cầu như
vấn dề dân số, tài nguyên, thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống… là quá
trình loại bỏ dần các hàng rào thuế quan trong thương mại quốc tế,
thanh toán quốc tế và viêc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các
nước”
Đảng ta cũng khẳng định: “Chủ động hôi nhập kinh tế là hành vi
có ý thức, tự giác của các quốc gia, doanh nghiệp trong việc xây dựng
9
và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược đầu tư,
sản xuất kinh doanh trên cơ sở lộ trình, hình thức và bước đi đã lựa
chọn nhằm phát huy có hiệu quả những lợi thế của đất nước và tránh
được những tác động tiêu cực vào đất nước trong quá trình hội nhập
vào nền kinh tế của quốc gia trong khu vưc và trên thế giới.”
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là quốc tế xúc tiến,
chuẩn bị tốt các điều kiện và đẩy nhanh các cuộc đàm phán song
phương, đa phương để quốc gia ra nhập có hiệu quả vào các liên kết
kinh tế khu vực và toàn cầu.
2.2.Các quan điểm và nguyên tắc của Đảng ta trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế:
Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là:“Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội
lực, nâng cao hiều quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giử
gìn bản sắc văn hoá dân tộc,bảo vệ môi trường”
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quốc tế
hội nhập cần phát huy tiềm năng và nguồn lực các thành phần kinh tế
của xã hội trong đó kinh tế nhà nước năm vai trò chủ đạo.
“Hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và cạnh
tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo,
khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập kinh
tế tuỳ theo đối tượng, vấn đề, trường hợp và thời diểm cụ thể, đồng thời
vừa phải đề phồng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư tưởng
đơn giản, nôn nóng.”
Nhận thức đầy đủ đăc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế
hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất
10
nước, vừ đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước
ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi giành cho các nước đang phát triển
và các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi từ kinh tế tập trung bao cấp
sang kinh tế thị trường.
Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững ổn định chích trị, an ninh quốc gia, quốc phòng; thông qua hội
nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm củng cố chủ
quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua
hội nhập kinh tế để thực hiện diễn biến hoà với nước ta.
II. Thực trạng về mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
1. Những yếu tố khách quan và chủ quan hình thành quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được đề ra trong hoàn cảnh
thế giới và khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp khó lường trước
được và có những đặc điểm sau:
Trong hơn thập kỉ qua, kinh tế thế giới nhìn chung phát triển
không đồng đều.Trên thế giới đã xảy ra những cuôc khủng hoảng lớn,
sâu rông hơn cả cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính xảy ra vào năm
1997.Vì thế các nứoc và các khu vực thay đổi theo:
Kinh tế Mỹ phát triển nhanh và ổn định liên tục trong nhiều năm
và đến năm 2002 bắt đầu suy giảm; kinh tế Tây Âu không còn phát
triển nhanh như các thập kỷ trước; kinh tế Nhật suy thoái chưa có lối ra;
các nước thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu rơi vào tình
trạng suy thoái kéo dài, vài năm gần đây tăng trưởng tương đối khá;
kinh tế Trung Quốc phát triển ngoại mục; Đông Nam Á và Đông Á phát
triển nhanh vào bậc nhất thế giới trong những thập kỹ trước, tuy nhiên
11
vừa qua đã rơi vào suy thoái và nay đang hồi phục; Nam Á và nhất là
Châu Phi vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ kéo dài; kinh tế Mỹ
Latinh còn khá hơn song vẫn chưa ổn định.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão. Nó
đang tác động đến tất cả các nước trên thế giới với những mức độ khác
nhau, đưa lại những thành quả cực kỳ to lớn cho nhân loại và những
hậu quả xã hội hết sức sâu sắc. Công nghệ thông tin đang là nhân lõi
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nó phản ánh giai
đoạn mới về chất của sản xuất, trong đó hàm lượng trí tuệ là thành phần
chủ yếu trong sản phẩm. Công nghệ sinh học là bước đột phá vào thế
giới đầy bí hiểm cuả cuộc sống, tạo ra một tiềm năng to lớn cho việc
sản xuất ra các vật phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người như lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp thoả mãn
nhu cầu ngày càng tăng của con người.
Công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, công nghệ
hàng không vũ trụ… mở ra một tiềm năng mới cho loài người chinh
phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Tự động hoá trong sản xuất ngày
càng giải phóng con người khỏi nhưng công viêc nặng nhọc, nguy
hiểm, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ xã hội.
Xu thế toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng đến cơ
sở của tất cả các đân tộc trên thế giới. Ngày nay các nền kinh tế của các
quốc gia gắn bó hữu cơ với nhau, tuỳ thuộc vào nhau. Tính thẩm thấu
lẫn nhau của các nền kinh tế ra tăng. Nền sản xuất thế giới mang tính
toàn cầu. Phân công lao động thế giới ngày càng cao. Phương châm
kinh doanh là lấy thế giới làm máy của mình, lấy các nước làm phân
xưởng của mình, qua đó phân công lao động quốc tế có thể lợi dụng ưu
thế kỹ thuật, tiền vốn sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy
12
quá trình quốc tế hoá sản xuất phát triển nhanh chóng. Trong quá tình
toàn cầu hoá, khu vực hoá, nổi lên xu hướng liên kết kinh tế dẫn đến sự
ra đời rồi hợp nhất của nhiều tổ chức kinh tế và thương mại, tài chính
quốc tế và khu vực như : tổ chức thương mại quốc tế WTO, quỹ tiền tệ
thương mại quốc tế IMF, ngân hàng thế giới WB, liên minh Châu Âu
EU, khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA.
Hiện nay các nước lớn, nhỏ đều dành ưu tiên cho phát triển kinh
tế, theo đuổi chính sách kinh tế mở. Ngay những nước có tiềm năng, thị
trường lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Mỹ… và cả một số nước vốn
khép kín, theo mô hình tự cung tự cấp cũng dần mở cửa từng bước hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, khu vực.
Mặt khác cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn đề mà
không một quốc gia riêng lẽ nào có thẻ tự giải quyết nếu không có sự
hợp tác đa phương như: bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số,
đẩy lùi bệnh dịch hiểm nghèo, chống tội phạm quốc tế…
Tuy nhiên trong xu thế đó các nước công nghiệp phát triển, đứng
đầu là Mỹ, do có ưu thế về thị trường nắm được tiến bộ khoa học công
nghệ, có nền kinh tế phát triển cao đã ra sức thao túng chi phối thị
trường thế giới, áp đặt điều kiện với các nước chậm phát triển hơn,
thậm chí dùng nhiều biện pháp thô bạo như bao vây, trừng phạt, làm
thiệt hại lớn đến lợi ích các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Trước tình hình đó các nước đang phát triển từng bước tập hợp lại, đấu
tranh chống chính sách cường quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích
của mình về một trật tự kinh tế bình đẳng và công bằng.
Ở khu vực Đông Nam Á đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc. Mặc
dù trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trầm trọng trọng trong
thời gian qua (1997 – 1998) song vẫn là khu vực có nhiều tiềm năng
13
cho vị trí và địa lý kinh tế của mình, dung lượng thị trường lớn, tài
nguyên phong phú, lao động rồi rào được đào tạo tốt, có quan hệ quốc
tế rộng rãi.
Toàn bộ tình hình trên đã đem lại nhiều thuận lợi, đồng thời cũng
tạo ra nhiều thách thức gay gắt với nước ta trong quá trình phát triển đất
nước nói chung và quá trình hội nhập kinh tế nói riêng.
Như vậy cùng với tình hình thế giới và khu vực hội nhập kinh tế
quốc tế là xu thế tất yếu, là yêu cầu khách quan của Việt Nam trong quá
trình phát triển kinh tế hiện nay.
2. Con đường hội nhập kinh tế ở Việt Nam và các thành công bước
đầu.
2.1. Các bước đi cuả nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Năm 1993, chúng ta đã công khai quan hệ với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế như: quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ngân hàng thế giới
WB, ngân hang phát triển Châu Á ADB. IMF và WB đã hỗ trợ cho ta
thông qua chương trình tín dụng trung hạng; chương trình điều chỉnh cơ
cấu SAC của WB và chương trình điều khiển cơ cấu mở rộng ESAF
của IMF. Nội dung đàm phán với các tổ chức này gắn bó mật thiết với
những yêu cầu của tổ chức thương mại quốc tế WTO. Trong quan hệ
với cơ sở các tổ chức này ta chỉ chấp nhận sự hỗ trợ tài chính nếu yêu
cầu của họ không trái vơí đường lối chính sách của ta, có năm điều kiện
họ đưa ra vi phạm chủ quyền và lợi ích của ta nên đã bị ta bác bỏ.
Ngày 25/7/1995 nước ta chính thức ra nhập ASEAN, đồng thời
tham ra khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), cam kết thực hiện
trương trình ưu đãi thế quan có hiệu lực chung (CEPT), loại bỏ hàng
rào phi thuế quan và cắt giảm thuế quan xuống 0-5% vào năm 2006 với
14
các thành viên ASEAN. Ngoài ra chúng ta còn tham ra đàm phán hiệp
định thương mại dịch vụ, tham ra trương trình hợp tác công nghiệp
AICO và khu vực đầu tư ASEAN (AIA) cũng như các chương trình hợp
tác trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vân tải.. của ASEAN.
“Tháng 3/1995 Việt Nam đã là thành viên chính thức của hội nghị
thượng đỉnh vể hợp tác Á Âu (ASEM), tham ra vào hoạt động của diễn
đàn này để thuận lợi hoá thương mại, xây dựng môi trường đầu tư thuận
lợi xúc tiến sự hợp tác tương hỗ giữa các doanh ngiệp của các nước
thành viên trong khối.
Ngày 5/6/1996, Việt Nam đã gửi đơn xin ra nhập diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á Thái Bình Dương APEC. Tháng 11/1998 đã được công
nhận là thành viên chính thức của tổ chức này. Việt Nam đã xây dựng
và thực hiện trương trình hành động quốc gia IAP và tham ra trương
trình hành động chung CAP làm thúc đẩy quốc tế tự do hoá và thuận lợị
thương mại dịch vụ, đầu tư giữa các nước trong khối (Việt Nam sẽ hoan
toàn mở cửa thị trường cho thương mại và đầu tư vào năm 2002).”
Tháng 1 - 1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập WTO với 135
quốc gia thanh niên, chi phối hơn 90% tổng kinh ngạch thương mại thế
giới là một thể chế kinh tế toàn cầu, Việt Nam đã trả lời các câu hỏi của
WTO làm rõ về chế độ thương mại của mình và đã tiến hành các vòng
đàm phán đầu tiên với ban công tác của WTO về việc gia nhập của Việt
Nam.
Hiện nay ta đã kí hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kì và
từng bước thực hiện có hiệu quả và khắc phục những tồn tại của hiệp
định thương mại này.
15
2.2. Những thành công bước đầu của Việt Nam trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Do quán triệt tốt mục tiêu quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ cụ thể
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nên hơn một thập niên qua
cùng với những bước đi đầu tiêu của mình chúng ta đã đạt được những
kết quả quan trọng trên các mặt: thương mại, đầu tư, ngoại giao…
Chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cấm vận, cô lập về
kinh tế của các thế lực thù địch. Tạo được môi trường kinh tế với 150
quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Trao đổi hàng hoá ngày càng tăng lên
đáng kể, hàng hoá Việt Nam đã xâm nhập vào thị trường trên thế giới.
Các ngành công nghiệp của ta từ chỗ không có mặt hàng nào có sức
cạnh tranh đến nay đã có trên 200 mặt hàng được đánh giá là có khả
năng tạo được chỗ đứng trên thị trường quốc tế.
Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài chúng ta đã đạt
được những thành quả đáng khích lệ "Tính đến tháng 12/2001 chúng ta
đã thu được hơn 41,5 tỉ USD. FDI của hơn 70 quốc gia và lãnh thổ trên
thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp và xây dựng chiếm 51% trong
tổng số 3631 dự án FDI được cấp phép đầu tư ở nước ta. Riêng các
nước thành viên ASEAN, từ đầu năm 2002 đến nay đã đầu tư thêm 54
dự án với tổng số vốn đăng kí là 133,6 triệu USD, nâng tổng số dự án
của hiệp hội đầu tư vào Việt Nam lên 530 dự án với tổng số vốn là 9,6
tỉ USD tạo việc làm cho khoảng 50.000 lao động trực tiếp. Trong 10
tháng qua (2002) Malaixia dẫn đầu các nước ASEAN trong lĩnh vực
đầu tư vào Việt Nam với 21 dự án trị giá 67,3 triệu USD. Cùng với vốn
FDI chúng ta còn tiếp nhận một lượng vốn không nhỏ qua kênh ODA.
Nguồn vón ODA thực sự có ý nghĩa quan trọng trong phát triển cơ sở
hạ tầng trong Việt Nam. Tính ra mức vốn nước ngoài hiện nay chiếm
16
khoảng 30,5 tổng số vốn đầu tư xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có
vốn đầu tư trong GDP đều tăng lên qua hàng năm. Điều quan trọng đó
tạo lên việc làm cho gần 350 nghìn lao động trực tiếp là mang lại công
nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý và tạo ra một số ngành sản xuất
mới ở nước ta " (6.61).
Cho đến nay tổng mức cam kết tài trợ cho nước ta của các tổ chức
quốc tế ngày càng tăng nhanh. Riêng tại hội nghị nhóm tư vấn lần thứ 7
tại Hà Nội tháng 12/1999 các nhà tài trợ đã cam kết dành cho Việt
Nam 2,15 tỉ USD cùng với 700 triệu USD giúp Việt Nam đẩy nhanh
quá trình đổi mới kinh tế. Việc khai thông quan hệ với IMF và WB
cũng đã tạo điều kiện cho nước ta giải quyết một bước quan trọng về nợ
nước ngoài đã giảm được tới 70% nợ các nước từ 1993 trở về trước góp
phần ổn định cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các
chương trình phát triển kinh tế, xã hội, mở ra khả năng vay được vốn
qua các kênh khác.
Cùng với việc mở rộng thu hút vốn nước ngoài gia tăng xuất
khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam đã mạnh dạn tham gia đầu tư ra nước
ngoài, kể cả vào những nước phát triển như Nhật Bản. Tính đến nay các
doanh nghiệp Việt Nam đã có 63 dự án đầu tư ra nước ngoài với tổng
số vốn đầu tư đăng kí là 61 triệu USD, tập chung chủ yếu trong lĩnh vực
chế biến thực phẩm, dịch vụ thương mại, xây dựng… Đồng thời ta đã kí
được các hợp đồng xuất khẩu lao động ra các nước trong khu vực và thế
giới.
Tiếp thu khoa học và kĩ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo CP
hội để nước ta tiếp cận với những thành quả của các cuộc cánh mạng
đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây
17
chuyền sản xuất, tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới
trong các ngành sản xuất. Đồng thời thông qua dự án liên doanh hợp tác
với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam đã tiếp nhận được nhiều
kinh nghiệm quản lý sản xuất hiện đại.
Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế
vào môi trường cạnh tranh, nhờ đó tạo được uy tín làm ăn mới thúc đẩy
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực
đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất lượng,
không ngừng vươn lên trong cạnh tranh và phát triển, và thực tế sức
cạnh tranh của họ cũng nâng lên đáng kể. Một tư duy mới, một nếp làm
ăn mới, lấy hiệu quả sản xuất và kinh doanh làm thước đo, một đội ngũ
các nhà doanh nghiệp năng động, sáng tạo có kiến thức quản lý đang
hình thành.
Kết hợp nỗ lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp góp
phần đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn và nhờ đó giúp chúng ta
tiếp tục giữ vững, củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa,
an ninh quốc gia, bản sắc văn hoá dân tộc. Thực hiện hội nhập thời gian
qua cho thấy: Đảng ta và Nhà nước ta có đủ bán lĩnh khắc phục khó
khăn vượt qua thử thách, khai thác các lợi thế trên thị trường thế giới,
bảo đảm sự phát triển của đất nước theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa.
3. Những thuận lợi và yếu kém còn tồn tại khi xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1. Những mặt thuận của hội nhập kinh tế đối với việc xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ.
18
Ngày nay, toàn cầu hoá diễn ra rộng khắp, và vấn đề hội nhập
kinh tế quốc tế trở thành yếu tố tất yếu khách quan. Nó đem lại cho đất
nước ta những mặt thuận lợi để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực để
nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh
nghiệp. Quá trình này buộc chúng ta phải đối mặt với sự cạnh tranh
ngày càng tăng của các nước và giữa các doanh nghiệp cả trong nước
lẫn nước ngoài. Sự cạnh tranh như vậy là động lực thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các doanh nghiệp luôn có đổi mới và hoàn
thiện về mọi mặt để tăng tính hiệu quả và năng lực cạnh tranh của toàn
bộ nền kinh tế và của các doanh nghiệp.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để ta tiếp cận, huy động các
nguồn vốn, FDI, các công nghệ mới chất cắm, kĩ thuật nâng cao cấp từ
bên ngoài để phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế cần thiết cho việc
duy trì kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế và các doanh nghiệp. tạo điều kiện để mở rộng, đa dạng hoá thị
trường quốc tế, tránh bị lệ thuộc tập chung vào một số thị trường và đối
tác nước ngoài, giữ độ an toàn cao hơn cho nền kinh tế, tạo cơ hội để
tăng cường xuất khẩu và tính luỹ, nâng nguồn dự trữ quốc gia, tạo khả
năng ứng phó cao hơn đối với các biến cố sẽ tài chính có thể xảy ra, hạn
chế việc xin viện trợ bên ngoài.
Quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế cũng tạo động lực thúc
đẩy chúng ta phải cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng, lành mạnh
hoá nền tài chính quốc gia tạo điều kiện để phát triển kinh tế và từ đó
hạn chế hết nguy cơ bị lệ thuộc bên ngoài về tài chính.
Toàn cầu hoá tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để nắm bắt thông
tin tri thức mới một cách nhanh chóng kịp thời và tối đa, từ đó giúp
19
cho việc phân tích, đánh gia hợp nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả
của bộ máy Nhà nước. Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá còn tạo điều
kiện để nâng cao trình độ của đội ngũ doanh nghiệp và tay nghề chuyên
môn của đội ngũ lao động các nhà khoa học.
Chủ động hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá sẽ giúp
chúng ta tạo dựng được mối quan hệ kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế và
tiếng nói của nước ta trong quan hệ với các nước và tổ chức quốc tế, từ
đó có điều kiện thuận lợi để bảo vệ tổ chức.
3.2. Những tác động bất lợi của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
với quá trình hình thành nền kinh tế độc lập tự chủ của nước ta.
Toàn cầu hoá làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước trên
nhiều phương diện đặt biệt là kinh tế từ đó làm suy giảm hay hạn chế sự
độc lập tự chủ về kinh tế của các nước theo quan niệm truyền thông.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy phân công lao
động quốc tế theo hướng mới nước tập trung vào các ngành, lĩnh vực họ
có ưu thế và hiệu quả kinh tế cao, do vậy, ít chú ý hoặc bỏ rơi hẳn
những ngành, những lĩnh vực có hiệu quả kinh tế thấp.
Toàn cầu hoá làm tăng sự lưu chuyển của các nguồn vốn mà
chính phủ không dễ kiểm soát được.
Nó cũng làm cho những dòng FAI đó vào các nước ngày càng
nhiều hơn. Ngày nay FDI chủ yếu do các Công ty xuyên quốc gia cung
cấp, chúng có thế lực hùng mạnh, cắm chân rết trên khắp thế giới. Có
thể ít bài học lịch sử về sự can thiệp làm khuynh đảo kinh tế và chính trị
của nhiều nước bởi các công ty xuyên quốc gia.
Tóm lại, về lâu dài quá trình toàn cầu hoá sẽ làm mờ đi biên giới
giữa không gian kinh tế quốc gia và dần dần hình thành nên những
không gian kinh tế rộng lớn hơn bao bao gồm nhiều nước và lãnh thổ
20
kinh tế. Các nền kinh tế quốc gia sẽ mất đi tính độc lập tương đối như
hiện nay, trở thành những thực thể kinh tế giống như là bộ phận của
một quốc gia rộng lớn hơn.
3.3. Những yếu kém và tồn tại cần giải quyết trong thời gian tới.
Chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập kinh tế
chuyển qua bước mới. Tuy chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế đã được
khẳng định trong nhiều nghị quyết của Đảng và trên thực tế đã được
thực hiện từng bước, nhưng nhận thức hội nhập chưa đạt được sự nhất
trí cao, ảnh hưởng tới quá trình đề xuất chính sách và triển khai thực
hiện. Hội nhập kinh tế quốc tế trong xu hướng toàn cầu hoá, khu vực
hoá đang phát triển mang lại cả thời cơ lẫn thách thức lớn. Trong khi
đó, nền kinh tế nước ta còn yếu tư tưởng bảo hộ nặng nền, việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý và cải tiến công nghệ diễn
ra chậm chạp. Nếu không kịp thời khắc phục se bị thua thiệt, thậm trí
còn bị tụt hậu ra hơn. Thiếu sót đáng kể là công tác nghiên cứu khai
triển chậm chạp, chất lượng thấp. Cho đến nay nước ta còn chưa hiểu
thật sâu, chưa nắm thật vững chắc toàn bộ dịch chế của các tổ chức kinh
tế, khu vực và toàn cầu, nhất là tổ chức thương mại thế giới (WTO) và
nhiều văn kiện pháp lý khác mà nước ta cần vận dụng khi tham gia tổ
chức này. Công tác hội nhập quốc tế mới cần tập trung triển khai chủ
yếu ở các cơ quan trung ương, sự tham gia của các ngành các cấp tuy
được có được đặt ra nhưng còn yếu và chưa đồng bộ, do đó chưa tạo
được sức mạnh cần thiết trong quá trình hội nhập kinh tế.
Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội
nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam
kết quốc tế. Thời gian qua chúng ta vừa tiến hành hội nhập, vừa triển
khai nghiên cứu những nội dung cam kết để xác định chủ trương
21
phương hướng hành động những thường bị động đối phó với nhiều kiến
nghị do các đối tác nước ngoài nêu ra, không có đủ cơ sở để hướng dẫn
các doanh nghiệp xây dựng chương trình cải tiến quản lý thị trường khu
vực và thế giới.
Luật pháp, chính sách quản lý kinh tế thương mại chưa hoàn
chỉnh. Luật pháp chính sách là công cụ để đảm bảo hội nhập kinh tế vào
thành công và kinh tế phát triển. Các hoạt động hợp tác kinh tế thương
mại quốc tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường; theo xu thế
thuận lợi hoá, tự do hoá, theo "luật chơi củ các thể chế kinh tế quốc tế
và khu vực. Nhưng hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của ta chưa
hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây nhiều khó khăn cho ta khi đáp ứng cam
kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Việc hoàn chỉnh luật pháp và chính
sách của ta phải phù hợp với thông lệ quốc tế và quy tắc của các tổ chức
mà nước mình tham gia, vừa phù hợp với đặc thù của nước ta, đặc biệt
là bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa. Ta cũng chưa nghiên
cứu sâu để đề xuất những biện pháp chính sách cần thiết, những cách
làm khôn khéo, hợp lý nhằm tận dụng những ưu đãi mà quốc tế dành
cho nước đang phát triển và kém phát triển như quy chế tối hậu quốc,
đãi ngộ quốc gia, chế độ hạn ngạch thuế quan quyền tự vệ, chống bán
phá giá... bảo vệ lợi ích của ta.
Doanh nghiệp của ta còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng
cạnh tranh. Doanh nghiệp nước ta hầu hết quy mô nhỏ, yếu kém về cả
hai mặt quản lý và công nghệ, lại hình thành và h quá lâu trong cơ chế
bao cấp. Chúng ta chưa tạo đủ cơ chế, biện pháp có hiệu lực nhằm kích
thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại và phát triển của mình với việc
cải tiền sản xuất kinh doanh với khả năng cạnh tranh trên thương
trường quốc tế.
22
Đội ngũ cán bộ yếu, công tác tổ chức chỉ đạo chưa thích hợp,
nhược điểm lớn nhất là trình độ non yếu của đội ngũ cán bộ, không chỉ
về trình độ hiểu biết mà có trường hợp cả về phẩm chất đạo đức. Đây là
nguyên nhân sâu xa của những khuyết điểm thiếu sót trong hợp tác kinh
tế với nước ngoài, của việc để những lối sống, tập quán phi đạo đức,
trái thuần phong mỹ tục của dân tộc xâm nhập vào đời sống xã hội của
ta. Cán bộ làm công tác hợp tác quốc tế, nhất là cán bộ đàm phán quốc
tế hiểu biết không đầy đủ, ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này, chưa đủ
trình độ ngoại ngữ, nhất là khi lĩnh vực và quy mô hợp tác được mở
rộng.
Cán bộ doanh nghiệp cũng ít hiểu biết về hợp tác quốc tế, về kỹ
thuật kinh doanh. Đội ngũ công nhân lành nghề chưa được đào tạo
đúng.
III. Những giải pháp để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Các giải pháp tăng cường khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
Để hội nhập kinh tế quốc tế thực sự đi vào cuộc sống và mang lại
hiệu quả thiết thực ta cần có các biện pháp thích hợp như sau:
1.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý theo thông lệ quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng có nghĩa là chấp nhận tự do hoá
kinh tế, bao gồm: tự do hoá thương mại, đầu tư và hợp tác quốc tế, có
nghĩa là chấp nhận một "sân chơi chung" với các quốc gia khác nhau
trên thế giới trong tất cả các mối quan hệ kinh tế. Các quá trình này
đang diễn ra ngày càng sâu rộng với những mức độ khác nhau trên thế
giới làm cho các quan hệ kinh tế trở nên xoán xuýt với nhau, ngày càng
phụ thuộc nhau hơn. Mặt khác, cũng tạo quá trình vừa hợp tác vừa cạnh
tranh với nhau giữa các nước trên thế giới trong việc thu hút các dòng
23
vốn chu chuyển quốc tế, công nghệ hiện đại và nguồn nhân lực có hiệu
quả cao. Dĩ nhiên điều này phụ thuộc hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự hoàn
thiện khung pháp lý theo thông lệ quốc tế và sự ổn định kinh tế vĩ mô
của quốc gia. Do vậy chúng ta phải đẩy mạnh công tác xây dựng và
hoàn thiện môi trường pháp lý theo thông kê quốc tế. Theo đó cần
nhanh chóng ban hành hệ thống luật pháp về các vấn đề như: giao dịch
vốn, cạnh tranh, chống độc quyền, bảo hộ sản phẩm nội địa, bảo hộ
thương hiệu sản phẩm, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu tài
sản... nhằm không ngừng hoàn thiện mô hình kinh tế thị trường hiện đại
(xây dựng, hình thành và phát triển đa dạng các loại thị trường mà đặc
biệt là các thị trường: vốn, sức lao động, bất động sản, khoa học - công
nghệ....)
Một khi những vấn đề trên còn giẫm chân tại chỗ chúng ta sẽ còn
gặp nhiều bất lợi trong tiến trình hội nhập; khoảng cách giữa trình độ
phát triển kinh tế của nước ta so với các nước phát triển trên thế giới
không những thu hẹp lại còn loãng ra. Bên cạnh đó, cũng cần phải đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu lực của các cơ quan
công quyền. Bộ máy hành chính hoạt động kém hiệu quả, không thích
ứng với các nước phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế cũng có tác
động tiêu cực, cản trở tiến trình hội nhập. Tuy nhiên cũng phải thấy
rằng, trong buổi ban đầu của lộ trình hội nhập, khi phải đối mặt với môi
trường kinh doanh quốc tế đầy biến động và bất trắc, các quốc gia đang
phát triển bao giờ cũng phải gặp những khó khăn, chịu những áp lực rất
lớn như: thiếu hiểu biết về các thông lệ quốc tế, chưa có tính thương
trường non yếu về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế.... Điều đó đòi hỏi các
quốc gia này phải giải quyết những vấn đề mâu thuẫn giữa phát huy
nguồn nội lực, kết hợp các yếu tố ngoại lực trong tiến trình hội nhập,
24
nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả 2 cấp độ (doanh nghiệp và quốc
gia).
1.2. Chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế ở cấp độ vĩ mô.
Chiến lược tổng thể về tiến trình hội nhập của nhà nước cần hoàn
thiện và nâng cao ở cấp độ mới trong sự liên kết với từng ngành, từng
địa phương trong phạm vi cả nước. Lộ trình hội nhập phải có bước đi
cụ thể và thích hợp với từng ngành nghề, loại hình doanh nghiệp trong
đó cần phải chỉ ra được lợi thế so sánh so với sản phẩm cùng loại trên
thị trường quốc tế (về chất lượng mẫu mã, giá cả và người cung cấp).
Đồng thời cần có chính sách ưu tiên đối với những sản phẩm chiến lược
quyết định đến tốc độ tăng trươngr kinh tế như: Dầu khí, điện, xi măng,
vật tư nông nghiệp; chú trọng phát triển các loại sản phẩm có hàm
lượng chất xám chiếm tỷ trọng cao trong giá thành sản phẩm, nhất là
các sản phẩm thuộc công nghệ thông tin và công nghệ sinh học vì đó là
những sản phẩm đặc trưng của kinh tế tri thức, hướng phát triển mới
của thế giới. Các loại hình có độ nhạy cảm cao như: Công nghệ thông
tin, bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng và các hoạt động dịch vụ
khác cần ưu tiên phát triển. Muốn tăng tỷ trọng của các ngành dịch vụ
trong cơ cấu GDP; nhằm hạ giá thành sản phẩm để không ngừng nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế, phải tạo điều
kiện từng bước giảm ác chi phí trung gian, nhất là các chi phí về vận tải
(biển, hàng không, bưu điện) và bưu chính viễn thông. Cần đầu tư mạnh
cho công nghệ thông tin, chính sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ
tạo nên mối quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia khác nhau,
có thể xem đó như chìa khoá của sự thành công trong tiến trình hội
nhập. Chính sự phát triển của công nghệ thông tin cũng sẽ làm gia tăng
các mối liên kết kinh tế giữa các ngành, các khu vực kinh tế và các địa
25
phương trong nước, giúp cho các chủ thể kinh doanh nhanh chóng nắm
bắt được biến động của thị trường, có những biện pháp ứng phó kịp thời
trong hoạt động kinh tế.
1.3. Chiến lược hội nhập 3 cấp độ doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cần phải xác định rõ được điểm mạnh điểm
yếu của mình trong mối tương quan với các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường để xây dựng cho mình tổ hợp các chiến lược kinh doanh trong
hội nhập, đặc biệt là chiến lược mở rộng và chiếm lĩnh thị phần sản
phẩm, kể cả thị trường nội địa, mà trong đó công tác xúc tiến thương
mại và xây dựng thương hiệu sản phẩm phải được quan tâm hàng đầu.
Công tác xúc tiến thương mại cần được nâng lên một cấp độ mới và
phải là một bộ phận quan trọng trong tổ hợp các chiến lược kinh doanh
của doanh nghiệp. Đặc biệt chú trọng đầu tư và xây dựng thương hiệu
(hiện tại, việc xây dựng thương hiệu chưa được các doanh nghiệp đầu
tư thích đáng, thường dưới 0,2% tổng doanh thu nhập chỉ có khoảng
20% doanh nghiệp chưa hề đầu tư tài chính cho xây dựng thương hiệu
mặc dù nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường. Thông điều kiện toàn cầu hoá hiện tương
cung vượt quá cầu thường xuyên xảy ra vì vậy việc xây dựng thương
hiệu là diều rất quan trọng. Nó cũng góp phần tạo dựng uy tín cho
doanh nghiệp và làm vốn để liên doanh. Việc tiêu thụ sản phẩm kinh
doanh là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
trong quá trình hội nhập. Các doanh nghiệp cần tiếp cận các hình thức
kinh doanh mới: thương mại điện tử, ngân hàng điện tử. Chúng là
phương tiện trợ lực quan trọng để có thể mở rộng và gia tăng thị phần
sản phẩm trên thị trường trên thế giới.
26
1.4. Cần có bước đột phá và tạo lợi thế so sánh trong lộ trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh tiến trình hội nhập, các vùng kinh tế trọng điểm nhất:
như Đồng Nai, Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu phải đi
trước một bước, bởi khu vực này có vị trí cực kỳ quan trọng đối với nền
kinh tế đất nước (chiếm 48,7% GDP, 58% tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu, 57% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và hàng năm đóng 46,8%
cho ngân sách cả nước) (15.18).
Hội nhập kinh tế của ta là một bộ phận của nền kinh tế thế giới
do đó nền kinh tế thế giới tác động vào ta theo cả hai chiều tích cực và
tiêu cực. Chúng ta phải biết được điểm mạnh yếu của mình từ đó tạo
nên các lợi thế so sánh trong tiến trình hội nhập. Cần chú ý trong phát
triển các tiềm năng về tài nguyên, lao động thị trường để phục vụ các
ngành kinh tế, để hạn chế mức tối đa các rủi ro trong tiến trình hội
nhập.
Cũng phải tính đến những mặt yếu kém tồn tại của nền kinh tế
như: năng suất lao động còn thấp, cơ bản vẫn là một nước nông
nghiệp….
Vì vậy, phải tập trung cho giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực, đào tạo nhân tài, phát triển khoa học công nghệ đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất kinh doanh trong điều kiện
hiện nay. Đào tạo đội ngũ cán bộ đồng bộ về cơ cấu, có trình độ, tri
thức, trí tuệ cao, có năng lực đồng thời có phẩm chất đạo đức, có ý thức
tự tôn tự cường dân tộc để xây dựng đất nước, vượt qua thử thách khi
hội nhập.
2. Điều kiện và giải pháp chủ yếu để bảo đảm tự chủ về kinh tế
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
27
a. Có đường lối, chính sách độc lập tự chủ về phát triển kinh tế-xã
hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta và bối cảnh quốc tế, bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế; kết hợp chặt
chẽ nội lực và ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp cho phát triển, trong
đó nội lực giữ vai trò quyết định; một đường lối đối ngoại và hoạt động
đối ngoại đúng đắn, bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc,
đồng thời chủ động hội nhập quốc tế và ứng phó được với các tình
huống phức tạp về kinh tế và chính trị đối ngoại khác.
b. Có thực lực, tiềm lực kinh tế đủ mạnh
Toàn bộ nền sản xuất xã hội không chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu
ùng của toàn xã hội mà còn có phần tích luỹ cần thiết để thực hiện tái
sản xuất mở rộng trong toàn nền kinh tế. Trong những năm chiến tranh
trước đây, cho đến hết thập kỷ 80, nền kinh tế nước ta chưa đạt tới mức
phát triển như trên, nên một phần quỹ tiêu dùng xã hội và toàn bộ quỹ
tích luỹ đều phải dựa vào viện trợ từ phe XHCN. Từ thập kỷ 90 đến
nay, nền kinh tế nước ta đã bắt đầu thoát khỏi tình trạng đó và được cải
thiện khá nhanh, đến năm 1999 đã có mức tích luỹ bằng khoảng 25%
GDP, đây là mức trung bình của một nước đang phát triển hoặc kém
phát triển. Điều này có ý nghĩa quyết định đối với khả năng tạo ra và
huy động nguồn vốn trong nước, để tiếp nhận và phát huy hiệu quả
nguồn vốn bên ngoài. Không có một tỷ lệ nhất định vốn trong nước mà
chỉ dựa vào nguồn vốn nước ngoài, nhất là vốn vay, thì khó có hể có tự
chủ kinh tế và cũng không thể phát triển bền vững được.
Nền kinh tế có sức cạnh tranh cao (bao gồm sức cạnh tranh của
hàng hoá, dịch vụ cũng như sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và sức
cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh tế ) dựa trên việc phát huy lợi
thế so sánh về các mặt của đất nước: con người, nguồn nhân lực, tài
28
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, với việc vận dụng tốt những yếu tố tiến
bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, giáo dục-đào tạo, văn hoá, tổ chức
và quản lý, cơ chế và chính sách. Thực tế cho thấy, trong cuộc khủng
hoảng kinh tế – tài chính khu vực vừa qua, nền kinh tế nào có sức cạnh
tranh cao trên thị trường cả trong nước và quốc tế thì nền kinh tế đó có
sức chịu đựng cao hơn và hạn chế được tác động của khủng hoảng
nhiều nhất. Thực tế cũng cho thấy, không nhất thiết phải là một nền
kinh tế lớn mới đạt được trình độ cạnh tranh cao, mà một nền kinh tế
nhỏ nếu biết khai thác, vận dụng, phát huy đến mức cao nhất các yếu tố
nêu trên, đặc biệt là yếu tố con người-nguồn nhân lực có chất lượng
cao, sự tiến bộ khoa học-công nghệ và năng lực quản lý thì vẫn có thể
đạt được sức cạnh tranh tốt. Để tạo ra được sức cạnh tranh kinh tế của
quốc gia thì cần hội đủ nhiều yếu tố trong đó đặc biệt quan trọng là xây
dựng và luôn hoàn chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý gắn với cơ cấu công
nghệ tiến bộ, gây dựng năng lực nội sinh cần thiết về khoa học và công
nghệ của đất nước.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong điều kiện cụ thể của nước ta và trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là một cơ cấu có khả năng tạo ra hiệu
quả cao, đáp ứng được yêu cầu gia tăng sức cạnh tranh; thực hiện tái
sản xuất mở rộng, tạo được sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ được ổn định kinh tế xã hội. Cơ
cấu kinh tế này bao gồm cơ cấu các ngành và lĩnh vực kinh tế chủ yếu;
cơ cấu các vùng lãnh thổ; cơ cấu thành phần kinh tế; cơ cấu giữa kinh tế
trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… trong đó cơ cấu các
ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu có vai trò quan trọng hàng đầu. Trong
khi hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý phải xem xét hiệu quả tổng hợp cả
về kinh tế -xã hội, môi trường, an ninh quốc phòng, trong đó phải ưu
29
tiên cho hiệu quả kinh tế vì không lấy hiệu quả kinh tế làm gốc thì xét
về cơ bản và lâu dài thì cũng không thể bảo đảm các mặt hiệu quả khác.
Bài học kinh nghiệm của các nước Châu Á bị khủng hoảng kinh tế gần
đây cho thấy, để thoát khỏi khủng hoảng thì việc trước tiên là phải cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng có hiệu quả cao hơn, có sức cạnh tranh
lớn hơn. Trong thời đại ngày nay, lợi thế và sức cạnh tranh kinh tế và
xét cho cùng, sự phát triển của một quốc gia, một dân tộc, phần lớn tuỳ
thuộc vào khả năng nắm bắt, vận dụng và phát triển được khoa học và
công nghệ, đặc biệt là những công nghệ hiện đại, mũi nhọn. Rất ít nước
có khả năng phát triển toàn diện khoa học và công nghệ, sáng tạo ra
những công nghệ nguồn hiện đại nhất. Song việc vận dụng những thành
quả của sự phát triển khoa học công nghệ thì không loại trừ một nước
nào, nếu có được những điều kiện cần thiết, trước hết là có chính sách
đúng đắn và có đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ và lao động kỹ
thuật mạnh. Trong sự vận dụng đó, cần cả sự sáng tạo để làm chủ, thích
nghi công nghệ mới trong các điều kiện cụ thể. Mặt khác, để tiến nhanh
và để bảo đảm sự giao lưu và hợp tác bình đẳng với các đối tác kinh tế
và công nghệ, điều mấu chốt là phải có khả năng tự tạo ra công nghệ
mới của riêng mình dù chỉ là trên một số lĩnh vực.
Phải có một số yếu tố vật chất cần thiết bảo đảm an toàn và điều
kiện cơ bản cho sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững cũng như tự
chủ về kinh tế trong bất cứ tình huống phức tạp nào.
+ Vấn đề lương thực: nước ta dân số đông (thứ 2 khu vực Đông
Nam Á, thứ 13 trên thế giới), gần 80% dân cư sống ở nông thôn và chủ
yếu là dựa vào sản xuất nông nghiệp. Do đó, để đảm bảo an ninh cả
nước và trên từng vùng lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và lâu dài để
giữ vững ổn định kinh tế –xã hội và tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp
30
hoá, hiện đại hoá. An ninh lương thực không có nghĩa là tự cấp tự túc
trong từng địa bàn hẹp, là sản xuất lương thực với bất cứ giá nào mà
không tính đến hiệu quả so sánh, mà là phải làm tốt việc điều chuyển
lương lực giữa các vùng và có dự trữ quốc gia đầy đủ về lương thực.
Cần có quy hoạch về sử dụng đất cho sản xuất lương thực và có chính
sách về giá lương thực khuyến khích và bảo đảm lợi ích của người sản
xuất. Không thể đặt vấn dề chỉ cần có đủ ngoại tệ để mua và nhập khẩu
lương thực. Làm như vậy là tự tước bỏ đi một thế mạnh kinh tế quan
trọng, một khả năng hiện thực sẵn có về tự chủ kinh tế.
+ Vấn đề năng lượng: dù sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự
văn minh của cuộc sống con người thay đổi rất nhanh, năng lượng vẫn
giữ một vị trí đặc biệt và không thể thiếu được. Nước ta có nguồn tiềm
năng tương đối khá về năng lượng cả dầu khí, thuỷ điện, than… có điều
kiện để phát triển mạnh và bảo đảm cung ứng đủ cho nền kinh tế và đời
sống nhân dân, và còn tạo được nguồn xuất khẩu quan trọng. Trong
việc bảo đảm an toàn năng lượng, vấn đề hàng đầu là phát triển điện
năng đi trước với một cơ cấu hợp lý và từng bước thực hiện điện khí
hoá nông thôn, miền núi, mặt khác, cũng phải phấn đấu đạt hiệu quả
ngày càng cao về sản xuất và sử dụng điện.
+ Bảo đảm mức cần thiết về kết cấu hạ tầng: Kết cấu hạ tầng là
nền tảng vật chất của nền kinh tế và xã hội. Yêu cầu về lĩnh vực này
thật sự to lớn, kể cả ở mức tối thiểu, để tạo tiền đề cho sự phát triển, để
vượt qua tình trạng nước nghèo kém phát triển để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Do đó, ta phải khẩn trương xây dựng có hiệu
quả, vượt qua những khó khăn yếu kém trước mắt về lĩnh vực này.
+ Phát triển một số ngành và cơ sở công nghiệp có tính chất nền
tảng: Sức mạnh kinh tế nước ta chủ yếu và về lâu dài phải dựa vào sức
31
mạnh của nền công nghiệp. Phát triển công nghiệp là một nhiệm vụ
trọng tâm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vấn đề là phát triển ngành
và cơ sở công nghiệp gì và phát triển bằng cách nào để tạo ra sức mạnh
công nghiệp, sức mạnh kinh tế để bảo đảm có sức tự chủ kinh tế. Sức
mạnh kinh tế, khả năng tự chủ về kinh tế, trước hết và chủ yếu là tuỳ
thuộc ở sức cạnh tranh trên thị trường trong nước một thị trường của ta
đã mở và ngaỳ càng mở hơn với bên ngoài. Sự bảo hộ sản xuất trong
nước, nếu có, cũng chỉ có thời hạn, có điều kiện để tiến tới không còn
bảo hộ. Do đó, phát triển công nghiệp phải được ưu tiên cho các ngành
lĩnh vực và sản phẩm tạo ra được cạnh tranh, dựa trên thế mạnh, lợi thế
so sánh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam. Về vị trí
của công nghiệp nặng thì Văn kiện đại hội IX đã nêu rõ chủ trương
“Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng sản
xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị cho các ngành kinh tế quốc
phòng. Trong cơ cấu kinh tế của nước ta, về lâu dài thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, những ngành công nghiệp nặng phải có vị trí
quan trọng, chẳng những nó cần thiết mà còn óc điều kiện về nguồn tài
nguyên về tiềm năng nguồn nhân lực (như đối với phát triển cơ khí).
Trong bước đi trước mắt (khoảng 5 – 10 năm tới), ta cần cân nhắc, lựa
chọn để phát triển một số ngành, sản phẩm cụ thể với công nghệ, nguồn
vốn và thời điểm một số ngành, sản phẩm cụ thể với công nghệ, nguồn
vốn và thời điểm thích hợp để đáp ứng được yêu cầu ở mức cần thiết về
hiệu quả, sức cạnh tranh, với sự bảo hộ trong một thời gian. Sự tính
toán, lựa chọn này phải dựa trên luận chứng cụ thể cho từng ngành, sản
phẩm, từng dự án công nghiệp, đồng thời tính đến hiệu quả tổng hợp
của nền kinh tế.
32
+ Về môi trường: Ngày nay sự phát triển bền vững, trong đó có
bền vững về môi trường trở thành một yêu cầu hàng đầu của mọi quốc
gia trước những thách thức to lớn về sự suy thoái, phá huỷ môi trường
trên phạm vi toàn cầu. Một khi thảm hoạ về môi trường xảy ra thì trước
hết ảnh hưởng lớn đến sức mạnh kinh tế và cuộc sống của nhân dân,
đồng thời nếu có sự hỗ trợ quốc tế thì cũng không loại trừ đi kèm theo
những điều kiện nhất định đối với ta.
c. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Trong lĩnh vực này, vấn đè quan trọng là tạo ra môi trường thuận
lợi về luật pháp và kinh tế để cho mọi tổ chức kinh doanh thuộc các
thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác
cạnh tranh bình đẳng và đều là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, là một công cụ vĩ mô để nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế. Có chính sách khuyến khích hình
thành những doanh nghiệp mạnh với những sản phẩm có giá trị nội địa
và sức cạnh tranh cao. Doanh nghiệp Nhà nước phải được sắp xếp lại,
hình thành những tập đoàn, những tổng Công ty lớn kinh doanh đa
ngành và thông qua cạnh tranh lành mạnh vươn lên giữ vững những vị
trí then chốt, đi đầu trong ứng dụng khoa học-công nghệ, nâng cao năng
lực quản lý, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội
và chấp hành pháp luật.
Trong quá trình hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, cần tạo lập đồng bộ các loại thị trường. Ngoài việc tiếp
tục hoàn thiện những loại thị trường về hàng hoá và dịch vụ hiện có,
cần phát triển nhanh thị trường vốn và tiền tệ, thị trường bất động sản
33
bao gồm quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, thị trường sức
lao động, thị trường các loại dịch vụ khoa học, công nghệ, sản phẩm trí
tuệ, bảo hiểm, tư vấn. Việc hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường là
yêu cầu khách quan, bức thiết, nhưng phải có bước đi thích hợp nhằm
phát huy mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực, tạo ra sự năng động
hiệu quả cao, bền vững, cạnh tranh lành mạnh. Phạm vi và cơ chế hoạt
động của mỗi loại thị trường cần có sự quản lý của nhà nước.
Trong thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
chức năng cơ bản của Nhà nước là định hướng phát triển nền kinh tế
thông qua việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính
sách; xây dựng môi trường pháp lý về kinh tế để phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, tạo mọi thuận lợi cho các chủ thể kinh tế cạnh tranh
lành mạnh; xây dựng quan hệ sản xuất và phân phối lợi ích một cách
hợp lý, thông qua việc sử dụng các công cụ ngân sách, thuế khoá, tín
dụng… thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo
đúng pháp luật và chính sách.
Trong quá trình kinh tế, Nhà nước sử dụng hai loại công cụ là
chính sách luật pháp và thực lực kinh tế nhà nước để thực hiện chức
năng định hươngs phát triển và điều tiết kinh tế, điều tiết thị trường.
Đây là mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, trong đó thị trường
hoạt động theo quy luật khách quan, như giá cả, cung cầu, cạnh tranh…
Nhà nước phải tạo điều kiện cho thị trường hoạt động lành mạnh và
điều tiết ở những khâu, thời điểm cần thiết để bảo đảm định hướng phát
triển. Trong quá trình này, cần đặc biệt coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô,
không để xảy ra những tai biến bất thường hoặc khủng hoảng; và phải
xem đây là một điều kiện, một yếu tố rất quan trọng để bảo đảm phát
triển bền vững và độc lập tự chủ kinh tế.
34
Cùng với việc duy trì các cân đối vĩ mô của nền kinh tế, một lĩnh
vực rất quan trọng là phải xây dựng và vận dụng hệ thống tài chính-tiền
tệ của nền kinh tế lành mạnh, bảo đảm an ninh về tài chính tiền tệ trong
cạnh tranh và hội nhập. Hệ thống tiền tệ phải được xây dựng, vận dụng
theo những nguyên tắc của kinh tế thị trường, công khai, minh bạch,
theo đúng pháp luật và phải thật sự trở thành mạch máu của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hội nhập với khu
vực và quốc tế theo một lộ trình chủ động. Cần đặc biệt quan tâm xây
dựng và quản lý chặt chẽ chiến lược vay và trả nợ, bảo đảm phát huy
hiệu quả các nguồn vốn vay, trả được nợ, giữ vững cán cân thanh toán
lành mạnh. Và cần có một lượng dự trữ ngoại tệ đủ mức cần thiết để
bảo đảm an toàn cho các dịch vụ trả nợ đến hạn, dự phòng ứng phó với
những thâm hụt về cán cân thanh toán quốc tế và những biến động bất
thường của thị trường tài chính, tiền tệ cả trong lẫn ngoài nước.
35
C. KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên của bài tiểu luận ta rút ra được những
kết luận và bài học vô cùng qúy báu trong việc xây dựng mối quan hệ
độc lập tự chủ khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đó là chủ trương rất đúng đắn
của Đảng, nhà nước ta. Nước ta không thể tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, không thể thoát khỏi đói nghèo lạc hậu nếu đứng ngoài
biệt lập với thế giới. Đi lên chủ nghĩa xã hội càng không thể đóng cửa
mà đi lên. Nếu không có lực lượng sản xuất hiện đại, lấy đâu ra nếu
không phải từ ngoài thông qua hội nhập kinh tế trao đổi, buôn bán, thu
hút vốn đầu tư từ nước ngoài thông qua đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, biết lợi dụng khôn khéo những mâu
thuẫn giữa các nước, song hội nhập kinh tế quyết không thể hoà tan tự
đánh mất mình, chưa nói các nước xã hội chủ nghĩa, ngay cả các quốc
gia tư bản chủ nghĩa với nhau đã vậy. Toàn cầu hoá kinh tế trong điều
kiện hiện nay chẳng những không thể xoá đi, trái lại càng giữ vững phát
huy chủ quyền quốc gia, nền độc lập của dân tộc. Hội nhập kinh tế
đúng đắn và hiệu quả phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa nội lực đất
nước là chính, nội lực đất nước được hiểu là toàn diện, là sức mạnh vật
chất, trí tuệ tinh thần, sức mạnh kinh tế, chính trị văn hoá, con người,
sức mạnh hôm nay, sức mạnh tiềm năng và cả sức mạnh truyền thống
lịch sử. Đường lối của Đảng ta là vậy. Mọi tính toán kinh tế trong hội
nhập thế giới nếu xa rời nguyên tắc nội lực là quyết định rốt cuộc không
tránh khỏi gây tổn hại đến chủ quyền. Phát huy tối đa nội lực dân tộc,
kết hợp tranh thủ nền kinh tế nước ta, con đường đưa đến một nền kinh
tế độc lập tự chủ, phát triển bền vững có hiệu quả con đường hoà nhập
mà không hoà tan.
36
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên)
Sách: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Lý luận và
thực tiễn. NXB Chính trị quốc gia.
[2] Nguyễn Xuân Dũng - Một số định hướng đẩy mạnh CNH-HĐH ở
Việt Nam giai đoạn 2001-2010. NXB Khoa học xã hội
[3] Nguyễn Tấn Dũng - Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ định
hướng xã hội chủ nghĩa.
[4] Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hà
Sách: Toàn cầu hoá kinh tế .
NXB: Khoa học xã hội
[5] Vũ Văn Hoà-Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tạp chí giáo dục lý luận số 3/2003.
[6] Danh Nguyên- Năm 2003 tiếp tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế.
Tạp chí Giáo dục lý luận số 2/2003.
[7] Phan Trọng Phức - Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trong điều
kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế.
Tạp chí Cộng sản số 26 (9/2003).
[8] Nguyễn Thuỷ - Vì sao xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Tạp chí Cộng sản số 22 (11-2001).
[9] Nguyễn Văn Thạo - Hội nhập kinh tế của Việt Nam vào kinh tế thế
giới.
Tạp chí Thông tin lý luận số 1-2002.
[10] Nguyễn Vĩnh Thanh-Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phương
thức và giải pháp.
37
Tạp chí Giáo dục lý luận 12/2002
[11] Nguyễn Thị Thơ - Phát huy nội lực trong hội nhập kinh tế. Tạp chí
Nghiên cứu lý luận số 2/2002.
[12] Phạm Quốc Trụ - Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối
cảnh toàn cầu hoá. Tạp chí Cộng sản - số 28 (10/2003)
[13] Tìm hiểu khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ – Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Cộng tác khoa giáo (8/2003).
[14] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII.
NXB: Chính trị quốc gia.
[15] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX.
NXB: Chính trị quốc gia.
[16] Nguyễn Hoàng Xanh - Các giải pháp tăng cường khả năng hội
nhập kinh tế quốc tế. Tạp chí Cộng sản số 27 (9/2003).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- _tai_5907.pdf