Lời nói đầu
Ngày 11 tháng 07 năm 2006 chiếc búa đã được gõ xuống quyết định cho Việt Nam ra nhập thị trường chung thế giới (WTO). Tiếng búa này báo hiệu cho nền kinh tế Việt nam sẽ có những thuận lợi lớn : Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên, môi trường kinh doanh của nước ta sẽ ngày càng được cải thiện, có vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách đồng bộ và hiệu quả hơn, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế . Đồng thời tiếng búa đó cũng báo hiệu cho nền kinh tế Việt nam sẽ phải đứng trước những thử thách lớn như : Cạnh tranh gay gắt với nhiều đối thủ trên bình diện rộng hơn, sâu hơn; sự phân phối lợi ích của toàn cầu hóa không đều và có thiệt đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt nam; tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia sẽ tăng và đặt ra những vấn đề mới trong bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc.
Việt nam ra nhập WTO có thể được ví như một “anh hàng rong” nay có một gian hàng đẹp ở trong “siêu thị”( WTO). “Siêu thị” này cạnh tranh rất khốc liệt. Nhưng vấn đề được đặt ra là “anh hàng rong” có trình độ khoa học công nghệ còn thấp kém, trình độ nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế dẫn đến sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có chất lượng thấp, chi phí sản xuất cao, giá cả cao làm cho sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có năng lực cạnh tranh yếu. Trong khi đó các “gian hàng” khác trình độ khoa học công nghệ hiện đại, có trình độ nguồn nhân lực cao làm cho sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của họ có chất lượng cao, chi phí sản xuất thấp làm cho sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của họ có năng lực cạnh tranh cao có nhiều lợi thế trong canh tranh.
Vậy “anh hàng rong” này phải làm gì để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa, dịch vụ của mình để có thể cạnh tranh được với các “gian hàng” khác trước tiên là ngay trên “sân nhà ” đồng thời thâm nhậm vào thị trường của họ. Một trong những biện pháp quan trọng không thể không nói đến đó là đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất vì khoa học công nghệ là lực lượng sản xuất hàng đầu từ đó có thể nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, giảm chi phí sản xuất, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu từ đó có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh.
Nước ta đang là một nước nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, phần lớn lao động làm việc trong nông nghiệp. Người nông dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ vì nông sản chưa qua chế biến giá cả và chất lượng luôn luôn biến động làm cho nông dân thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo nhu cầu thị trường dẫn đến thu nhập của người dân không ổn định. Nông sản đã qua chế biến giá cả, chất lượng và thị trường tiêu thụ ổn định hơn. Vì vậy chúng ta nên quan tâm đến công nghiệp chế biến nông sản ở từng địa phương có tiềm năng và nguồn nguyên liệu sẵn có.
Chính vì những lẽ trên cho nên em chọn vấn đề : “Biện pháp đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản” làm đề án môn học kinh tế và quản lý công nghiệp của em. Em xin kính mong quý thầy cô giúp đỡ em để em có thể hòan thành tốt đề án của mình. Em xin chân thành cám ơn.
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
LỜI NÓI ĐẦU
I. ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ.
1 Khoa học và công nghệ và vai trò của khoa học và công nghệ
1.1 Khoa học công nghệ là gì?
1.1.1 Khoa học là gì?
1.1.2 Công nghệ là gì?
1.1.3 Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ.
1.2 Vai trò của khoa học và công nghệ trong các Nghị quyết của các Đại hội Đảng.
1.2.1 Hồ Chí Minh với khoa học và công nghệ.
1.2.2 Các Nghị quyết của các Đại Hội Đảng nói về vai trò của khoa học và công nghệ.
2. Ứng dụng khoa học và công nghệ và sự cần thiết phải ứng dụng khoa học và công nghệ.
2.1 Ứng dụng khoa học công nghệ là gì?
2.2 Sự cần thiết phải ứng dụng khoa học và công nghệ.
II THỰC TRẠNG CỦA ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀO TRONG CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN.
1. Những mặt hạn chế trong ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản
1.1 Cơ chế quản lý của nhà nước trong hoạt động khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay gặp nhiều bất cập.
1.1.1 Việc xác định và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự xuất phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
1.1.2 Vai trò quản lý nhà nước đối với các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp.
1.1.3 Cơ chế chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi và sự tự chủ cao cho cá nhân tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ.
1.1.4 Vai trò quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lực sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ.
1.1.5 Vai trò quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
1.1.6 Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển.
1.1.7 Nguyên nhân chủ yếu của các yếu kém trên.
1.2 Những khó khăn yếu kém đối với các tổ chức, đơn vị nghiên cứu khoa học và công nghệ.
1.2.1 Khó khăn yếu kém của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ.
1.2.2 Khó khăn yếu kém của cán bộ quản lý khoa học và công nghệ.
1.2.3 Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu.
1.2.4 Khó khăn trong việc thu hút và sử dụng vốn.
1.3 Những khó khăn và yếu kém của các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản trong việc ứng dụng khoa học và kỹ thuật.
1.3.1 Các doanh nghiệp, cơ sở chế biến chưa thấy rõ vai trò của việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất.
1.3.2 Quy mô và vốn của các doanh nghiệp này còn rất”khiêm tốn”
1.3.3 Trình độ của công nhân về khoa học và công nghệ còn kém.
1.3.4 Khó khăn trong việc chuyển giao khoa học và công nghệ.
2. Những mặt đạt được trong việc thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ vào chế biến nông, lâm, thủy sản.
2.1 Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực vào trong phát triển kinh tế xã hội.
2.2 Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước đổi mới.
2.3 Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao.
2.4 Ngày càng có nhiều công trình khoa học và công nghệ ứng dụng vào nghành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
III BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀO TRONG CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN.
1 Tạo lập và phát triển thị trường khoa học và công nghệ
2. Chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ.
3. Phát động phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật
4. Tăng đẩu tư cho phát triển khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn.
5. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cơ sở chế biến hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.
6. Tăng cường kiểm soát, giám định công nghệ và chất lượng sản phẩm đối với doanh nghiệp và cơ sở chế biến.
7. Đổi mới hệ thống quản lý hoạt động khoa học và công nghệ.
8. Đẩy mạnh các hoạt động thông ti, tuyên truyền, phổ cập kiến thức khoa học và công nghệ.
IV KẾT LUẬN.
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2727 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiểu biết của con người vào việc biến đổi cải tạo thế giới nhằm đáp ứng nhu cầu sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Công nghệ trong sản xuất là tập hợp các phương tiện vật chất các phương pháp, các quy tắc, các kỹ năng được con người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm nào đó cần thiết cho xã hội.
Ba nghĩa chủ yếu được sử dụng phổ biến:
Công nghệ được coi là một môn khoa học ứng dụng triển khai (trong tương quan với khoa học cơ bản ) trong việc vận dụng các quy luật tự nhiên và nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.
Công nghệ được hiểu với tư cách như là các phương tiện vật chất kỹ thuật, hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa học đã được vật thể hóa thành các công cụ, các phương tiện kỹ thuật cần cho sản xuất và đời sống.
Công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp các thủ thuật, các kỹ năng có được nhờ dựa trên cơ sở tri thức khoa học và được sử dụng vào sản xuất trong các nghành khác nhau để tạo ra các sản phẩm.
1.1.3 Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ:
Kiến thức là tổng hợp những gì thuộc về bản chất của thông tin và của những nguyên lý đã được con người khám phá ra. Khoa học là sự tìm tòi các kiến thức còn công nghệ là sự áp dụng kiến thức vào việc giải quyết những vấn đề của thực tế.
Mối quan hệ giữa khoa học (trả lời câu hỏi tại sao) với công nghệ (trả lời câu hỏi như thế nào) mới được đề cập đến trong thời gian gần đây. Trong lịch sử phát triển của con người, lúc đầu khoa học và công nghệ không gắn bó chặt chẽ, nhiều công nghệ được sản sinh thông qua kinh nghiệm và thử đúng sai, chứ không dựa vào phát minh khoa học. Giai đoạn tiếp theo nhờ những thành tựu đạt được các nhà khoa học được cung cấp các phương tiện các công cụ để thực hiện những công trình nghiên cứu của mình, những phát minh khoa học mở rộng trong cuộc cách mạng công nghiệp đã được ứng dụng rộng rãi trong công nghệ. Nhờ áp dụng phát minh khoa học thời gian nghiên cứu triển khai đã rút ngắn.
1.2 Vai trò của khoa học & công nghệ trong các nghị quyết của các Đại hội Đảng:
1.2.1 Hồ Chí Minh với khoa học & công nghệ:
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh luôc qua tâm đến lĩnh vực khoa học & công nghệ. Người cho rằng, khoa học và kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Người không ngừng chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ khoa học và kỹ thuật để phục vụ cho nước nhà. Có thể khẳng định, hiểu và đánh giá đúng về vai trò, sức mạnh của khoa học và công nghệ và biết cách phát huy tối đa sức mạnh đó cho sự nghiệp cách mạng chính là cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ. Khoa học phải từ sản xuất mà ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật Việt nam. Bác Hồ cho rằng: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhăm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho CNXH thắng lợi”. (Hồ Chí Minh toàn tập T11 trang 78). Theo người muốn công tác phổ biến khoa học kỹ thuật thành phong trào mạnh mẽ, phải dựa vào lực lượng to lớn của các tổ chức quần chúng như thanh niên, phụ nữ, công đoàn… đồng thời phải phối hợp chặt chẽ với các nghành chuyên môn và các tổ chức khoa học khác. Người đề cao nhiệm vụ dạy bảo các cháu thiếu niên về khoa học kỹ thuật làm cho các cháu ngay từ nhỏ đã biết yêu khoa học, để mai sau các cháu trở thành những người có thói quen sinh hoạt và làm việc một cách khoa học.
1.2.2 Các nghị quyết của Đại hội Đảng nói về vai trò của khoa học & công nghệ:
Ngay từ khi bắt đầu quá trình Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm hoàn thiện và đổi mới quan điểm, các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị khóa 6 đã nêu rõ: “Đại hội lần thứ 6 của Đảng đề ra đường lối đổi mới, coi khoa học và công nghệ là môtj động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, coi những người làm khoa học và công nghệ là đội ngũ cán bộ tin cậy, quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta”.
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa 7 trong phần về chủ trương phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2000 đã nêu rõ quan điểm: “Khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh và hiện đại ở những khâu quyết định”.
Trong báo cáo Chính trị tại Đại hội 8 Đảng lại nhấn mạnh:”Khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt nam quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công nghệ”.
Từ những quan điểm của các Đại hội Đảng ta thấy được vai trò to lớn của Khoa học và công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta để nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp và năm 2020.
2. Ứng dụng khoa học công nghệ và sự cần thiết phải ứng dụng khoa học công nghệ:
2.1 Ứng dụng khoa học công nghệ:
Ứng dụng khoa học công nghệ là việc đưa những kiến thức đưa những gì thuộc về bản chất của thông tin và của những nguyên lý đã được con người khám phá ra đưa các phương tiện vật chất các phương pháp các quy tắc, các kỹ năng được con người sử dụng để tác động và đối tượng lao động vào trong sản xuât kinh doanh để tạo ra năng suất sản xuất cao và tăng hiệu quả kinh tế, giảm hoạt động của con người.
2.2 Sự cần thiết phải ứng dụng khoa học kỹ thuật:
Trong bối cảnh của đất nước ta hiện nay, đây là vấn đề hết sức quan trọng nước ta là một nước đang phát triển nhiều mặt còn lạc hậu làm sao để rút ngắn khoảng cách giữa các nước khác một trong những biện pháp là ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất vì khoa học và công nghệ có vai trò lớn trong việc thúc đẩy sự phân công lại lao động xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khoa học và công nghệ cho phép mở rộng khả năng khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của đất nước, góp phần thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dich cơ cấu kinh tế.
Khoa học công nghệ là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định vai trò quan trọng của khoa học công nghệ, có thể nói khoa học và công nghệ ở mức độ nào đó đóng vai trò vừa như là một giải pháp có tính động lực thúc đẩy, vừa như một yếu tố tác động trực tiếp vào quá trình phát triển góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế vì vậy việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất là rất cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới hiện nay đặc biệt là đối với Việt nam năng suất lao động còn thấp, chất lượng kém, năng lực cạnh tranh yếu thì vấn đề ứng dụng khoa học công nghệ trở thành một yêu cầu tất yếu để có thể thành công trong nền kinh tế toàn cầu hóa.
II. THỰC TRẠNG CỦA ỨNG DỤNG KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ VÀO CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN.
1. Những mặt hạn chế trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
Hiện nay nhiều địa phương có điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp chế biến, nhưng giá trị sản xuất công nghiệp chế biến so với tiềm năng sẵn có của từng địa phương còn thấp các cơ sở chế biến từ các sản phẩm nông, lâm, thủy sản có quy mô còn rất “khiêm tốn” hầu hết là các cơ sở chế biến nhỏ, chế biến bằng thủ công, vốn, sản lượng hàng hóa ít, chất lượng sản phẩm thấp chưa tương xứng với thế mạnh tiềm năng của từng vùng. Việc phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản phụ thuộc khá nhiều vào khả năng cung cấp nguyên liệu cả về số lượng và chất lượng. Bên cạnh đó phần lớn các nhà máy chậm đổi mới dây chuyền công nghệ nên chỉ dừng ở mức sơ chế, thiếu sản phẩm tinh chế, sản lượng sản phẩm thấp, mặt hàng đơn điệu, tính cạnh tranh kém. Để giải quyết vấn đề trên thì phải đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm. thủy sản để tạo ra giống cây trồng vật nuôi mới có năng suất cao, chất lượng tốt để đảm bảo tính ổn định của nguyên liệu đồng thời làm cho người nông dân có thu nhập ổn định hơn, không phải thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo nhu cầu của thị trường. Ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong công nghiệp chế biến tạo ra máy móc thiết bị hiện đại phù hợp với quy mô từng vùng nguyên liệu làm cho chất lượng sản phẩm nâng cao, sức cạnh tranh cao. Có thể thấy việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào công nghiệp nông lâm, thủy sản tạo ra thuận lợi và hiệu quả rất lớn nhưng trong công tác đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào công nghiệp chế biến nông lâm, thủy sản còn gặp những hạn chế, khó khăn sau:
Cơ chế quản lý của nhà nước trong hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở nước ta hiện nay.
Mặc dù hoạt động khoa học và công nghệ ở nước ta đã có những tiến bộ nhất định. Song nhìn chung cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiện na còn chưa được đổi mới cơ bản còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế điều đó được thể hiện ở chỗ:
Việc xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự xuất phát từ các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
Chưa định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các nghành , các cấp trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu khắc phục tình trạng trùng lặp nhiệm vụ khoa học và công nghệ giữa các nghành các địa phương. Tiêu chuẩn lựa chọn và việc lựa chọn chuyên gia tham gia các hội đồng tư vấn để xác định, tuyển chọn và tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đánh giá tiêu chuẩn chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
Vai trò quảnlý của Nhà nước đối với các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp.
Vai trò quản lý của Nhà nước đối với các tổ chức khoa hoa học và công nghệ chưa phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo và kinh tế tị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiếu quy hoạch các tổ chức khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Các tổ chức khoa học của Nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế phát huy tính năng động, sáng tạo và gắn kết giữa nghiên cứu đào tạo và sản xuất, kinh doanh, chưa xâ dựng được các tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng và hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ.
Cơ chế chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi và sự tự chủ cao cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ.
Đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho khoa học và công nghệ còn dàn trải, thiếu tập trung cho các lĩnh vực, công trình trọng điểm. Thiếu biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho khoa học và công nghệ. Thiếu các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm để khuyến khích nguyên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất kinh doanh.
Vai trò quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lực sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ:
Chậm chuyển đổi từ cán bộ công chức sang cán bộ viên chức và hợp đồng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế, biện pháp cụ thể xây dựng và nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đầu nghành và các tập thể khoa học và công nghệ mạnh. Chế độ tiền lương còn bất hợp lý chưa khuyến khích cán bộ toàn tâm với sự nghiệp khoa học và công nghệ. Chưa có chính sách cụ thể khuyến khích mạnh lực lượng khoa học và công nghệ ngoài nước tham gia đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Vai trò quản lý Nhà nước về Khoa học công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
Thiếu cơ chế cụ thể để điều phối hoạt động quản lý Nhà nước về khoa học và công nghệ. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý Nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ còn thiếu, chưa cụ thể, thiếu đồng bộ, lạc hậu so với thực tiễn, nhiều quy định không khả thi. Thiếu phân công, phân cấp rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm giữa các Bộ, nghành và giữa trung ương và địa phương.
Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển.
Hoạt động mua bán công nghệ và lưu thông các kết quả nghiên cứu còn rất hạn chế do thiếu nhiều các tác nhân quan trọng, các yếu tố cấu thành thị trường và các quy định pháp lý cần thiết. Phần lớn các kết quả nghiên cứu còn dừng ở phạm vi phòng thí nghiệm, chưa tạo ra được nhiều công nghệ hoàn chỉnh có thể thương mại hóa. Chưa chú trọng việc mua sáng chế công nghệ của các nước tiên tiến để đổi mới công nghệ.
Quy định về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ chưa khuyến khích các tổ chức thực hiện nghiên cứu quan tâm khai thác, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được tạo ra bằng kinh phí từ ngân sách Nhà nước. Hiệu lực về thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ thấp. Năng lực của các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ còn yếu kém chưa thật sự đáp ứng vai trò cầu nối giữa cung và cầu.
1.1.7 Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém trên.
Tựu chung lại cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay còn chưa đồi mới cơ bản, còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là do những nguyên nhân sau đây:
Qua điểm khoa học và công nghệ là nền tảng là động lực phát triển đất nước đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt đầy đủ để chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, cac Bộ, nghành, địa phương trong xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển khoa học và công nghệ chậm được thể chế hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu đổi mới trong thực tiễn; lãnh đạo các cấp thiếu kiên trì, kiên quyết trong chỉ đạo thực hiện đổi mới quản lý khoa học và công nghệ.
Chậm đổi mới tư duy, phương pháp quản lý khoa học và công nghệ trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước về đầu tư phát triển đối với một số các hoạt động khoa học và công nghệ như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu mang tính công ích, nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển.v.v…chưa có chính sách phù hợp đối với hoạt động khoa học và công nghệ vần và có thể vận dụng cơ chế thị trường như hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
Chưa tách biệt vai trò quản lý hành chính Nhà nước với hoạt động sự nghiệp dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra và quy định trách nhiệm rõ ràng trong hoạt động khoa học và công nghệ.
Chưa coi trọng tổng kết thực tiễn và điển hình tiên tiến
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước hiện nay còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước thông qua các ưu đãi, độc quyền trong nhiều lĩnh vực, khiến cho các doanh nghiệp Nhà nước ít quan tâm đến nghiên cứu ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Năng lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn nhiều bất cập, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trong các doanh nghiệp làm cầu nối cho ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Hệ thống tài chính tiền tệ kém phát triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động vốn để đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Những khó khăn, yếu kém đối với các tổ chức đơn vị nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
Không thể không thừa nhận những thành tựu, những đóng góp của các tổ chức, đơn vị, cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhất là trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Nhưng bên cạnh đó nó cũng còn bộc lộ những khó khăn, yếu kém có tác động xấu là kìm hãm ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Những khó khăn, yếu kém đó là:
1.2.1 Khó khăn yếu kém của đội ngũ đội ngũ cán bộ Khoa học và công nghệ.
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tuy tăng về số lượng, nhưng tỷ lệ trên số dân còn thấp so với các nước trong khu vực, chất lượng chưa cao; còn thiếu nhiều cán bộ đầu nghành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Số đông cán bộ có trình độ đều đã lớn tuổi, đang có nguy cơ hẫng hụt cán bộ. Đời sống của cán bộ khoa học công nghệ còn nhiều khó khăn vì tiền lương còn chưa đáp ứng nhu cầu và tạo động lực cho họ cho nên không ít cán bộ khoa học và công nghệ chuyển đi làm việc khác hoặc đổi nghề, gây lên sự lãng phí chất xám nghiêm trọng. Bên cạnh đó chính sách tiền lương chưa thỏa đáng cho nên không thu hút được nnhững người tài vào làm việc cho các đơn vị khoa học và công nghệ họ thường làm việc cho các tổ chức nước ngoài trả lương cao hơn.
Cán bộ khoa học và công nghệ còn chậm đổi mới tư duy, phương pháp nghiên cứu khoa học công nghệ trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Dẫn đến hoạt động khoa học công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới.
Các kết quả nghiên cứu chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các nghành kinh tế xã hội. Năng lực tạo ra công nghệ mới còn hạn chế, các cán bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ thiếu sự liên kết, phối hợp với nhau dẫn đến hiệu quả còn thấp. Cán bộ khoa học và công nghệ tuy còn ít nhưng chưa được sử dụng tốt.
Thiếu chiến lược quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nên còn mất cân đối về đào tạo và sử dụng. Nhiều chính sách cán bộ chưa thỏa đáng và không kịp thời đổi mới. Chế đội tiền lương mang nặng tính bình quân. Lao động trí óc chưa được đãi ngộ chính đáng.
1.2.2 Khó khăn yếu kém của cán bộ quản lý Khoa học và công nghệ.
Có thể kể đến nhiều nguyên nhân làm cho khoa học và công nghệ nước nhà chậm phát triển, mặc dù chúng ta có thể tự hòa là người Việt thông minh, cần cù, sáng tạo. Có một nguyên nhân mà nhiều người có trách nhiệm thường hay nhắc đến là : “Các cơ quan quản lý tỏ ra yếu kém trong việc hoạch định các chính sách công nghệ, và chỉ thực hiện các mục tiêu khoa học và công nghệ. Hình thức tổ chức bộ máy quản lý khoa học và công nghệ rời rạc, chức năng trùng lặp, trách nhiệm từng nghành từng cấp không rõ ràng. Chỉ đạo không đến nơi đến chốn…”. Nhưng với tư duy cơ chế đang tồn tại thì nếu có sinh thêm 100 lần các cơ quan quản lý như hiện nay thì khoa học và công nghệ nước nhà cũng chẳng thay đổi được là bao. Bởi lẽ, chuyện chạy chức chạy bằng không phải là chuyện hiếm trong cuộc sống hàng ngày. Do đó chúng ta luôn luôn kêu gọi:” làm thế nào để có người có tài và sử dụng người tài”.
Cơ cấu và việc phâm bố cán bộ khoa học và công nghệ chưa cân đối, còn nhiều bất hợp lý giữa đồng bằng và miền núi còn thiếu nhiều cán bộ khoa học và công nghệ.
Quản lý khoa học và công nghệ trong cơ chế thị trường còn lúng túng bất cập. Việc tổ chức phân bổ lực lượng còn phân tán. Việc quản lý các công trình nghiên cứu còn mang nặng tính hành chính, còn dàn trải; chưa gắn chương trình nghiên cứu với chức năng và nhiệm vụ của cơ sở nghiên cứu, chưa đề cao tinh thần trách nhiệm và phát huy tính tự chủ của cơ sở; thiếu sự kết hợp giữa chương trình kinh tế xã hội với chương trình khoa học và công nghệ. Nhiều cơ quan khoa học chưa gắn với cơ sở sản xuất, chưa chủ động phối hợp với địa phương để ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ.
1.2.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu.
Một tình trạng đáng báo động là trong các tổ chức, đơn vị nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất nghèo nàn, lạc hậu thông tin khoa học và công nghệ còn quá thiếu và không kịp thời làm cho những cán bộ khoa học và công nghệ không phát huy được năng lực khả năng hiện có của mình. Làm cho phần lớn kết quả nghiên cứu còn dừng ở phạm vi phòng thí nghiệm thời gian nghiên cứu triển khai quá dài có thể khoa học và công nghệ mới ra đời đã lạc hậu với khoa học và công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa thể tạo ra nhiều công nghệ hoàn chỉnh có thể thương mại hóa. Chưa chú trọng việc mua sáng chế công nghệ của các nước tiên tiến đổi mới công nghệ. Vốn, ngân sách Nhà nước đầu tư cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ còn ít và kém hiệu quả cho nên không thể hợp tác với các quốc gia có nền khoa học và công nghệ tiên tiến hiện đại để chuyển giao công nghệ, máy móc thiết bị cho các tổ chức đơn vị nghiên cứu để tạo điều kiện cho cán bộ nghiên cứu phát huy được khả năng của mình. Một nhà nguyên cứu khoa học giỏi cũng trở lên bất lực với những công trình nghiên cứu bình thường nếu không có công cụ và dụng cụ phù hợp và hiện đại.
1.2.4 Khó khăn trong việc thu hút và sử dụng vốn.
Chính sách của Nhà nước không cho các doanh nghiệp thấy được vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc phát triển khoa học và công nghệ của nước nhà, chưa nhận thức được đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho sự phát triển cho nên để họ tự bỏ vốn ra để đầu tư nghiên cứu rất khó khăn đặc biệt khó khăn hơn là các doanh nghiệp bỏ vốn ra đẩu tư cho các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ làm cho các tổ chức đơn vị nghiên cứu khoa học và công nghệ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động vốn từ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.
Ngân sách Nhà nước đầu tư cho các tổ chức khoa học và công nghệ còn qua thấp. Nghị quyết 26 của Bộ chính trị (khóa VI) quy định mức đầu tư tối thiểu 2% tổng ngân sách Nhà nước cho khoa học và công nghệ không được chấp hành nghiêm chỉnh( trong nhiều năm tỷ lệ này dưới 1%). Việc phân bổ và sử dụng ngân sách cho khoa học và công nghệ chưa hợp lý, chưa sử dụng hiệu quả. Nhà nước chưa có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách cho phát triển khoa học và công nghệ.
Nguồn vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ chưa được sử dụng hiệu quả vì các công trình nghiên cứu chưa xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội dẫn đến tình trạng công nghệ thừa công nghệ thiếu dẫn đến hiệu quả không cao.
Những khó khăn và yếu kém của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ.
Vừa qua, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ban hành quyết định phê duyệt đề án phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Thủ tướng chính chính phủ đề nghị các Tỉnh, Thành phố tập trung vào rà soát điều chỉnh quy hoạch chi tiết từng loại cây trồng, vật nuôi trên phạm vi cả nước theo hướng hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với cơ sở chế biến. Các cơ sở chế biến xây dựng kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu của đơn vị phù hợp với quy hoạch đã phê duyệt và ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời cũng có những giải pháp nghiên cứu chế tạo, ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất. Qua đó ta thấy được sự quan tâm của Nhà nước trong việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào trong nghành công nghiệp chế biến nông, lâm, thỷ sản. Nhưng các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản vẫn còn gặp những khó khăn và yếu kém sau đây trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất:
1.3.1 Các doanh nghiệp, cơ sở chế biến chưa thấy rõ vai trò của việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất.
Hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông,lâm, thủy sản đều không muốn áp dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất vì họ chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt của doanh nghiệp mà không quan tâm đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp họ không quan tâm đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và sự phát triển của trình độ khoa học và công nghệ của nước nhà. Vì đầu tư cho việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào doanh nghiệp mất một khoản tiền rất lớn cho nên học không muốn đầu tư đổi mới dây chuyền sản xuất. Họ không muốn bỏ vốn ra để đầu tư nghiên cứu chế tạo máy móc thiết bị để áp dụng khoa học và công nghệ vào trong sản xuất hầu hết các cơ sở chế biến vẫn còn làm thủ công dẫn đến năng suất thấp chất lượng kém, sản phẩm chỉ dừng lại ở khâu sơ chế chưa có sản phẩm tinh chế làm cho năng lực cạnh tranh thấp.
1.3.2 Quy mô và vốn của các doanh nghiệp này còn “khiêm tốn”.
Việc phát triển công nghiệp chế biến, nông, lâm, thủy sản phụ thuộc khá nhiều vào khả năng cung cấp nguyên liệu cả về số lượng và chất lượng, hiện nay việc cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thường xuyên không ổn định vì chưa có các vùng cây công nghiệp chuyên canh, tập trung, cho năng suất và chất lượng cao. Sản xuất các loại cây nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến phầnl lớn là tự phát, chưa gắn công nghiệp chế biến với từng vùng nguyên liệu. Hầu hết các vùng cây công nghiệp do hộ nông dân quản lý nên thường tự ý thay đổi cơ cấu cây trồng theo sự biến động của thị trường. Một số địa phương nôn nóng muốn chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn nhanh, đôi khi bỏ qua khâu quy hoạch nên tình trạng các doanh nghiệp chế biến lúc thừa lúc thiếu nguyên liệu thường xuyên xảy ra. Những nguyên nhân trên một mặt làm cho quy mô của các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản quy mô nhỏ. Mặt khác các cơ sở chế biến từ các sản phẩm nông, lâm, thủy sản có quy mô rất “khiêm tốn” hầu hết là các cơ sở chế biến nhỏ, chế biến bằng thủ công, chế biến theo hộ gia đình, vốn ít, các doanh nghiệp này rất khó khăn trong việc tiếp cận được với vốn đầu tư, sản lượng hàng hóa ít, chất lượng sản phẩm thấp, chưa tương xứng với thế mạnh của từng vùng. Mặt khác tâm lý của chúng ta là vẫn không giám làm ăn lớn. Từ những ký do trên làm cho các cơ sở các doanh nghiệp này không có đủ tiềm lực về tài chính và nhà xưởng để ứng dụng khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó quy mô nhỏ, vốn ít cho nên các doanh nghiệp này chưa nghĩ đến việc sử dụng tiết kiệm nguyên liệu và môi trường cho nên chưa quan tâm ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường.
1.3.3 Trình độ của công nhân về máy móc thiết bị còn thấp:
Lao động làm trong các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản phần lớn là lao động phổ thông cho nên trình độ về khoa học và công nghệ máy móc thiết bị còn rất hạn chế đứng trước máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại còn nhiều lúng túng. Cho nên nó kìm hãm ứng dụng khoa học và công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại vào trong cơ sở sản xuất vì để ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thì doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải tốn thời gian chi phí rất lớn cho việc đào tạo lại lao động dẫn đến gián đoạn trong sản xuất. Khi áp dụng khoa học kỹ thuật vào chế biến thì nó sẽ giảm một số lượng lao động không cần thiết và số lượng lao động không đạt tiêu chuẩn nhưng việc đưa họ ra khỏi doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp Vịêt nam còn gặp rất nhiều khó khăn. Lao động có trình độ còn ít song chưa sử dụng một cách hiệu quả.
1.3.4 Khó khăn trong việc chuyển giao khoa học và công nghệ.
Nhà nước chưa có chính sách giúp cho các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế; thu hút các chuyên gia giỏi của thế giới đến nước ta hợp tác mở lớp đào tạo, bổi dưỡng cán bộ, công nhân kỹ thuật, lập các cơ sở nguyên cứu khoa học và chuyển giao những thành tựu khoa học và công nghệ.
Thủ tục chuyển giao công nghệ trong và ngoài nước còn nhiều thủ tục hành chính dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong việc chuyển giao công nghệ.
Thông tin về khoa học và công nghệ của nước ta còn kém và chậm cho nên các cơ sở các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Tình trạng nhập khẩu các thiết bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, kém hiệu quả ảnh hưởng xấu đến năng suất lao động và , môi trường sinh thái.
Những mặt đã đạt được trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
Đảng ta có một số Nghị quyết về khoa học và công nghệ như Nghị quyết 37 của Bộ chính trị (Khóa IV), Nghị quyết 26 của Bộ chính trị(Khóa VI), Nghị quyết 01 của Bộ chính trị và Nghị quyết trung ương 7( Khóa VII) việc thực hiện các Nghị quyết này đã bước đầu nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, thúc đẩy việc đưa các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất đặt biệt là vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản có sự gia tăng đáng kể và vào đời sống góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với sự quan tâm đó thời gian qua đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức khoa học và công nghệ với trên 1100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nước; 197 trường đại học cao đẳng trong đó có 30 trường ngoài công lập mới nhất là Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã ký quyết định thành lập rất nhiều trường dân lập. Cơ sở hạ tầng của các viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã thực hiện một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với sản xuất kinh doanh. Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của Nhà nước từ năm 2004 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà nước ta.
2.1. Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội:
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng đinh giá trị khoa học và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ cho khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới nói chung và vào quá trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho phương án phát triển đất nước
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu,làm chủ. Thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ đó trình độ công nghệ trong một số nghành sản xuất, dịch vụ đã được nâng cao đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh cao hơn.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hóa, công nghệ cơ khí- chế tạo máy, đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều nghành nghề kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã được ứng dụng vào việc đào tạo và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo vệ môi trường giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
2.2 Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới.
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tổ chức từ trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nghành và đĩa phương.
Thực hiện luật khoa học và công nghệ các chương trình, đề tài, dự án, khoa học và công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã từng bước được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ công khai.
Hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ đã mở rộng từ nghiên cứu – phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công nghệ. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công nghệ bước đầu được tăng cường. Quyền tự chủ vể hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được mở rộng.
Vốn huy động cho khoa học và công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu vực sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn khác, tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hóa nguồn đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đã cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học theo hướng giảm bớt các khâu trung gian. Viêc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từng bước được hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
2.3 Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân ngày càng được nâng cao.
Nhờ có sự quan tâm của các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động tích cực của các tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm, ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học và công nghệ đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ rệt. Hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng được xã hội hóa trên toàn quốc.
2.4. Ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
Nước ta đang là một nước nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao, phần lớn lao động làm việc trong nông nghiệp. Người nông dân gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ vì nông sản chưa qua chế biến giá cả và chất lượng luôn luôn biến động làm cho nông dân thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo nhu cầu thị trường dẫn đến thu nhập của người dân không ổn định. Nông sản đã qua chế biến giá cả, chất lượng và thị trường tiêu thụ ổn định hơn. Vì vậy chúng ta nên quan tâm đến công nghiệp chế biến nông sản ở từng địa phương có tiềm năng và nguồn nguyên liệu sẵn có. Vì vậy nhiệm vụ phát triển nghành công nghiệp chế biến là rất quan trọng chính vì lẽ đó ngày càng nhiều công trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào trong nghành công nghiệp chế biến. Như áp công nghệ sinh học vào việc tạo ra giống cây trồng vật nuôi mới, hóa chất mới, phân bón cho năng suất cao và chất lượng tốt để đảm bảo cả số lượng và chất lượng cung ứng cho cac cơ sở chế biến. Ứng dụng máy móc thiết bị vào các khâu thu hoạch, chế biến bảo quản làm cho chất lượng sản phẩm cao phù hợp với yêu cầu về chất lượng nâng cao sức cạnh tranh có thể xâm nhập vào thị trường lớn như thị trường Mỹ, EU.
III. BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀO TRONG CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN.
Tạo lập và phát triển thị trường khoa học và công nghệ:
Dùng các công cụ về thuế, về tín dụng để hỗ trợ cac doanh nghiệp , cơ sở chế biến ứng dụng công nghệ hiện đại phù hợp với các hướng ưu tiên của nhà nước. Áp dụng chế độ thuế nhập khẩu thấp đối với các thiết bị công nghệ tiên tiến. Miễn mọi loại thuế cho các sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử bằng công nghệ mới. Giảm thuế lợi tức trong một số năm đối với các sản phẩm làm ra bằng công nghệ mới lần đầu tiên được áp dụng trong nước, có chính sách ưu đãi với việc áp dụng các công nghệ do trong nước sáng tọa ra.
Đối với các doanh nghiệp, cơ sở chế biến, Nhà nước có quy định chế độ thưởng cho tập thể lao động.và các tác giả về sáng chế, phát minh cải tiến kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới.
Các viện nghiên cứu được thành lập các cơ sở sản xuất, chế biến kinh doanh, các trung tâm ứng dụng, tư vấn về chuyển giao công nghệ thuộc về lĩnh vực chuyên môn và việc đảm nhận; được phép liên doanh với nước ngoài theo quy định của Nhà nước.
Thành lập các tổ chức nghiên cứu triển khai trong các tổng công ty và doanh nghiệp lớn.
Mở rộng mạng lưới dịch vụ tư vấn khoa học và công nghệ. Miễn hoặc giảm thuế doanh thu cho các doanh nghiệp tư vấn ứng dụng khoa học và công nghệ.
Hòan thiện hệ thống luật pháp vê bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ.
Để phát triển thị trường khoa học và công nghệ thì:
Tạo sức ép đổi mới, ứng dụng khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp cơ sở chế biến của Nhà nước bằng cách xóa bỏ bao cấp tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước bằng các thể chế tín dụng, ngân hàng, có cơ chế khuyến khích ràng buộc cụ thể như: miễn giảm, thuế cho các doanh nghiệp đầu tư khoa học và công nghệ, doanh nghiệp,cơ sở sản xuất được trích lại một phần vốn nộp ngân sách nhà nước để đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Tăng cường sự liên kết trong đầu tư, đổi mới khoa học và công nghệ, thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ. Ứng dụng chúng vào sản xuất kinh doanh. Thông qua mối quan hệ giữa bốn nhà : Nhà nước – cơ sở khoa học – doanh nghiệp - tổ chức tài chính.
Đẩy mạnh cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ và cơ chế hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ, nhằm tăng cường sự năng động, sáng tạo và tự chủ thông qua việc cụ thể hóa bằng văn bản hướng dẫn.
2. Chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ.
Có chính sách lương thỏa đáng đối với cán bộ nghiên cứu khoa học và triển khai, có chế độ thưởng phụ cấp cho các công trình khoa học và công nghệ có giá trị. Có cơ chế để cán bộ khoa học và công nghệ đảm bảo thu nhập thích đáng thông qua việc tham gia các hội đồng nghiên cứu triển khai.
Bồi dưỡng trong đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệtinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, hoài bão, lý tưởng say mê khoa học; áp dụng nhiều hình thức biểu dương, tôn vinh địa vị xã hội của các nhà khoa học và chuyên gia công nghệ hàng đầu.
Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ khoa học và công nghệ; trẻ hóa đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ. Khơi dậy nhiệt tình của thế hệ trẻ theo đuổi sự nghiệp khoa học và công nghệ.
Xây dựng và thưc hiện quy chế bảo đảm dân chủ, phát huy tinh thần sáng tạo, tăng cường đoàn kết, ý thức trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học trong họat động nghiên cứu và triển khai. Khuyến khích, trân trọng những tìm tòi khám phá khoa học và công nghệ, những kiến nghị giải pháp khác nhau về các vấn đề của tự nhiên, kỹ thuật cũng như kinh tế xã hội. Có những hình thức tổ chức, phương pháp và cơ chế hoạt động hợp lý dể phát huy tối đa trí tuệ tập thể cũng như tài năng cá nhân của nhà khoa học.
Trang thiết bị kỹ thuật, thông tin, thiết bị đồng bộ trong một số phòng thí nghiệm, một số viện nghiên cứu trọng điểm một số bộ môn ở các trường đại học đạt mức tiên tiến trong khu vực. Tăng dần mức trang thiết bị và nâng cấp các thư viện, cho các trường các viện nghiên cứu.
Có chính sách khuyến khích cán bộ khoa học và công nghệ về làm việc tại các vùng nông thôn, vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Quy định tuổi về hưu thích hợp đối với cán bộ khoa học và công nghệ có trình độ cao; có nhiều hình thức sử dụng và phát huy năng lực của đội ngũ tri thức tuổi cao còn sức cống hiến.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ khoa học và công nghệ người Việt nam ở nước ngoài chuyển giao về nước những tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến. Có chính sách thỏa đáng đối với cán bộ khoa học và công nghệ Việt nam ở nước ngoài về làm việc trong nước.
Các cơ quan quản lý phải định hướng cho các nhà nghiên cứu khoa học và công nghệ hướng phát minh sáng chế ra những công nghệ, máy móc thiết bị, phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế, những phát minh sáng chế bám sát vào nhu cầu của nền kinh tế. Không nên hướng những phát minh khoa học của mình không xuất phát từ các nhiệm vụ phát triển kinh tế.
3. Phát động phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật.
Sáng chế phát minh ứng dụng khoa học và công nghệ vào mọi mặt của sản xuất và đời sống, đẩy mạnh phong trào thi đua tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả công tác trong toàn xã hội. Nhà nước có chính sách khuyến khích, động viên và khen thưởng và tôn vinh kịp thời đối với những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc. Phát động phong trào thi đua sáng chế khoa học và công nghệ, cải tiến kỹ thuật giữa các tổ tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ, giữa các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản, giữa các địa phương, tập thể, cá nhân qua đó tạo động lực sáng chế khoa học và công nghệ. Giữa các địa phương nông nhiệp, lâm nghiệp, thủy sản phát động phong trào thi đua sử dụng giống cây trồng vật nuôi, phương tiện canh tác, hóa chất phân bón để tăng năng suất cây trồng vật nuôi. Đồng thời có chính sách khen thưởng chính đáng.
Tăng cường đầu tư cho khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn.
Tăng dần tỷ lệ ngân sách nhà nước hàng năm chi cho khoa học và công nghệ để đến năm 2000 đạt không dưới 2% tổng chi ngân sách.
Chương trình phát triển khoa học và công nghệ phải là một bộ phận qua trọng và trong nội dung của mỗi chương trình phát triển kinh tế xã hội. Việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội phải là cơ sở thực tiễn và nơi tạo ra nhu cầu và cung cấp nguồn lực cho phát triển khoa học và công nghệ.
Trích một phần vốn của các dự án đầu tư để tiến hành nghiên cứu, phản biện, đánh giá những vấn đề khoa học và công nghệ có liên quan đến nội dung và chất lượng dự án.
Có cơ chế để doanh nghiệp, cơ sở chế biến dành một phần vốn cho nghiên cứu đổi mới, cải tiến công nghệ và đào tạo nhân lực, phần vốn này không chịu thuế.
Nhà nước chú trọng đầu tư cho nghiên cứu cơ bản, nhất là những lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn cũng như khoa học và công nghệ đặc thù của Việt nam.
5. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cơ sở chế biến hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ:
Có chính sách mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế; thu hút các chuyên gia giỏi của thế giới đến hợp tác mở lớp đào tạo bổi dưỡng cán bộ khoa học và công nghệ, công nhân kỹ thuật, lập các cơ sở nghiên cứu khoa học và chuyển giao những thành tựu khoa học và công nghệ.
Có cơ chế sử dụng vốn vay và viện trợ nước ngoài để đầu tư có hiệu quả cho khoa học và công nghệ. Hình thành một số cơ sở quốc tế vế khoa học tự nhiên và công nghệ. Nhà nước dành một khoản ngân sách thích đáng để cử người có đức và có tài đi đào tạo những nghành nghề thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên những nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến như Mỹ, Nhật Bản… khuyến khích việc tự túc đi học ở nước ngoài về khoa học và công nghệ.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là cán bộ trẻ được đi bồi dưỡng và trao đổi khoa học ở nước ngoài.
6. Tăng cường kiểm soát, giám định công nghệ và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp và cơ sở chế biến.
Các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trong mọi nghành, mọi cấp đều có sự thẩm định của các tổ chức khoa học về giải pháp công nghệ và về những tác động của nó đến môi trường và xã hội. Việc thẩm định phải được luật pháp hóa.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản lý tiêu chuẩn, đo lường và kiểm tra chất lượng sản phẩm. có biện pháp kịp thời, ngăn chặn và đình chỉ sản xuất lưu thông những hàng giả và hàng kém chất lượng có ảnh hưởng đến sức khỏe.
Tiến hành nghiêm ngặt công tác thanh tra, kiểm tra môi trường sinh thái. Khuyến khích có doanh nghiệp, cơ sở chế biến sử dụng công nghệ sạch. Ngăn ngừa và xử lý nghiêm các trường hợp nhập và sử dụng công nghệ gây ô nhiễm môi trường. Tất cả các dự án đầu tư. Các quy hoạch phát triển sản xuất, quy hoạch đô thị, khu công nghiệp đều phải thực hiện nghiêm chỉnh báo cáo đánh giá tác động môi trường và phải có một phần vốn đầu tư cho các giải pháp bảo vệ môi trường.
Tăng cường kiểm soát, giám định công nghệ và chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản qua đó thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ vào chế biến.
7. Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học và công nghệ.
Kiện toàn tổ chức và nâng cao trách nhiệm các cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ từ trung ương đến cấp huyện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý khoa học và công nghệ, tăng cường công tác và thanh tra môi trường qua đó các doanh nghiệp, cơ sở chế biến thấy được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường và thúc đẩy các doanh nghiệp, cơ sở chế biến này ứng dụng công nghệ thân thiện với mội trường và sử dụng tiết kiệm nguyên liệu qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế.
Đổi mới cơ chế phân bổ và quản lý ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ theo hướng lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu. Kiểm tra hoạt động, hiệu quả sử dụng kinh phí nghiên cứu của các tổ chức khoa học và công nghệ.
Kiện toàn nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp đồng chính sách khoa học và công nghệ quốc gia hội đồng khoa học và công nghệ nghành và địa phương.
Ban hành luật khoa học và công nghệ, Nhà nước quản lý thống nhất các hoạt động khoa học và công nghê, đồng thời phân cấp quản lý và phát huy chủ động của các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ và triển khai.
Tiếp tục sắp sếp, kiện toàn các cơ quan khoa học và công nghệ theo hướng củng cố trung tâm khoa học quốc gia và một số cơ quan khoa học và công nghệ trọng điểm nghành, bảo đảm kết hợp giữa viện nghiên cứu và trường đại học, gắn nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh.
Khuyến khích thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ ngoài nhà nước và tạo điều kiện cho họ được gắn kết với các doanh nghiệp và cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản. Các tổ chức này sẽ tìm ra giải pháp ứng dụng khoa học và công nghệ cho từng doanh nghiệp, cơ sở chế biến sao cho phù hợp với quy mô, nguồn vốn, nguồn lực, đồng thời phù hợp với từng vùng nguyên liệu. Và đào tạo công nhân để nâng cao trình độ của họ phù hợp với công nghệ áp dụng.
Củng cố và tăng cường hoạt động của các Hội Khoa học và công nghệ nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng tri thức.Phát huy vai trò chính trị - xã hội của Liên hiệp các Hội khoa học và công nghệ trung ương và địa phương trong việc phổ biến và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất chế biến và đời sống, trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, triển khai công nghệ thân thiện môi trường, cũng như trong công tác tư vấn, phản biện và giám định xã hội. Đảng và Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Hội khoa học và công nghệ.
8. Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến thức khoa học và công nghê.
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ cập tri thức khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khoa học xã hội và nhân văn nói chung, những hiểu biết thưởng thức về khoa học tự nhiên và công nghệ, bảo vệ môi trường trong nhân dân, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng núi, vùng dân tộc ít người, hình thành lối sống văn minh và sự lành mạnh của môi trường xã hội.
Đẩy mạnh các dịch vụ thông tin khoa học và công nghệ về lãnh đạo và quản lý đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ ở các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản nói riêng, đặc biệt là thông tin công nghệ.
Phát triển và quản lý tốt mạng lưới thu thập, xử lý thông tin về khoa học và công nghệ nước ngoài.
Qua đó các cán bộ, các doanh nghiệp thấy được trình độ khoa học và công nghệ trong khu vực và trên thế giới.
Các doanh nghiệp, cơ sở chế biến thấy được công nghệ chế biến nào mà các nước nhập khẩu sản phẩm của mình cần từ đó thấy được mình phải nhập khẩu công nghệ nào để có thể xuất khẩu sang thị trường của họ.
KẾT LUẬN
Qua phân tích ở trên ta thấy được trình độ khoa học và công nghệ của nước ta nói chung và của các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản nói riêng còn thấp kém so với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Bằng chứng hùng hồn nhất về trình độ và hoạt động khoa học và công nghệ vở nước ta đang bị suy kém và bị các nước bỏ xa đến mức báo động, qua lời khẩn cầu:” Đề nghị các đồng chí hiến kế cho, cả việc thủ tướng phải làm gì để đưa khoa học và công nghệ của nước ta thành động lực, làm gì để gắn nghiên cứu với đào tạo, đào tạo với nghiên cứu, đi đến phục vụ sản xuất đi đến cuộc sống? cần có quyết định gì? Xin các đồng chí góp ý cho”. của ông Phan Văn Khải là đơn kim thủ tướng tại gặp mặt gần 500 nhà khoa học(24/9/2005)
Gần đây nhất nhiều ý kiến về khoa học và công nghệ tham gia trong cuộc đối thoại của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng(09/02/2007). Có ý kiến đề cập đến sự phát triển khoa học và công nghệ nước nhà trong tương lai, có ý kiến đi thẳng vào một nghành cụ thể, nhưng cũng không ít ý kiến nói lên dự trì trệ của nghành mình và đề nghị Thủ tướng chỉ đạo giải quyết.
Hiện nay việc đầu tư cho khoa học và công nghệ không lớn. Tuy nhiên thực trạng đầu tư cho khoa học và công nghệ mang lại hiệu quả kém và khá phổ biến hầu như ở các địa phương trong cả nước.Rất nhiều để tài, đề án về khoa học và công nghê chỉ triển khai ở mô hình và không nhân rộng được, thậm chí nhiều đề tài được đánh giá xuất sắc, nhưng chỉ để lưu trữ.
Nước ta đã ra nhập WTO có rất nhiều vấn đề được đặt ra nhưng vấn đề quan trọng nhất vẫn là nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ của nước ta để có thể cạnh tranh được với các mặt hàng của các nước khác. Một trong những giải pháp quan trọng đó là nâng cao trình độ khoa học và công nghệ vào sản xuất. Nhà nước các cơ quan quản lý khoa học và công nghệ phải làm thế nào để cho các doanh nghiệp thấy được đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho sự phát triển. Từ đó các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp, cơ sở chế biến nói riêng tăng cường đầu tư nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghê và cải tiến kỹ thuật.
Đẩy mạnh ứng dựng khoa học và công nghệ vào công nghiệp chế nông, lâm, thủy sản là nhiệm vụ quan trọng đối với nước ta vì nước ta vẫn là một nước nông, lâm, ngư nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng lớn ứng dụng khoa học và công nghệ sẽ giúp cho người nông dân ổn định hơn về giá cả nông sản và thị trường tiêu thụ ổn định.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở Việt Nam
Tác giả Lê Đăng Doanh Khoa học và kỹ thuật 2003
Đổi mới chính sách sử dụng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ quan nghiên cứu phát triển.
Tác giả Nguyễn Thị Anh Thu Mã số Vc9239432
Đổi mới vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ
Luận án Thạc sĩ: Bùi Thị Xuân Bảo vệ năm: 2005
Nghị quyết của Bộ tài chính về khoa học và công nghệ trong sự nghiệp đổi mới.
Bách khoa thư Hà nội Mã số : Vc1920/92
Khoa học và công nghệ và phát triển kinh tế tập hợp mọi tri thức.
Học viện chính trị quốc gia 2002
Tạp chí công nghiệp số tháng 6/2007
Tạp chí công nghiệp số tháng 4/2007
Kinh tế châu Á thái bình dương số 10 ngày 06/03/2007
Nhịp cẩu đầu tư số 24/ 2006
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Biện pháp đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.DOC