Đề tài Các lý thuyết kích cầu đầu tư ý nghĩa và thực tiễn của Việt Nam

Vừa qua cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã nhanh chóng lan ra toàn cầu gây ra hậu quả hết sức to lớn đối với nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế Việt Nam cũng không nằm ngoài khu vực bị ảnh hưởng nhất là khi chúng ta trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khủng hoảng có những ảnh hưởng tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội và các nhà kinh tế học trên thế giới, chính phủ các nước nói chung cũng như chính phủ Việt Nam nói riêng cũng đã làm hết sức mình để đưa nền kinh tế của quốc gia mình thoát khỏi khủng hoảng. Bằng việc xem xét lại các lý thuyết kinh tế đang được áp dụng hiện nay đặc biệt là lý thuyết bàn tay hữu hình với sự can thiệp điều tiết nền kinh tế của nhà nước, các quốc gia đã có những chính sách kinh tế với những gói giải cứu kinh tế nhằm kích cầu đầu tư, tiêu dùng, tạo công ăn việc làm nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Chính sách kích cầu kinh tế bên cạnh những mặt tích cực thì cũng có những hạn chế. Nhận thức được những hạn chế này sẽ giúp chính phủ có được những sự lựa chọn thích hợp trong việc thực thi chính sách. Nhóm sinh viên chuyên ngành kinh tế đầu tư chúng em với mong muốn tìm hiểu, vận dụng những kiến thức chuyên ngành để đi sâu tìm hiểu vấn đề thực tiễn. Điều đó thôi thúc chúng em tiến hành nghiên cứu đề tài:” Kích cầu đầu tư - Lý thuyết và thực tiễn tiễn”. Trong đề tài thảo luận này chúng em đưa ra một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và kích cầu đầu tư, tình hình thực tiễn kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm kích cầu đầu tư có hiệu quả. MỤC LỤC LƠÌ NÓI ĐẦU .1 Chương I: Lí luận chung về kích cầu đầu tư . 4 I. Đầu tư và cầu đầu tư 4 1. Khái niệm về đầu tư 4 2. Cầu đầu tư 4 2.1. Khái niệm . .4 2.2. Các nhân tố tác động tới cầu đầu tư . .4 2.2.1. Lợi nhuận kì vọng 4 2.2.2. Lợi nhuận thực tế 6 2.2.3. Lãi suất tiền vay . .7 2.2.4. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia . 8 2.2.5. Chu kì kinh doanh . .10 2.2.6. Đầu tư nhà nước 11 2.2.7. Môi trường đầu tư . 11 2.2.8. Thuế thu nhập doanh nghiệp 12 II. Một số vấn đề về kích cầu và kích cầu đầu tư 13 1. Thế nào là kích cầu 13 1.1.Khái niệm 13 1.2. Nguồn gốc và cơ sở của chính sách . 13 1.3. Mục đích của chính sách kích cầu 15 1.4. Nguyên tắc cơ bản của kích cầu 15 1.5. Điều kiện áp dụng các biện pháp kích cầu . 18 2. Kích cầu đầu tư 18 2.1. Khái niêm . 18 2.2. Phân biệt kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng 18 2.3. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư . 19 2.4. Tác động của kích cầu đầu tư . 19 2.4.1. Tác động tích cực 19 2.4.2. Tác động tiêu cực 22 2.5. Nguồn vốn cho kích cầu đầu tư . . 24 2.5.1. Vốn trái phiếu chính phủ . 24 2.5.2. Vốn ngân sách nhà nước . 25 2.5.3. Quỹ dự trữ ngoại hối . 25 2.5.4. In tiền . 26 2.5.5. Vay nợ nước ngoài 26 2.5.6. Trì hoãn trả nợ 27 2.6. Các công cụ, biện pháp sử dụng . 27 2.6.1. Nhóm chính sách tiền tệ . 27 2.6.2. Nhóm chính sách tài khóa . 30 2.6.3. Nhóm chính sách giải pháp khác . 30 2.7. Kinh nghiệm kích cầu đầu tư trên thế giới 32 2.8. Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kích cầu đầu tư 34 2.8.1. Độ trễ chính sách . 34 2.8.2. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách . 35 Chương II: Thực tiễn kích cầu đầu tư ở Việt Nam I. Thực tiễn kích cầu đầu tư trước khủng hoảng kinh tế 2007 . 37 1. Tình hình kinh tế -xã hội Việt Nam giai đoạn 1986_2007 37 2. Tình hình kích cầu đầu tư của Việt Nam giai đoạn 1986_2007 39 II. Thực tiễn kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2007_nay . 49 1. Khủng hoảng kinh tế thế giới và ảnh hưởng tới Việt Nam .49 2. Nội dung kích cầu của một số nước trên thế giới và của Việt Nam 52 2.1. Nội dung kích cầu của một số nước trên thế giới . 52 2.2. Nội dung kích cầu ở Việt Nam . 55 2.2.1. Gói kích cầu thứ nhất . .55 2.2.1.1. Nội dung cụ thể goi kích cầu 55 2.2.1.2. Công cụ biện pháp thực hiện 56 2.2.1.3. Tình hình thực hiện 61 2.2.1.4. Tác động của gói kích cầu 62 2.2.1.5. Các vấn đề của gói kích cầu 71 2.2.2. Gói kích cầu thứ hai 75 2.2.2.1. Các quan điểm 75 2.2.2.2. Nội dung cụ thể gói kích cầu . . 76 2.2.2.3. Tác động của gói kích cầu số 2 77 3. So sánh các gói kích cầu ở Việt Nam và một số nước trên thế giới78 Chương III: Giải pháp thực hiện chính sách kích cầu đầu tư hiệu quả ở Việt Nam I. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kích cầu đầu tư 80 1. Huy động vốn kịp thời và hiệu quả 80 2. Giải pháp sử dụng hiệu quả vốn kích cầu đầu tư 80 2.1. Kích cầu phải kịp thời . 80 2.2. Phân bổ nguồn vốn hợp lí 81 II. Kết hợp với chính sách tiền tệ, tỷ giá, khyến khích xuất khẩu, thu hút đầu tư . . 82 III. Giám sát và đánh giá kết quả gói kích cầu . .83 1. Vai trò giám sát của quốc hội . .83 2. Đánh giá kết quả thực hiện gói kích cầu .84 IV. Một số đề xuất nhằm phát huy hiệu quả chính sách kích cầu đầu tư 84 V. Các giải pháp kich cầu đầu tư trong dài hạn . 87 1. Giải pháp kích cầu đầu tư trong nước 87 2. Giải pháp kích cầu đầu tư nước ngoài 88 KẾT LUẬN . 89 Danh mục tài liệu tham khảo: 90

doc93 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4120 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các lý thuyết kích cầu đầu tư ý nghĩa và thực tiễn của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như chi phí để hợp thức hóa chứng từ, chi phí không chính thức cho nhân viên ngân hàng, …Thuế GTGT là một loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu chứ không phải là DN. Do đó, việc giảm 50% thuế giá trị gia tăng nhằm vào việc kích cầu tiêu dùng. Tuy nhiên, kinh tế học vi mô đã chứng minh rằng khoản thuế GTGT được chia sẻ giữa khách hàng và doanh nghiệp. Đôi khi, DN lại là người được hưởng lợi từ việc giảm thuế GTGT chứ không phải là người tiên dùng. Do đó, việc giảm thuế GTGT ít có tác dụng kích cầu tiêu dùng. Vấn đề thứ năm, gói kích cầu có thể tạo ra cạnh tranh không lành mạnh, bất bình đẳng giữa các DN.Chính sách hỗ trợ lãi suất 4% có thể tạo ra sự bất bình đẳng, cạnh tranh không lành mạnh giữa các Doanh nghiệp do khả năng tiếp cận nguồn vốn được hỗ trợ lãi suất của các Doanh nghiệp không đồng đều. Báo cáo của NHNN cho thấy, tính đến cuối năm 2009, chỉ có khoảng trên 20% trong tổng số doanh nghiệp, tức khoảng 78.000 trong tổng số khoảng 390.000 doanh nghiệp tiếp cận được vốn hỗ trợ. Theo kết quả khảo sát của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng vào tháng 06/2009, có trên 51% các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trên địa bàn được khảo sát là không nhận được hỗ trợ lãi suất. Theo kết quả khảo sát gần 400 DN vào tháng 7/2010 của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng, có đến gần 30% DN được khảo sát cho rằng đã bị ảnh hưởng tiêu cực từ các chính sách kích cầu của Chính phủ. Lý do là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ thường gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin và đáp ứng các yêu cầu về thủ tục để được nhận vốn. Vấn đề thứ sáu, Gói hỗ trợ lãi suất 4% có thể dẫn đến sự suy giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam do chi phí vốn không được tính đúng và đầy đủ. Mặt khác, các hỗ trợ về thuế, một hình thức bảo hộ sản xuất trong nước cũng là một nguyên nhân làm suy giảm khả năng cạnh tranh của DN trong nước so với các DN nước ngoài. Vấn đề thứ bảy, dòng vốn kích cầu có thể bị lái vào đầu cơ bong bóng chứng khoán hoặc bất động sản, điều này có thể là một nguy cơ dễ xảy ra, cũng bởi do tình trạng bất cân xứng về thông tin và cũng có thể là bởi chính hành vi trục lợi có thể xảy ra ở ngay tại các tổ chức tài chính, do thiếu sự giám sát chặt chẽ. Thực tế diễn biến thị trường chứng khoán trong năm 2009 và 7 tháng đầu năm 2010 cũng phần nào thể hiện điều này. Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2009 tăng trưởng khá ngoạn mục, với mức tăng bình quân cả năm vào khoảng 40%. Từ đầu năm 2010 đến nay, mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã có những dấu hiệu tăng trưởng khả quan, thị trường chứng khoán khá trầm lắng. Những ngày đầu tháng 8, thị trường giảm khá sâu, còn khoảng 460 điểm.Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do gói kích cầu thứ nhất đã kết thúc,dòng tiền vào thị trường chứng khoán sụt giảm. Vấn đề thứ tám, chính sách kích cầu không trực tiếp giúp giải quyết khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay là thiếu nhu cầu thị trường. Do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế thế giới đang suy thoái, làm giảm mạnh cầu về hàng xuất khẩu. Điều này khiến các công ty gia công, lắp ráp hàng xuất khẩu phải giãn thợ, làm tăng số lượng thất nghiệp và thất nghiệp tạm thời, kéo theo sự sụt giảm tiêu dùng nội địa. Sức mua giảm, khả năng tiêu thụ trong nước đang suy giảm, hàng sản xuất ra tồn đọng. Vấn đề thứ chín, số tiền cung ứng vào lưu thông lớn tạo ra tiềm ẩn rủi ro lạm phát cao. Tổng giá trị các gói kích cầu của Chính phủ Việt Nam lên đến 160.000 tỷ đồng, tương đương 9 tỷ USD (chiếm khoảng gần 10% GDP của Việt Nam hiện nay).Với việc triển khai nhiều cơ chế hỗ trợ cùng với chính sách nới lỏng tiền tệ dẫn đến khối lượng tiền cung ứng vào nền kinh tế tăng ở mức cao, gây sức ép tăng lạm phát là rất lớn. Từ cuối năm 2009 và đầu năm 2010, VND mất giá liên tục so với USD. Vấn đề thứ mười, nền kinh tế Việt Nam có đặc thù phải dựa vào máy móc thiết bị và nguyên vật liệu từ bên ngoài, do vậy sẽ không chịu nỗi sức ép từ việc gia tăng đầu tư quá mức. Một khi cầu nội địa tăng lên đặc biệt là cầu đầu tư sẽ khiến cho nhu cầu nhập khẩu tăng nhanh điều này sẽ làm thâm hụt thương mại thêm trầm trọng. Năm 2009, thâm hụt thương mại của Việt Nam lên đến 12 tỷ USD, cao hơn nhiều so với kế hoạch là 10 tỷ USD. Khối lượng dự trữ ngoại tệ khiêm tốn khiến cho Việt Nam không thể giữ ổn định tỷ giá hối đoái khi sức ép giảm giá VNĐ tăng mạnh do nhu cầu nhập khẩu tăng vọt. VND bị mất giá và giá USD tăng đáng kể trong giai đoạn vừa qua dẫn đến các khoản nợ nước ngoài của chính phủ và doanh nghiệp tính ra VND đang ngày càng phình to. Một câu hỏi được đặt ra: Có cần thiết gói kích cầu thứ 2? 2.2.2. Gói kích cầu thứ 2 2.2.2.1. Các quan điểm Đứng trước sự lựa chọn có nên thực hiện tiếp gói kích cầu thứ hai có quan điểm tán thành nhưng cũng có những quan điểm phản đối dựa trên những lập luận và cơ sở trái chiều nhau. Tuy nhiên thực tế thì gói kích cầu số 2 đã được chính phủ thực hiện. Nhưng chúng ta vẫn đi vào phân tích các quan điểm đó để thông qua đó đánh giá quyết định thực hiện gói kích cầu này có phù hợp hay không? * Các quan điểm ủng hộ gói kích cầu. Mặc dù nền kinh tế đã có tốc độ tăng trưởng khả quan, hiệu quả kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đều vượt kế hoạch đề ra nhưng kết quả này phần lớn nhờ vào gói kích cầu, thực tế sự tăng trưởng chưa bền vững. Một phần không nhỏ lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp là từ lợi thế hàng tồn kho giá thấp, từ giảm chi phí sử dụng vốn và hoàn nhập dự phòng. Mặt khác, thực tế nền kinh tế toàn cầu tuy đã có những tiến triển tích cực nhưng vẫn chưa thực sự tăng trưởng vững trở lại. Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp vẫn chịu ảnh hưởng của yếu tố giá và thị trường. Nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng cần tiếp tục có sự hỗ trợ theo xu hướng giảm dần, làm bước đệm cho sự phục hồi bền vững sau khủng hoảng. Việc bất ngờ chấm dứt gói kích cầu sẽ khiến các doanh nghiệp bị sốc, chưa thể thích ứng ngay với tình trạng không ưu đãi và cạnh tranh khốc liệt tìm kiếm thị trường hiện tại. Nếu nền kinh tế toàn cầu phục hồi theo mô hình chữ W, mô hình được khá nhiều chuyên gia kinh tế lo ngại, tác động mạnh đến thị trường cũng như hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ khiến công lao gói kích cầu số 1 bị bỏ phí. * Các quan điểm không ủng hộ tiếp tục gói kích cầu. Trước hết, việc duy trì gói kích cầu trong thời gian dài có thể phá vỡ các nguyên tắc thị trường trong nền kinh tế khi chi phí sử dụng vốn của các doanh nghiệp thấp hơn chi phí huy động, một phần ngân sách được chuyển thành lợi nhuận của các doanh nghiệp. Mặt khác, thực tế phân bổ gói kích cầu không đồng đều giữa các chủ thể cần vốn, thực tế các doanh nghiệp nhỏ, rất khó khăn khi đương đầu với khủng hoảng lại không có được sự hỗ trợ nhiều. Và điều này cũng tiềm ẩn rủi ro nợ xấu khi hệ thống Ngân hàng phải cho vay trong khi các dự án có thể tính toán hiệu quả dựa trên chi phí vay thấp. Mặt khác, gói kích cầu làm tình trạng thâm hụt ngân sách của Việt Nam thêm nặng nề, đặc biệt khi sự thâm hụt trong năm 2009 dự kiến ở mức 7% GDP, cao hơn khá nhiều mức an toàn đối với nền kinh tế. Và việc nguồn tiền tiếp tục được bơm ra nền kinh tế trong khi tăng trưởng nền kinh tế chưa phục hồi tất yếu sẽ tạo ra áp lực lạm phát. Việc kiểm soát lạm phát không kịp thời, để đến khi giá cả bùng phát, Chính phủ buộc phải dùng biện pháp kiểm soát mạnh sẽ gây ra mâu thuẫn lạm phát, tăng trưởng, càng gây khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng vốn hiện tại của Việt Nam rất thấp, theo tính toán của Ủy ban Tài chính và ngân sách của Quốc hội, hệ số ICOR năm 2009 lên tới mức 8 lần, cao nhất từ trước đến nay và cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Việc tiếp tục bơm vốn ra nền kinh tế, kích thích tăng trưởng càng khiến khả năng kiểm soát hiệu quả đầu tư nguồn vốn bị hạn chế. Kết hợp với việc nền kinh tế cũng như kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp có những sự tăng trưởng khá khả quan, bộ phận không ủng hộ cho rằng không cần thiết phải tiếp tục thực hiện gói kích cầu số 2. Sau khi cân nhắc kỹ những ảnh hưởng, tác động đến nền kinh tế nếu tiếp tục thực hiện kích thích kinh tế, Chính phủ đã thống nhất vẫn tiếp tục thực hiện chính sách kích cầu trong năm 2010 nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp, người dân ổn định sản xuất. 2.2.2.2. Nội dung Gói kích cầu này sẽ chỉ dành cho các nhu cầu vay đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thuộc 5 nhóm ngành của hệ thống kinh tế quốc dân, bao gồm nông, lâm nghiệp; thủy sản; công nghiệp chế biến; hoạt động khoa học công nghệ; hoạt động thu mua và kinh doanh các mặt hàng nông sản, lâm sản, muối... - Quy mô: Bộ trưởng Nguyễn Xuân Phúc cho biết hiện chưa tính gói kích cầu thứ hai trị giá bao nhiêu song khẳng định sẽ thấp hơn nhiều so với gói kích cầu thứ nhất. Gói kích cầu 1 trị giá khoảng 145.000 tỉ đồng và hiện vẫn đang tiếp tục giải ngân đến cuối năm. Cụ thể: nhỏ hơn, mới hơn, giám sát chặt hơn, và phải đảm bảo đúng lúc, trúng đích và vừa đủ. - Tiếp tục hỗ trợ lãi suất 2% Các thành viên Chính phủ cho rằng nền kinh tế dần phục hồi và tăng trưởng liên tục qua các quý, trong đó tăng trưởng GDP từ mức 3,14% của quý I có thể tăng lên 6,8% trong quý IV. Từ kết quả tích cực này, Chính phủ quyết định đối với gói hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay vốn trung, dài hạn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, mua máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp... được quy định trong hai quyết định 443,497 của Thủ tướng Chính phủ tiếp tục kéo dài đến hết ngày 31-12-2010. Tuy nhiên, mức hỗ trợ lãi suất sẽ giảm từ 4% xuống 2%, đồng thời thu hẹp phạm vi và đối tượng hỗ trợ. Các đối tượng vay vốn lưu động (vốn ngắn hạn) quy định trong Quyết định 131 của Thủ tướng Chính phủ cũng sẽ được hỗ trợ lãi suất với mức 2% và thời gian kéo dài hết quý I/2010. - Không cắt giảm an sinh xã hội Chính phủ đánh giá kinh tế tháng 10 và 10 tháng qua đã chuyển biến tích cực, toàn diện, cơ bản hoàn thành tốt các chỉ tiêu đã trình Quốc hội. Trong đó, tăng trưởng GDP chắc chắn đạt 5%-5,2% và có thể đạt cao hơn 5,2%, lạm phát nhiều khả năng dưới 7%. Chuyển biến rõ nét nhất về tình hình kinh tế-xã hội là hoạt động sản xuất công nghiệp đã tăng trở lại với mức 11,9% so với cùng kỳ năm 2008. An sinh xã hội được bảo đảm, riêng tháng 10 tạo thêm khoảng 140.000 việc làm, đưa tổng số người được giải quyết việc làm 10 tháng qua lên gần 1,24 triệu người. Thủ tướng chỉ đạo việc giảm bội chi ngân sách được thực hiện bằng cách phấn đấu tăng thu và cắt giảm các khoản chi không cần thiết như hội họp, tiếp khách, xăng xe... chứ không cắt giảm các khoản chi an sinh xã hội. Tuy nhiên, sau khi cho rằng kinh tế vĩ mô còn chưa vững chắc, Thủ tướng yêu cầu các thành viên Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, cụ thể để đạt mục tiêu tổng quát về kinh tế-xã hội trong những tháng cuối năm 2009 và thời gian tới là phải tiếp tục duy trì được đà tăng trưởng; giữ vững sự ổn định kinh tế vĩ mô; phấn đấu đạt bằng được các mục tiêu đã đề ra...Các cấp ngành, địa phương chủ động thực hiện kế hoạch năm 2010 để tăng trưởng đạt 6,5%, làm tiền đề cho mức 7,5% năm 2011. 2.2.2.3. Tác động của gói kích cầu thứ 2 Khắc phục khó khăn của giai đoạn hậu suy thoái, tốc độ tăng trưởng 6.78% GDP năm 2010 đã được phản ánh ở hầu hết các cấu phần quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế, thương mại, đầu tư phục hổi khá nhờ đà phục hồi của kinh tế thế giới, kim ngạch xuất khẩu đạt 71.6 tỷ USD,tương đương 80.28% GDP; kim ngạch nhập khẩu đạt 84 tỷ USD tương đương 68.46% GDP, tăng 20.1% so với năm 2009. Vốn FDI thực hiện tăng 10% so với năm 2009, đạt 11 tỷ USD. Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp duy trì phong độ với hai con số trong toàn bộ các tháng năm 2010, tăng dần về cuối năm và đạt 14.1% tính đến 31/12/2010, vượt so với dự báo 12.5%. Xét theo các khu vực, công nghiệp khu vực nhà nước tăng khá với giá trị sản xuất công nghiệp đạt 7.4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao nhất với 17.2%; khu vực ngoài nhà nước tăng ấn tượng với 14.7%, gấp đôi khu vực kinh tế nhà nước nhờ sự đóng góp tích cực của khối doanh nghiệp vừa và nhỏ; nối tiếp thành quả của năm 2009, công nghiệp và thương mại với tỷ trọng 41.2% và 38.3% đã có những đóng góp hiệu quả trong tăng trưởng GDP lần lượt đạt mức tăng trưởng 7.03% và 8.09%. Công nghiệp chế biến tiếp tục dẫn dắt sản xuất trong nước với mức tăng trưởng trên 8.38% trong khi ngành xây dựng ghi nhận mức tăng ấn tượng 10.06%; Với mức giải ngân trung bình 0.9 triệu USD/tháng, khối doanh nghiệp FDI đã mang lại đóng góp lớn: tăng trưởng xuất khẩu cao hơn mức tăng trưởng chung từ 10-15% giai đoạn 2006-2010, riêng năm 2010, tăng trưởng giá trị xuất khẩu đạt gần 32%, giá trị xuất khẩu chiếm 54% tổng giá trị xuất khẩu chung. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức thấp. • Thứ nhất, tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào đầu tư trong khi hiệu quả đầu tư thấp. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, lợi thế lao động rẻ đang giảm dần, trong khi năng suất lao động tăng với tốc độ chậm và giữ ở mức khiêm tốn tỷ trọng đóng góp trong tăng trưởng GDP (28.94%). Có thể nhận thấy, vốn đầu tư đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Hiện tại, vốn đầu tư đóng góp tới 51.16% trong tăng trưởng GDP tuy nhiên kinh tế chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng khi tăng trưởng vốn đầu tư luôn gấp đôi tăng trưởng kinh tế. Do ảnh hưởng của tình trạng lấn át đầu tư (crowding out effect), hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vẫn ở mức thấp, hệ số ICOR tăng dần, đặc biệt giai đoạn 2006-2010 đã đạt trung bình 6.10 lần. • Thứ hai, thâm hụt ngân sách lớn, kéo dài và nợ công tăng nhanh. Sự phụ thuộc vào vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư công dẫn tới thâm hụt ngân sách tăng cao và tăng nhanh ảnh hưởng xấu tới khả năng ổn định vĩ mô. Tính đến 31/12/2010, nợ công tiếp tục tăng cao ở mức 56.6% GDP, trong đó nợ chính phủ ở mức 44.3% GDP. Điều này đã hạn chế một phần rất lớn khả năng huy động các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế đồng thời hạn chế kỳ vọng tăng trưởng khi tính đến nghĩa vụ trả nợ tương lai. • Thứ ba, nhập siêu và thâm hụt cán cân thanh toán vẫn ở mức cao. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng cao hơn kim ngạch nhập khẩu,nhập siêu vẫn ở mức cao tương đương năm 2009 (12.4 tỷ USD).Điều này cho thấy sự tăng nóng của tổng cầu, đầu tư, tiêu dùng trong nước trong khi trình độ sản xuất và khả năng sản xuất hàng thay thế nhập khẩu vẫn chưa có chuyển biến đáng kể. Mặc dù có sự cải thiện so với năm 2009 (mức thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể đã giảm 3.5 tỷ USD), năm 2010 là năm thứ hai liên tiếp cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt làm xói mòn dự trữ quốc gia và ảnh hưởng tới các cân đối vĩ mô tổng thể nền kinh tế như tiết kiệm, đầu tư, thâm hụt ngân sách, rủi ro lạm phát, sự suy giảm của luồng vốn đầu tư nước ngoài. • Thứ tư, năng lực cạnh tranh thấp. Bất ổn và rủi ro vĩ mô tăng lên: lạm phát tăng cao, thâm hụt ngân sách lớn, nợ công cao, dự trữ ngoại hối suy giảm khiến năng lực cạnh tranh của Việt Nam vẫn ở mức thấp, sau Singapore (hạng 3), Trung Quốc (hạng 27), Malaysia (hạng 26), Thái Lan (hạng 38), Indonesia (hạng 44). Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu tại Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) 2010-2011, mặc dù đã có sự cải thiện so với năm 2009, Việt Nam được đánh giá thấp hơn so với các nước trong khu vực xét trên 4 tiêu chí: Thể chế, Hạ tầng, Ổn định kinh tế vĩ mô, Y tế và giáo dục tiểu học. 3. So sánh các gói kích cầu cuả Việt Nam với 1 số nước trên thế giới Những khác biệt: chọn chiến thuật theo thực lực Mô hình kích cầu của khối Anh - Mỹ diễn ra sau một gói cứu trợ hệ thống ngân hàng, trong đó gói cứu trợ ngành ngân hàng của Mỹ lên đến 700 tỉ đô la. Sau đó, hệ thống này mới tiến hành gói kích cầu kinh tế. Trong khi đó, mô hình của nhóm Việt Nam - Trung Quốc là không có gói hỗ trợ ngân hàng. Nguyên nhân là vì khủng hoảng tài chính không tác động trực tiếp đến nhóm ngân hàng ở Việt Nam và Trung Quốc, ngân hàng không bị thua lỗ do các khoản nợ thứ cấp và các khoản đầu tư tài chính. Khủng hoảng ở Mỹ tác động trước tiên là đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính, góp phần làm bất ổn kinh tế nên Mỹ phải giải quyết vấn đề này trước. Tiếp theo họ phải gia tăng tổng cầu nội địa và tạo ra việc làm mới vì tổng cầu sụt giảm là nguyên nhân khiến kinh tế Mỹ suy yếu. Trung Quốc lựa chọn đầu tư vào cơ sở hạ tầng làm thế mạnh kích cầu vì nước này chọn dựa vào nguồn cầu nội địa để vượt khủng hoảng chứ không chọn dựa vào nguồn cầu nước ngoài quá nhiều để kích thích tăng trưởng trong bối cảnh thị trường xuất khẩu thế giới đang xấu đi. Theo số liệu của WB, nguồn cầu nội địa đã góp phần lớn nâng đỡ kinh tế Trung Quốc đạt mức tăng trưởng ấn tượng trong năm 2009, trong đó đầu tư vào dự án hạ tầng của chính phủ đóng vai trò chính để thúc đẩy tăng trưởng. Số liệu của Trung Quốc cho thấy trong khi tình hình việc làm tiếp tục xấu đi trong khu vực xuất khẩu và cũng ảm đạm trong khu vực công nghiệp (do một số ngành công nghiệp như xi măng, sắt thép, nhôm có dấu hiệu dư thừa công suất và buộc chính phủ phải “can thiệp”), việc làm mới được tạo ra nhiều trong khu vực dịch vụ, xây dựng và khu vực nhà nước. Rõ ràng trong năm 2009, Trung Quốc dùng phương thức kích thích kinh tế hướng vào chi tiêu rất lớn cho các dự án hạ tầng để tạo ra việc làm và nâng đỡ tăng trưởng. Ở góc độ tạo ra việc làm mới một cách trực tiếp thông qua các chương trình chi tiêu của chính phủ, chúng ta tìm thấy sự tương đồng ở Trung Quốc và Mỹ. Trong khi đó, mô hình tăng trưởng của Việt Nam lại bị ảnh hưởng nhiều bởi tổng cầu nước ngoài do phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, do đó bản thân Việt Nam không lựa chọn tăng tổng cầu nội địa mà chọn duy trì nhân tố được chính phủ đánh giá là quan trọng của nền kinh tế là các doanh nghiệp sản xuất trong nước (mà phần không nhỏ là các DNNN) và doanh nghiệp nhắm về xuất khẩu. Việt Nam vì vậy đã thực hiện việc duy trì một thị trường việc làm ổn định thông qua hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp. Có kích cung hay không thì có thể cần bàn nhưng rõ ràng duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giảm thiểu phá sản và thất nghiệp, giúp doanh nghiệp duy trì qua cơn nguy khó chờ sức cầu tăng lại là một quyết định tạm cho là thành công cho đến lúc này. Một cách nào đó, chúng ta đã đặt cược vào khả năng khôi phục của sức cầu từ bên ngoài hơn là tự tạo ra sức cầu mới bên trong nền kinh tế. Đây có thể nói là một lựa chọn phòng thủ thay vì tấn công như trong bóng đá. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế giống như kiểu một trận đấu đang bế tắc, Trung Quốc và Mỹ lựa chọn tìm kiếm giải pháp tấn công mới, mô hình hỗ trợ (tạo tăng trưởng GDP mới), khai thông thế trận mới, trong khi Việt Nam lựa chọn phòng thủ và duy trì lối chơi truyền thống (mô hình tăng trưởng vẫn dựa vào xuất khẩu), chờ đợi cơ hội. Khó có thể nói là lựa chọn nào là hoàn toàn đúng, vì vấn đề còn phụ thuộc vào thực lực của từng đội. Liệu rằng ngân sách của Việt Nam có thể bền vững nếu lựa chọn giải pháp như Mỹ và Trung Quốc? Trong bóng đá phải dựa vào thực lực của cầu thủ mình để lựa chọn chiến thuật. Thể lực không đủ thì sao có thể thực hiện bóng đá tổng lực? Nhưng thực lực đủ mà không dám đá tổng lực thì sẽ bỏ qua nhiều cơ hội đáng tiếc. Chương III : Giải pháp thực hiện chính sách kích cầu đầu tư hiệu quả ở Việt Nam. I. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kích cầu đầu tư 1. Huy động vốn kịp thời và hiệu quả. Chính sách kích cầu là cần thiết để giúp nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thoái. Tuy nhiên cũng cần thiết không kém khi bàn đến nguồn tài trợ cho chính sách này. Nếu chính phủ có thặng dư ngân sách hoặc có nguồn dự trữ dồi dào thì sẽ không gặp vấn đề gì, song trong trường hợp thu không đủ chi thì phải xem xét kỹ đến những tác động đối với nền kinh tế khi tìm nguồn tài trợ cho những khoản chi tiêu này. Do đó các nguồn lực cần phải huy động sao cho vừa đảm bảo một lượng vốn phù hợp cho kích cầu đồng thời phải đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô hậu kích cầu. Thông thường có hai cách chính phủ có thể thực hiện là vay công chúng (trong nước hoặc nước ngoài) hoặc vay ngân hàng trung ương (chính sách tiền tệ mở rộng). Mỗi chính sách đều có mặt mạnh và hạn chế. Đối với chính sách vay công chúng trong nước, với một lượng tiết kiệm nội địa có hạn, vay mượn của chính phủ sẽ làm giảm lượng vốn sẵn có cho khu vực tư nhân vay, từ đó giảm đầu tư của khu vực tư nhân. Đối với chính sách vay nước ngoài thì sẽ làm tăng nợ nước ngoài, trong dài hạn sẽ có tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế trong nước và tăng sự phụ thuộc vào nước ngoài. Chính sách này chỉ nên được thực hiện khi nợ nước ngoài còn trong giới hạn cho phép. Chính sách tiền tệ mở rộng là việc vay tiền từ ngân hàng trung ương (in tiền) để trang trải cho các khoản gia tăng trong chi tiêu và đầu tư chính phủ hay tăng cung tiền trong lưu thông thông qua các hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, giảm tỷ lệ chiết khấu hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm tỷ lệ lãi suất và do vậy tăng đầu tư của khu vực tư nhân. Chính sách này có nguy cơ dẫn đến lạm phát nếu sức tăng trong sản xuất của nền kinh tế không bắt kịp với sức tăng trong tổng cầu, song nó cũng không phải là chính sách tồi nếu nguồn tiền được tài trợ cho đầu tư có hiệu quả giúp tăng sức sản xuất trong dài hạn không những bắt kịp mà thậm chí còn vượt cả sức tăng trong tổng cầu. 2 Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn vốn kích cầu đầu tư 2.1. Kích cầu phải kịp thời Việc kích cầu đầu tư có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội, nhưng kết quả của kích cầu đầu tư lại không phải chỉ ngay trong thời gian ngắn mà có được, nó phải trải qua một quá trình dài. Vì vậy, điều đáng lưu ý là thời điểm thực thi chính sách kích cầu vì hiệu lực của chính sách này có độ trễ. Đó là khoảng thời gian khi mà chính sách kích cầu được thực thi và phát huy hết hiệu lực đối với nền kinh tế. Độ trễ này xảy ra do nền kinh tế phải có thời gian trải qua quá trình số nhân khi mà chính sách ban đầu có tác động lan tỏa đến sự vận hành tổng thể của nền kinh tế. Mục tiêu của chính sách kích cầu là “đi ngược chiều gió” kích thích nền kinh tế đang bị suy thoái. Vì vậy, việc tính toán, lựa chọn thời điểm thực thi là rất quan trọng bởi lẽ nếu lựa chọn không đúng thì khi chính sách kích cầu phát huy tác dụng mà nền kinh tế đã chuyển sang giai đoạn phục hồi và phát triển, chính sách kích cầu thậm chí còn phản tác dụng. Đó là kích thích nền kinh tế khi nó đang nóng. Kết quả sẽ là lạm phát. 2.2. Phân bổ nguồn vốn hợp lý Theo các chuyên gia, kích cầu vào đâu, kích như thế nào là vấn đề cần được cân nhắc kỹ để đúng trọng tâm và mang lại hiệu quả thiết thực. Có lẽ sẽ hiệu quả hơn nếu phân chia lĩnh vực rõ ràng đối với đầu tư công và đầu tư tư nhân (trong nước và nước ngoài). Nói chung đầu tư công nên được thực hiện đối với những hàng hóa có đặc tính của hàng hóa công cộng, những hàng hóa cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng nhưng khu vực tư nhân khó có thể cung cấp do tính khó khai thác hoặc không có nhiều cơ hội lợi nhuận. Đầu tư tư nhân sẽ tập trung vào những hàng hóa có đặc tính của hàng hóa tư nhân. Động cơ lợi nhuận sẽ giúp các doanh nghiệp tính toán sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả nhất. Để tăng đầu tư, chính phủ có thể trực tiếp tăng đầu tư của khu vực công và gián tiếp kích thích đầu tư của khu vực tư nhân. Trong giai đoạn đầu của tăng trưởng, xây dựng tốt một cơ cấu cơ sở hạ tầng vật chất và nâng cao mặt bằng nguồn vốn nhân lực là một nền tảng cần thiết giúp giảm chi phí sản xuất và tăng hiệu quả lao động của các doanh nghiệp. Do vậy, tất nhiên tăng đầu tư của chính phủ vào giáo dục, y tế, các công trình cơ sở hạ tầng như sân bay, bến cảng, đường xá, cầu cống là hết sức cần thiết. Nhưng điều đáng nói ở đây là hiệu quả vốn đầu tư vì nguồn vốn đầu tư này không phải là miễn phí, nó có chi phí cơ hội. Với nguồn ngân sách của chính phủ có giới hạn thì việc tập trung vào đầu tư hàng hóa công cộng có lẽ là sự ưu tiên nhất vì đây cũng là hình thức gián tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp do giúp làm giảm chi phí sản xuất. Để kích thích đầu tư của khu vực tư nhân phát triển, bên cạnh việc miễn giảm thuế doanh nghiệp, tạo dựng môi trường đầu tư thông thoáng hơn thì việc hỗ trợ vốn trực tiếp cho các doanh nghiệp như hình thức hỗ trợ lãi suất có lẽ nên được xem xét cẩn thận vì vấn đề này cũng có hai mặt: tính hiệu quả và tính công bằng. Xét về tính công bằng thì tất cả các doanh nghiệp đều nên được tiếp cận đến hỗ trợ vốn của chính phủ như nhau. Tuy nhiên xét về tính hiệu quả thì sẽ có các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả trong khi các doanh nghiệp khác thì không cho nên với nguồn lực có giới hạn, nếu thực hiện tràn lan sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí, không tạo được cú hích mạnh. Tác động của nó đến sức sản xuất của nền kinh tế cũng không phát huy được tối đa. Suy thoái cũng là một hình thức để đào thải những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Do vậy, lại có sự đánh đổi và tùy theo mục tiêu đưa ra mà cần có sự lựa chọn ưu tiên cho các doanh nghiệp nhận hỗ trợ vốn của chính phủ. + Nên ưu tiên cho dự án quay nhanh vòng vốn Một số ý kiến cho rằng Nhà nước cần tập trung vốn để hoàn thành các dự án thuộc lĩnh vực giao thông, thủy lợi... đang dở dang nhằm tránh lãng phí. Điều này sẽ thúc đẩy việc hoàn thành các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản. Đồng thời tạo điều kiện để bảo đảm việc thực hiện các mục tiêu thực hiện an sinh xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, phần lớn chủ đầu tư những dự án trên là các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đã từng sử dụng vốn chệch mục tiêu, sử dụng vốn chưa hiệu quả, công trình triển khai không đúng thời gian quy định. Vì thế, trước khi quyết định rót tiền, kích cầu đầu tư lại đối với các dự án này, Chính phủ cần rà soát lại hiệu quả hoạt động của các đơn vị đang quản lý các dự án; kiểm tra giám sát thường xuyên việc sử dụng vốn Nhà nước. Chính phủ nên dành tiền vào những dự án đồng vốn có thể quay vòng nhanh. Không phải cứ doanh nghiệp (DN) nào kêu khó là cứu DN đó. Đối với khối DN nhỏ và vừa, mặc dù không được hưởng lợi ích từ gói kích cầu trực tiếp nhưng họ được hưởng gián tiếp khi Chính phủ kích cầu vào các ngành và đối tượng khác, tiêu dùng tăng lên, lãi suất giảm xuống, sản xuất sẽ được khơi thông, kích thích. Đó mới là lợi ích thiết thực nhất. Hiện nay đối tượng bị tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới nhiều nhất là các DN xuất khẩu. Vì vậy, bên cạnh chủ trương dãn, giảm thuế, hoãn nợ... Chính phủ cần có những ưu đãi riêng, ví dụ như cho vay vốn với lãi suất đặc biệt ưu đãi. Mặt khác, kích cầu đầu tư không chỉ dùng tiền mà còn phải tăng cường vai trò cầu nối, xúc tiến thương mại, mở mang các thị trường mới để DN “trú bão”, đồng thời bảo đảm sự phát triển bền vững cho xuất khẩu + Hỗ trợ các dự án thu hút nhiều lao động Vấn đề đáng lo ngại nhất hiện nay là làm sao thực hiện được mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội. Bởi trên thực tế, do khó khăn nên nhiều DN đã phải cắt giảm nhân công, sa thải công nhân, cho công nhân nghỉ luân phiên... Vì thế, cần phải bảo đảm công ăn việc làm cho người lao động, bằng cách đẩy mạnh thực hiện các dự án thu hút nhiều lao động. Khi việc làm ổn định trở lại, thu nhập bảo đảm, họ sẽ tiêu dùng nhiều hàng hóa hơn. Khi đó, tự khắc việc sản xuất của DN sẽ trôi chảy. Gói giải pháp kích cầu đầu tư cần ưu tiên hỗ trợ cho nhóm DN sản xuất, cần nhiều nhân công. Việc bơm vốn cho đối tượng nào đều phải có tiêu chí cụ thể. DN thụ hưởng nguồn vốn ưu đãi phải giải trình phương án sử dụng vốn khả thi và tiết kiệm. Đối với khu vực nông thôn, chú trọng đầu tư các dự án giao thông nối liền với thành thị để tiết giảm chi phí vận chuyển, từ đó giảm giá thành sản phẩm. Việc bơm vốn cho các dự án ở nông thôn sẽ giải quyết được việc làm của những lao động có nguồn gốc từ nông thôn hiện đang bị các khu công nghiệp ở các TP lớn sa thải, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. DN đầu tư thiết bị để tăng năng lực sản xuất cũng cần được ưu tiên. Ngân hàng có thể cho DN vay vốn giá rẻ để cải tiến công nghệ, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm tạo lực đẩy tiêu thụ hàng hóa. Ngoài ra, Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ cho DN xuất khẩu về lãi suất, xúc tiến thương mại; khuyến khích DN sản xuất hàng hóa thay thế hàng hóa nhập khẩu nhằm hạn chế nhập siêu... II. Kết hợp với chính sách tiền tệ, tỷ giá, khuyến khích xuất khẩu, thu hút đầu tư Chính phủ vẫn có thể sử dụng chính sách tiền tệ để kích thích đầu tư và tiêu dùng trong nền kinh tế. Ngoài ra, một chính sách bộ trợ cần thiết là thực hiện tỷ giá linh hoạt hơn nữa cho phù hợp với thị trường. Cùng với việc mở rộng chính sách tài khóa và nới lỏng chính sách tiền tệ để kích cầu, sức ép nhập khẩu sẽ tăng lên, vừa làm giảm bớt hiệu quả của việc kích cầu, vừa gây thêm căng thẳng lên cán cân thương mại và tài khoản vãng lai vốn đã thâm hụt ở mức cao và kéo dài trong nhiều năm. Tỷ giá linh hoạt đóng vai trò quan trọng như một chiếc van điều chỉnh giúp giảm những sức ép này một cách kịp thời để tránh đổ vỡ mà nhiều nước đã gặp phải do chính sách tỷ giá quá cứng nhắc. Một chính sách tỷ giá cứng nhắc sẽ làm đồng nội tệ bị định giá cao và do đó vừa tước đi của doanh nghiệp xuất khẩu và cạnh tranh với nhập khẩu một vũ khí cạnh tranh quốc tế sắc bén, lại vừa vô hiệu hóa chiếc van an toàn quan trọng này. Nếu vào giữa năm 2008 khi lạm phát ở mức rất cao, chính sách tỷ giá được điều hành thận trọng không để đồng tiền Việt Nam mất giá nhằm giúp chống “nhập khẩu” lạm phát là rất phù hợp, thì nay trong bối cảnh lạm phát thấp trên toàn cầu, thậm chí đã có những sức ép về giảm phát, chính sách tỷ giá cần chuyển trọng tâm ưu tiên sang đảm bảo cán cân thanh toán lành mạnh thông qua việc làm cho tỷ giá linh hoạt lên đáng kể. Các nước khác cũng đang thực hiện gói kích cầu, và khi kích cầu thì không nhất thiết là chỉ kích thích tiêu dùng hàng sản xuất trong nước của các nước này, đặc biệt là khi gói kích cầu tại các nước này là rất lớn. Việt Nam có thể tận dụng để đẩy mạnh XK, do nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam là những mặt hàng thiết yếu! Chúng ta cũng có thể hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng sang các địa bàn XK phi truyền thống khác. Đồng thời với việc hỗ trợ xuất khẩu, Việt Nam cũng nên học tập Ấn Độ trong việc coi đây là cơ hội để cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. III. Giám sát và đánh giá kết quả gói kích cầu Cùng việc triển khai nhanh, giải ngân sớm các gói kích cầu đầu tư thì công tác thanh tra, kiểm tra cũng cần được tiến hành kịp thời để phát hiện những bất hợp lý giúp Chính phủ sớm điều chỉnh, bổ sung. Để thực hiện gói kích cầu đối với nền kinh tế hiệu quả nhất, chúng ta phải nghiên cứu và triển khai việc giám sát thực hiện gói kích cầu cũng như đánh giá kết quả thực hiện gói kích cầu. 1. Vai trò giám sát của Quốc Hội Kinh nghiệm kích cầu trên thế giới cho thấy, để đảm bảo việc thực hiện gói kích cầu đạt hiệu quả, chống lãng phí cũng như tham nhũng, vai trò của một cơ quan giám sát là vô cùng quan trọng. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, gói kích cầu của Tổng thống mới đắc cử Obama phải được Quốc hội Mỹ phê duyệt cả về qui mô của gói kích cầu (chi bao nhiêu tiền) cũng như cách thức thực hiện gói kích cầu (chi như thế nào, vào đâu). Gói kích cầu mặc dù được chính phủ Mỹ đưa ra, nhưng lại được quốc hội Mỹ ban hành thành Đạo Luật kích thích kinh tế 2008. Tại Việt Nam, theo ý kiến của chúng tôi, Quốc hội với vai trò là cơ quan giám sát cần được nhấn mạnh và nâng cao hơn nữa. Quốc hội cần có tiếng nói và tham gia mạnh mẽ trong việc quyết định có nên có gói kích cầu hay không, qui mô của gói kích cầu là bao nhiêu, cũng như địa chỉ của gói kích cầu. Do đó chúng tôi đề xuất: (i) Quốc hội cần có tiếng nói quan trọng hơn nữa đối với việc thông qua và sử dụng gói kích cầu do Chính phủ đề xuất; (ii) Giám sát việc kích cầu đúng đối tượng: Quốc hội phải được tham vấn chặt chẽ trong quá trình xây dựng các tiêu chí lựa chọn đối tượng hỗ trợ theo hai tiêu chí minh bạch và tính thực tế trong triển khai Quá trình tham gia này .tạo điều kiện cho việc giám sát triển khai kích cầu của Quốc hội. (iii) Giám sát việc kích cầu chỉ được thực hiện trong ngắn hạn: Quốc hội và Chính phủ nên xem xét xây dựng tiêu chí để xác định khi nào có thể dừng kích cầu. Trong trường hợp kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam phục hồi sớm trong năm 2009, thì có thể ngừng các biện pháp kích thích để tránh làm nghiêm trọng hơn thâm hụt ngân sách. (iv) Quốc hội cần có các biện pháp đảm bảo rằng sau khi vượt qua khủng hoảng và suy thoái, Chính phủ cần thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng, để cải thiện tình hình thâm hụt ngân sách. Các biện pháp này có thể được luật hóa hoặc cân nhắc như các điều kiện bắt buộc khi thông qua gói kích cầu. (v) Quốc hội và Chính phủ phải nhìn nhận công tác giám sát và đánh giá hiệu quả là phần không thể tách rời của gói kích cầu. 2. Đánh giá kết quả thực hiện gói kích cầu Việc thực hiện gói kích cầu, nếu không có sự giám sát và đánh giá có thể dẫn tới nhiều hệ hụy, vừa gây lãng phí cho ngân sách, vừa không đạt được kết quả mong muốn là kích cầu, mà còn có thể làm méo mó nền kinh tế, gây tác động không tốt cho tăng trưởng lâu dài và bền vững. Do đó, sau khi thực hiện gói kích cầu, vấn đề đánh giá kết quả của gói kích cầu là hết sức cần thiết, xem xét xem gói kích cầu có thực sự giúp chúng ta vượt qua khủng hoảng hay không, vừa tránh được lãng phí, cũng như rút ra được bài học quí báu trong quản lý và điều hành nền kinh tế vĩ mô trong thời gian tới. Đồng thời việc yêu cầu đánh giá hiệu quả gói kích cầu cũng sẽ ràng buộc trách nhiệm những người và cơ quan có liên quan. Và khi ràng buộc trách nhiệm, điều này sẽ làm cho việc thực hiện gói kích cầu đạt hiệu quả hơn. các Trong hoàn cảnh của Việt Nam, Để đảm bảo tính độc lập và phù hợp với vai trò của một cơ quan giám sát, Quốc hội là cơ quan phù hợp nhất. Chúng ta có thể tham khảo thêm thực tiễn giám sát của Hoa Kỳ và một số nước trong khu vực với gói kích cầu của họ trong quá khứ. Gói kích cầu có thể được đánh giá theo hai thước đó chính: (i) đánh giá kết quả thực hiện với mục tiêu đề ra, (ii) đánh giá tác động của gói kích cầu tới nền kinh tế i) Đánh giá kết quả thực hiện: thực tế triển khai lựa chọn đối tượng hỗ trợ, tiến độ, tốc độ triển khai kế hoạch, sự sẵn sàng của hệ thống dịch vụ công, thông tin tuyên truyền trong quá trình triển khai kích cầu. ii) Đánh giá tác động của gói kích cầu tới nền kinh tế, tới tổng cầu: so sánh hiệu quả tác động theo nhóm đối tượng, nhóm biện pháp kích cầu, so sánh hiệu quả tác động theo giá trị các gói hỗ trợ. Việc đánh giá kết quả thực hiện và tác động của gói kích cầu lần này sẽ giúp Chính phủ thêm những cơ sở thông tin quý báu cho quyết sách triển khai các gói kích cầu tiếp theo nếu có. IV. Một số đề xuất nhằm phát huy hiệu quả chính sách kích cầu Vấn đề đặt ra là triển khai các “gói kích cầu” như thế nào để đạt được hiệu quả, tránh và hạn chế đến mức thấp nhất những hệ luỵ có thể gây ra đối với nền kinh tế. Điều này đòi hỏi phải quán triệt và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau: Một là, việc sử dụng các nguồn lực kích cầu cần bảo đảm nguyên tắc kịp thời, đúng đối tượng, đem lại hiệu quả, trong mức độ cho phép và mang tính ngắn hạn. Kích cầu phải có trọng tâm, trọng điểm và triển khai đồng bộ trên cả hai góc độ sản xuất và tiêu dùng, trong đó cần ưu tiên cho các đối tượng bị “tổn thương” nhiều trong khủng hoảng kinh tế; các lĩnh vực, dự án, công trình có tính chất cấp bách, quan trọng, quay vòng vốn nhanh, có khả năng kích thích phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, miền, vừa mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa tạo, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống người lao động. Với tiêu chí đó, kích cầu ở nước ta hiện nay cần coi trọng ưu tiên cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; kinh tế tư nhân; các doanh nghiệp nhỏ và vừa; giãn và dừng các dự án kém hiệu quả. Kích cầu là để chống suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, bởi vậy kích cầu phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo, cần kết hợp chặt chẽ việc thực hiện kích cầu với cải cách hành chính, đặc biệt là giảm cơ chế “xin - cho”. Hai là, kích cầu cần phải đặt trong tổng thể chính sách vĩ mô của Nhà nước chứ không thể tách riêng. Trong điều kiện hiện nay, để tiếp tục triển khai các “gói kích cầu” một cách hiệu quả cần có sự đánh giá kịp thời, nghiêm túc, chính xác tác dụng của “gói kích cầu” ngắn hạn đã triển khai. Qua đó để thấy rõ hơn những gì đã đạt được và chưa đạt được so với mục tiêu đề ra của “gói kích cầu”, nhất là những bài học kinh nghiệm cần thiết cho việc xác định các giải pháp tiếp theo một cách phù hợp. Ba là, cần có sự cạnh tranh, bình đẳng, minh bạch trong việc tiếp cận vốn kích cầu. Theo đó, mục tiêu, thời gian, cách thức triển khai “gói kích cầu”và những đối tượng, dự án nào được hưởng vốn kích cầu, những ai làm chủ đầu tư... cần được công bố công khai rộng rãi để có một sự cạnh tranh nhất định. Tránh tình trạng “mù mờ”, khép kín, làm nảy sinh tiêu cực và hạn chế tác dụng, hiệu quả của các “gói kích cầu”. Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cấp, các ngành từ Trung ương đến các địa phương trong việc thực hiện “gói kích cầu” nhằm hạn chế việc chi sai mục tiêu, đối tượng sử dụng, gây lãng phí, thất thoát các nguồn lực, đồng thời ngăn chặn nguy cơ lạm phát tăng trở lại sau giai đoạn kích cầu làm tổn hại đến nền kinh tế. Thường xuyên cập nhật thông tin để có những đánh giá và dự báo chính xác tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước, trên cơ sở đó điều chỉnh hệ thống chính sách phù hợp với tình hình cụ thể. Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong việc thực hiện “gói kích cầu”. Năm là, để việc thực hiện các giải pháp kích cầu hiện nay một cách hiệu quả, đi đôi với những việc làm trên cần tập trung rà soát, khắc phục các vướng mắc, khó khăn đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa kích cầu đầu tư với kích cầu tiêu dùng, giữa đẩy mạnh xuất khẩu với mở rộng khai thác thị trường nội địa, trong đó cần chú trọng cả thị trường ở khu vực nông thôn và thị trường khu vực thành thị. Cuối cùng, là giảm thiểu các tác động trái chiều: Để giảm thiểu các tác động trái chiều của “gói kích cầu” cần chú ý: Không “kích cầu” tuỳ tiện theo thành tích hoặc theo lợi ích ngắn hạn; Thực hiện tốt hơn việc lựa chọn hợp lý và công khai các tiêu thức, cũng như thuận lợi hoá các thủ tục giải ngân cho các dự án thuộc danh mục được kích cầu; Tập trung đầu tư cho các dự án sắp hoàn thành, đưa nhanh vào khai thác sử dụng, các dự án có dung lượng và triển vọng thị trường tiêu thụ tốt, các dự án góp phần trực tiếp duy trì và mở rộng năng lực sản xuất và kinh doanh cần thiết của doanh nghiệp và nền kinh tế, các dự án thúc đẩy chuyển dịch và cải thiện cơ cấu, sức cạnh tranh kinh tế theo hướng phát triển bền vững... Đặc biệt, ưu tiên vốn cho các dự án có tính thúc đẩy phát triển liên ngành cao, hoặc tạo thị trường tiêu thụ tiềm năng; nhất là các dự án có ý nghĩa tổng hợp cả kinh tế-xã hội và môi trường.. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy mạnh và hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại, kể cả bằng nguồn vốn trong gói kích cầu nhằm khơi thông thị trường vốn và thị trường tiêu thụ nước ngoài mới cho các doanh nghiệp trong nước; thực hiện các CCHC cải thiện căn bản môi trường đầu tư theo hướng tự do hoá, thuận lợi hoá, dỡ bỏ những hạn chế lạc hậu về hạn điền, thời hạn giao đất... ; khuyến khích xã hội hoá; mạnh dạn giảm thuế, tăng các hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp có một phần vốn nhà nước;  phát triển, hiện đại hoá và tự do hoá cao hơn thị trường vốn; tiếp tục quá trình cổ phần hoá và nới rộng hơn các tỷ lệ sở hữu tư nhân và nước ngoài trong các DNNN và cung cấp các hàng hoá tốt cho TTCK. Cần nhấn mạnh rằng, về trung hạn và dài hạn cần tăng cường sử dụng các công cụ chứng khoán hoá nợ thông qua Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước cũng như các công ty mua bán nợ Nhà nước khác để thực hiện các trợ giúp từ gói kích cầu của Chính phủ. Nói cách khác, cần giảm dần việc hỗ trợ trực tiếp lãi suất cho các doanh nghiệp như hiện nay, để chuyển sang mở rộng việc Chính phủ thông qua Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước, cũng như các công ty kinh doanh nợ khác tiến hành mua bán chứng khoán của các công ty cần hỗ trợ theo những định hướng lựa chọn phù hợp thực tiễn phát triển doanh nghiệp và mục tiêu kích cầu cụ thể cho từng giai đoạn. Cách thức này cho phép đưa sự hỗ trợ Nhà nước phù hợp hơn các nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc tế, cũng như góp phần phát triển thị trường tài chính trong nước... Ngoài ra, cần theo dõi chặt chẽ, nâng cao chất lượng phân tích và dự báo tình hình trong nước và quốc tế, đặc biệt là những biến động về tình hình kinh tế, tài chính thế giới, chủ động xây dựng các phương án ứng phó; Linh hoạt trong điều hành lãi suất và tỷ giá, chủ động kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanhphó; Linh hoạt trong điều hành lãi suất và tỷ giá, chủ động kiểm soát mức tăng tổng phương tiện thanh toán; Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để kịp thời ngăn ngừa các sai phạm, đẩy mạnh công tác kiểm soát giá cả, chống gian lận thương mại, đầu cơ, buôn lậu, nâng giá, kiếm lời bất chính. Trong vấn đề kiểm soát thị trường, chú ý đến liều lượng, thời lượng, chính sách bổ trợ khi xây dựng và thực thi những giải pháp đã, đang và sẽ triển khai... IV. Các giải pháp kích thích đầu tư trong dài hạn Giải pháp kích cầu đầu tư trong nước Một là: Tập trung mọi nguồn lực tài chính đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, mở rộng dịch vụ theo hướng tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Nguồn lực quan trọng nhất là vốn để đầu tư cho các ngành kinh tế, các doanh nghiệp, các hộ sản xuất, kinh doanh dịch vụ chất lượng cao, giá thành hạ. Do vậy, kích cầu bằng giải pháp đầu tư trực tiếp và gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất ngân hàng là giải pháp quan trọng hàng đầu của Nhà nước. Trong kích cầu đầu tư, nguồn tiền sẽ được trích từ ngân sách nhà nước về xây dựng cơ bản hằng năm, trái phiếu Chính phủ và vốn ODA. Khuyến khích các thành phần kinh tế, doanh nghiệp tham gia, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư vào các lĩnh vực như xây dựng kết cấu hạ tầng, giao thông vận tải, điện, xi măng… Hai là: Triển khai sớm chủ trương hỗ trợ lãi suất của Chính phủ đối với các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng thương mại. Hỗ trợ lãi suất vốn vay trong chương trình kích cầu nên ưu tiên cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ để có thể tạo thêm nhiều việc làm, thu hút nhiều lao động đang thất nghiệp hoặc lao động dư thừa ở khu vực nông thôn vốn đang thiếu việc làm nghiêm trọng .Các doanh nghiệp toàn quyền quyết định vốn vay để sản xuất, kinh doanh sao cho hiệu quả nhất (tức cũng có lợi cho nền kinh tế). Nhà nước chỉ hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay nằm trong danh mục được hỗ trợ (hoặc nằm ngoài danh mục không được hỗ trợ) trong ý nghĩa là giúp cho các doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng chi phí tài chính với mục tiêu khuyến khích họ tiếp tục duy trì sản xuất, kinh doanh. Ba là: Tập trung cao độ cho những ngành và lĩnh vực yếu thế nhưng còn nhiều tiềm năng phát triển toàn diện, tăng trưởng cao, hấp thụ vốn nhanh, trước hết là nông nghiệp, nông dân và nông thôn.Tăng cường và ưu tiên kích cầu cho nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn cũng là một hướng cần ưu tiên cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất tín dụng. Khu vực nông thôn, nông nghiệp, thủy sản chiếm hơn 70% dân số và lao động xã hội. Đây cũng là khu vực ít chịu tác động trực tiếp của cuôc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nên nếu được ưu tiên đầu tư thỏa đáng sẽ có bước phát triển mới, không chỉ tăng nhanh nông sản hàng hóa phục vụ tiêu dùng trong nước, xuất khẩu, tăng giá trị GDP bù đắp phần nào cho sự giảm sút từ công nghiệp và dịch vụ, mà còn tạo thêm chỗ làm mới để thu hút lao động thất nghiệp từ thành phố, từ các khu công nghiệp trở về nông thôn làm việc. Một trong những giải pháp quan trọng là tăng cường đầu tư vốn, khoa học - công nghệ và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản thông qua gói kích cầu của Chính phủ. Bốn là: Tăng cường sự phối hợp của các bộ, ngành Trung ương, các địa phương trong chỉ đạo, triển khai các biện pháp kích cầu của Chính phủ cho sản xuất, dịch vụ. Các giải pháp trước mắt là: Các bộ, ngành quan liên quan rà soát lại toàn bộ các văn bản pháp luật hiện hành về đầu tư, sửa đổi những bất cập làm ảnh hưởng đến tiến độ các dự án đầu tư kích cầu. Nghiên cứu, ban hành các văn bản pháp quy mới nhằm tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn FDI và ODA, nhất là các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng, các dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao có giá trị xuất khẩu lớn, những dự án giải quyết việc làm, các dự án công trình có quy mô lớn... tiếp cận nguồn vốn giải phóng mặt bằng lãi suất kích cầu của Chính phủ... 2. Giải pháp kích cầu đầu tư nước ngoài Thứ nhất, về nhóm giải pháp liên quan tới chính sách thu hút đầu tư, Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung chính sách về đầu tư, kinh doanh, ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào một số lĩnh vực, thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân... Thứ 2, Nhóm giải pháp về quy hoạch. Theo đó, công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư, quán triệt và thực hiện thống nhất quy định của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch... Thứ 3, là nhóm giải pháp về cơ sở hạ tầng, bao gồm tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020, huy động tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, tăng cường năng lực cạnh tranh. Thứ 4, trong nhóm giải pháp về nguồn nhân lực, Chính phủ yêu cầu hoàn thiện các văn bản pháp lý về hợp tác đầu tư trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút ĐTNN đào tạo lao động ở các trình độ, nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ lao động, đặc biệt đối với người nông dân bị thu hồi đất sản xuất để giao cho dự án. Thứ 5, là nhóm giải pháp về công tác phối hợp trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động ĐTNN. Theo đó, Trung ương và địa phương sẽ phối hợp chặt chẽ trong việc cấp phép và quản lý các dự án ĐTNN. Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý ĐTNN, tiến hành tổng kết, đánh giá việc phân cấp trong quản lý nhà nước về hoạt động ĐTNN... Thứ 6, là nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư, gồm nghiên cứu đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm, tổ chức khảo sát, nghiên cứu và xây dựng mô hình cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung ương và địa phương... Bên cạnh 6 nhóm trên, Chính phủ cũng đề ra một số giải pháp khác như đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra... KẾT LUẬN Trên cở sở tìm hiểu lý luận chung về đầu tư và kích cầu đầu tư, xem xét các nhân tố tác động tới kích cầu đầu tư, nhận thức kích cầu có tác dụng rất quan trọng đối với mỗi quốc gia và mang tính tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Vai trò của kích cầu đầu tư càng phát huy tác dụng trong giai đoạn nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái hay khủng hoảng. Tiếp đó, nhóm thảo luận đã phân tích các công cụ và biện pháp mà chính phủ sử dụng trong giai đoạn hiện nay và tham khảo kinh nghiệm kích cầu đầu tư của các quốc gia trên thế giới chúng em đã thấy được sự vận dụng lý thuyết kích cầu đầu tư vào thực tiễn qua đó đề xuất những giải pháp để thực hiện chính sách này sao cho có hiệu quả. Bài thảo luận cho thấy chính sách kích cầu trong thời kỳ suy thoái là một công cụ hữu hiệu trong việc hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và bình ổn. Bên cạnh những mặt tích cực thì vẫn tồn tại những hạn chế. Biểu hiện rõ nét nhất là sự đánh đổi giữa tính hiểu quả và công bằng, mục tiêu tăng trưởng trong ngắn hạn và dài hạn, phát triển và lạm phát. Nhận thức được những hạn chế này sẽ giúp chính phủ có được những sự lựa chọn thích hợp trong việc thực thi chính sách. Những chính sách can thiệp của nhà nước nên dừng ở mức độ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển lành mạnh, dần nâng cao khả năng tự chủ dựa vào nội lực là điều cần thiết để giảm thiểu tác động tiêu cực của những biến động cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong quá trình làm bài thảo luận chúng em còn có những hạn chế và thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp và nhận xét từ thầy giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo 1. PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt- TS Từ Quang Phương, Giáo trình “Kinh tế đầu tư” NXB Đại học kinh tế quốc dân 2. Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Thắng ,Nguyễn Đức Nhật, Chính sách Kích cầu trong hoàn cảnh Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu Chính sách và Phát triển , Trung tâm Phân tích và Dự báo 3. Bài tiểu luận bộ môn kinh tế vi mô : Chính sách kích cầu của Việt Nam , khoa kinh tế, Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh 4. Lê Thế Giới, Các giải pháp thu hut đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Tạp chí kinh tế và phát triển 5. Phạm Văn Sơn, Thực hiện " Gói kích cầu" và những bất cập cần khắc phục, Chuyên đề: Nghiên cứu - trao đổi Tạp chí số: Tạp chí Số 15 Năm xuất bản: 2009 6.Nguyễn Minh Phong, Tác động "Kích Cầu" nhìn từ 2 phía, Chuyên đề: Nghiên cứu - trao đổi Tạp chí số: Tạp chí Số 9 Năm xuất bản: 2009      7. J.Keynes: Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước 8. Trần Đình Thiên, 2009. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tác động đến Việt Nam và giải pháp ứng phó. Hội thảo khoa học “Tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới- chính sách ứng phó của Việt Nam”. Viên Kinh tế Việt Nam. 9. TỔNG QUAN ODA Ở VIỆT NAM 15 NĂM (1993-2008) ngày 19/10/2010 , cổng thông tin điện tử Sở KH&ĐT Hà Nội 10. TỔNG QUAN VỀ DÒNG VỐN FDI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1988 – 2007 của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 11. Giáo trình “Kinh tế phát triển” _ NXB ĐH KTQD Website: Tổng cục Thống kê www.gso.gov.vn Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.gov.vn Bộ tài chính: www.mof.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác lý thuyết kích cầu đầu tư_ý nghĩa và thực tiễn của việt nam.doc
Luận văn liên quan