Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư, giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta

Đầu tư là hoạt động không thể thiếu được trong nền kinh tế của các quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Đầu tư góp phần tạo nên tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Có thể nói đầu tư đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của chính phủ các nước nói chung và của chính phủ Việt Nam nói riêng. Hoạt động đầu tư là hoạt động mang tính chất lâu dài được thể hiện ở thời gian thực hiện đầu tư, thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi số vốn đã bỏ ra đối với các cở sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh. Do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế. Mọi kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện đầu tư cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Bởi vậy, để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao thì phải xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư, nghiên cứu các tác động của chúng, từ đó đưa ra được các giải pháp hạn chế tác động tiêu cực và gia tăng tác động tích cực. Đây là vấn đề cần phải được quan tâm đúng mức. MỤC LỤC CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHI TIÊU ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ I.Một số khái niệm cơ bản 1.Khái niệm về đầu tư 2.Phân loại đầu tư 3. Chi tiêu đầu tư II. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư III. Kích cầu đầu tư 1. Khái niệm 2. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư 3. Các biện pháp kích cầu đầu tư CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 ĐẾN NAY I.Thực trạng đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2000 đến nay II.Tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHI ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở NƯỚC TA I.Nhóm giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn II. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư III.Nhóm giải pháp nhằm tăng hiểu quả các gói kích cầu

doc68 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3965 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư, giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẩu phục vụ sản xuất xuất khẩu; tiếp tục tạm hoàn thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011. Bộ Tài chính sẽ rà soát để giảm thuế đối với những nguyên liệu đầu vào trong nước chưa sản xuất được và nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp đối với những mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu... Trong thời gian tới, các chính sách thuế sẽ tiếp tục được rà soát, điều chỉnh nhằm hỗ trợ và thúc đầy hiệu quả nhất cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; đồng thời đảm bảo bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và giữ vai trò là một công cụ tài khóa có tác động ổn định trong dài hạn. 3.Đầu tư nhà nước. Trong những năm qua, đầu tư công chiếm gần một nửa tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đầu tư nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam với tốc độ tương đối cao, nhờ đó công cuộc xoá đói, giảm nghèo đạt được kết quả khả quan và mức sống của nhân dân được cải thiện. Theo Tổng cục thống kê, tỷ trọng đầu tư của khu vực nhà nước trong tổng đầu tư toàn xã hội đã giảm khá nhanh, từ khoảng 59,2% năm 2000 xuống còn 28,5% năm 2008, trong đó : đầu tư từ ngân sách nhà nước là 16,2%, tín dụng nhà nước là 4,1% và doanh nghiệp nhà nước là 8,2%; tỷ trọng đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng lên từ khoảng 22,9% lên 40% và tỷ trọng khu vực đầu tư nước ngoài tăng từ khoảng18% lên 31,5% trong cùng thời kỳ. Nhưng năm 2009, ước tính tỷ trọng đầu tư của khu vực nhà nước lại tăng, chiếm khoảng 34,8% tổng đầu tư toàn xã hội, trong đó đầu tư từ ngân sách nhà nước là 21,8%. Trong khi đó, đầu tư nhà nước vẫn còn đáng kể ở một số ngành mà tư nhân có thể đã sẵn sàng đầu tư như : thương mại (2%), khách sạn (1%), xây dựng dân dụng (6%), du lịch (1%),…   Về cơ cấu đầu tư theo mức giá trị gia tăng, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho biết, 42% tổng đầu tư xã hội đã đầu tư vào 20 ngành có hệ số giá trị gia tăng vốn đầu tư cao nhất, từ 1,28 trở lên, trong đó có hơn 43% vốn đầu tư của nhà nước và 53,5% vốn đầu tư nước ngoài. Qua đó thấy rằng, các nhà đầu tư nước ngoài đã tận dụng tốt nhất cơ hội đầu tư vào các ngành hiện có hiệu quả đầu tư cao của nền kinh tế nước ta. Thực tế cho thấy, tỷ trọng đầu tư, cả đầu tư xã hội và đầu tư nhà nước, vào nông nghiệp-nông thôn đã giảm đi khoảng một nửa kể từ năm 2000. Đầu tư vào công nghiệp chế biến nông phẩm trước hết để phục vụ tiêu dùng nội địa rất kém phát triển; các sản phẩm bán chạy trên thị trường nội địa phần lớn do doanh nghiệp nước ngoài chi phối. Đầu tư công để thể hiện vai trò nòng cốt trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng hệ thống an sinh xã hội và tăng mức sống dân cư nói chung. Về mặt ưu điểm, đầu tư trong giai đoạn từ năm 2000 trở lại đây có được những thành tựu như: + Phát triển nhanh hạ tầng kinh tế&xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các công trình giao thông then chốt của nền kinh tế như đường bộ, sân bay, bến cảng, đường sắt, công trình thủy lợi được nâng cấp và làm mới, tập trung xây dựng các công trình điện, thông tin liên lạc, cải tạo và xây dựng mới kết cấu hạ tầng các khu đô thị, khu công nghiệp, các bệnh viện, trường học, công trình văn hóa thể thao, đầu tư nhiều hơn cho các chương trình mục tiêu quốc gia + Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, tăng năng lực sản xuất mới. Cụ thể thực hiện ở giai đoạn 2001-2009 là: - Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% lên 41% (kế hoạch 38 - 39%) - Tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp giảm từ 24,5% xuống còn 20,5% (kế hoạch 20 – 21%). - Tỷ trọng dịch vụ đạt 38,5% (kế hoạch 41 -42%). + Nguồn vốn đầu tư của nhà nước đã góp phần quan trọng vào việc thu hút vốn đầu tư của xã hội, đầu tư nước ngoài làm cho tổng mức đầu tư toàn xã hội tăng nhanh. + Việc tổ chức quản lý đầu tư, chỉ đạo, điều hành có một số mặt được đổi mới, tiến bộ thể hiện ở việc: Từng bước hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư từ nguồn vốn nhà nước. Giảm sự can thiệp trực tiếp của nhà nước đối với hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng cường trách nhiệm của người quyết định đầu tư, chủ đầu tư trong việc quyết định, tổ chức thực hiện và phát huy hiệu quả đầu tư. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn này cũng thể hiện nhiều hạn chế. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng X đã nhận định “Hiệu quả đầu tư thấp, đặc biệt là tình trạng đầu tư của nhà nước dàn trải, thất thoát nhiều”. + Thực tế là hiệu quả đầu tư thấp, đầu tư dàn trải thể hiện qua hệ số ICOR giai đoạn 2001-2005 là 5, từ năm 2007 ICOR đã đạt tới 5-6, tới năm 2009 hệ số này của Việt Nam đã tăng lên 8. Điều này thể hiện rằng chúng ta phải bỏ ra quá nhiều nguồn lực để có được tăng trưởng kinh tế, mà nguyên nhân chủ yếu là thất thoát, lãng phí trong đầu tư nên đồng vốn khả dĩ đã ít ỏi lại sử dụng phi hiệu quả, tạo hiệu ứng tăng trưởng không lành mạnh và kém bền vững cho nền kinh tế. + Chất lượng Qui hoạch còn nhiều bất cập, chưa gắn kết chặt chẽ qui hoạch phát triển ngành với vùng, địa phương. Qui hoạch chưa sát thực tế, còn chồng chéo, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa chú trọng thỏa đáng yếu tố môi trường xã hội. + Đầu tư dàn trải, tiến độ thi công dự án chậm trễ, kéo dài. + Tình trạng thất thoát, lãng phí vốn đầu tư diễn ra trong tất cả các giai đoạn của u tư. Năm 2002 thanh tra Chính phủ thanh tra 17 dự án lớn phát hiện sai phạm chiếm 13,59%, năm 2002 thanh tra 14 dự án số sai phạm về kinh tế và lãng phí vốn đầu tư là 19,1% số vốn được thanh tra. Nguyên nhân của thực trạng đầu tư công kém hiệu quả là do một số yếu tố sau : Việc quản lý và giám sát đầu tư còn yếu kém làm thất thoát vốn đầu tư và chưa đảm bảo chất lượng và hiệu quả công trình như dự kiến; phân cấp quyết định và sử dụng vốn đầu tư chưa đi kèm với giám sát, kiểm tra chất lượng và hiệu quả đầu tư. Thêm vào đó, các doanh nghiệp nhà nước còn được bao cấp một số nhân tố sản xuất, nhất là đất đai và trong một chừng mực nhất định là vốn tín dụng; giá đất và giá tài sản cố định trong nhiều trường hợp chưa tính đúng và tính đủ; dẫn đến chưa tính đúng, tính đủ chi phí kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước hiện vẫn dựa nhiều vào vốn tín dụng và tài nguyên thiên nhiên để đầu tư mở rộng qui mô kinh doanh. Hệ quả là đòn bẩy tài chính luôn cao và có thể còn gia tăng, không thể chủ động trong đầu tư phát triển. Quản trị ở các doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém, quyền chủ sở hữu nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ, kém hiệu lực và ít hiệu quả. Năm 2011, nhà nước cũng đã có chính sách cụ thể nhằm từng bước tháo gỡ vấn đề này. Nghị quyết 11/ NQ-CP đã quán triệt tinh thần: + Không ứng trước vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ năm 2012 cho các dự án, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách. + Không kéo dài thời gian thực hiện các khoản vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, Chính phủ kế hoạch năm 2011, thu hồi về ngân sách Trung ương các khoản này để bổ sung vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2011. + Thành lập các đoàn kiểm tra, rà soát toàn bộ các công trình, dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ đã được bố trí vốn năm 2011, xác định cụ thể các công trình, dự án cần ngừng, đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện trong năm 2011. + Kiểm tra, rà soát lại đầu tư của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các biện pháp xử lý, loại bỏ các dự án đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, kể cả các dự án đầu tư ra nước ngoài. + Chưa khởi công các công trình, dự án mới sử dụng vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách và các dự án trọng điểm quốc gia và các dự án được đầu tư từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). 4.Chính sách tỷ giá. Năm 2008 được giới phân tích tài chính coi là "năm bất ổn của tỷ giá" với những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn. Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có trong lịch sử và chốt lại ở mức 17.440 VND/USD vào tháng 11/2008. Bước sang năm 2009, do hậu quả của chính sách hỗ trợ lãi suất mà tỷ giá có xu hướng tăng lên. Tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng đà tăng trong 4 tháng đầu năm, đặc biệt sau khi NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao dịch trên TTTD tiến sát mức 18000đồng/USD. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, bình quân 9 tháng của năm 2009, tỷ giá VND/USD tăng 9,08% so với cùng kỳ năm 2008. Trước tình hình biến động mạnh và có chiều hướng tăng của tỷ giá NHNN đã có những biện pháp để ổn định tỷ giá. Cụ thể : quyết định điều chỉnh nhanh mạnh chính sách tiền tệ, giảm bớt biên độ tỷ giá từ 5% xuống còn 3%, đồng thời điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 5,44%. Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%). Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước. Tỷ giá đô năm 2010 vẫn tiếp tục là một vấn đề gây chú ý với các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu cũng như giới đầu tư khi nó liên tục có những diễn biến bất thường, gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô. Sau khi ngân hàng nhà nước thực thi nhiều biện pháp kiểm soát mạnh thị trường ngoại hối cuối năm 2009, tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do đã dần hạ nhiệt, tuy nhiên chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị trường chính thức vẫn còn tương đối cao vào khoảng 1000VND trên 1 USD giao dịch. Ngày 10/2, NHNN bất ngờ phá giá VND thêm 3,3% từ 17.941 lên 18.544. Sau một thời gian ổn định trong quý 2, giá USD lại có xu hướng tăng mạnh từ cuối tháng 6, kéo dài cả tháng 7 và tiếp tục tăng vào tháng 8, cuối cùng đạt mức 19.330 vào ngày 17/8. Ngày 18/8/2010, NHNN bất ngờ điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 1USD=18.932VND, tương đương với việc đồng Việt Nam giảm giá 2%. Như vậy, trong vòng chưa đầy một năm, NHNN đã 3 lần điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng và VND bị mất khoảng 10,5% giá trị. Sau lần điều chỉnh này, giá USD tương đối ổn định dao động quanh mức 19.500VND trên thị trường tự do. Tuy nhiên, từ cuối tháng 9 giá USD tăng mạnh và vượt mức trên 20.000 vào ngày 19/10. Như vậy, động thái phá giá nhỏ giọt đồng USD từng bước một trong năm 2010 đã gây khó dễ cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như các doanh nghiệp lo ngại khi tiến hành giải ngân vốn hoặc nhập khẩu hàng hóa phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, các nhà đầu tư và các doanh nghiệp luôn trong trạng thái “trông chờ”, “nghe ngóng” đợi động thái của các nhà quản lý tỷ giá, khiến sự mất cân đối trên thị trường tỷ giá càng trở nên khó giải quyết hơn bao giờ hết. Bước sang năm 2011, vào ngày 11/2, NHNN VN ra quyết định tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và VND lên 9,3% từ 18.932 VND lên 20.693 VND cùng với đó là thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của các ngân hàng thương mại từ +/-3% xuống còn +/-1%. Mặc dù lần điều chỉnh này đạt kỷ lục về biên độ điều chỉnh và tính bất ngờ của thời điểm, song hầu hết lại đều đã nằm trong dự đoán của những doanh nghiệp quan tâm tới tỷ giá. Do vậy có thể nói đa số các nhà đầu tư đã chuẩn bị sẵn sàng cho lần tăng tỷ giá này và không bị “sốc” trước con số 9,3%. Đây cũng là động thái phù hợp với yêu cầu của thị trường, rút ngắn đáng kể khoảng cách giữa giá USD trên thị trường tự do và thị trường chính thức, về lâu dài sẽ làm lành mạnh hóa thị trường ngoại tệ và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp mà hoạt động sản xuất cũng như thương mại có mối hệ mật thiết với đồng đô la Mỹ. 5.Bình ổn giá, kiềm chế lạm phát. Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 và 11 tháng của năm 2010 (đơn vị %). Nguồn: Tổng cục Thống kê Nhìn trên đồ thị ta có thể thấy, chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 tương đối ổn định, ngoại trừ tháng 2 và tháng 12, chỉ số giá tiêu dùng tăng trên 1%, CPI tăng mạnh nhất vào tháng 12 ở mức 1,38%; các tháng còn lại đều duy trì mức tăng chỉ số giá tiêu dùng dưới 1%. Tổng kết cả năm 2009 với mức tăng chung của CPI cả năm ở mốc 6,88% so với cùng kỳ năm 2008, mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức 7% mà Chính phủ đề ra đã đạt được. Năm 2009 cũng là năm có tốc độ tăng CPI thấp nhất trong 6 năm trở về trước (Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2004 tăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%). Như vậy trong bối cảnh nền kinh tế thế giới vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi khủng hoảng, Việt nam vẫn đạt được mức tăng trưởng tương đối cao (5,32%) đồng thời duy trì làm phát ở mức 1 con số (6,88%), cho thấy sự nỗ lực của Chính phủ trong việc cân đối mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu chống lạm phát trong năm này đã phát huy tác dụng, góp phần ổn định kinh tế đời sống và tâm lý cho nhân dân. Tuy nhiên, những tháng cuối năm 2010, mức giá đa số các mặt hàng tăng đột biến khiến dư luận hoang mang và quan ngại về sự trở lại của lạm phát. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước trong tháng 11 tăng tới 1,86% so với tháng 10 và là mức tăng cao nhất của tháng 11 trong vòng 10 năm trở lại đây. CPI 11 tháng đã tăng ở mức 9,58%, vượt 2,58 % so với kế hoạch cả năm 2010 theo Nghị quyết của Quốc hội. Đứng trước diễn biến bất ổn của lạm phát những tháng cuối năm, Chính phủ đã kịp thời đưa ra các chỉ đạo hướng dẫn bỉnh ổn giá. Chỉ thị số 1875/CT-TTg, ngày 11-10-2010 về việc tăng cường thực hiện các biện pháp bình ổn giá cả, thị trường những tháng cuối năm 2010 chỉ rõ các biện pháp cần thiết trong công tác quản lý và điều hành giá bao gồm: + Thứ nhất, giữ ổn định một số giá hàng hóa, dịch vụ đầu vào cơ bản của nền kinh tế như: giá điện, giá than (bán cho bốn ngành tiêu thụ than lớn: xi-măng, điện, giấy, phân bón), giá nước sạch cho sinh hoạt, cước vận tải hành khách bằng xe buýt, bằng đường hàng không. Sử dụng linh hoạt công cụ thuế, phí, quỹ bình ổn giá để bình ổn giá xăng dầu ở mức phù hợp. + Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ chi tiêu ngân sách Nhà nước chi cho các phương án giá, mức giá hàng dự trữ quốc gia; hàng hóa, dịch vụ Nhà nước đặt hàng; hàng hóa còn được trợ cước, trợ giá; hàng hóa, dịch vụ thực hiện chính sách xã hội... hạn chế cao nhất trường hợp vượt mức dự toán, ứng vốn. + Thứ ba, kiểm soát việc đăng ký giá, kê khai giá khi DN đăng ký thay đổi mức giá đối với 17 mặt hàng thuộc diện phải đăng ký giá như: xi-măng, thép xây dựng, gas, than, phân bón hóa học, đường ăn, sữa bột cho trẻ em dưới sáu tuổi... và sáu mặt hàng phải kê khai giá như: thuốc phòng, chữa bệnh cho người, cước vận tải bằng ô-tô, dịch vụ tại cảng hàng không. + Thứ tư, tăng cường kiểm soát thuế, kiểm soát siêu lợi nhuận gắn liền với kiểm tra giá, chống liên kết độc quyền nâng giá và đầu cơ trái pháp luật. Kiểm soát việc chấp hành pháp luật Nhà nước về giá. + Thứ năm, chủ động áp dụng các biện pháp bình ổn giá theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, chỉ thị cũng nêu ra các giải pháp giải quyết tận gốc vấn đề tăng giá bất hợp lý, bao gồm: + Áp dụng ngay các biện pháp tháo gỡ khó khăn để các DN khai thác, đẩy mạnh năng lực sản xuất, nắm chắc nhu cầu thị trường trong nước, xuất khẩu; tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm + Giữ vững các cân đối kinh tế vĩ mô, bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hóa, dịch vụ giữa các vùng, miền trong cả nước. + Khuyến khích các DN thực hiện các chương trình khuyến mãi, giảm giá. Hỗ trợ vốn, lãi suất cho các DN kinh doanh các hàng hóa dịch vụ thiết yếu chiếm thị phần lớn, dự trữ hàng hóa + Kiểm soát chi ngân sách, ngừng các khoản chi chưa thật sự cấp bách, không thiết thực. Ðiều hành từng bước giảm lãi suất tín dụng; điều hành tỷ giá ngoại tệ linh hoạt; áp dụng các biện pháp cho phép các ngân hàng thương mại có thể rút nhanh tiền ra khỏi lưu thông. Mặc dù đã tích cực và quyết liệt trong công tác bình ổn giá, song cuối năm 2010 và đầu năm 2011, đa số các mặt hàng vẫn tiếp tục tăng giá. Nguyên nhân là do chúng ta đã hội nhập với nền kinh tế thế giới, và Việt Nam hiện nay vẫn phải nhập siêu, năm 2010 lại là năm mà giá cả trên thế giới cũng tăng, nên giá hàng hóa nước ta cũng tăng là điều không tránh khỏi. Một yếu tố khác là thiên thai, bệnh dịch ảnh hưởng không nhỏ tới chăn nuôi và sản xuất trong nước năm 2010; đồng thời nguyên nhân sâu xa vẫn là do chi tiêu quá mức, bội chi ngân sách, nợ công tăng nhanh và nhập siêu lớn cùng với chính sách tài chính-tiền tệ chưa hợp lý. Tổng hợp các nguyên nhân trên dẫn tới thực trạng là các giải pháp bình ổn giá trong ngắn hạn không thể giải quyết tận gốc vấn đề lạm phát; đặt ra yêu cầu phải có hệ thống các phương pháp chống lạm phát mang tính dài hạn. 6.Xúc tiến thương mại. Năm 2008 hoạt động xuất khẩu nói riêng và thương mại nói chung của nước ta gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, Cục Xúc tiến thương mại do nắm vững chỉ đạo của Bộ coi việc đẩy mạnh xuất khẩu là trọng tâm, tập trung mọi nỗ lực góp phần hạn chế những khó khăn, phục vụ việc tìm kiếm và mở rộng các thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, đồng thời thực hiện được một số chương trình như sau: + Đối với hoạt động hội chợ triển lãm ở nước ngoài, Cục Xúc tiến thương mại đã xác nhận đăng ký cho 43 hội chợ triển lãm thương mại do thương nhân đăng ký tổ chức. + Đối với khuyến mại, Cục Xúc tiến thương mại đã xác nhận đăng ký 318 chương trình khuyến mại với tổng giá trị giải thưởng đăng ký trên 431 tỷ đồng. Qua đó thu hồi hơn 21 tỷ đồng tương đương 50% giá trị của các giải thưởng không có người trúng thưởng nộp ngân sách nhà nước. Đồng thời đã giám sát điển hình 114 chương trình khuyến mại qua đó phát hiện và xử lý 08 trường hợp vi phạm. + Cục Xúc tiến thương mại đã tích cực triển khai có hiệu quả một số hoạt động , nổi bật là Tổ chức Lễ Công bố Ngày Thương hiệu Việt Nam và các thương hiệu sản phẩm tham gia Chương trình Thương hiệu quốc gia vào ngày 17/4/2008 tại Hà Nội. + Tổ chức và chủ trì thành công Diễn đàn Xúc tiến thương mại châu Á lần thứ 21 lần đầu tiên tại Việt Nam từ 3-4/4/2008, với sự tham dự của lãnh đạo 18/21 tổ chức xúc tiến thương mại trong khu vực. Năm 2009, trong bối cảnh hoạt động thương mại phải đương đầu với nhiều khó khăn, những diễn biến khó lường, xúc tiến thương mại (XTTM) được xem như là một trong các giải pháp mạnh được triển khai để khai thác những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, góp phần để nền thương mại vẫn có vị thế xứng đáng trong tiến trình hội nhập  và phát triển. Cục xúc tiến thương mại đã triển khai các hoạt động sôi nổi như: + Cục Xúc tiến thương mại đã trực tiếp thụ lý xác nhận trên 360 chương trình khuyến mại với tổng trị giá giải thưởng đăng ký hơn 500 tỷ đồng; Ban hành 65 quyết định thu hồi nộp ngân sách nhà nước trên 10 tỷ đồng là 50% trị giá giải thưởng không có người trúng thưởng của các chương trình nói trên. Đồng thời Cục Xúc tiến thương mại đã giám sát 60 chương trình khuyến mại, xử lý 14 trường hợp vi phạm trong lĩnh vực khuyến mại. + Trong năm 2009 trên cả nước đã có hơn 300 Hội chợ triển lãm. + Các DN đã tổ chức các đoàn DN tham gia 69 HCTL tại nước ngoài. Năm 2010, 2011, các hoạt động xúc tiến thương mại tiếp tục diễn ra sôi nổi và đa dạng hơn với chất lượng ngày càng được chú trọng. Năm 2011, Bộ Công Thương đã phê duyệt tổng số 93 đề án xúc tiến thương mại với tổng kinh phí hỗ trợ 120 tỷ đồng cho 5.000 lượt doanh nghiệp tham gia, ký kết trên 3.000 hợp đồng. Bên cạnh đó cũng có một phần kinh phí không nhỏ cho các chương trình xúc tiến thương mại được phân bổ cho các tổ chức xúc tiến thương mại các địa phương miền núi, biên giới và hải đảo để làm tốt công tác đưa hàng Việt về nông thôn, thực hiện tốt cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" do Bộ Chính trị phát động. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký quyết định sẽ hỗ trợ từ 50-100% kinh phí đối với các chương trình XTTM quốc gia. Các hoạt động như: Thông tin thương mại, nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở dữ liệu các thị trường xuất khẩu trọng điểm theo các ngành hàng; tuyên truyền xuất khẩu; thực hiện các chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, các khu công nghiệp, khu đô thị… sẽ được áp dụng mức hỗ trợ 70%. Như vậy trong những năm qua, hoạt động xúc tiến thương mại đã được triển khai rộng khắp với quy mô và chất lượng ngày càng được cải thiện, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, nhằm giữ vững tăng trưởng kinh tế và tránh cho Việt Nam khỏi tâm vòng xoáy suy thoái kinh tế toàn cầu. Mặc dù so với các nước khác với nguồn kinh phí dành cho hoạt động xúc tiến thương mại của nước ta rất khiêm tốn. Tuy nhiên, Cục xúc tiến thương mại cũng như Bộ Công Thương đã phát biểu sẽ cố gắng có thể lựa chọn, tìm các đề án để có thể triển khai để số tiền dành cho hoạt động xúc tiến thương mại sử dụng có hiệu quả nhất. Chương III. GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHI ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở NƯỚC TA I.Nhóm giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: 1. Huy động và sử dụng nguồn vốn nhà nước: * Hoàn chỉnh và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đầu tư: Cần đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch, tạo khuôn khổ pháp lý cho công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài ra, cần thực hiện rà soát, bổ sung, cập nhật và hiệu chỉnh các quy hoạch đã được phê duyệt cho phù hợp với tình hình phát triển mới, đồng thời, chấn chỉnh công tác lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà soát để định kì bổ sung điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của luật đầu tư trong công tác quy hoạch đảm bảoviệc xây dựng các lĩnh vực, ngành, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. * Nâng cao chất lượng công tác quản lý, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư trên cơ sở đánh giá chính xác sự cần thiết, nhu cầu và khả năng sử dụng vốn của các bộ ngành địa phương từ đó có cơ chế phân bổ hợp lý . Thường xuyên kiểm tra rà soát các dự án đã được cấp vốn. Thực hiện nghiêm ngặt công tác thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư. Đưa các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn ra khỏi danh mục tín dụng ưu đãi của nhà nước để tập trung nguồn vốn cho các công trình phúc lợi xã hội và công trình hạ tầng kinh tế xã hội. * Đánh giá hiệu quả đầu tư thực hiện các biện pháp điều chỉnh sắp xếp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Rà soát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trên các mặt như các ngành lĩnh vực đầu tư, tỷ lệ đầu tư vào các ngành lĩnh vực đầu tư chính phụ, các ngành lĩnh vực đầu tư có phù hợp với chức năng nhiệm vụ của các doanh nghiệp hay không. Chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước để ngăn chặn tình trạng đầu tư tràn lan, sử dụng sai mục đích của nguồn vốn nhà nước. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp có nhiệm vụ công ích như công ty môi trường đô thị,… bằng vốn đầu tư hoặc ưu đãi tín dụng. Tiến hành giải thể hoặc bán, khoán, cho thuê đối với những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Tách hoạt động công ích và hoạt động kinh doanh của công ty nhằm tạo sự tự chủ, độc lập của doanh nghiệp trong sản xuất. Tăng cường sự kiểm tra giám sát tài chính của doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu và cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Nâng cao quyền hạn chức năng quản lý của các cơ quan kiểm toán nhà nước, kịp thời phát giác những hành vi gian lận trốn thuế đầu tư sai mục đích nhằm kiếm lời bất chính trên nguồn vốn nhà nước. ngoài ra cần kiểm soát tốt nguồn vay tín dụng của các doanh nghiệp nhà nước và tiếp tục đẩy mạnh cổ phần doanh nghiệp nhà nước. * Thực hiện tốt cơ chế giám sát cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động đầu tư công. Công khai hóa các thông tin về hoạt động đầu tư công theo quy định của nhà nước để người dân thực hiện giám sát. Tiếp thu những đóng góp và ý kiến của nhân dân. Tạo điều kiện để người dân nói lên ý kiến, bức xúc, phát hiện và tố cáo những hành vi sai trái trong hoạt động đầu tư công. * Tăng cường công tác xã hội hóa đầu tư nhằm đa dạng hóa nguồn vốn, thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia vào các dự án xây dựng cơ bản, giảm tải đầu tư từ ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả đầu tư từ việc sử dụng ngân sách nhà nước theo hướng thành phần kinh tế nào làm tốt hơn,hiệu quả hơn thì cấp vốn, tránh tình trạng bao cấp trong các dự án cơ sở hạ tầng thực hiện công tác đấu thầu công khai. * Đổi mới và hoàn thiện công tác giải phóng mặt bằng: đảm bảo tính công bằng dân chủ trong công tác giải phóng mặt bằng. Thực hiện tốt công tác vận động, tuyên truyền giải thích để người dân chấp hành tốt chính sách pháp luật của nhà nước. thực hiện đồng bộ việc quy hoạch giải phóng mặt bằng với việc ổn đinh đời sống, tái định cư, tái sản xuất cho nhân dân. * Nâng cao hiệu lực, hiệu quả pháp lý trong công tác phân cấp , quản lý đầu tư: đẩy mạnh việc phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng cho các địa phương, tùy theo điều kiện về nhân lực và những tiềm lực khác của từng địa phương, tạo ra sự chủ động cho các địa phương tránh gây thất thoát lãng phí vốn. * Cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, hạn chế những thủ tục rườm rà đặc biệt phải giải quyết nạn tham nhũng, minh bạch hóa quy chế đầu tư, có biện pháp ưu đãi đầu tư cho các vùng kinh tế: hiện nay một trong những điểm yếu kém của đầu tư nhà nước là những thủ tục hành chính rườm rà. Và một vấn nạn chung của toàn xã hội là nạn tham ô tham nhũng vì vậy việc cải cách các thủ tục hành chính là rất cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong hoạt động đầu tư và tránh hiện tượng tiêu cực trong khâu thủ tục hành chính. 2. Huy động và sử dụng nguồn vốn FDI: - Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư: xúc tiến đầu tư là hoạt động nhằm giới thiệu quảng cáo cơ hội đầu tư của nước chủ nhà. Hoạt động xúc tiến đầu tư tại nước ta vẫn chưa được chú trọng đúng mức. vì vậy cần tăng cường hoạt động này bằng nhiều hình thức như tổ chức các hội thảo khoa học, diễn đàn đầu tư, tham quan khảo sát… và thông qua các phương tiện thông tin, xây dựng các văn phòng đại diện ở nước ngoài. - Cần ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến choi các ưu đãi có tác động ngược chiều trở thành các rào cản đầu tư. - Phát triển công nghiệp phụ trợ và các dịch vụ hậu cần cho FDI: việc thiếu ngành công nghiệp phụ trợ vẫn là một điểm yếu của nước ta với các nước cạnh tranh thu hút FDI trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc… do đó chi phí đầu tư tại Việt Nam trở nên cao hơn làm giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy phát triển công nghiệp phụ trợ là yêu cầu bắt buộc với Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI dài hạn. Các ngành công nghiệp phụ trợ nên được đưa vào quy hoạch FDI theo vùng ngành để tăng hiệu quả kinh tế. - Khuyến khích đầu tư từ lực lượng Việt Kiều. Đây là lực lượng khá đông đảo và có tiềm năng đáng kể về nguồn vốn và trình độ. Không những thế họ còn là cầu nối giữa cộng đồng quốc tế và Việt Nam trong mọi lĩnh vực. - Thu hút các công ty đa quốc gia có tiềm lực lớn về công nghệ, tận dụng tối đa thế mạnh về nghiên cứu và phát triển của các công ty nước ngoài đang hoạt động tai Việt Nam. Việt Nam cần cải cách lại các tổ chức R&D trong nước để tăng khả năng tiếp thu những công nghệ của nước ngoài. Cần cập nhật và nghiên cứu về các công ty lớn cũng như nghiên cứu chiến lược về chuyển giao công nghệ và phạm vi hoạt động của các công ty này. - Phát triển cơ sở hạ tầng: cơ sở hạ tầng có vai trò là nền móng cho các hoạt động đầu tư. Nước chủ nhà cần phải chuẩn bi cơ sở hạ tầng tốt trước khi tiếp nhận đầu tư. đó là các công việc như xây dựng đường xá giao thông bến bãi , nhà ga, hệ thống điện nước, thông tin, bưu điện. - Xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao: vấn đề đặt ra là phải phát triển các khu công nghiệp khu chế xuất theo một quy hoạch thống nhất. Có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng khu công nghiệp theo lợi thế của từng khu công nghiệp. nâng cao chất lượng khu công nghiệp ngang tầm khu vực và quốc tế. 3. Huy động và sử dụng nguồn vốn ODA: Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA: ODA là nguồn lực có khả năng hỗ trợ cho kế hoạch phát triển trung hạn của Việt Nam nhằm cải thiện và hiện đại hoa lĩnh vực cơ sở hạ tầng ở các khu vực kinh tế trọng điểm và đô thị lớn. -Những giải pháp trước mắt: Để cải thiện mức độ hấp thụ ODA của Việt Nam, ở khía cạnh tài chính, chính phủ nên ưu tiên vốn đầu tư công từ ngân sách đã cắt giảm theo danh mục dự án đã đệ trình để bổ sung vốn đối ứng ODA với những dự án ODA bị ngưng trệ do ảnh hưởng lạm phát để đẩy mạnh tiến độ thi công, giảm chi phí phát sinh, sớm đưa dự án vào sử dụng, hiện thực hóa tác động và hiệu quả của dự án đến nền kinh tế xã hội. Tận dụng ODA cho vay lại thông qua các định chế tài chính nhà nước hoặc ngân hàng ủy thác để hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn chi phí vốn vay trong nước quá cao. - Những kiến nghị lâu dài: Các lĩnh vực ưu tiên thu hút vốn ODA phải thu gọn và có trọng tâm như các dự án năng lượng, giao thông, đô thị hiện đại, nước sạch… Xúc tiến mô hình hợp tác công tư đối với dự án ODA để thu hút nguồn vốn tư nhân trong đầu tư cơ sở hạ tầng. Chính phủ phải chủ động tận dụng những hỗ trợ kĩ thuật từ cac tổ chức quốc tế như: WB, ADB…để xây dựng khuôn khổ pháp lý, cơ chế hợp tác và cơ chế chia sẻ rủi ro phù hợp. Chính phủ cần xây dựng luật đầu tư công để có một kỷ cương và minh bạch trong đầu tư công.Văn bản pháp lý này có thể quy định rõ rang mức độ phân cấp đầu tư, phân loại dự án, cơ chế xã hội hóa trong đầu tư, tiêu chí thống nhất về thẩm định và đánh giá dự án… để nâng cao tác động và hiệu quả của các dự án đầu tư công. II. Nhóm giải pháp cải thiện môi trường đầu tư. 1.Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách. - Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán và loại bỏ các ưu đãi về đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO. - Sửa đổi các qui định không rõ ràng còn bất cập liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Nghiên cứu soạn thảo một luật bổ sung sửa đổi các điều khoản chồng chéo, mâu thuẫn không tương thích…của các Luật đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường… nhằm đảm bảo tính thống nhất, rõ ràng, nhất quán và thực thi được. - Theo dõi, giám sát việc thực thi pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Nhanh chóng ban hàng các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. -Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân, không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường... -Bộ Tài chính cần đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh. -Tạo tính thống nhất, đồng bộ giữa các chính sách và tạo ra môi trường pháp lý ổn định thông thoáng, có tính thống nhất nội tại cao. 2.Nhóm giải pháp về qui hoạch Cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh qui hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các qui định mới của Luật đầu tư trong công tác qui hoạch, đảm bảo việc xây dựng qui hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với cam kết quốc tế. Hoàn chỉnh qui hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi qui hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đâu tư... 3. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.), hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v. Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời. Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v. Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. Nhà nước có thể miễn hoặc giảm thu tiền sử dụng đất, giao đất để xây dựng các cơ sở hạ tầng quan trọng Giảm tiền thuê đất xây dựng các cơ sở hạ tầng khác, tuỳ theo địa bàn và vị trí cụ thể. Khuyến khích và thu hút đầu tư: Huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ngân sách, vay và hỗ trợ của Nhà nước, có chính sách ưu đãi, thông thoáng để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào các công trình thương mại và lĩnh vực kinh doanh thương mại - dịch vụ, khuyến khích để các doanh nghiệp và nhân dân đầu tư vào các công trình thương mại với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu. 4. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tần khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện tốt chiến lược Dân số & Phát triển,giải quyết từng bước và có trọng điểm một số yếu tố về chất lượng dân số, nâng cao thể lực, trí lực của con người, thực hiện bình đẳng giới, nâng cao phúc lợi xã hội, xây dựng gia đình văn hoá, phát triển bền vững… làm cho nhân tố con người thật sự trở thành thế mạnh của đất nước trong công cuộc đổi mới Đổi mới phương thức đào tạo phát triển nguồn nhân lực là một trong những giải pháp đột phá, tạo điều kiện cho người lao động có nhiều cơ hội việc làm trong nền kinh tế thị trường. Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hoá quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật, chính sách vè lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới, tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao đông nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền giáo dục cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ nghiêm túc. 5.Nhóm giải pháp về khoa học công nghệ - Xây dựng chính sách, tạo môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh mẽ việc nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, đặc biệt trong các doanh nghiệp. Gắn với nhiệm vụ này, cần đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, môi giới, dịch vụ về khoa học-công nghệ để phát triển thị trường công nghệ. Chuẩn bị ngay việc xây dựng các văn bản hướng dẫn để sớm thực thi có hiệu quả Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Chuyển giao công nghệ sau khi được Quốc hội thông qua. Xây dựng phát triển các trung tâm giao dịch khoa học-công nghệ tại các vùng kinh tế lớn trong cả nước. - Đổi mới cơ bản chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho khoa học-công nghệ phù hợp với đặc thù của hoạt động khoa học-công nghệ và thúc đẩy đầu tư của toàn xã hội cho đổi mới công nghệ. Chú ý tập trung đầu tư cho con người để phát triển tài sản trí tuệ của đất nước và xây dựng các cơ chế, chính sách đặc biệt để phát triển tiềm lực khoa học-công nghệ. - Xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế về khoa học-công nghệ để lĩnh vực này có đủ năng lực phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết được các nhiệm vụ khoa học-công nghệ quốc gia ở tầm quốc tế; nhanh chóng củng cố và mở rộng mạng lưới đại diện khoa học-công nghệ ở nước ngoài. Tạo điều kiện để các viện nghiên cứu hàng đầu của khu vực và thế giới có chi nhánh nghiên cứu tại Việt Nam. - Cần có các giải pháp để sớm hình thành các tập thể khoa học và công nghệ mạnh với đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề có trình độ khu vực và quốc tế, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ khoa học-công nghệ quốc gia ở tầm quốc tế. Đầu tư có trọng điểm để xây dựng một số viện nghiên cứu đạt trình độ quốc tế. 6.Nhóm giải pháp về giải phóng mặt bằng. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án FDI không có khả năng triển khai hoặc chưa có kế hoạch sử dụng hết diện tích đất đã được giao để chuyển cho các dự án đầu tư mới có hiệu quả hơn. Đồng thời trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải toả và giao đất cho chủ đầu tư theo đúng cam kết, đặc biệt là các dự án qui mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân thực hiện dự án. Nghiên cứu đề xuất với Bộ KH và ĐT phương an xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án, vượt quá thẩm quyền của mình, để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. 7. Nhóm giải pháp về phân cấp, cải cách hành chính. Qua thực tế thực hiện việc phân cấp trong một số năm qua đã bộc lộ một số vấn đề bất cập, không phù hợp, ảnh hưởng đến quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung. Cần nghiên cứu để xem xét lại chủ trương phân cấp toàn diện như qui định hiện nay, có các biện pháp để tăng cường sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài. Tổ chức, rà soát, đánh giá và đề xuất giải pháp đơn giản hoá các quy định về điều kiện kinh doanh, kể cả các loại giấy phép không hợp pháp, giấy phép không cần thiết cần bãi bỏ. Nghiên cứu, thống nhất toàn bộ quy trình, thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư trên địa bàn cả nước theo hướng đơn giản, hiệu lực và hiệu quả. Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài. Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư . Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan. 8. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư Nghiên cứu đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào dự án này. Các Bộ, ngành tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư và quy hoạch phát triển địa phương, ngành, lĩnh vực, sản  phẩm. Thực hiện tốt chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia. Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở cửa các lớp đào tạo về xúc tiến đầu tư và quản lý ĐTNN. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch, khânt trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch. 9. Nhóm giải pháp ổn định hóa môi trường vĩ mô 9.1. Phát triển nền kinh tế - Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển, ngăn chặn suy giảm kinh tế. Đây là nhóm giải pháp lớn, phạm vi rộng, được Chính phủ đề ra rất nhiều giải pháp cụ thể, chỉ rõ từng đầu việc cho từng bộ ngành. - Ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn ngừa lạm phát. - Thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, triển khai mạnh mẽ các hoạt động xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. - Tăng cường hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. - Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, tăng cường phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thứ sáu, tăng cường năng lực điều hành, tổ chức thực hiện. 9.2Kiềm chế lạm phát - Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Cho dù do nhiều nguyên nhân, nhưng lạm phát luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tín dụng tăng liên tục là nguyên nhân trựa tiếp gây lạm phát. - Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. - Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. - Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. - Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng. Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm 10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. - Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá. Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm…; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn lậu xăng dầu, khoáng sản. - Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội. Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội. - Cần đồng tâm, hiệp lực .Chống lạm phát là một nhiệm vụ phức tạp, đòi hỏi sự trả giá và đánh đổi. Để chống lạm phát đạt kết quả, sự trả giá và đánh đổi là thấp nhất, nhất thiết phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước, sự chấp hành và tổ chức, triển khai thực hiện nghiêm túc của các cấp chính quyền. III. Nhóm giải pháp nhằm tăng hiểu quả các gói kích cầu. 1.Về phía Cơ quan quản lý Nhà nước: + Chỉ nên đưa ra gói kích cầu khi thực sự cần thiết và duy trì trong ngắn hạn nhằm tránh sự mất cân đối hàng tiền, vi phạm quy luật lưu thông tiền tệ, dẫn đến lạm phát. + Chính phủ cần có sự giám sát chặt chẽ sự phân bổ nguồn lực của gói kích cầu, tạo điều kiện cho nguồn lực được phân bổ đúng đối tượng, tránh tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh và bất bình đẵng giữa các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là DN. + Chính phủ phải chủ động trong việc đưa ra gói kích cầu với mục tiêu rõ ràng, tránh trường hợp xử lý tình huống. + Gói kích cầu cần phải được thiết kế rõ ràng, bám sát điều kiện thực tế, tránh ách tắc ở khâu thủ tục làm giảm tiến độ thực hiện và thiếu hiệu quả trong quá trình đưa vào triển khai. + Chính phủ cần thiết kế gói kích cầu đúng mục tiêu, tránh trường hợp nhập nhằng giữa kích cầu và kích cung. + Cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ tục rườm rà, hỗ trợ tư pháp cho các cơ quan, đơn vị và toàn dân nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn kịp thời. + Công tác thông tin, truyền thông cũng cần ‘đồng hành với Chính phủ” để tuyên truyền , cổ vũ những đơn vị làm tốt, những cách làm hay để sử dụng hiệu quả và sớm nhất các đồng vốn, biện pháp kích cầu, đồng thời cũng phê phán những hành vi lợi dụng vốn kích cầu để mưu lợi cục bộ, tham ô, tham nhũng. Để làm được điều này, các bộ, ngành, địa phương cũng cần chủ động, công khai, minh bạch trong việc cung cấp thông tin cho các cơ quan truyền thông để những thôn tin chính thống, chính xác đến được với người dân, loại bỏ những thông tin tiêu cực. không chính xác thiếu thiện ý của kẻ xấu. + Công tác thanh tra, kiểm tra cũng cần được tiến hành kịp thời để phát hiện những bất hợp lý giúp Chính phủ sớm điều chỉnh, bổ sung. + Nhà nước phải có cơ chế rõ ràng để chống hiện tượng lạm dụng như ngân hàng và doanh nghiệp bắt tay nhau tạo ra khoản vay ảo với lãi suất hỗ trợ sau đó là chia chác kiếm lời, hay hiện tượng doanh nghiệp lạm dụng vay nhưng lại không đầu tư theo cam kết mà dùng để trả nợ đáo hạn rồi gửi lại ngân hàng ăn lãi... + Cơ chế quản lý chính sách tài chính tiền tệ cần công khai, minh bạch hơn nữa, nhằm bảo đảm công bằng, hợp lý cho các đối tượng thụ hưởng, trong đó đặc biệt tăng cường sự giám sát của cộng đồng, tránh lãng phí, thất thoát. + Chính phủ cần ưu tiên giải ngân cho các dự án, công trình có tính chất cấp bách, quan trọng, có khả năng kích thích phát triển kinh tế của vùng, miền, những dự án mang lại nguồn thu ngân sách Nhà nước lớn, tạo việc làm cho người lao động; đồng thời tìm các biện pháp đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn. + Gói kích cầu chỉ mang tính chất hỗ trợ tạm thời nên kinh tế khi có khủng hoảng. Khi nền kinh tế đã vượt qua được giai đoạn khó khăn, chính phủ cần điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển bền vững nhằm tránh sự bùng phát của những tàn dư sau khủng hoảng. 2.Về phía các đối tượng được thụ hưởng lợi ích từ gói kích cầu; + Đầu tư đúng nơi, đúng lúc, tránh đầu tư sai, dàn trải, không đúng mục đích. + Phải có biên pháp giải ngân nhanh để đưa đồng vốn vào sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. + Các đơn vị được đầu tư phải coi đây là trách nhiệm xã hội của mình, không sử dụng đồng vốn vào mục đích trục lợi cục bộ, phải đặt lợi ích đất nước lên trên. LỜI KẾT Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là mục tiêu mà tất cả các quốc gia đều hướng tới. Sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực như tăng trưởng cao, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước… Tuy nhiên, song hành với xu thế các dòng vốn từ bên ngoài đổ vào mạnh mẽ, ngoại thương mở rộng và GDP đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua, nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng lạm phát, thâm hụt ngân sách cao, nhập siêu lớn, nhiều cân đối vĩ mô bị phá vỡ và xu thế bất ổn gia tăng. Tình hình đầu tư vì thế mà cũng chịu ảnh hưởng - suy giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Bởi vậy, trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư, phân tích thực trạng đầu tư cùng với các chính sách kích cầu đầu tư mà Việt Nam đã thực hiện, qua đó để thấy được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của nền kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng. Kèm theo đó là một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. Hi vọng, các giải pháp đo có thể phần nào giúp cho đầu tư của Việt Nam có một diện mạo mới, năng lực mới trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐỀ TÀI- Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư Giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta.doc
Luận văn liên quan