Đề tài Chiến lược phát triển sản phẩm của ngân hàng thương mại

I.Khái niệm ngân hàng thương mại: Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”. Ở Việt Nam, theo Luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 đã xác định "tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán" và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì " ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. II.Khái niệm sản phẩm dịch vụ ngân hàng thương mại: Khái niệm về sản phẩm nói chung là hết sức phức tạp, khái niệm về sản phẩm ngân hàng lại càng phức tạp hơn vì tính tổng hợp, đa dạng và nhạy cảm của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đứng trên góc độ thoả mãn nhu cầu khách hàng thì có thể hiểu: “sản phẩm dịch vụ ngân hàng là tập hợp những đặc điểm, tính năng, công dụng do ngân hàng tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn nhất định của khách hàng trên thị trường tài chính”. Luật các tổ chức tín dụng tại khoản 1 và khoản 7 điều 20 cụm từ: “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng” được bao hàm cả 3 nội dung: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán. Cụ thể hơn dịch vụ ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn, tiền tệ, thanh toán, mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu kinh doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản, và ngân hàng thu chênh lệch lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. Trong xu hướng phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát triển của ngân hàng. Ở nước ta, đến nay chưa có sự minh định rõ ràng về khái niệm dịch vụ ngân hàng. Có quan niệm cho rằng: dịch vụ ngân hàng không thuộc phạm vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ theo chức năng của một trung gian tài chính (cho vay, huy động tiền gửi ) chỉ những hoạt động không thuộc nội dung nói trên mới gọi là dịch vụ ngân hàng. Một số khác cho rằng tất cả hoạt động ngân hàng phục vụ cho doanh nghiệp và công chúng là dịch vụ ngân hàng. Một số ý kiến cho rằng, các hoạt động sinh lời của ngân hàng thương mại ngoài hoạt động cho vay thì được gọi là hoạt động dịch vụ. Quan điểm này phân định rõ hoạt động tín dụng, một hoạt động truyền thống và chủ yếu trong thời gian qua của các NHTM Việt Nam, với hoạt động dịch vụ, một hoạt động mới bắt đầu phát triển ở nước ta. Sự phân định như vậy trong xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính hiện nay cho phép ngân hàng thực thi chiến lược tập trung đa dạng hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả của các hoạt động phi tín dụng. Còn quan điểm thứ hai thì cho rằng, tất cả các hoạt động nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại đều được coi là hoạt động dịch vụ. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Quan niệm này phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với cách phân loại các phân ngành dịch vụ trong dự thảo Hiệp định WTO mà Việt Nam cam kết, đàm phán trong quá tình gia nhập, phù hợp với nội dung Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Trong phân tổ các ngành kinh tế của Tổng cục Thống kê Việt Nam, Ngân hàng là ngành được phân tổ trong lĩnh vực dịch vụ. Thực tiễn gần đây khái niệm về dịch vụ ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế đang trở nên phổ biến trên các diễn đàn, trong giới nghiên cứu và cơ quan lập chính sách. Song quan niệm như thế nào đi nữa, thì yêu cầu cấp bách đặt ra cho các NHTM Việt Nam hiện nay là phải phát triển, đa dạng và nâng cao chất lượng các nghiệp vụ kinh doanh của mình. Nói cụ thể ngay như hoạt động tín dụng hiện nay, các NHTM cũng đang thực hiện đa dạng các sản phẩm tín dụng, như: tín dụng cho vay mua nhà, cho vay mua ô tô, cho vay tiền đi du học, cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng, tín dụng thuê mua, tín dụng chữa bệnh, tín dụng ngày cưới, tín dụng sửa chữa nhà ở .Còn đương nhiên các dịch vụ ngân hàng mới, như: nghiệp vụ thẻ, kinh doanh ngoại hối, đầu tư trên thị trường tiền gửi, chiết khấu, chuyển tiền, kiều hối, tư vấn, cũng đang được các NHTM đầu tư cả về công nghệ, máy móc thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực, hoạt động Marketing, quảng bá thương hiệu, gây dựng uy tín cho phát triển đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng tăng. III.Khái niệm chiến lược kinh doanh: “Chiến lược là phương hướng và quy mô của một tổ chức trong dài hạn: chiến lược sẽ mang lại lợi thế cho tổ chức thông qua việc sắp xếp tối ưu các nguồn lực trong một môi trường cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và kỳ vọng của các nhà góp vốn” . Nói cách khác, chiến lược là: ã Nơi mà doanh nghiệp cố gắng vươn tới trong dài hạn (phương hướng) ã Doanh nghiệp phải cạnh tranh trên thị trường nào và những loại hoạt động nào doanh nghiệp thực hiện trên thị trường đó (thị trường, quy mô)? ã Doanh nghiệp sẽ làm thế nào để hoạt động tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trên những thị trường đó (lợi thế)? ã Những nguồn lực nào (kỹ năng, tài sản, tài chính, các mối quan hệ, năng lực kỹ thuật, trang thiết bị) cần phải có để có thể cạnh tranh được (các nguồn lực)? ã Những nhân tố từ môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp (môi trường)? ã Những giá trị và kỳ vọng nào mà những người có quyền hành trong và ngoài doanh nghiệp cần là gì (các nhà góp vốn)? IV. SẢN PHẨM CHO KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN: A. SẢN PHẨM TIỀN GỬI ã Tiền gửi thanh toán

doc16 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3341 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chiến lược phát triển sản phẩm của ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.Khái niệm ngân hàng thương mại: Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Ở Mỹ Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”. Ở Việt Nam, theo Luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 đã xác định "tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán" và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì " ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. II.Khái niệm sản phẩm dịch vụ ngân hàng thương mại: Khái niệm về sản phẩm nói chung là hết sức phức tạp, khái niệm về sản phẩm ngân hàng lại càng phức tạp hơn vì tính tổng hợp, đa dạng và nhạy cảm của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đứng trên góc độ thoả mãn nhu cầu khách hàng thì có thể hiểu: “sản phẩm dịch vụ ngân hàng là tập hợp những đặc điểm, tính năng, công dụng do ngân hàng tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn nhất định của khách hàng trên thị trường tài chính”. Luật các tổ chức tín dụng tại khoản 1 và khoản 7 điều 20 cụm từ: “hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng” được bao hàm cả 3 nội dung: nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán.   Cụ thể hơn dịch vụ ngân hàng được hiểu là các nghiệp vụ ngân hàng về vốn, tiền tệ, thanh toán,… mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng đáp ứng nhu cầu kinh doanh, sinh lời, sinh hoạt cuộc sống, cất trữ tài sản,… và ngân hàng thu chênh lệch lãi suất, tỷ giá hay thu phí thông qua dịch vụ ấy. Trong xu hướng phát triển ngân hàng tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị dịch vụ, một bách hoá tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát triển của ngân hàng. Ở nước ta, đến nay chưa có sự minh định rõ ràng về khái niệm dịch vụ ngân hàng. Có quan niệm cho rằng: dịch vụ ngân hàng không thuộc phạm vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ theo chức năng của một trung gian tài chính (cho vay, huy động tiền gửi.. ..) chỉ những hoạt động không thuộc nội dung nói trên mới gọi là dịch vụ ngân hàng. Một số khác cho rằng tất cả hoạt động ngân hàng phục vụ cho doanh nghiệp và công chúng là dịch vụ ngân hàng.       Một số ý kiến cho rằng, các hoạt động sinh lời của ngân hàng thương mại ngoài hoạt động cho vay thì được gọi là hoạt động dịch vụ. Quan điểm này phân định rõ hoạt động tín dụng, một hoạt động truyền thống và chủ yếu trong thời gian qua của các NHTM Việt Nam, với hoạt động dịch vụ, một hoạt động mới bắt đầu phát triển ở nước ta. Sự phân định như vậy trong xu thế hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính hiện nay cho phép ngân hàng thực thi chiến lược tập trung đa dạng hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả của các hoạt động phi tín dụng.       Còn quan điểm thứ hai thì cho rằng, tất cả các hoạt động nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại đều được coi là hoạt động dịch vụ. Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Quan niệm này phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với cách phân loại các phân ngành dịch vụ trong dự thảo Hiệp định WTO mà Việt Nam cam kết, đàm phán trong quá tình gia nhập, phù hợp với nội dung Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Trong phân tổ các ngành kinh tế của Tổng cục Thống kê Việt Nam, Ngân hàng là ngành được phân tổ trong lĩnh vực dịch vụ. Thực tiễn gần đây khái niệm về dịch vụ ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế đang trở nên phổ biến trên các diễn đàn, trong giới nghiên cứu và cơ quan lập chính sách. Song quan niệm như thế nào đi nữa, thì yêu cầu cấp bách đặt ra cho các NHTM Việt Nam hiện nay là phải phát triển, đa dạng và nâng cao chất lượng các nghiệp vụ kinh doanh của mình. Nói cụ thể ngay như hoạt động tín dụng hiện nay, các NHTM cũng đang thực hiện đa dạng các sản phẩm tín dụng, như: tín dụng cho vay mua nhà, cho vay mua ô tô, cho vay tiền đi du học, cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng, tín dụng thuê mua, tín dụng chữa bệnh, tín dụng ngày cưới, tín dụng sửa chữa nhà ở ….Còn đương nhiên các dịch vụ ngân hàng mới, như: nghiệp vụ thẻ, kinh doanh ngoại hối, đầu tư trên thị trường tiền gửi, chiết khấu, chuyển tiền, kiều hối, tư vấn,… cũng đang được các NHTM đầu tư cả về công nghệ, máy móc thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực, hoạt động Marketing, quảng bá thương hiệu, gây dựng uy tín… cho phát triển đáp ứng yêu cầu cạnh tranh ngày càng tăng. III.Khái niệm chiến lược kinh doanh: “Chiến lược là phương hướng và quy mô của một tổ chức trong dài hạn: chiến lược sẽ mang lại lợi thế cho tổ chức thông qua việc sắp xếp tối ưu các nguồn lực trong một môi trường cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và kỳ vọng của các nhà góp vốn”... Nói cách khác, chiến lược là: Nơi mà doanh nghiệp cố gắng vươn tới trong dài hạn (phương hướng) Doanh nghiệp phải cạnh tranh trên thị trường nào và những loại hoạt động nào doanh nghiệp thực hiện trên thị trường đó (thị trường, quy mô)? Doanh nghiệp sẽ làm thế nào để hoạt động tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trên những thị trường đó (lợi thế)? Những nguồn lực nào (kỹ năng, tài sản, tài chính, các mối quan hệ, năng lực kỹ thuật, trang thiết bị) cần phải có để có thể cạnh tranh được (các nguồn lực)? Những nhân tố từ môi trường bên ngoài ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp (môi trường)? Những giá trị và kỳ vọng nào mà những người có quyền hành trong và ngoài doanh nghiệp cần là gì (các nhà góp vốn)? IV. SẢN PHẨM CHO KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN: A. SẢN PHẨM TIỀN GỬI Tiền gửi thanh toán  MÔ TẢ Tiền gửi thanh toán không quy định thời hạn gửi tiền và được hưởng lãi suất không kỳ hạn do Ngân hàng công bố trong từng thời kỳ. Mở và sử dụng tài khoản tiền gửi thanh toán là sự lựa chọn tối ưu nhằm hạn chế các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình thanh toán bằng tiền mặt cũng như giúp Khách hàng theo dõi và quản lý các khoản tiền nhàn rỗi của mình một cách hiệu quả nhất. Tiền gửi bậc thang  MÔ TẢ Tiền gửi bậc thang là sản phẩm huy động vốn có kỳ hạn được hưởng mức lãi suất tăng dần theo số dư tiền gửi do Ngân hàng quy định. Theo đó, khách hàng gửi tiền với cùng một kỳ hạn nhưng số dư tiền gửi càng lớn thì lãi suất được hưởng càng cao. Tiền gửi tiết kiệm  MÔ TẢ Gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng là một trong những phương thức đầu tư các khoản tiền nhàn rỗi hiệu quả nhất. Tùy thuộc vào nhu cầu cụ thể, Khách hàng có thể lựa chọn các hình thức tiết kiệm đa dạng về kỳ hạn và phương thức lĩnh lãi. • Tiết kiệm tích lũy giá trị  MÔ TẢ : Tích luỹ giá trị sẽ là lựa chọn tốt nhất giúp khách hang chọn mình một kế hoạch tiết kiệm phù hợp với khả năng tài chính của mình. Khách hàng sẽ không bỏ phí thời gian vì mỗi ngày trôi qua, khoản tiền mà bạn tích góp sẽ lớn dần. Khách hàng chỉ cần gửi một khoản tiền cố định đều đặn theo định kỳ hàng tuần, hàng tháng hoặc hàng quý trong thời gian thoả thuận trước với Ngân hàng để có được một khoản tiền lớn nhằm thực hiện những dự định trong tương lai. Tài khoản doanh nghiệp Tiền gửi thanh toán gia tăng giá trị MÔ TẢ: "Tài khoản tiền gửi thanh toán gia tăng giá trị" là loại hình tài khoản tiền gửi thanh toán, theo đó khách hàng doanh nghiệp có tài khoản tiền gửi thanh toán sẽ được hưởng lãi suất tương ứng với từng mức số dư tiền gửi cuối ngày theo quy tắc số dư tiền gửi cuối ngày càng nhiều thì lãi suất càng cao. Đây là sản phẩm kết hợp giữa tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi bậc thang. Tiền gửi dài hạn lãi suất thả nổi MÔ TẢ: “Tiền gửi dài hạn lãi suất thả nổi” là sản phẩm tiền gửi dài hạn dành cho khách hàng doanh nghiệp, trong đó lãi suất tiền gửi sẽ tự điều chỉnh vào đầu mỗi kỳ lĩnh lãi và doanh nghiệp có quyền rút 1 phần hoặc toàn bộ số tiền gửi trước ngày đáo hạn. Tiền gửi thanh toán gia tăng giá trị MÔ TẢ: "Tài khoản tiền gửi thanh toán gia tăng giá trị" là loại hình tài khoản tiền gửi thanh toán, theo đó khách hàng doanh nghiệp có tài khoản tiền gửi thanh toán sẽ được hưởng lãi suất tương ứng với từng mức số dư tiền gửi cuối ngày theo quy tắc số dư tiền gửi cuối ngày càng nhiều thì lãi suất càng cao. Đây là sản phẩm kết hợp giữa tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi bậc thang. Tiền gửi doanh nghiệp rút vốn linh hoạt MÔ TẢ: Làm sao quản lý nguồn tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất? ABBANK cung cấp đến Quý khách hàng sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn rút gốc linh hoạt. Chỉ cần gửi trong 03 ngày và bất cứ khi nào cần sử dụng nguồn tiền thanh toán, khách hàng sẽ được ABBANK đáp ứng với mức lãi suất cao. Một sản phẩm linh hoạt theo yêu cầu của khách hàng. Siêu tài khoản thanh toán MÔ TẢ: Nhằm mang đến các giá trị mới, khác biệt và nhân bản cho quý Khách hàng doanh nghiệp (KHDN) khi mở tài khoản và giao dịch thanh toán qua ABBANK, ABBANK gửi đến quý KHDN chương trình "Siêu tài khoản thanh toán!" với cơ hội "Miễn phí giao dịch" qua tài khoản thanh toán và được "Bảo hiểm toàn diện" những rủi ro có thể xảy ra cũng như nhận được các tiện ích gia tăng đi kèm. Tài khoản tiền gửi doanh nghiệp có kỳ hạn lĩnh lãi trước MÔ TẢ: Là sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn dành cho khách hàng là các tổ chức kinh tế. Với sản phẩm này, khách hàng sẽ nhận được tiền lãi cho cả kỳ hạn ngay khi gửi. Tiền gửi ký quỹ MÔ TẢ: Tiền ký quỹ là tiền gửi không thời hạn của tổ chức tại ABBANK nhằm đảm bảo việc thực hiện một nghĩa vụ tài chính của tổ chức đó đối với ABBANK hoặc các bên liên quan. Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn MÔ TẢ: Là tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế tại ABBANK trong một thời hạn nhất định được quy định trước. Tài khoản tiền gửi thanh toán Tiền gửi bằng vàng Tiết kiệm thực gửi VND B. SẢN PHẨM CHO VAY Cho vay thấu chi: Khách hàng có thể chi tiêu vượt số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán .Khách hàng chỉ trả lãi trên số tiền và số ngày thực tế sử dụng. Cho vay bổ sung vốn sản xuất kinh doanh dịch vụ: Cho vay bổ sung vốn sản xuất kinh doanh dịch vụ Bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Dịch vụ trung gian thanh toán chuyển nhượng bất động sản qua ngân hàng Người mua lo lắng khi phải giao tiền cho bên bán nhưng chưa làm xong các thủ tục, còn người bán thì khó nắm chắc khả năng chi trả của người mua.Ngân hang đóng vai trò trung gian đảm bảo quyền lợi của người mua và người bán trong giao dịch mua bán Bất động sản một cách an toàn với thủ tục đơn giản, nhanh chóng và giải quyết các lo âu của người mua, bán. Cho vay mua nhà/đất/xây sửa chữa nhà Giúp khách hàng mua được căn nhà, đất để ở như mong muốn. Thủ tục nhanh gọn, giúp khách hàng có được nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu kịp thời. Khách hàng được tặng bảo hiểm tử kỳ dư nợ tín dụng cá nhân. Cho vay cầm cố STK/Số dư tài khoản Thủ tục nhanh chóng giúp khách hàng có được nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu kịp thời Cho vay du học Giúp khách hàng chuẩn bị nguồn tài chính kịp thời đáp ứng nhu cầu học tập cho con em mình Cho vay tiêu dùng có thế chấp Giúp khách hàng có ngay nguồn tài chính đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm vật dụng gia đình, sửa chữa nhà, cưới hỏi….. và cải thiện đời sống Thời gian vay nhanh chóng, thủ tục vay đơn giản. Cho vay sản xuất kinh doanh Giúp khách hàng tăng tính chủ động và linh hoạt trong quá trình sản xuất kinh doanh Cho vay mua xe ô tô Giúp khách hàng có đủ nguồn vốn để mua xe theo ý thích phục vụ nhu cầu đi lại, kinh doanh…. Khách hàng vẫn đứng tên trên giấy đăng ký xe. Thủ tục vay đơn giản, linh hoạt và thời gian giải quyết hồ sơ nhanh chóng. Cho vay tiêu dùng tín chấp Giúp khách hàng có ngay nguồn tài chính cho các mục đích tiêu dùng. Không cần tài sản thế chấp. Cho vay cầm cố cổ phiếu niêm yết Giúp khách hàng tăng tính chủ động và linh hoạt trong quá trình đầu tư Cho vay mua cổ phiếu chưa niêm yết C. SẢN PHẨM THẺ: Thẻ ghi nợ quốc tế Thẻ visa debit là thẻ ghi nợ quốc tế được phát hành dựa trên tài khoản cá nhân của khách hàng mở tại ngân hàng, được sử dụng để thực hiện một số giao dịch tại các máy ATM hay thanh toán tại các đơn vị chấp nhận thẻ VISA trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. Thẻ ghi nợ nội địa Dịch vụ đăng ký trả lương online Thẻ tín dụng quốc tế: Thẻ Visa Thẻ Mastercard D. HUY ĐỘNG VỐN · Tiết kiệm tự động · Tiết kiệm bậc thang lãi thưởng · Tiết kiệm lĩnh lãi định kỳ · Chứng chỉ tiền gửi · Tiết kiệm các kỳ hạng E. CHUYỂN VÀ NHẬN TIỀN Chuyển tiền đi nước ngoài Nhận kiều hối Chuyển tiền nhanh Dịch vụ nhận tiền trọn gói Chuyển tiền đi trong nước Nhận tiền đến trong nước F.CHO VAY CÁ NHÂN Cho vay cán bộ công nhân viên Cho vay cán bộ quản lý điều hành Cho vay mua nhà dự án Cho vay mua ôtô Thấu chi Kinh doanh tài lộc Bảo hiểm tín dụng G. CHO VAY CÁ NHÂN Cho vay cán bộ công nhân viên Cho vay cán bộ quản lý điều hành Cho vay mua nhà dự án Cho vay mua ôtô Thấu chi Bảo hiểm tín dụng H. NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ Internet banking Sms banking Dịch vụ tài chính Thanh toán hóa đơn trả sau I. DỊCH VỤ LIÊN KẾT VỚI DOANH NGHIỆP V. SẢN PHẨM CHO KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP A. DỊCH VỤ TÀI KHOẢN Tài khoản thanh toán Tài khoản tiền gủi có kỳ hạn Quản lý vốn tập trung Đầu tư tự động B. DỊCH VỤ THANH TOÁN Chuyển tiền Thanh toán xuất khẩu Thanh toán nhập khẩu Séc Trả lương tự động Thanh toán hóa đơn C. DỊCH VỤ BẢO LÃNH DỊCH VỤ CHO VAY Cho vay vốn lưu động Cho vay dự án đầu tư BAO THANH TOÁN KINH DOANH NGOẠI TỆ DOANH NGHIỆP PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VI. ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ĐẠI LÝ KINH DOANH VỐN Sản phẩm thị trường tiền tệ Kinh doanh chứng khoán Mua bán ngoại tệ Sản phẩm phát sinh TÀI TRỢ THƯƠNG MẠI ELECTRONIC BANKING DỊCH VỤ TÀI KHOẢN BAO THANH TOÁN Dựa vào những thông tin đã tìm hiểu trên, chúng tôi quyết định lựa chọn sản phẩm thẻ để xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm Xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm thẻ: Trong các giao dịch thương mại cổ điển, việc thanh toán được thực hiện bằng tiền mặt(cash). Vì vận chuyển tiền mặt kèm theo nhiều rủi ro và bất tiện, người ta đã nghĩ ra các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, điển hình là thanh toán bằng séc(cheque), bằng thẻ (card) và bằng các phương thức viễn thông khác như telegraphic transfer (TTR). Séc là tờ giấy in theo lối đặc biệt của mỗi ngân hàng qua đó một người (drawer) lệnh cho ngân hàng trả cho người ghi tên trên séc (payee) hoặc người cầm tờ séc (bearer) một số tiền ghi trên tờ séc(mệnh giá). Séc có thể do người chủ 1 tài khoản ở ngân hàng phát hành, trong trường hợp này ngân hàng chỉ thực hiện thanh toán nếu trong tài khoản có đủ tiền để thực hiện giao dịch, nếu không séc sẽ bị gửi trả lại cho payee, gọi là cheque bounce hay la cheque return unpaid, với remark là refer to drawer.Séc có thể do ngân hàng phát hành, ngân hàng là drawer(khi đó goi là banker's cheque), bên trả tiền là ngân hàng, trong trường hợp này việc thanh toán đảm bảo hơn vì ngân hàng luôn có đủ tiền để thanh toán. Để có thể phát hành séc, bạn phải mở tài khoản current account ở ngân hàng và mua sổ séc (blank cheque book). Ngoài ra những người đi du lịch sợ bị trộm cướp thường mua séc du lịch (travelers' cheque), do các tổ chức thanh toán quốc tế (e.g American Express) phát hành, drawer là tổ chức đó, payee chính là người mua séc, mệnh giá thường là cố định (e.g. 100, 200, 500, 1000USD). Du khách này khi đến các nước sẽ tìm đến các ngân hàng, hoặc chi nhánh các tổ chức thanh toán như Thomas Cook đổi séc du lịch thành tiền mặt để tiêu ở địa phương. Thẻ là một miếng plastic có kích thước tiêu chuẩn và có một dải băng từ ở mặt sau ghi thông tin về thẻ và chủ của thẻ, cũng có thể có chip điện tử để ghi các thông tin phụ thêm khác. Thẻ thường do các ngân hàng phát hành cho khách hàng của mình để phục vụ cho việc thanh toán. Một ngân hàng có số chi nhánh có hạn và việc thanh toán thường thực hiện giữa các ngân hàng khác nhau, vì thế có các tổ chức thanh toán quốc tế như VISA, MasterCard, American Express, Delta, vv.. hoặc các tổ chức thanh toán liên ngân hàng trong nội địa một nước như NETS của Singapore. Các tổ chức này có biểu tượng (logo) riêng để phân biệt dịch vụ của họ với nhau. Vậy các tổ chức thanh toán này có chức năng gì? Họ đứng ra làm trung gian chuyển tải thông tin và giúp việc thanh toán giữa các ngân hàng. Các ngân hàng là thành viên của tổ chức thanh toán nào thì có thể nhận thanh toán bằng các loại thẻ có biểu tượng của tổ chức đó và thường đặt biển hiệu rõ ràng thể hiện những loại thẻ họ có thể nhận thanh toán. Các ngân hàng này cũng có thể phát hành thẻ theo điều kiện của tổ chức thanh toán mà họ là thành viên, thẻ đó được chấp nhận để thanh toán ở các ngân hàng thành viên khác trong cùng tổ chức. Thẻ được chia ra nhiều loại tùy theo tính năng tác dụng của thẻ. Thẻ tín dụng (Credit Card) thực chất là bằng chứng của một mối quan hệ vay nợ giữa người cầm thẻ (Cardholder) và ngân hàng. Ngân hàng đồng ý cho Cardholder vay tiền đến một mức tối đa nào đó (gọi là credit limit), thường là khoảng 2 lần thu nhập hàng tháng của Cardholder. Thỏa thuận như vậy tức là Cardholder có một "line of credit" sẵn sàng để dùng khi cần. Tất cả các khoản thanh toán mà Cardholder thực hiện sẽ được ghi nợ (debit) vào tài khoản của Cardholder tại ngân hàng. Đến một ngày nhất định mỗi tháng, ngân hàng sẽ gửi Statement đến cho Cardholder, thống kê tổng số tiền đã chi trong tháng trước đó. Cardholder có thể chọn thanh toán toàn bộ số tiền trước thời hạn ghi trong Statement, khi đó Cardholder không phải trả lãi (interest). Nếu không Cardholder có thể trả số tiền tối thiểu (Minimum Payment), thường là khoảng 5% số tiền nợ, phần còn lại có thể trả từ từ, tất nhiên là ngân hàng sẽ tính lãi, thường là từ 12% đến 24% một năm, tiền lãi tính từng ngày. Vậy việc thanh toán bằng thẻ tín dụng xảy ra thế nào? Giả sử bạn có thẻ VISA. Một lần bạn đến một cửa hàng (Merchant) thấy có logo của VISA thể hiện cửa hàng nhận thanh toán bằng thẻ VISA, bạn mua hàng và yêu cầu thanh toán bằng thẻ của mình. Cửa hàng sẽ quẹt (swipe) thẻ của bạn vào một chiếc máy đọc (gọi là EDCT - Electronic Data Capture Terminal). EDCT đọc các thông tin về thẻ của bạn ghi trên băng từ và contact ngân hàng của cửa hàng (Merchant's Bank) thông qua modem, đường điện thoại hoặc ISDN line, gửi kèm theo yêu cầu về số tiền cần thanh toán, ngân hàng này kiểm tra trong CSDL của VISA xem thẻ của bạn có phải là thẻ hết hạn hoặc bị mất cắp hay không, số tiền bạn muốn trả có vượt quá hạn mức không, nếu không, ngân hàng sẽ báo lại ngay trong vài giây về EDCT là giao dịch được phê duyệt (approved), khi đó EDCT sẽ in ra một tờ giấy nhỏ ghi rõ số tiền, mã số giao dịch để bạn ký vào đó (Sale Slip). Bạn được giữ bản chính của sale slip, Merchant sẽ giữ bản sao và gửi về ngân hàng để nhận tiền sau này. Nhận được sale slip Merchant's bank sẽ ghi có (credit) ngay số tiền giao dịch vào tài khoản của Merchant đồng thời gửi thông báo qua mạng của VISA yêu cầu ngân hàng của bạn (Cardholder's Bank) thanh toán số tiền. Cardholder's bank sẽ thanh toán tiền cho Merchant's Bank và debit số tiền vào tài khoản của bạn. Chi tiết về giao dịch sẽ được ghi trong Statement kế tiếp gửi đến cho bạn. Giả sử có người ăn cắp thẻ của bạn, giả mạo chữ ký của bạn thì trong thời hạn nhất định (thường là 2 tuần) bạn có thể liên hệ với ngân hàng của bạn để đòi lại tiền. VISA đảm bảo rằng nếu ngân hàng của bạn chứng minh được chữ ký không phải là chữ ký của bạn thì họ sẽ trả lại tiền cho bạn ngay. Merchant's bank sẽ lấy lại tiền từ tài khoản của Merchant còn việc tranh chấp là gánh nặng của Merchant đi theo bạn đòi tiền nếu họ muốn. Trường hợp này gọi là Chargeback. Trường hợp bạn thanh toán online, Merchant không có điều kiện swipe thẻ của bạn, cũng không nhìn thấy bạn. Nhưng bạn cung cấp tên, ngày hết hạn và số thẻ (16 số in trên mặt trước thẻ) thì họ cũng kiểm tra được tương tự như làm qua EDCT. Để bảo vệ thêm cho Merchant, phía sau thẻ có một dãy số dài in trên cùng dải băng nơi có chữ ký của bạn. Đa số các Merchant yêu cầu bạn cung cấp 3-4 số cuối trong dãy số này, gọi là security code, trước khi nhận thanh toán. Tuy vậy bạn thấy rõ rằng giao dịch này không hoàn toàn an toàn 100%, một người có bản photocopy cả 2 mặt thẻ của bạn là có thể thanh toán online rồi. Đừng lo, rủi ro là ở phía Merchant, nếu bạn phát hiện giao dịch không đúng trên Statement của mình, hãy đến ngay ngân hàng của bạn yêu cầu chargeback. Nếu bạn chứng minh được giao dịch không phải do bạn thực hiện (e.g. bạn ở Hàn Quốc mà giao dịch lại do ai đó thực hiện từ máy tính ở Mỹ) hoặc bạn claim là chẳng nhận được hàng gì cả, thì ngân hàng của bạn có cơ sở để đòi lại số tiền cho bạn ngay. Cuối cùng, chỉ tội nghiệp ông Merchant có thể đã gửi hàng đi mà chẳng được trả tiền, nếu có muốn kiện bạn thì bạn ở quá xa xôi, chi phí pháp lý thì cao, đành chấp nhận ngậm bồ hòn làm ngọt vậy. Không ít người đã sử dụng kẽ hở này để thực hiện các giao dịch không trung thực trên internet. Để chống lại hiện tượng này các tổ chức thanh toán quốc tế có vài giải pháp. Các thẻ xảy ra rắc rối sẽ được ghi lại trên CSDL, lần sau sẽ khó có approval cho giao dịch hơn. Thẻ gây ra quá nhiều giao dịch thì cảnh sát có thể bí mật điều tra về Cardholder, và người đó có thể bị bắt, bị tù vì tội lừa đảo. Về phía các Merchant, họ tự vệ bằng cách từ chối nhận thanh toán bằng các loại thẻ phát hành từ các quốc gia mà ngân hàng của họ không với tới được, các quốc gia mà hệ thống bảo vệ pháp luật, cưỡng chế thi hành kém, thậm chí thẻ do các ngân hàng nhỏ và lạ phát hành. Một số Merchant lớn, họ có biện pháp an toàn gần như 100% là yêu cầu bạn điền thông tin vào một tờ khai, in ra, ký tên và gửi lại cho họ qua fax. Như đã nói ở trên, một khi giao dịch đã có chữ ký của bạn, thì khó lòng có thể Chargeback được, và nếu chữ ký giả mạo, thì từ chữ ký đó và số fax, thời gian, người ta có thể lần tìm ra được kẻ lừa đảo. Người thiệt thòi trong trường hợp này, có thể nói chính là Cardholder không được chấp nhận thanh toán, như các bạn ở Hàn Quốc chẳng hạn, trong khi thẻ của các bạn có biểu tượng của VISA, MasterCard hẳn hoi, tiền phí thì ngân hàng vẫn thu, mà công dụng thì không có. Ngoài thẻ tín dụng còn có loại thẻ khác goi là Debit Card. Debit card khác với Credit Card ở điểm căn bản nhất là không có quan hệ vay nợ, bạn có tiền trong tài khoản thì tiêu, hết thì thôi, không vay được. Ngân hàng phát hành thẻ Debit Card không phải chịu rủi ro khi bạn không có tiền trả nợ. Thực chất họ giữ tiền hộ bạn, giúp bạn sử dụng được tiện ích của các tổ chức thanh toán quốc tế. Debit Card có thể sử dụng được để thanh toán quốc tế có các đặc điểm về hình thức giống hệt Credit Card, phía trước có in nổi tên Cardholder, ngày cấp và ngày hết hạn và in nổi 16 số của thẻ, logo của tổ chức thanh toán quốc tế, phía sau có chữ ký, security code. Nếu thẻ của bạn có đầy đủ các yếu tố này, từ phía Merchant, họ không thể biết được thẻ của bạn là Credit hay Debit, và thông tin ấy cũng không có ý nghĩa gì với họ cả. Debit hay Credit là nói về quan hệ của bạn với ngân hàng của bạn mà thôi. Cũng cần nói thêm, ngoài loại thẻ Debit tiêu chuẩn như nói ở trên, nhiều ngân hàng chưa thật sự integrate hệ thống với các mạng lưới thanh toán quốc tế, họ phát hành các loại thẻ cũng gọi là debit card, nhưng thực chất không dùng được để thanh toán online. Nếu bạn thấy tên mình, ngày cấp, ngày hết hạn, số thẻ không in nổi, số thẻ không phải 16 số, thì chắc chắn không thanh toán được online. Các loại thẻ "debit rởm" kiểu này thực chất ở nhiều nước được gọi là ATM card, bởi vì thẻ dùng được ở ATM. Bạn dùng thẻ rút tiền ở ATM ra tiêu thôi. Ở một số nước trong phạm vi quốc gia có hệ thống thanh toán liên ngân hàng, ví dụ ở Singapore gọi là NETS. Bạn có thể dùng thẻ ATM mua hàng ở cửa hàng cũng bằng hình thức swipe card. Nhưng thay vì ký tên bạn gõ số PIN (bí mật của bạn) vào một cái máy, tiền được chuyển từ tài khoản của bạn vào tài khoản của Merchant ngay lập tức, không có cơ hội chargeback, lấy lại tiền bất kỳ kiểu gì, dù là thẻ bị đánh cắp (lý do: bạn bị mất cắp thẻ không báo ngay lại còn tiết lộ số PIN cho kẻ cắp thì cũng đáng bị mất tiền rồi). Vì thế NETS được coi là giao dịch tương đương với trả tiền mặt. Nếu bạn có Card reader thì còn có thể sử dụng thẻ ATM để mua hàng trên PC nữa. Ngoài ra còn có một loại thẻ nữa dùng ở Singapore, gọi là Cash Card. Thẻ này cực kỳ đơn giản, bạn dùng thẻ ATM nạp tiền vào Cash Card, sau đó dùng Cash Card thanh toán được mọi thứ, nhưng nhớ đừng nạp nhiều tiền vào Cash Card, vì Cash Card không ghi tên, chỉ là một cái electronic wallet để tránh không phải giữ tiền xu thôi, nếu đánh rơi Cash Card cũng không khác đánh rơi ví, ai nhặt được có thể tiêu hết tiền mà chẳng bao giờ phải chịu trách nhiệm gì cả. Cash Card không cần ký tên, cũng không có PIN gì hết. Nói dài dòng về các loai thẻ và cơ chế thanh toán, tôi hy vọng làm rõ thêm được vài điều. Để kết luận tôi chỉ muốn nhắc các bạn mỗi lần xin hay mua các loại thẻ hãy xem kỹ hợp đồng của thẻ đó (terms and conditions) đừng để những từ ngữ debit card, cash card đánh lừa bạn. Các thuật ngữ này không có gì làm tiêu chuẩn cả, ngân hàng Barclay ở Anh gọi debit card của họ là Cash Card. Cũng đừng quá giận các ngân hàng không phát hành thẻ mà bạn muốn cho bạn được, nhiều khi do cơ chế pháp lý, quản lý ngoại hối ở địa phương quá chặt, ngân hàng muốn mà không làm được. Gần đây tôi có xem trên TV thấy nói ở Hàn Quốc đã có phát hành thẻ Debit Card thanh toán được ngoài siêu thị và cả online nữa, điển hình là Samsung Card và LG Card, bạn nào có thông tin xin mời hãy tư vấn cho các bạn bè biết để cùng sử dụng. Điều đầu tiên tôi nghĩ những câu trả lời của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là rất thật, thật với suy nghĩ của đại bộ phận người dân và thật cả với thực trạng về thanh toán tiền mặt của Việt Nam. Nếu bạn đã từng sống hay đi qua các nước kinh tế phát triển, bạn sẽ thấy các giao dịch thanh toán của người dân thông qua dùng thẻ thanh toán hay thẻ tín dụng là rất phổ biến, thậm chí có nước giá trị thanh toán đó lên đến trên 90% tổng giá trị thanh toán tiêu dùng. Vậy tại sao thanh toán bằng thẻ vẫn chưa thành hình ở nước ta như ở các nước phát triển, theo tôi có 3 yếu tố: - Thứ nhất, cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin của họ rất đầy đủ. Bởi vậy, hầu như tất cả các cửa hàng, thậm chí ở trong trường học họ đều có máy thanh toán tiền trực tuyến. Điều này Việt Nam chưa hội đủ điều kiện. Mặt khác luật pháp của Việt Nam chưa có quy định nào bắt buộc các cơ sở kinh doanh phải có máy thanh toán (quy định này có thể nằm trong Luật Doanh nghiệp chứ không cần phải quy định trong Luật các Tổ chức Tín dụng hay Luật Ngân hàng Nhà nước). - Thứ hai, nhìn về vấn đề thu nhập ở các nước kinh tế phát triển, người dân có thu nhập đều và cao, do đó số dư tiền gửi trên tài khoản thanh toán là khoản tiền ổn định và khá lớn, số tiền này được gọi là khoản vốn vãng lai trong hoạt động ngân hàng. Do ngân hàng có thể sử dụng một phần số tiền đó để kinh doanh, nên khi người sử dụng tài khoản thanh toán thì chỉ phải trả một khoản phí rất nhỏ hoặc thậm chí bằng không. Dùng tiền mặt "rẻ hơn" tiền thẻ là hoàn toàn đúng với Việt Nam. Trên thực tế các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ khó có thể đưa ra giá thành rẻ hơn. - Thứ ba, về thói quen người tiêu dùng và trình độ nhận thức, tôi thấy một phần do người dân và một phần do cả Ngân hàng Nhà nước còn chưa quan tâm đến việc khuyến khích người dân dùng thẻ thanh toán. Tôi thực sự ngạc nhiên, tại sao Ngân hàng Công thương lại lắp đặt hai máy rút tiền tự động trong Sở Giao dịch của Ngân hàng Nhà nước. Trong khi muốn để người dân tiếp cận việc thanh toán thẻ, cần có sự tiện lợi rút và gửi tiền qua các máy ATM. Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước chủ yếu lại là nơi giao dịch của các doanh nghiệp ngân hàng và một bộ phận nhỏ là cán bộ của Ngân hàng Nhà nước. Nếu số tiền đầu tư cho hai máy ATM trên được lấy từ quỹ hiện đại hóa ngân hàng do World Bank tài trợ thì quả là phí, không hiệu quả về mặt kinh tế và chưa phục vụ cho việc phát triển thanh toán thẻ ở Việt Nam. Thiết nghĩ, trên góc độ phát triển kinh tế, Ngân hàng Nhà nước nên quan tâm và đưa chiến lược phát triển thanh toán thẻ vào trong những chiến lược phát triển và củng cố hệ thống ngân hàng thương mại của Việt Nam hiện nay. Mặc dù chi phí đầu tư ban đầu lớn nhưng xét về tổng thể, thanh toán thẻ sẽ giảm chi phí cho nền kinh tế về in tiền, hủy tiền hiện nay, hạn chế tiền giả, tăng tính minh bạch trong nền kinh tế, kích thích tiêu dùng và đồng thời giúp cho việc chống tham nhũng ở nước ta. Theo nghiên cứu về kinh tế của nhiều nước, họ đều kết luận rằng người sử dụng thẻ tiêu dùng cao hơn dùng tiền mặt. Trong khi Chính phủ Việt Nam đang cần kích cầu nền kinh tế, tôi thiết nghĩ đây có thể sẽ là đòn bẩy quan trọng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra cho Việt Nam là làm thế nào để 5 hay 10 năm tới có thể phát triển lên thị trường thanh toán thẻ. Theo tôi việc cần làm ngay đó là: 1. Ngân hàng Nhà nước nên khuyến khích các ngân hàng thương mại trích một phần vốn điều lệ đang được Chính phủ xem xét tăng cho ngân hàng thương mại quốc doanh để đầu tư vào mạng lưới thanh toán thẻ. 2. Tổng công ty Bưu chính Viễn thông cần đầu tư xây dựng và giảm chi phí thuê bao đường truyền thanh toán trực tuyến cho các cửa hàng. 3. Chính phủ nên có quy định bắt buộc các cơ sở bán hàng, dịch vụ có số vốn lớn, như các siêu thị, phải trang bị thiết bị thanh toán thẻ. Xét trên khía cạnh tài chính chống thất thu thuế, đây có thể là giải pháp rất hiệu quả. 4. Trước mắt phía tài chính nên miễn khoản thuế thu nhập từ hoạt động kinh doanh thanh toán cho các ngân hàng thương mại. 5. Ngân hàng Nhà nước không nên chỉ để cho ngân hàng thương mại quốc doanh độc quyền kinh doanh hoạt động thanh toán thẻ. Theo kinh nghiệm điển hình của Nhật Bản, Công ty Dịch vụ Tiết kiệm của Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thanh toán thẻ ở Việt Nam. Vì tôi cũng có niềm đam mê trong lĩnh vực ngân hàng. nên có một vài suy nghĩ cho vấn đề thanh toán thẻ ở Việt Nam. Vì thời gian không cho phép, có thể có nhiều ý kiến chưa đúng và đủ. Rất mong nhiều bạn khác cùng cho ý kiến. Trân trọng kính chào Tài liệu tham khảo:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChiến lược phát triển sản phẩm của ngân hàng thương mại.doc
Luận văn liên quan