Để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả của ngành thuỷ sản trong điều kiện Việt Nam ra nhập WTO, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng thực phẩm thuỷ sản, tăng lợi thế cạnh tranh của ngành thuỷ sản Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần giảm nghèo cho người dân sống bằng nghề thuỷ sản ở các vùng nông thôn ven biển , ngành đã đặt ra rất nhiều giải pháp, cùng với những mục tiêu cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng đến an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm và thương mại thủy sản.
Cụ thể, ngành sẽ thực hiện truy xuất nguồn gốc thuỷ sản, loại bỏ nghề đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) thông qua việc ban hành các quy định, hướng dẫn thực hiện và các biện pháp quản lý cần thiết. Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai nhiệm vụ đảm bảo VSATTP cho tất cả các bên có liên quan đến thủy sản, từ sản xuất nguyên liệu, chế biến và phân phối thủy sản, để đến năm 2012 sẽ đạt được các mục tiêu cụ thể: đảm bảo 90% cá tra và tôm nuôi có thể truy nguồn gốc xuất xứ; 70% thuỷ sản khai thác có nhật ký theo dõi; 90% cơ sở chế biến thuỷ sản áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACCP5; 50% cơ sở thu mua, sơ chế, chế biến thuỷ sản tại các làng nghề, khu chế biến thủy sản tập trung sẽ áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo SSOP6, GMP7
Cùng với đó, ngành Thủy sản sẽ hỗ trợ về kỹ thuật, tổ chức sản xuất và tín dụng, tăng cường kiểm tra giám sát chất lượng và an toàn thực phẩm ở tất cả các khâu cung cấp giống và thức ăn, nuôi thủy sản, thu hoạch, xử lý, chế biến và phân phối sản phẩm
17 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2740 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết của Việt Nam với WTO đối với ngành thuỷ sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. NHỮNG CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO ĐỐI VỚI NGÀNH THUỶ SẢN. NHỮNG CƠ HỘI THÁCH THỨC ĐẶT RA.
1. Những cam kết của Việt Nam với ngành thủy sản.
Theo phân loại của WTO, thuỷ sản không phải là mặt hàng nông nghiệp mà là mặt hàng công nghiệp. Việc phân loại này có liên quan đến việc xác định các cam kết Việt Nam phải tuân thủ khi đàm phán và thực hiện các nghĩa vụ của WTO. Chẳng hạn nếu thuộc mặt hàng thuỷ sản thì Việt Nam phải cam kết thực hiện các quy định của Hiệp định nông nghiệp trong khi đây là Hiệp định hết sức phức tạp và có nhiều nghĩa vụ quan trọng. Nếu không phải là mặt hàng nông sản thì các cam kết sẽ nhẹ đi rất nhiều.
Nhìn chung, các cam kết chính mà Việt Nam phải thực hiện có liên quan đến ngành thuỷ sản như sau:
Giảm dần các biện pháp trợ cấp, thậm chí xoá bỏ trợ cấp xuất khẩu
Như trên đã trình bày, để thúc đẩy sự phát triển của ngành thuỷ sản, Chính phủ đã ban hành nhiều Chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp trong ngành thuỷ sản. Các chính sách này trong thời gian qua đã cho thấy hiệu quả rõ rệt trong việc phát triển ngành thuỷ sản đưa ngành này trở thành một trong những mặt hàng đem lại nhiều ngoại tệ cho đất nước, thậm chí có sức cạnh tranh mạnh trên nhiều thị trường lớn và khó tính trên thế giới. Một điều không thể phủ nhận là có được kết quả như vậy có phần quan trọng là sự nỗ lực vận động của các doanh nghiệp thuỷ sản nhưng các chính sách hỗ trợ cũng đóng vai trò quan trọng. Khi gia nhập WTO, những chính sách trợ cấp bị WTO cấm sẽ phải bị bãi bỏ và các chính sách trợ cấp xuất khẩu như thưởng xuất khẩu cũng phải bị bãi bỏ ngay lập tức. Trong đàm phán, các thành viên WTO đã gây sức ép rất mạnh đối với vấn đề này xuất phát từ thực tiễn áp dụng của nhiều quốc nước trên thế giới.
Ràng buộc thuế quan và cắt giảm thuế theo lộ trình
Như trên đã đề cập, mức thuế cuối cùng mà Việt Nam cam kết khi gia nhập WTO chỉ được công bố sau khi Ban Thư ký WTO đã hoàn tất việc tổng hợp cam kết. Trong đàm phán gia nhập WTO, các thành viên có lợi ích từ việc xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Việt Nam đều gây sức ép đề nghị Việt Nam cắt giảm thuế quan đối với các mặt hàng thuỷ sản. Đây là quy tắc mà Việt Nam phải chấp nhận. Vấn đề chỉ là đàm phán như thế nào để mức cắt giảm không gây ảnh hưởng quá lớn đối với ngành thuỷ sản.
Dưới đây là biểu cam kết về mặt hàng thủy sản mà Việt Nam đã cam kết với WTO:
Tuân thủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại.
Một nghĩa vụ quan trọng mà Việt Nam phải cam kết để gia nhập WTO là tuân thủ các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại được quy định cụ thể trong các Hiệp định SPS và TBT của WTO. Theo đó, Việt Nam phải đảm bảo áp dụng các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ theo đúng các quy định mà Hiệp định SPS đưa ra. Điều này có nghĩa là trong tương lai Việt Nam không được phép tuỳ tiện cấm nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu một mặt hàng nào đó với lý do an toàn vệ sinh mà không đưa ra chứng cứ khoa học xác đáng. Tương tự như vậy, Việt Nam cũng không được đưa ra các hàng rào kỹ thuật trá hình nhằm hạn chế thương mại. Việc cam kết như vậy sẽ khiến Chính phủ Việt Nam không thể tuỳ ý racác quyết định nhằm bảo hộ các mặt hàng trong nước như trước
2. Những thuận lợi và thách thức của ngành thuỷ sản khi Việt Nam hội nhập WTO
Khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngành thuỷ sản sẽ có nhiều thuận lợi, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều thách thức. Yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục khai thác tốt các tiềm năng, đầu tư phát triển có hiệu quả, bền vững và tiếp tục hội nhập nhanh với thủy sản khu vực và quốc tế
Thuận lợi
Việc gia nhập WTO sẽ mang lại cơ hội cho sản phẩm thủy sản Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường thế giới, do các nước biết đến Việt Nam nhiều hơn, doanh nhân các nước sẽ quan tâm hơn đến xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, trong đó có sản phẩm thủy sản.
Sự ưu đãi hơn về thuế quan, xuất xứ hàng hoá, hàng rào phi thuế quan và những lợi ích về đối xử công bằng, bình đẳng sẽ tạo điều kiện để hàng thủy sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Để đáp ứng được các quy định của WTO cũng như yêu cầu của các nước thành viên, Bộ Thủy sản đã không ngừng điều chỉnh cơ chế chính sách và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn cho phù hợp.
Vào WTO sẽ là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn đến đầu tư vào phát triển thủy sản tại Việt Nam.
Ngành Thuỷ sản Việt Nam đã đứng vị trí thứ 7 trong topten có kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất, với 2,65 tỷ USD đạt được trong năm 2005, và đã có mặt ở 105 thị trường nước ngoài…
Tuy nhiên, sự bùng nổ mạnh mẽ này là một phần khiến cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe về an toàn vệ sinh cũng như các vụ kiện chống bán phá giá (điển hình như vụ kiện cá tra, basa và vụ kiện tôm).
Khó khăn
Việt Nam là nước đang phát triển, nên khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản còn yếu, trình độ quản lý còn nhiều bất cập, trong khi các yêu cầu về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước thường xuyên thay đổi và ngày càng đòi hỏi khắt khe.
Sự hiểu biết của các doanh nghiệp về luật pháp quốc tế, nhất là hiểu rõ về pháp luật trong tranh chấp thương mại còn rất hạn chế, điều này ảnh hưởng khá lớn tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực chế biến xuất khẩu, cụ thể hơn là khu vực sản xuất nguyên liệu chưa đáp ứng được nhu cầu của khu vực chế biến xuất khẩu cả về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm.
Công tác quản lý nguồn lợi, quản lý tàu thuyền trên biển, công tác thống kê nghề cá còn lạc hậu và chưa đáp ứng được các yêu cầu về hội nhập.
Công tác đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật tuy đã được quan tâm nhưng do hạn chế về kinh phí và kinh nghiệm nên chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng khi gia nhập WTO.
Năng lực, kinh nghiệm quản lý và trang thiết bị phục vụ cho kiểm tra, kiểm soát chất lượng, kiểm dịch hàng thủy sản nhập khẩu còn hạn chế - là thách thức lớn đối với việc bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng cũng như sức khoẻ và môi trường sống của các loài thủy sản, đồng thời đó cũng là thách thức đối với những cạnh tranh không lành mạnh sẽ diễn ra đối với thủy sản Việt Nam.
Do Việt Nam là nước đang phát triển nên nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm, bên cạnh đó kỹ năng và trình độ quản trị của nhiều doanh nghiệp thủy sản chưa đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế và còn rất thấp so với các đối thủ.
Hệ thống cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh thủy sản (hệ thống thủy lợi, các chợ thủy sản đầu mối, các trung tâm thương mại thủy sản) chưa có hoặc còn yếu, cộng với khả năng cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là thách thức lớn trong việc giữ được thị trường trong nước.
Vấn đề thương hiệu của thủy sản Việt Nam cũng được coi là một thách thức lớn, vì hiện nay các mặt hàng thủy sản Việt Nam được xuất khẩu thông qua các nhà nhập khẩu và được phân phối dưới nhiều thương hiệu khác nhau, vừa không quảng bá được sản phẩm, vừa có thể gây ra những rắc rối như vụ “cá basa” thành “cá mú” ở thị trường Mỹ vừa qua.
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam đang là mối lo ngại nhất là khi sắp bước qua ngưỡng cửa WTO. Nếu không nâng cao được sức cạnh tranh, thì ngành thủy sản Việt Nam không những sẽ đuối sức trong cuộc đua xuất khẩu với những đối thủ mạnh của châu á và châu Mỹ, mà còn bị “hạ nốc ao” ngay chính trên “sân nhà”. Mục tiêu phát triển nghề cá bền vững chỉ có thể đạt được trên nền tảng sản xuất hiệu quả và sức cạnh tranh cao.
II.THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU HỘI NHẬP.
Việt Nam có bờ biển dài 3260km với 112 cửa sông và 4000 đảo lớn nhỏ, có nhiều eo biển, đầm lầy và phá với nhiều sản phẩm thủy sản. Vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên một triệu km2 . Nguồn lực thủy sản giữ một vai trò kinh tế quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Chính phủ đã nhận ra điều này và đẩy mạnh phát triển ngành thủy sản như một ngành kinh tế trọng điểm trong nền kinh tế của đất nước.
Và ngành thủy sản Việt Nam đang có những thay đổi lớn trong nền kinh tế quốc dân, sau khi có sự gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Do đó cũng có sự khác biệt khá lớn trong ngành thủy sản Việt Nam trước khi hội nhập và sau khi hội nhập.
1.Trước hội nhập
Những đặc điểm dễ dàng nhận thấy của ngành thủy sản Việt Nam trước khi hội nhập vẫn thường là dựa vào những khả năng tiềm tàng sẵn có của biển Việt Nam mà chưa có nhiều sự xuất hiện của việc hoạt động thúc đẩy kinh tế theo nền kinh tế thị trường.
a .Thủy sản Việt Nam phát triển cả đánh bắt và nuôi trồng tới chế biến :
Về sản lượng
Tổng sản lượng thủy sản đã tăng từ 0,81 triệu tấn trong năm 1985 lên 2,54 triệu tấn trong năm 2003. Hiện nay sản lượng hải sản đánh bắt chiếm 56% tổng sản lượng, trong khi đó tỷ lệ nuôi trồng thủy sản đang ngày càng gia tăng. Trong giai đoạn 1985 - 2003, tổng giá trị sản lượng thủy sản của Việt Nam tăng 2,6 lần, trong số đó tổng giá trị sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng hơn 4,8 lần.
Về đầu tư
Có sự gia tăng đáng kể về đầu tư cho ngành này trong giai đoạn 1986 - 2003. Mức đầu tư trung bình hàng năm tăng từ 170,6 tỷ đồng và giai đoạn năm 2003, mức đầu tư của toàn ngành thủy sản đạt mức kỷ lục là 6 316 tỷ đồng. Nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 86% trong tổng vốn đầu tư, trong đó nguồn vốn huy động từ dân chiếm khoảng 18,6%. Xét dưới góc độ phân bổ nguồn vốn cho các lĩnh vực, bắt đầu từ năm 2001, đầu tư cho các nhà máy chế biến sản phẩm thủy sản chiếm khoảng 30,5% quỹ đầu tư. Các khoản đầu tư lớn khác là đầu tư cho khai thác hải sản chiếm 27,9%, và nuôi trồng thủy sản chiếm 25,5%. Hơn nũa, 16,2% tổng vốn đầu tư cho lĩnh vực thủy sản là dành cho lĩnh vực dịch vụ, có sự đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Đầu tư cho lĩnh vực thủy sản là rất có hiệu quả. Từ năm 1996 - 2000, đầu tư cho ngành đã góp phần làm tăng tỷ trọng của ngành thủy sản trong GDP của Việt Nam từ 3% lên 3,2%, mặc dù tỷ lệ đầu tư cho ngành trong tổng vốn đầu tư phát triển lại rất thấp, chỉ chiếm 1,8%. Tuy nhiên, nhu cầu về đầu tư phát triển cho ngành này vẫn còn rất lớn. Thực tế cho thấy rằng ở nhiều tỉnh, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và dịch vụ là không đủ mạnh để hỗ trợ cho sự tăng trưởng của ngành thủy sản.
Nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam
Nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) là ngành kinh tế có tiềm năng phát triển của Việt Nam. Những năm gần đây NTTS của nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt đựơc nhiều thành tựu to lớn, góp phần thúc đẩy công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngành có vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần xoá đói giảm nghèo, cung cấp dinh dưỡng và nâng cao thu nhập cho nhân dân, và từng bước nâng cao kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Đến năm 2003, NTTS và các hoạt động thuỷ sản chiếm tới 5,1% tổng số lao động trên toàn quốc; đến cuối năm 2006, sản lượng nuôi trồng đạt 1.526.000 tấn, tăng khoảng 14% so với năm 2005 (Đồ thị 1và Đồ thị 2). Nuôi trồng thuỷ sản tập trung chủ yếu ở đồng bằng Nam bộ, và sau đó là đồng bằng sông Hồng (Đồ thị 3)
Đồ thị 1: Tổng sản lượng NTTS cả nước và giá trị xuất khẩu của Việt Nam 1990 - 2005
Đồ thị 2: Sản lượng NTTS phân theo các khu vực trong cả nước từ năm 1995 – 2005
Đồ thị 3: Diện tích mặt nước NTTS phân theo các khu vực trong cả nước từ năm 1995 – 2005
Nuôi trồng thủy sản đã thực sự phát triển mạnh cả về diện tích nuôi trồng và đa dạng hóa chủng loại sản phẩm. Những sản phẩm có thể xuất khẩu như tôm sú, tôm hùm, tôm càng xanh và cá da trơn là các sản phẩm chủ đạo, trong đó tôm sú đen và cá da trơn là hai mặt hàng xuất khẩu chính. Những sản phẩm khác vẫn còn bị hạn chế về sản lượng, hoặc khả năng cạnh tranh còn yếu trên thị trường thế giới.
Trong năm 2001 số hộ gia đình và tỷ trọng các hộ gia đình tham gia vào nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng ven biển tăng rõ rệt. Tính đến thời điểm ngày 1 tháng 10 năm 2001, toàn quốc có 509.000 hộ, chiếm 3,7% số hộ gia đình được phỏng vấn có thu nhập chính từ nông – ngư nghiệp. Năm 2001, số hộ gia đình nông - ngư nghiệp đã tăng 2,2 lần so với năm 1994. Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản có tất cả là 2 triệu hộ gia đình với 3 triệu lao động đang tham gia cả việc nuôi trồng hoặc đánh bắt thủy sản. Các hộ gia đình đã có xu hướng tập trung và mở rộng thành các trang trại. Số lượng các trang trại nuôi trồng thủy sản đã tăng một cách rõ rệt trong hơn một thập kỷ qua. Nghề kinh doanh chính của các trang trại này là nuôi tôm và cá. Nông - ngư nghiệp trước đây chỉ là việc làm thêm của nhiều hộ gia đình ở nông thôn, hiện nay đã trở thành nghề chính mang lại thu nhập cao và sản lượng cao cho toàn ngành.
Đánh bắt hải sản
Đánh bắt hải sản đã phát triển nhanh chóng vào cuối năm 1980 và đầu năm 1990. Tuy nhiên, do hầu hết các tàu thuyền đánh bắt với kích cỡ nhỏ, nên phạm vi hoạt động đánh bắt hải sản tập trung chủ yếu ở ven bờ. Gần đây, các hoạt động đánh bắt ven bờ đã suy giảm rõ rệt. Ngành thủy sản chỉ có thể tăng sản lượng đánh bắt chủ yếu bằng cách mở rộng các hoạt động đánh bắt xa bờ. Sự chuyển dịch từ đánh bắt ven bờ sang đánh bắt xa bờ cũng đồng nghĩa với sự chuyển dịch từ đánh bắt với giá trị thấp sang đánh bắt với giá trị cao. Tỷ lệ xuất khẩu trong tổng sản lượng đánh bắt hải sản tăng từ 20% năm 1998 lên 25% năm 2002. Tuy nhiên các chuyên gia thủy sản đều cho rằng Việt Nam đang tiến gần đến ngưỡng giới hạn của sự tăng trưởng nguồn lợi hải sản.
Gần đây nhiều gia đình đang làm nghề đánh bắt hải sản, đã đầu tư tới hàng tỷ đồng để trang bị tàu, thuyền máy, những thiết bị định vị cá, các thiết bị liên lạc để kéo dài thời gian xa bờ của họ và tăng sản lượng. Tính đến cuối năm 2003, cả nước có 83.122 tàu và thuyền máy với tổng công suất 4.100.000CV, nhiều hơn 11.079 chiếc so với năm 1991. Có 6.258 tàu khai thác xa bờ với công suất tổng cộng trên 1 triệu CV, trong đó có 161 tàu công suất trên 90CV được đóng mới trong năm 2003. Sản phẩm hải sản do tàu khai thác xa bờ đóng góp 18,67% tổng sản phẩm thủy sản xuất khẩu năm 2003.
Ngoài ra còn phát triển ngành chế biến thủy sản
Ngành chế biến thủy sản đã phát triển mạnh mẽ cả về công suất lẫn công nghệ chế biến. Đến năm 2003, ngành đã có trên 300 nhà máy chế biến thủy sản, trong đó có 60% nhà máy đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng và an toàn thực phẩm của EU và của Mỹ. Những điều kiện thuận lợi này đã tác động tích cực tới việc thâm nhập thị trường và mở rộng qui mô xuất khẩu. Từ tháng 11 năm 1999, các sản phẩm thủy sản của 18 công ty được cấp EU code. Năm 2002 có 62 doanh nghiệp được cấp EU code, trong thời gian này, 126 doanh nghiệp đã nhận được chứng chỉ phân tích mối nguy hiểm kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) để xuất khẩu vào Mỹ. Doanh thu của các doanh nghiệp này chiếm 80% tổng giá trị xuất khẩu. Những doanh nghiệp khác đang tiến hành nâng cấp doanh nghiệp mình để đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn vệ sinh của ngành. Các nhà chế biến thủy sản đang tập trung ở khu vực phía nam Việt Nam. Phần lớn các doanh nghiệp này là các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh.
b. Thị trường xuất nhập khẩu thủy hải sản tập trung là Nhật, Mĩ, và EU
Đến nay sản phẩm thủy sản Việt Nam đa có mặt tại 80 nước và vùng lanh thổ. Trong đó Mỹ, Nhật Bản,EU là thị trường lớn
Thị trường Mỹ: các năm 2001- 2003 thủy sản xuất khẩu vào Mỹ chiếm tỷ trọng lớn nhất, nhưng năm 2004 do tác động tiêu cực của vụ kiện bán phá giá tôm vào thị trường Mỹ nên giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Mỹ đa lùi xuống vị trí thứ hai (24,1%). Khối lượng và giá trị kim ngạch thủy sản xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm 2003, khối lượng đạt 79.265 tấn (giảm 30%), giá trị đạt 522.542.000 USD (giảm 27,7%).
Thị trường Nhật Bản: có tỷ trọng cao nhất, chiếm 31,4% giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn Ngành, khối lượng đạt 106.610 tấn (tăng 21,6%), giá trị đạt 680.064.000 USD (tăng 31,2%). Khi có khó khăn do vụ kiện tôm, nhiều nước bị kiện khác (Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ...) đa chuyển hướng sang thị trường Nhật nhưng thủy sản Việt Nam vẫn tăng được khối lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu tại Nhật Bản. Đây là hiện tượng đáng mừng về năng lực tiếp thị của các doanh nghiệp chế biển xuất khẩu thủy sản và tín nhiệm về chất lượng hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường này.
Thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam năm 2004
Thị trường
Khối lượng (tấn)
Giá trị (USD)
Tỷ trọng (%)
Nhật Bản
106610
680064000
31,4
Mỹ
79265
522542000
24,1
EU
67251
214978000
9,9
Trung Quốc
42999
116974000
ASEAN
38322
152953000
Hàn Quốc
63386
125671000
Thị trường EU: đây là thị trường phản ánh yêu cầu cao của chất lượng sản phẩm, khối lượng thủy sản xuất khẩu đạt 67.251 tấn (tăng 84,6%), giá trị đạt 214.978.000 USD (tăng 88,1%), đưa tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường này đạt khoảng 9,9% năm 2004.
Thị trường Trung Quốc, Hong Kong: trong các tháng đầu năm xuất khẩu thủy sản vào thị trường này giảm mạnh, nhưng các tháng cuối năm t´nh h´nh có thay đổi, khối lượng thủy sản xuất khẩu tăng nhưng giá trị lại giảm. Tổng khối lượng thủy sản xuất vào thị trường này năm 2004 đạt 42.999 tấn (tăng 11%), giá trị đạt 116.974.000 USD (giảm 14,6%). Thị trường Trung Quốc, Hong Kong lớn, có tiềm năng song cạnh tranh ngày càng phức tạp, giá sản phẩm có xu hướng giảm và khả năng tăng hiệu quả là khó khăn.
Thị trường ASEAN: tổng khối lượng thủy sản xuất vào thị trường này năm 2004 đạt 38.322 tấn (tăng 47,3%), giá trị đạt 152.953.000 USD (tăng 28,3%).
Thị trường Hàn Quốc: tổng khối lượng thủy sản xuất vào thị trường này năm 2004 đạt 63.386.000 tấn (tăng 47,3%), giá trị đạt 125.671.000 USD (tăng 29,3%).
Từ thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta thấy xuất khẩu thủy sản đa có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn
c. Sức cạnh trạnh về hàng hóa còn yếu
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có nguồn lợi thủy, hải sản giàu có và phong phú trong khu vực và trên thế giới và có tốc độ tăng trưởng thủy sản nhanh, tuy nhiên chủ yếu vẫn là hàng thô, sơ chế những mặt hàng chế biến sâu và hàng giá trị gia tăng còn ít. Bên cạnh đó cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, chủ yếu tập trung ở một số mặt hàng: tôm, cá tra, cá bấ, mực, cá ngừ. Mẫu mã kiểu dáng còn đơn điệu chưa hấp dẫn khách hàng. Chất lượng thủy sản chưa cao nên trước những đòi hỏi khắt khe về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm , Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Về phía các doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp chế biến thủy hải sản Việt Nam đều có quy mô nhỏ bé hạn chế về tài chính, năng suất lao động thấp, nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất không ổn định.
Ngoài ra, hoạt động thâm nhập thị trường của doanh nghiệp Việt Nam còn thụ động, phụ thuộc nhiều vào phía đối tác, chưa thiết lập được hệ thống phân phố thủy sản trên các thị trường xuất khẩu.
Và công nghệ chế biến thủy sản của Việt Nam dù đã được đầu tư, nâng cấp, song vẫn lạc hậu, ảnh hưởng lớn tới cạnh tranh, mở rộng thị trường
d. Chỉ tập trung xuất khẩu, sản xuất manh mún
Tính đến hết năm 2006, diện tích chuyển đổi đạt gần 326 nghìn ha, nâng diện tích nuôi thủy sản của toàn vùng lên hơn 747,3 nghìn ha, trong đó có hơn 152,5 nghìn ha nuôi các loài thủy sản nước ngọt. Hầu hết diện tích chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản là đất trồng lúa kém hiệu quả và đất hoang hóa. Ở các vùng chuyển đổi, nghề nuôi phát triển mạnh ở cả ba loại hình nuôi nước mặn, nước lợ và nước ngọt với các loài: tôm sú được nuôi ở ven biển, cá tra ở nội đồng.
Việc chuyển đổi đã mang lại hiệu quả rõ ràng, giá trị thu nhập tăng từ 4 đến 10 lần trồng lúa. Năm 2006, toàn vùng đạt tổng sản lượng thủy sản gần 1,3 triệu tấn. Mặc dù tôm sú có diện tích nuôi lớn, chiếm đến 70%, nhưng sản lượng chỉ đạt hơn 291 nghìn tấn, đứng thứ hai sau cá tra. Dễ nuôi, sinh trưởng nhanh, thời gian nuôi ngắn, cho năng suất cao, lại có thị trường xuất khẩu, cho nên gần đây cá tra, cá ba sa được nông dân mở rộng diện tích nuôi. Năm 2005, sản lượng cá tra sau thu hoạch ở khu vực này chỉ đạt khoảng 373 nghìn tấn, đến năm 2006 tăng đột biến, đạt sản lượng 800 nghìn tấn; trong đó An Giang và Ðồng Tháp là hai tỉnh dẫn đầu về sản lượng cá tra nuôi, đạt gần 400 nghìn tấn.
Khi giá cá tra tăng và duy trì ở mức cao 16-17 nghìn đồng/kg, phong trào đào ao nuôi cá càng diễn ra rầm rộ. Không chỉ ở vùng chạy dọc dài theo sông Hậu giá đất tăng cao, đến cả các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng tuy mới vào nghề nuôi cá nhưng người ta đã săn lùng mua, thuê đất đào ao nuôi cá ồ ạt.
Việc chuyển đổi đào ao nuôi cá tra, tự phát khá nhanh, trong khi cơ sở hạ tầng về kỹ thuật không theo kịp, đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập. Ðó là việc quy hoạch vùng nuôi, nhất là quy hoạch thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; chất lượng con giống chưa được kiểm soát; lạm dụng sử dụng hóa chất, thuốc chữa bệnh trong nuôi thâm canh, thức ăn chất lượng kém giá cao, thức ăn tự chế biến quá nhiều; năng lực quản lý môi trường và dịch bệnh còn yếu, chất lượng sản phẩm không ổn định, gây khó khăn trong khâu tiêu thụ... Ðây là những vấn đề đang gây bất ổn cho nghề nuôi cá tra hiện nay.
2. Sau hội nhập
a.Việt Nam được coi là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng thủy sản nhanh nhất
Theo báo cáo tại Hội thảo do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với tổ chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO) tổ chức hội thảo Xây dựng kế hoạch hành động quốc gia về phát triển bền vững ngành thủy sản Việt Nam sau khi gia nhập WTO giai đoạn 2010-2020. Hội thảo tổ chức ngày 8-9/6 tại Cần Thơ, hiện Việt Nam được coi là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thủy sản nhanh nhất thế giới với tốc độ tăng giá trị trung bình giai đoạn 1998-2008 đạt 18%/năm. Đại diện của FAO cho biết, Việt Nam đang đứng thứ 6 thế giới về xuất khẩu thủy sản, thứ 5 về sản lượng nuôi trồng và thứ 12 về sản lượng khai thác. Năm 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt tới 4,5 tỷ USD
Đến nay, tuy xuất khẩu tôm vẫn tăng nhưng tỷ trọng giảm. Các nhóm hàng khác như cá lại có tốc độ tăng nhanh, trong đó cá tra là hiện tượng đặc biệt có sự tăng trưởng bùng nổ kể từ sau năm 2000.
Tính riêng trong năm 2008, khối lượng cá xuất khẩu đạt hơn 825 tấn, tỷ trọng đạt 66,7% khối lượng thủy sản xuất khẩu, trong đó riêng cá tra đạt hơn 640 tấn, chiếm hơn 51% tỷ trọng khối lượng thủy sản xuất khẩu.
b. Hiện nay, hàng thủy sản Việt Nam ngày càng chiếm vị trí cao trên thị trường quốc tế.
Hội nhập sâu rộng tạo điều trao đổi và giao lưu quốc tế. Xuất khẩu không ngừng tăng lên.Với việc là nước có ngành thủy sản phát triển nhanh nhất, Việt Nam đang cố gắng quảng bá hình ảnh để có thể thúc đẩy các hoạt động đầu tư, tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững, bằng việc tổ chức festival. Ngày 25/4, trong khuôn khổ “ Festival thủy sản” Việt Nam 2010, hội thảo với chủ đề "Thủy sản Việt Nam - Tiềm năng - Phát triển và hội nhập” đã diễn ra tại Cần Thơ. Mục tiêu đến năm 2020 đưa diện tích nuôi trồng lên 890.000ha, sản lượng đạt 3,6 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu 5,5 tỉ USD, hội thảo đã đưa ra các giải pháp ngay từ bây giờ là phải qui hoạch, điều chỉnh nuôi trồng, gắn sản xuất với thị trường, trước hết là qui hoạch, xây dựng hệ thống thủy lợi đa mục tiêu cho vùng nước ngọt, nước lợ, phù hợp với kịch bản biến đổi khí hậu.
Ngành thủy sản cũng phát triển mạnh hệ thống thông tin thị trường, giá cả, quảng bá tiếp thị sản phẩm. Ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học trong sản xuất giống để nâng cao chất lượng con giống, trước hết là cá tra, tôm sú, tôm thẻ chân trắng, các loài nhuyễn thể, cá biển. Cùng với đó, nâng cấp, hiện đại hóa hệ thống cảng cá, trước hết tại các địa phương có diện tích nuôi lớn, có sản lượng khai thác nhiều; xây dựng kết hợp khu neo đậu tránh bão và dịch vụ hậu cần lớn, trước hết tại Côn Đảo, Phú Quốc (Kiên Giang), Cà Mau, nâng cấp, đổi mới trang thiết bị tàu cá, tạo thành mạng lưới các trạm bảo dưỡng, tiểu tu tàu cá tại các tỉnh ven biển, tiến tới xây dựng các đội tàu cá công nghiệp trong thời gian tới.Ngoài ra, ngành cũng xây dựng các chợ thủy sản đầu mối gắn với các cảng cá ở từng vùng, miền. Hiện cả nước có 15 ngư trường sâu từ 10-280m, phần lớn có thể khai thác quanh năm và 1 triệu ha nuôi trồng, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long chiếm hơn 70% diện tích và 90% sản lượng nuôi, xuất khẩu. Ngành thủy sản Việt Nam tạo việc làm cho 4 triệu lao động, hiện xuất khẩu qua 170 quốc gia, vùng lãnh thổ. Nếu năm 2000, kim ngạch xuất khẩu thủy sản chỉ đạt 1,5 tỉ USD thì đến năm 2009 đạt 4,2 tỉ USD và năm 2010 có thể đạt 4,5 tỉ USD, trong đó cá da trơn đạt 1,4 tỉ USD.
Ngành khai thác thủy sản của Việt Nam đang vươn ra và hội nhập vào xu thế chung toàn cầu trong nghề khai thác thủy sản và thương mại thủy sản thế giới. Thể hiện rõ nhất của xu hướng này là nhiều nghề khai thác thủy sản ở Việt Nam đang tiếp cận với những tiêu chí của Hội đồng Quản lý biển Quốc tế (MSC) và xin cấp chứng nhận MSC. Mới đây, khai thác nghêu ở Bến Tre và cá cơm ở Phú Quốc đã làm thủ tục xin cấp chứng nhận của MSC.
Đây được xem là tín hiệu vui thể hiện sự phát triển và hội nhập ngày càng sâu của ngành thủy sản Việt Nam vào ngành thương mại thuỷ sản thế giới và xu hướng phát triển bền vững chung của thuỷ sản thế giới. Đặc biệt, việc xuất khẩu cá tra trở lại thị trường Nga, một thị trường lớn và quan trọng, đã tác động đến các thị trường khác. Nga đang xem xét chọn Việt Nam là mô hình đầu tiên trong quản lý điều hành, chế biến xuất khẩu thủy sản. Nhiều nhà nhập khẩu Nga sẽ sang Việt Nam để tìm hiểu thông tin về thị trường nhập khẩu, tiêu thụ cá tra với các nhà sản xuất, chế biến Việt Nam.
c. Khó khăn từ rào cản kỹ thuật và những quy định nghiêm ngặt của nước nhập khẩu các vụ kiện bán phá giá, thiên tai, vẫn còn hạn chế về công nghệ và chất lượng sản phẩm.
Hội thảo đánh giá ngành thủy sản Việt Nam còn nhiều hạn chế như phương tiện, kỹ thuật đánh bắt xa bờ qui mô còn nhỏ, lạc hậu, hậu cần thiếu đồng bộ, việc ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng thủy sản nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh, chất lượng cao, chủ động phòng dịch bệnh còn hạn chế, nhiều thời điểm, nguồn nguyên liệu thiếu ổn định.
Điều khó nhất khi tham gia là phải trang bị đầy đủ các kiến thức về thông lệ, luật lệ quốc tế. Phải rõ ràng và minh bạch về chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, phải tập trung củng cố nguồn nguyên liệu xuất khẩu, nhất là khả năng truy xuất nguồn gốc, các chứng chỉ kiểm soát quá trình không chỉ trong chế biến mà những giai đoạn sản xuất sản phẩm trước đó. Khó khăn cho các doanh nghiệp suất khẩu hiện nay có rất nhiều hệ thống chứng nhận khác nhau, có ISO thì đòi thêm ACC, EuroGap... doanh nghiệp rất khó khăn. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản (VASEP) đang nghiên cứu chương trình, có thể xây dựng một hệ thống chứng nhận VN nhưng tương thích tất cả thị trường, trong đó bao gồm cả các yêu cầu của chứng nhận EuroGap, ACC hay những tiêu chuẩn khác...
Thêm đó vốn, thị trường và nguyên liệu là ba vấn đề khá cấp bách của ngành xuất khẩu thủy sản nước ta. Không chỉ khó khăn về thiếu nguyên liệu, chi phí sản xuất tăng cao, chi phí kiểm tra quá cao, tác động nặng nề của hai vụ kiện chống bán phá giá ở Mỹ, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều diễn biến bất lợi tại thị trường Nhật, Nga, Australia...
Ngoài ra, những hàng rào kỹ thuật và thương mại ngày càng chặt chẽ, với các quy định về dư lượng kháng sinh, về truy xuất nguồn gốc sản phẩm thủy sản, về kiểm dịch cũng là thách thức lớn đối với doanh nghiệp thủy sản Việt Nam. Tồn tại và hạn chế của ngành thủy sản, trước hết là hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh ở các doanh nghiệp. Cạnh tranh mua nguyên liệu, giảm giá bán để tranh khách hàng; lạm dụng hóa chất tăng trọng; vi phạm các quy định về ghi nhãn sản phẩm, mua tôm nguyên liệu đã bị bơm chích tạp chất.
Tình trạng manh mún tự phát khiến cho cạnh tranh nội bộ tăng cao, năng lực cạnh tranh chung của ngành bị suy yếu, có sự không cân đối nguyên liệu với năng lực chế biến. Trong khi đó, công tác nghiên cứu, phân tích xu hướng biến động, dự báo thị trường, tìm hiểu sâu khách hàng còn thiếu và yếu. Chưa thông báo kịp thời những thay đổi môi trường kinh doanh, những quy định pháp luật để doanh nghiệp chủ động đối phó, chưa đủ năng lực để đáp ứng được yêu cầu đa dạng của doanh nghiệp.
d. Ô nhiễm môi trường biến đổi khí hậu ảnh hưởng nghiêm trọng đến đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường biển và ngày càng trở nên nghiêm trọng do hậu quả của sức ép dân số, sức ép kinh tế, khả năng quản lý và sử dụng kém hiệu quả các tài nguyên biển.
Ô nhiễm dẫn đến sự cạn kiệt các tài nguyên cá, nhất là các loài cá ven bờ; tính đa dạng sinh học ngày càng bị đe doạ do phá huỷ môi trường sống như rừng ngập mặn, rạn san hô; axit hoá đất do phát quang rừng ven biển trên các vùng đất phèn để làm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản; ô nhiễm biển do dầu bởi vận tải biển, các hoạt động khai thác dầu ngoài khơi và các sự cố tràn dầu; ô nhiễm do nước cống đô thị không được xử lý; sử dụng hoá chất trong nông nghiệp và công nghiệp không quản lý chặt chẽ. Thêm vào đó, các loại thiên tai như bão, lũ và xâm nhập mặn tác động lớn tới môi trường biển và có xu hướng trầm trọng thêm bởi các hoạt động của con người. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc đánh bắt và nuôi trồng thủy sản tại Việt Nam.
e. Nhà nước đẩy mạnh hơn cung cấp vốn hỗ trợ kỹ thuật các biện pháp an toàn vệ
Nhà nước đưa ra các biện pháp hỗ trợ về tài chính tín dụng để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản như miễn giảm thuế xuất khẩu thuỷ sản và nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để chế biến thuỷ sản xuất khẩu, tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. Do thuỷ sản thuộc nhóm hàng mà nguồn cung cấp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, có tính thời vụ, rủi ro lớn và giá cả biến động thất thường. Vì vậy, có sự tài trợ xuất khẩu của nhà nước, bao gồm tài trợ trước khi giao hàng, tài trợ trong khi giao hàng và tín dụng sau giao hàng. Tài trợ xuất khẩu ngoài việc cung cấp vốn cho giao dịch xuất khẩu như trên còn có tác dụng hạn chế những rủi ro phát sinh trong giao dịch xuất khẩu do đó khuyến khích được các ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng xuất khẩu ở mức lãi suất hợp lý.
Nhà nước còn đưa ra và thực thi các chính sách quản lý, đầu tư thoả đáng để đảm bảo khai thác tốt nguồn lợi xa bờ cũng như cải tiến kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu chất lượng cao cung cấp cho hoạt động chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
III. Kinh nghiệm và giải pháp phát triển ngành thủy sản trước bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO
Ngành thủy sản Việt Nam: Tăng cường tuyên truyền
Trước mắt ngành thuỷ sản sẽ phổ biến kịp thời các thông tin hội nhập WTO và quốc tế về an toàn dịch bệnh, thực phẩm và thương mại thuỷ sản đến tận tay các nhà sản xuất và kinh doanh thuỷ sản tại các địa phương. Đặc biệt, công tác thông tin tuyên truyền sẽ có vai trò quan trọng trong việc phổ biến các mục tiêu, nhiệm vụ nhằm đạt được các kế hoạch đề ra.
Theo đó, thời gian tới, ngành sẽ tập trung xây dựng các bài viết, băng hình chuyên đề phục vụ cho phát thanh, truyền hình ở trung ương và địa phương. Ngoài ra, sẽ đăng trên các báo, tạp chí về các quy định, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật về an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm và thương mại thuỷ sản, đáp ứng các quy định của Việt Nam, các hiệp định liên quan của WTO. Trang web của Bộ NN&PTNT và các tổ chức quản lý chuyên ngành sẽ trở thành kênh thông tin chủ đạo, người sản xuất sẽ được hỗ trợ thêm thông tin từ các bài viết, băng hình chuyên đề, sổ tay tờ rơi…
Bên cạnh việc hỗ trợ thông tin, để nâng cao lợi thế cạnh tranh của thủy sản Việt Nam trên trường quốc tế, ngành cũng sẽ lên chương trình phát triển cụ thể, ưu tiên đầu tư các sản phẩm chủ lực như: tôm, cá tra, cá ngừ, nhuyễn thể. Theo đó, mỗi chương trình sẽ bao gồm cả việc phân tích chuỗi giá trị và nguy cơ, cùng với các kế hoạch, lộ trình thực hiện khả thi và bố trí kinh phí cụ thể.
Nhằm tạo điều kiện để người chăn nuôi, ngư dân và các cơ sở thu mua và chế biến thuỷ sản tuân thủ đúng các quy định của WTO, ngành Thủy sản sẽ hỗ trợ về kỹ thuật, tổ chức sản xuất và tín dụng, bên cạnh đó sẽ tăng cường kiểm tra giám sát chất lượng và an toàn thực phẩm ở tất cả các khâu cung cấp giống và thức ăn, nuôi thuỷ sản, thu hoạch, xử lý, chế biến và phân phối sản phẩm…
Trong thời gian tới, công tác phát triển thương mại thủy sản cũng sẽ được đặc biệt chú trọng. Cụ thể, ngành sẽ tăng cường sự đại diện của thuỷ sản trong hệ thống thương mại quốc gia; phối hợp chặt chẽ với đại diện thương mại thuỷ sản Việt Nam tại các nước là thị trường nhập khẩu chủ yếu hàng thủy sản Việt Nam như: EU, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc…
Đa dạng hóa thị trường và chủ động mở rộng thị trường xuất khẩu
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu ngay chính trong thị trường EU và mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường phi truyền thống, các thị trường mới nổi lên là giải pháp cân thiết trong bối cảnh đồng euro đang giảm giá.
Những thị trường đáng chú ý có mức tăng trưởng tiêu dùng và có xu hướng ưa thích các sản phẩm cá tra của Việt Nam như các nước Đông Âu cũ, hoặc Bắc Âu như Thụy Điển, Bungaria, Romainia, Hungaria, Bỉ, Anh…Các thị trường mới nổi lên như Bắc Mỹ, Nam Mỹ...
Thị trường các nước Hồi giáo cũng đang được xem là một “kênh” tiêu thụ tốt, giúp các doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ. Dân số Hồi giáo chiếm gần 25% dân số toàn thế giới. Trung bình hàng năm thế giới chi khoảng 442 tỉ USD để mua thực phẩm, riêng các nước Hồi giáo chi 150 tỉ USD. Vì vậy, xuất khẩu thủy sản sang các thị trường Hồi giáo thông qua các nước có đông người Hồi giáo (Malaysia, Inđônêxia…) cũng đang được chú ý. Bên cạnh đó, Bắc Phi và Trung Đông cũng là những thị trường đầy tiềm năng.
Nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng của mặt hàng thuỷ sản
Sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam hiện còn yếu: Xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, chất lượng thấp. Để nâng cao sức cạnh tranh chất lượng hàng thủy sản cần:
Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thuỷ sản bằng các biện pháp như: Xây dựng tiêu chuẩn vùng nuôi an toàn kết hợp tăng cường kiểm soát các cơ sở chế biến; triển khai đồng bộ các tiêu chuẩn quy định quy trình, quy phạm về quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định hoá chất và chế phẩm được phép sử dụng.Nên áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế trong nuôi trồng (GAP, SQF 1000) hay nuôi trồng thủy sản hữư cơ (nuôi sinh thái) để đảm bảo nguyên liệu thủy sản nuôi có chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu để đáp ứng đòi hỏi của thị trường trong xu thế hội nhập quốc tế. Có chế tài xử phạt thích đáng đối với các trường hợp vi phạm; xây dựng các quy định về xuất xứ nguyên liệu gắn với vùng nuôi thuỷ sản.
Thứ hai, tổ chức lại sản xuất trong toàn ngành theo hướng liên kết ngang và dọc giữa các khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ thủy sản nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo chất lượng nguyên liệu chế biến thủy sản. Các doanh nghiệp phải ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm đối với người nuôi trồng, giúp đỡ ngư dân về kỹ thuật nuôi trồng, về giống, hướng dẫn ngư dân về kỹ thuật bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch.
Thứ ba, tiếp tục đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến hiện đại, tiên tiến, đặc biệt là công nghệ sinh học nhằm đa dạng hoá đối tượng xuất khẩu với hạ giá thành. Phat triển đồng bộ là rất cần thiết góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam. đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, chú trọng vào xây dựng thương hiệu và phát triển thị trường cho các sản phẩm chủ lực.
Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ sản trong nước với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn nhỏ bé về quy mô, vốn và kinh nghiệm kinh doanh còn thiếu trong khi lại phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ lớn có nhiều kinh nghiệm. Môi trường cạnh tranh khốc liệt, yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa.....Tất cả những điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường hợp tác với nhau tránh tình trạng mạnh ai nấy làm, tranh mua tranh bán. Liên kết là hướng để phát triển bền vững ngành thuỷ sản.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nếu chưa liên kết được 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, nhà doanh nghiệp) thì tập trung cho mối liên kết “hai nhà” (nhà nông và nhà doanh nghiệp).
Thực tế, nhà nước và nhà khoa học luôn sẵn sàng hỗ trợ để ngành thủy sản phát triển nhưng vấn đề cốt yếu là “liên kết” nhà nông và nhà doanh nghiệp. Doanh nghiệp đóng vai trò nòng cốt, hỗ trợ kỹ thuật, vốn, giống, thức ăn, thu mua nguyên liệu… Liên kết nhằm giải quyết đầu vào-đầu ra về nguyên liệu, đáp ứng đòi hỏi quốc tế chính là vấn đề cấp bách hiện nay để ngành thủy sản tồn tại và phát triển bền vững.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nên tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài từ đó hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, tạo cho các doanh nghiệp này có thế mạnh về vốn đầu tư, công nghệ cho phép các doanh nghiệp có thể đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường cũng như góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản.
Tăng cường sự hỗ trợ từ phía Nhà nước
Để ngành thuỷ sản hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Nhà nước không chỉ điều tiết cho ngành thuỷ sản phát triển đúng hướng, mà còn tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Doanh nghiệp rất cần sự trợ giúp của Nhà nước trong việc tăng cường khả năng hiểu biết thị trường, khả năng tiếp thị, mở văn phòng đại diện…
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có đủ các biện pháp hỗ trợ về tài chính tín dụng để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản như miễn giảm thuế xuất khẩu thuỷ sản và nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để chế biến thuỷ sản xuất khẩu, tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. Do thuỷ sản thuộc nhóm hàng mà nguồn cung cấp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, có tính thời vụ, rủi ro lớn và giá cả biến động thất thường.
Vì vậy, cần có sự tài trợ xuất khẩu của nhà nước, bao gồm tài trợ trước khi giao hàng, tài trợ trong khi giao hàng và tín dụng sau giao hàng. Tài trợ xuất khẩu ngoài việc cung cấp vốn cho giao dịch xuất khẩu như trên còn có tác dụng hạn chế những rủi ro phát sinh trong giao dịch xuất khẩu do đó khuyến khích được các ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng xuất khẩu ở mức lãi suất hợp lý. Nhà nước cần đưa ra và thực thi các chính sách quản lý, đầu tư thoả đáng để đảm bảo khai thác tốt nguồn lợi xa bờ cũng như cải tiến kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu chất lượng cao cung cấp cho hoạt động chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
Hoàn thiện khung pháp lý các qui định về thú y, về vệ sinh an toàn thực phẩm, về an toàn vùng nuôi…đồng thời với việc tăng cường công tác quản lý, kiểm soát nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc thú y, hoá chất sử dụng trong nuôi thủy sản cũng như việc kiện toàn bộ máy tổ chức về lĩnh vực này từ trung ương đến địa phương, cơ sở.
Việc thực hiện công tác nghiên cứu và công bố thời gian tồn lưu cuả kháng sinh, hóa chất được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản là hết sức cần thiết. Cũng như phải đẩy mạnh việc áp dụng “Qui phạm thực hành nuôi tốt"- GAP (Good Aquaculture Practise) và "Qui tắc nuôi có trách nhiệm"- CoC (Code Of Conduct) cho các đối tượng thủy sản chiến lược, trong đó có tôm sú, cá tra, basa. Đồng thời phải tăng cường kiểm soát an toàn vệ sinh một cách có hiệu quả các đối tượng tàu cá, cảng cá, chợ cá và cơ sở thu gom.
Nhà nước đẩy mạnh hơn cung cấp vốn hỗ trợ kỹ thuật các biện pháp an toàn vệ sinh thực phẩm, công nghệ
Theo luật an toàn thực phẩm năm 2010:
An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.
Để ngành thuỷ sản hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Nhà nước không chỉ điều tiết cho ngành thuỷ sản phát triển đúng hướng, mà còn tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Doanh nghiệp rất cần sự trợ giúp của Nhà nước trong việc tăng cường khả năng hiểu biết thị trường, khả năng tiếp thị, mở văn phòng đại diện…
Đối với hiệp hội thủy sản việt nam:
Hiệp hội ngành nghề thuỷ sản hỗ trợ cho các hội viên tham gia phát triển bền vững ngành thuỷ sản và tuân thủ các quy định của WTO, cũng như chủ động phòng, tránh và ứng phó có hiệu quả với các vụ tranh chấp thương mại và hàng rào kỹ thuật, ATVSTP do các nước nhập khẩu quy định.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả của ngành thuỷ sản trong điều kiện Việt Nam ra nhập WTO, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng thực phẩm thuỷ sản, tăng lợi thế cạnh tranh của ngành thuỷ sản Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần giảm nghèo cho người dân sống bằng nghề thuỷ sản ở các vùng nông thôn ven biển…, ngành đã đặt ra rất nhiều giải pháp, cùng với những mục tiêu cụ thể, trong đó đặc biệt chú trọng đến an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm và thương mại thủy sản.
Cụ thể, ngành sẽ thực hiện truy xuất nguồn gốc thuỷ sản, loại bỏ nghề đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) thông qua việc ban hành các quy định, hướng dẫn thực hiện và các biện pháp quản lý cần thiết. Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai nhiệm vụ đảm bảo VSATTP cho tất cả các bên có liên quan đến thủy sản, từ sản xuất nguyên liệu, chế biến và phân phối thủy sản, để đến năm 2012 sẽ đạt được các mục tiêu cụ thể: đảm bảo 90% cá tra và tôm nuôi có thể truy nguồn gốc xuất xứ; 70% thuỷ sản khai thác có nhật ký theo dõi; 90% cơ sở chế biến thuỷ sản áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo HACCP5; 50% cơ sở thu mua, sơ chế, chế biến thuỷ sản tại các làng nghề, khu chế biến thủy sản tập trung sẽ áp dụng chương trình quản lý chất lượng theo SSOP6, GMP7…
Cùng với đó, ngành Thủy sản sẽ hỗ trợ về kỹ thuật, tổ chức sản xuất và tín dụng, tăng cường kiểm tra giám sát chất lượng và an toàn thực phẩm ở tất cả các khâu cung cấp giống và thức ăn, nuôi thủy sản, thu hoạch, xử lý, chế biến và phân phối sản phẩm…
Đối với các doanh nghiệp chế biến:
Đón nhận cơ hội và thách thức, con đường căn bản nhất chính là đẩy mạnh cải cách và phát triển DN, cần nắm rõ thông tin yêu cầu của từng thị trường, theo từng giai đoạn thời gian (nhất là rào cản kỹ thuật), điều chỉnh mạnh cơ cấu sản xuất, đa dạng hoá các sản phẩm thủy sản, nhất là sản phẩm giá trị gia tăng theo nhu cầu thị trường; cải tiến và nâng cao trình độ chế biến của DN. Áp dụng một cách có hiệu quả các chương trình quản lý chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm như GMP, SSOP, HACCP, ISO..và phối hợp tốt với các cơ quan quản lý chất lương thủy sản ở địa phương trong việc tăng cường kiểm soát thức ăn, thuốc thú y, chế phẩm sinh học trong nuôi trồng và chế biến.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết của VN với WTO đối với ngành thuỷ sản.doc