Phần mở đầu
Phần nội dung gồm:
Để giải quyết các mục tiêu trên, bài viết lần lượt nghiên cứu 03 phần chính như sau:
Phần 1 - Chính sách nhà nước trong vấn đề cổ phần hóa: tìm hiểu các vấn đề như mục tiêu cổ phần hóa, danh mục phân loại Doanh nghiệp nhà nước trong cổ phần hóa, phương pháp, lộ trình cổ phần hóa .
Phần 2 - Thực trạng tình hình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam trong thời gian qua: trình bày những kết quả đạt được cũng như các vấn đề còn tồn tại trong quá trình cổ phần hóa.
Phần 3 - Giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn 2006 – 2010.
Còn phần kết luận và tài liệu tham khảo
Chúc các bạn thành công
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2640 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá thực trạng công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2001 - 2003 CPH được 979 DN. Riêng năm 2003, có 611 DN được CPH.
Theo nguồn tin khác từ Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, từ năm 2001 đến hết năm 2005, cả nước đã sắp xếp lại được 3.349 doanh nghiệp Nhà nước trong tổng số 5.655 doanh nghiệp.
Trong đó cổ phần hóa 2.188 doanh nghiệp; giải thể 252 doanh nghiệp, sáp nhập 416 doanh nghiệp, giải thể 184 doanh nghiệp, chuyển thành công ty trách niệm hữu hạn một thành viên 124 doanh nghiệp và các hình thức khác là 182 doanh nghiệp... Và tính riêng trong năm 2005 đã sắp xếp được 588 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 444 doanh nghiệp. Đây là kết quả của sự nỗ lực từ việc cải cách chính sách, cơ chế của Nhà nước, sự sáng tạo vươn lên của các doanh nghiệp trong môi trường kinh tế cởi mở và hội nhập hiện nay.
Thông qua việc sắp xếp, chuyển đổi sở hữu, các doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ đã giảm mạnh; đồng thời phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn cũng như mở rộng diện cổ phần hoá, đồng thời đã hình thành các tổng công ty, doanh nghiệp đặc thù trong ngành bảo hiểm, ngân hàng, dầu khí, bưu chính viễn thông... Các cơ quan chức năng cũng đang xây dựng đề án thí điểm hình thành các tập đoàn như điện lực, công nghiệp tàu thuỷ, công nghiệp xi măng, dệt may...
Công cuộc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã và đang thực sự trở bước chuyển mình quan trọng để sắp xếp lại, tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước và bước đầu đã gắn với thực hiện bán cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại các trung tâm giao dịch chứng khoán Việt Nam.
Cũng theo Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, từ năm 2001 đến hết năm 2005, cả nước đã sắp xếp lại được 3.349 doanh nghiệp nhà nước trong tổng số 5.655 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 2.188 doanh nghiệp, giải thể 252 doanh nghiệp, sáp nhập và hợp nhất 416 doanh nghiệp, giải thể phá sản 184 doanh nghiệp, chuyển thành công ty trách niệm hữu hạn một thành viên 124 doanh nghiệp và các hình thức khác là 182 doanh nghiệp.
Theo đánh giá, việc bước đầu cổ phần hóa một số doanh nghiệp quy mô lớn như Công ty Khoan và Dịch vụ Dầu khí, các nhà máy điện Sông Hinh-Vĩnh Sơn, Thác Bà, Phả Lại, đã thu hút vốn từ xã hội nhiều hơn, nhất là từ các nhà đầu tư chiến lược, tạo điều kiện đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức tổ chức quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Bên cạnh đó, việc cổ phần hóa cũng đã làm cho thị trường chứng khoán ngày càng sôi động. Năm 2005, đã có thêm 8 công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán với tổng số vốn 508 tỷ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp niêm yết lên 34, trong đó 29 đơn vị là các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.
Năm 2005, doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục giữ vững vai trò nòng cót trong nền kinh tế, đóng góp 40% GDP cả nước, với tổng doanh thu đạt 680.000 tỷ tăng 12% so với năm 2004.
Việc CPH một số DN quy mô lớn, Nhà nước giữ cổ phần chi phối đã thu hút được nhiều vốn từ xã hội, tạo điều kiện đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức tổ chức quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động...
Có tới 87% số DN được khảo sát cho rằng, kết quả hoạt động tài chính của DN sau CPH tốt hơn nhiều so với trước CPH.
Bà Nguyễn Thị Mai Thanh - Tổng Giám đốc Cty CP cơ điện lạnh (REE) - một trong những DN CPH đầu tiên lên sàn chứng khoán - cho biết: "Khi bắt đầu CPH năm 1993, Cty chỉ có số vốn 8,5 tỉ đồng. Hiện nay, nguồn vốn của REE đã lên tới 225 tỉ. Lực lượng lao động tăng gấp 3 lần. Thu nhập bình quân đạt hơn 2,2 triệu đồng/người/tháng. Quan trọng hơn, thương hiệu REE đã dần trở thành một cái tên hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước...".
Theo thống kê của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp trung ương, sau khi CPH, vốn điều lệ bình quân của các DN trong cả nước tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 140%, hơn 90% số Cty CP đều làm ăn có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, cổ tức bình quân đạt hơn 17% năm...
Nhờ quá trình CPH, hơn12.411 tỉ đồng của các cá nhân tổ chức, ngoài xã hội đã được đầu tư vào DN. Phần vốn nhà nước tại các DN CPH không bị giảm đi mà còn được bảo toàn và tăng lên. CPH tạo cơ sở thúc đẩy quá trình ra đời, phát triển thị trường chứng khoán VN. CPH mang lại cho các DN cơ chế quản lý năng động, hiệu quả (một điều tra cho thấy các DN CPH bình quân giảm được 25% chi phí gián tiếp). Bên cạnh đó, CPH cũng tạo những điều kiện vật chất và pháp lý để người lao động - cổ đông nâng cao vai trò làm chủ.
Cổ phần hóa đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư, lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, giúp hoạt động kinh doanh tốt hơn, các chỉ tiêu chủ yếu đều tăng trưởng khả quan. Sau khi chuyển sang công ty cổ phần, hầu hết các doanh nghiệp đều hoạt động có hiệu quả hơn; vốn điều lệ tăng từ 44% so với trước khi cổ phần hóa, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng tới 139%, thu nhập người lao động tăng 11,8%, mức trả cổ tức cho các cổ đông bình quân đạt 17%...
Đặc biệt một số doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa, vốn điều lệ đã tăng từ 7 đến 10 lần, thậm chí có trưởng hợp tăng tới 30 lần. Cụ thể như vốn điều lệ Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang tăng 7 lần, của Công ty cổ phần Cơ điện lạnh tăng 13 lần, Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển tăng tới 30 lần… Đây là những động lực cụ thể nhất cho quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới. Ngoài ra, thông qua việc thực hiện cổ phần hóa, đa dạng hóa sẽ thay đổi tận gốc phương thức quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước trước đây để áp dụng phương thức quản lý mới, tự chủ hơn, linh hoạt và trách nhiệm hơn.
Tính đến cuối năm 2005, cả nước đã thực hiện cổ phần hóa được 3.107 doanh nghiệp và đơn vị phụ thuộc của công ty nhà nước. Trong đó có 1.245 công ty được chuyển đổi từ bộ, ngành Trung ương, 1.826 công ty được chuyển đổi từ các công ty thuộc UBND cấp tỉnh.
Những kết quả trên đã khẳng định tính đúng đắn của Nghị quyết TW3 khóa 9. đặc biệt sau khi có nghị quyết TW9 khoá 9, đã tạo được sự thống nhất cao trong tư tưởng nhận thức của cán bộ, đảng viên, công nhân viên, nhân dân và được dư luận quốc tế đồng tình; cho thấy đa dạng hoá sở hữu trong kinh tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần đang là động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển và có khả năng cạnh tranh hội nhập.
Thông qua việc bán đấu giá lần đầu 720.000 cổ phần của Công ty Sữa Việt Nam (Vinamilk), Nhà nước thu thêm được 39,6 tỷ đồng, bình quân tăng 55% so với mệnh giá; Công ty Bảo hiểm TP.HCM bán đấu giá 434.000 cổ phần lần đầu thu thêm được 30 tỷ đồng, tăng 223% so với mệnh giá. Đó là những ví dụ sinh động về kết quả cổ phần hoá (CPH) các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) gần đây.
Trong năm 2005, Tp.HCM đã hoàn thành cổ phần hoá 55 doanh nghiệp, vượt 5 doanh nghiệp so với chỉ tiêu của Chính phủ. Thành phố cũng sắp xếp và chuyển đổi 19 doanh nghiệp sang công ty TNHH 1 thành viên, và thông qua đề án chuyển 17 Tổng Công ty và công ty lớn sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ-công ty con. Như vậy, qua 5 năm thực hiện chương trình sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước, Tp.HCM đã sắp xếp và chuyển đổi 285 doanh nghiệp, trong đó có 172 doanh nghiệp được cổ phần hóa, đi đầu cả nước trong công tác đổi mới doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều đạt hiệu quả rõ rệt trong sản xuất kinh doanh và thực hiện được các mục tiêu đề ra, tạo ra nhiều loại hình sở hữu trong đó người lao động thực sự giữ quyền làm chủ.
II.2 Những tồn tại, vướng mắc:
Nhìn chung, công tác sắp xếp đổi mới DNNN vẫn bộc lộ nhiều yếu kém, việc sắp xếp, đổi mới, nhất là CPH DNNN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 chậm so với mục tiêu đề ra. Trong khi việc sắp xếp lại các DNNN đạt 81% thì CPH DNNN chỉ đạt gần 63%. Sáu tháng đầu năm 2004 chỉ đạt 20%. Hơn nữa, CPH thực hiện hầu hết ở các DN vừa và nhỏ, mới chỉ gần 6% số vốn có tại DNNN được CPH.
Tiến trình CPH hiện nay vẫn còn rất nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục: Tốc độ chậm, quy mô nhỏ, nhiều vướng mắc, lúng túng cả trong lý luận lẫn thực tiễn, quyền lợi của người lao động chưa được đảm bảo, cả những tiêu cực trong việc biến vốn nhà nước thành vốn của một nhóm người ở một số nơi...
II.2.1 Tư tưởng và nhận thức chưa được nhất quán trong các cấp, ngành và cơ sở
Nhiều cấp bộ Đảng mới dừng lại ở mức phổ biến nghị quyết, chưa tổ chức học tập nghiên cứu sâu để đảng viên thấy hết yêu cầu cần thiết và lợi ích của việc CPH DNNN. Tâm lý hoài nghi, lo lắng trong cán bộ công nhân viên rất phổ biến. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo DNNN, các cấp chủ quản còn chần chừ do dự, sợ mất quyền, mất lợi ở doanh nghiệp.
II.2.2 Rào cản về chính sách:
Các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 64/2002/NĐ-CP chậm, còn bộc lộ nhiều khó khăn cho DN như: Việc bán tối thiểu 30% số cổ phần còn lại ra ngoài DN qua các đơn vị tài chính trung gian; việc xác định giá trị DN rất phức tạp, thủ tục rườm rà. Các chỉ thị, thông tư và quy định của các cấp, các ngành thiếu thống nhất, nhiều chỗ không phù hợp với Nghị định 64 của Chính phủ cũng đang là ách tắc.
Quy trình CPH còn rườm rà, phức tạp, cứng nhắc, chưa gắn được với cải cách hành chính làm cho các DN, TCty thậm chí tỉnh, bộ cũng bị động.
Chủ trương của Đảng đề ra là người lao động phải có cổ phần để phát huy vai trò làm chủ trực tiếp tại công ty, nhưng trên thực tế, ở nhiều nơi người lao động lại bán “chui” cổ phần ưu đãi và hiện nay quy định của Nhà nước cũng không cấm việc này
II.2.3 Thiếu minh bạch trong tiến trình CPH
Tài chính trong DNNN khi thực hiện CPH không rõ ràng, công nợ nhiều doanh nghiệp không đối chiếu được, lỗ lãi không rõ, không xác định được nguyên nhân.
Nhìn về mặt chất, các DNNN khi thực hiện CPH còn bộc lộ một số vấn đề sau: Mới có 8% cổ phần do cổ đông bên ngoài, cán bộ công nhân viên chiếm 54%, Nhà nước 38% thì thực chất vẫn là CPH khép kín. Chưa thu hút được nhà đầu tư chiến lược, chưa thay đổi được cơ bản phương thức quản trị DN. Vì vậy mục tiêu được nêu trong nghị quyết TW3 là chưa đạt. Chỉ 6% vốn nhà nước trong các DNNN được đem ra CPH, chủ yếu bằng hình thức bán bớt vốn nhà nước và CPH các công ty nhỏ, kém hiệu quả. Vì vậy, tính hấp dẫn chưa cao. Cần tổng kết rút kinh nghiệm về loại hình DN CPH mà Nhà nước giữ trên 50% cổ phần chi phối xem hiệu quả thực của nó thế nào? Vì đây là loại hình DN mà sự quản lý của Nhà nước sẽ lỏng hơn nhiều, sự giám sát của cổ đông không cao. Do đó dễ có khả năng phát sinh tiêu cực chưa lường được.
Bên cạnh đó, trong tiến trình CPH hiện vẫn còn không ít tồn tại. Điển hình như việc CPH "khép kín" mà dư luận đã hơn một lần đả phá. Rất nhiều DN thuộc diện Nhà nước không cần nắm giữ vốn chi phối nhưng các bộ, ngành vẫn kiên quyết nắm giữ, phổ biến nhất là trong các TCty thuộc Bộ Xây dựng và Bộ GTVT (Bộ GTVT có tới 82% số DN đã CPH nhà nước vẫn nắm giữ vốn chi phối).
Việc thu hút cổ đông ngoài DN mới chỉ chiếm hơn 15% vốn điều lệ và chưa rộng rãi. Các cổ đông chiến lược - những nhà đầu tư có tiềm lực - vẫn rất khó có cơ hội mua CP. Có tới 860 DN đã CPH (chiếm 38,4%) không có CP bán ra ngoài DN.
Điển hình là tỉnh Hải Dương 28/28, Bộ Thương mại 36/59 DN không bán CP ra bên ngoài. CPH khép kín tất yếu dẫn tới hiện tượng định giá DN thấp so với giá thị trường, gây thất thoát tài sản nhà nước. Tính minh bạch trong tiến trình CPH của nhiều DN vẫn là điều khiến chúng ta phải nghi ngờ.
II.2.4 Khó khăn trong định giá doanh nghiệp
Thứ nhất, về mặt phương pháp. Theo quy định hiện hành, có hai cơ chế định giá được phép áp dụng là thành lập Hội đồng định giá hoặc thuê công ty tư vấn định giá độc lập. Thành viên hội đồng định giá là cán bộ đại diện của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước khác nhau: sở tài chính, sở KH-CN, Uûy ban nhân dân,…vì thế ý kiến đánh giá của họ không phải bao giờ cũng thống nhất và có thể bị nghiêng về những mục tiêu quản lý riêng. Do đó, định giá theo cơ chế này thường không phản ánh được giá trị thực tế của DNNN. Hơn nữa, mâu thuẩn về quyền lợi giữa DNNN với các cơ quan quản lý nhiều khi làm cho việc định giá chậm được thống nhất. Việc sử dụng công ty tư vấn độc lập để định giá tỏ ra có hiệu quả hơn nhưng vẫn có những hạn chế trong việc xác định giá trị tài sản vô hình như thương hiệu hay lợi thế kinh doanh. Hơn nữa, hầu hết các công ty tư vấn độc lập của Việt Nam vẫn chưa đủ kinh nghiệm và trình độ để định giá các DNNN lớn và phức tạp. Về mặt kỹ thuật, tuy trên thế giới có nhiều phương pháp định giá nhưng theo quy định của Bộ Tài chính chỉ có hai phương pháp được phép áp dụng là tài sản ròng và dòng tiền chiết khấu. Hai phương pháp này được quy định kèm theo các công thức tính toán cố định. Điều này hạn chế việc tìm kiếm và áp dụng những phương pháp định giá phù hợp hơn.
Thứ hai, là việc tính giá trị quyền sở hữu đất khi định giá. Quyền sở hữu đất của nhiều DNNN tính theo giá thị trường là rất lớn, thậm chí có thể còn lớn hơn cả giá trị của tất cả các tài sản khác của doanh nghiệp. Nếu không tính đến giá trị quyền sở hữu đất thì DNNN có thể bị định giá quá thấp. Vì vậy, Nhà nước đã có chủ trương thực hiện tính giá trị quyền sở hữu đất khi định giá DNNN để cổ phần hóa. Tuy nhiên thực hiện chủ trương này trên thực tế còn rất nhiều khó khăn do thiếu những quy định cụ thể, chưa có thị trường cũng như các tổ chức định giá chuyên nghiệp. Lãnh đạo các DNNN chuẩn bị cổ phần hóa thường không đồng tình với chính sách tính giá trị quyền sở hữu đất khi định giá để cổ phần hóa vì làm như vậy sẽ đẩy giá cổ phần của các DNNN cổ phần hóa lên quá cao, làm cho họ bất lợi hơn các doanh nghiệp khác và không hấp dẫn các nhà đầu tư tiềm năng. Các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân khác, theo Luật đất đai sửa đổi, vẫn được quyền lựa chọ hình thức thuê đất nên không phải tính giá trị quyền sở hữu đất vào giá trị doanh nghiệp, do đó hấp dẫn các nhà đầu tư hơn.
Thứ ba, là khó khăn trong việc định giá tài sản vô hình. Một số DNNN lớn, hoạt động tốt như Vinamilk, Bảo Minh, Vietcombank,… đều có thương hiệu và tên tuổi nổi tiếng, tài sản vô hình có thể có giá trị không kém các tài sản hữu hình. Mặc dù Bộ tài chính đã quy định công thức tính giá trị lợi thế kinh doanh của các DNNN nhưng các công thức này khó áp dụng trên thực tế. Vấn đề này đặc biệt nghiêm trọng đối với các DNNN lớn trong các ngành dịch vụ như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn. Nhiều quan điểm cho rằng phương pháp định giá tốt nhất trong những trường hợp này là đấu giá công khai. Song một số DNNN lo ngại rằng đấu giá công khai chỉ thu hút các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ chứ không giúp họ đạt được mục tiêu chính khi cổ phần hóa là đem lại những định chế đầu tư chiến lược để đóng góp kinh nghiệm quản lý và chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp. Vì thế có rất nhiều tranh luận xung quanh việc tìm ra giải pháp định giá tài sản vô hình cho phù hợp, đặc biệt là đối với các DNNN lớn.
Thứ tư, là định giá phần góp vốn của DNNN trong liên doanh. Nhiều DNNN có vốn góp tham gia liên doanh gặp khó khăn trong việc xác định phần vốn góp này khi cổ phần hóa. Trong nhiều trường hợp, DNNN góp vốn bằng quyền sở hữu đất, và một số DNNN giờ đây thừa nhận rằng quyền sở hữu đất đó có thể đã được định giá quá cao khi thành lập liên doanh. Một vấn đề khác là phần lớn các liên doanh đều phát sinh lỗ trong những năm đầu hoạt động, do vậy nếu tính giá trị phần vốn góp tại thời điểm DNNN cổ phần hóa thì phần vốn góp đó thường bị thấp hơn so với số liệu ban đầu khi thành lập liên doanh. Trong những trường hợp này, cơ quan tài chính không chấp nhận xác định giá trị phần vốn góp liên doanh theo sổ sách tại thời điểm cổ phần hóa nhưng cũng chưa tìm ra được một giải pháp định giá nào hợp lý. Hiện nay có rất nhiều DNNN có vốn góp liên doanh với nước ngoài chưa thể cổ phần hóa vì lý do này.
Ngoài ra một số quy định khác về cổ phần hóa có thể gây cản trở cho việc định giá. Rất nhiều DNNN phàn nàn rằng các quy định về xác định giá trị các khoản phải thu khó đòi của Bộ tài chính là quá cứng nhắc, ví dụ như chỉ được phép xóa nợ khi chứng minh được con nợ đã chết hoặc phá sản. Do vậy, có những DNNN buộc phải tính các khoản phải thu hầu như không có khả năng thu hồi vào giá trị tài sản của doanh nghiệp để cổ phần hóa. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng không xóa các khoản nợ đã bị quá hạn hoặc treo cho những DNNN này. Kết quả là những DNNN đó có thể bị định giá quá cao nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động cổ đông.
II.2.5 Môi trường kinh doanh chưa bình đẳng
Ngoài ra, sau CPH thì sự nhìn nhận và ứng xử của nhiều cơ quan, đối tác đối với công ty cổ phần là có sự khác biệt, làm nảy sinh hàng loạt những vấn đề hậu CPH như không xác lập được quyền sở hữu tài sản của DN, quản trị kinh doanh ít thay đổi, không còn được tín chấp vay ngân hàng, thủ tục đi nước ngoài khó khăn hơn..., gây trở ngại cho DN. Nói chung, sau khi DNNN CPH, không có một cơ quan nào đứng ra theo dõi, giúp đỡ DN tháo gỡ khó khăn.
Mặc dù chúng ta đã thực hiện chủ trương công ty hoá, nhưng ở nhiều nơi vẫn nhìn và đối xử với công ty cổ phần không khác gì DNNN trước đây. Thậm chí, cơ quan quản lý nhà nước còn can thiệp nhiều vào DN, thể hiện qua việc quản lý cán bộ, quản lý chi phí, chỉ đạo phương hướng sản xuất, kinh doanh... Bên cạnh đó, việc sử dụng một số DNNN lớn làm công cụ điều tiết bình ổn giá của Nhà nước, nhưng không có cơ chế bù trừ gì cho DN và có những điều không phù hợp với cơ chế thị trường, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của DN.
II.2.6 Chất lượng CPH chưa cao
Tuy vậy, vẫn phải thừa nhận rằng tỉ trọng vốn của các DN CPH trong khối DNNN vẫn còn quá khiêm tốn (17.700 tỉ đồng, chỉ bằng 8,2% tổng vốn của toàn bộ khối DNNN). Vốn huy động ngoài xã hội chỉ chiếm 53,4%, chưa tương xứng với tiềm năng.Trong hơn mười năm qua, chúng ta phần nhiều chỉ CPH các DNNN quy mô nhỏ, nên tuy số lượng thì nhiều, nhưng đồng vốn lại chẳng bao nhiêu. Đối với một số "đại gia" như Điện lực, Dầu khí, Bưu chính viễn thông - những người nắm giữ những khoản vốn khổng lồ của Nhà nước, hầu như quá trình CPH mới chỉ bắt đầu...
Số lượng DN CPH thì nhiều nhưng số vốn đưa ra CPH chỉ mới chiếm 6,3% tổng vốn của Nhà nước tại DN (khoảng 240.000 tỉ đồng). Số DN có vốn trên 10 tỉ, chỉ chiếm 13%. CPH còn mang tính chất "khép kín": Không chỉ số vốn đưa ra CPH còn nhỏ, mà Nhà nước còn giữ lại trong đó một tỉ lệ khoảng 45,6%, CBCNV giữ 39,3%, cổ đông bên ngoài chỉ giữ 15,1%. Số lượng DN CPH được Nhà nước giữ CP chi phối (trên 50%) chiếm đến 27,4%. Tỉ lệ cổ phần bán giá ưu đãi rất cao, tỉ lệ đem bán đấu giá lại quá thấp, vừa gây thất thoát cho Nhà nước, vừa không tạo điều kiện cho công chúng tham gia. Sự thất thoát tài sản nhà nước cho đến nay chưa ai có thể đánh giá đầy đủ. Vấn đề này vẫn còn nằm ngoài tầm kiểm soát của Ban chỉ đạo Đổi mới & Phát triển doanh nghiệp. Một nguyên nhân nữa gây thất thoát là cách xác định giá trị tài sản DN thời gian qua còn cứng nhắc, chưa tính được giá trị vô hình như thương hiệu, lợi thế đất đai...
CPH DNNN so với yêu cầu đổi mới vẫn còn chậm. Việc thu hút các cổ đông ngoài DN còn hạn chế. Nhà nước còn chiếm tỉ trọng lớn trong vốn điều lệ ở nhiều DN đã làm hạn chế sự đổi mới trong quản trị Cty, phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như DNNN.
Việc đấu giá DNNN ở Kiến An (Hải Phòng) đã cho kinh nghiệm rất quý báu, giá khởi điểm 854 triệu nhưng đấu giá lên tới 4,6 tỉ cộng 2 tỉ nhận nợ là 6,6 tỉ, tăng 8 lần so với giá khởi điểm; thực chất là mua quyền sử dụng 1,6ha đất ở Kiến An. Vì lâu nay ta không đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, đã làm thiệt thòi cho Nhà nước và gây ra bao nhiêu vụ kiện rất phức tạp. Nhà nước không tính giá trị quyền sử dụng vào giá trị DNNN nhưng thị trường vẫn cứ tính. Khi người lao động nắm giữ CP thì không thể cấm họ bán CP, vì lẽ, họ có quyền sở hữu tài sản, nếu cấm, họ hoàn toàn có thể thế chấp CP để "vay" tiền, sau đó uỷ quyền cho "người cho vay" đi họp ĐHĐCĐ.
Thực tế vừa qua nhiều người lao động đã bán CP với giá gấp 5,7 lần giá sàn, có lẽ ít người lao động nghĩ đến quản trị một công ty CP thế nào cho tốt, có lẽ cái họ thường nghĩ đến là mua được rẻ để bán đắt. Do vậy NQ 34 NQ/TW đã quy định "giá trị DNNN CPH có giá trị QSD đất về nguyên tắc phải do thị trường quyết định", thiết nghĩ quy định này sẽ cơ bản xoá được sự chênh lệch giá CP hiện nay.
II.2.7 Khó khăn khi thực hiện CPH các doanh nghiệp lớn
Hiện nay khi thực hiện các CPH các TCty và các DN quy mô lớn thì nhiều khó khăn mới đang đặt ra. Trước hết, khung pháp lý (kể cả Nghị định 64 của Chính phủ) phải sửa đổi phương pháp CPH, không thể áp dụng như trước đây đối với DN vừa và nhỏ. Nhất là các vấn đề phát hành cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán, vai trò cổ đông thiểu số, quản lý của Nhà nước đối với TCty cổ phần, giá trị quyền sử dụng đất, thương hiệu và thương quyền.
Đối với các NHTMNN, việc thực hiện CPH còn gặp khó khăn hơn vì đây là lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Giải thích nguyên nhân của những khó khăn này, TS Lê Hoàng Nga (Học viện Ngân hàng) nhấn mạnh: Trong hệ thống tài chính VN, các NHTM giữ trọng trách chi phối các dòng vốn của nền kinh tế và phải gánh chịu phần lớn các rủi ro của nền kinh tế do ít có tính chuyển đổi. NHTMNN lại nắm giữ tới 70-80% các luân chuyển vốn và 90% nguồn vốn cung ứng cho các hoạt động kinh tế nên trọng trách lớn và áp lực rủi ro cũng lớn.
Trong khi đó, hành lang pháp lý để điểu chỉnh về CPH có nhiều điểm không phù hợp với các NHTMNN. Ông Lê Xuân Nghĩa dẫn ra ví dụ cụ thể: Các NHTMNN không thuộc diện áp dụng Quyết định 58/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN và tổng công ty nhà nước. Nghị định 64/2002/NĐ-CP về việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần yêu cầu doanh nghiệp có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận, thu hồi và xử lý các khoản nợ phải thu trước khi CPH. Nhưng việc đối chiếu này là không thể thực hiện được do mỗi NHTMNN có hàng vạn khách hàng vay vốn.
Quy định về xử lý nợ trong Nghị định 64 cũng không thực hiện được do nợ quá hạn theo tiêu chuẩn quốc tế tại các NHTMNN rất lớn, trong khi Chính phủ lại chưa có cơ chế tài chính bù đắp tổn thất trong xử lý những khoản nợ không có khả năng thu hồi tại các NHTMNN trước khi CPH.
Quy định "thoả thuận với các chủ nợ để chuyển nợ thành vốn góp cổ phần" theo tại điều 11, Nghị định 64 cũng không khả thi, vì hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm, nếu thủ tục xử lý quá phiền hà dễ dẫn đến việc rút tiền của người gửi, gây đổ vỡ ngân hàng. Trong khi đó, Thông tư 79/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính về hướng dẫn xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển thành công ty cổ phần có nhiều điểm không phù hợp với đặc điểm của ngân hàng, nhất là việc đánh giá và xác định chất lượng các khoản cho vay, đầu tư...
III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN 2006 – 2010.
Những khó khăn chủ quan nêu trên cộng thêm tác động của các yếu tố khách quan như môi trường kinh doanh chịu tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ và các hệ quả của cơ chế quản lý kiểu cũ chưa khắc phục được hết đã làm cho quá trình CPH trong những năm qua và trong thời gian tới không thể diễn ra suôn sẻ. Vì thế đòi hỏi chúng ta phải cố gắng và quyết tâm cao, có cách làm phù hợp để có thể hoàn thành cơ bản chương trình CPH DNNN.
III.1 Nhất quán nhận thức về CPH
Kết hợp tuyên truyền, thuyết phục với áp dụng biện pháp hành chính đối với những doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa. Tăng cường công tác tuyên truyền cổ phần hóa, khuyến khích các DNNN tự nguyện đăng ký cổ phần hóa đồng thời áp dụng các biện pháp hành chính buộc các DNNN thuộc diện cổ phần hóa phải thực hiện. Sử dụng rộng rãi các hình thức hội thảo khoa học để đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Phổ biến, thông tin những kinh nghiệm tốt của một số nước trên thế giới nhất là các nước có điều kiện tương tự như Việt Nam.
Trước đây khi chỉ đạo cổ phần hóa còn chờ vào tinh thần tự nguyện của doanh nghiệp và cơ quan chủ quản thì họ tìm ra rất nhiều lý do để chậm trễ cổ phần hóa càng lâu càng tốt. Thậm chí có những doanh nghiệp nhà nước còn tìm cách tránh cổ phần hóa bằng cách sát nhập vào đơn vị khác, đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh với hy vọng không nằm trong diện dưới 5 tỷ đồng, không tích cực trong việc xử lý nợ, lao động… Sau khi có Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) và gần đây là Nghị quyết Trung ương 9 (Khóa IX) thì lý do để lẩn tránh cổ phần hóa ít nhiều đã bị gạt bỏ song thực tâm cán bộ và người lao động vẫn chưa tích cực cổ phần hóa. Vì họ tiếc nuối bệ đỡ khá an toàn của doanh nghiệp nhà nước, tiếc nuối những ưu đãi vẫn mặc nhiên tồn tại cho doanh nghiệp nhà nước như: tín chấp, sử dụng đất, sự quan tâm của các tổ chức kinh tế lớn cũng như của các cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước… vì họ còn lo sợ sự mất an toàn và khó khăn hơn khi chuyển sang công ty cổ phần. Để giải quyết triệt để căn nguyên này cần kiên quyết xóa bỏ các ưu đãi bất hợp lý từ phía các cơ quan Nhà nước cũng như các tổ chức kinh tế của Nhà nước, đặt doanh nghiệp nhà nước 100% vốn Nhà nước trong môi trường cạnh tranh như mọi doanh nghiệp khác, chính sách kinh tế của Nhà nước không nên thiết kế ưu đãi theo thành phần kinh tế mà nên theo ngành, lãnh thổ… Tuy nhiên, để làm được điều này cần phải có nhiều thời gian để chuẩn bị và điều chỉnh dần dần, trong khi đó thời gian để cổ phần hóa không cho phép kéo quá dài hơn nữa. Do đó biện pháp trước mắt là đi đôi với vận động tuyên truyền dưới mọi hình thức phải có sự chỉ đạo chặt chẽ và quyết tâm của tất cả các ngành các cấp.
Về tuyên truyền, nên đa dạng hóa các hình thức và nội dung. Thời gian qua chúng ta mới nặng tuyên truyền thuyết phục, vận động doanh nghiệp và người lao động tự nguyện cổ phần hóa. Giờ đây cần mở rộng giáo dục kiến thức về công ty cổ phần, về quyền và trách nhiệm của cổ đông, của Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành. Những kiến thức đó cần thiết để người lao động tự giác lựa chọn cổ phần hóa cũng như đủ sức vận hành công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả. Đồng thời, cũng cần tuyên truyền rộng rãi các kinh nghiệm, các tấm gương doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động hiệu quả để kích thích tính tích cực của những người liên quan đến cổ phần hóa. Các chủ trương chính sách của Nhà nước cũng phải được truyền tải đến tận người lao động để mỗi người biết lựa chọn phương thức hành động tốt nhất cho mình.
Cần gắn trách nhiệm của cán bộ đứng đầu các cơ quan chủ quản đối với tiến độ và chất lượng cổ phần hóa. Mỗi cán bộ này phải giải trình theo định kì 1 năm hoặc 6 tháng nguyên nhân của sự chậm trễ cổ phần hóa. Và nếu không có lý do thỏa đáng thì các cá nhân liên quan phải chịu trách nhiệm hành chính tương xứng. Về phía Nhà nước Trung ương cần cũng cố năng lực của Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp hơn nữa, tăng cường quyền lực cho Ban này để họ đủ sức tham mưu cho Chính phủ tháo gỡ nhanh chóng các ách tắc trong cổ phần hóa. Trong một xu hướng chỉ đạo tích cực như vậy, sẽ có ít doanh nghiệp nhà nước tìm được lý do để lẩn tránh cổ phần hóa hơn trước.
III.2 Hoàn thiện chính sách, quy định về CPH DNNN
Việc quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp CPH chưa được quy định cụ thể và kịp thời gây ra cho các doanh nghiệp CPH nhiều lúng túng trong hoạt động và có tâm lý ngần ngại khi quyết định chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần.
Việc khống chế tỷ lệ mua cổ phần lần đầu, quy định về số cổ phần ưu đãi nói chung và đối với cán bộ quảnlý nói riêng, xử lý phần vốn tự bổ sung, nợ khó đòi như hiện nay đang dần làm mấ đi sự nhiệt tình và hăng hái của không ít doanh nghiệp và người lao động.
Quy trình CPH còn phức tạp, nhiều thủ tục phiền hà, nhất là việc xử lý những vấn đề tài chính. Việc lập, phê duyệt đề án CPH, điều lệ hoạt động của công ty cổ phần, xác định giá trị doanh nghiệp còn rườm rà, phức tạp và lại chia làm nhiều công đoạn, nhiều tổ chức tham gia đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình CPH.
Vì vậy, hệ thống luật định cũng cần rõ ràng, thông thoáng hơn- tạo sự hấp dẫn đối với các doanh nghiệp và người lao động khi họ tham gia vào tiến trình cổ phần hóa.
Mặt khác cần sửa đổi, bổ sung một số quy định để quá trình CPH được chặt chẽ hơn: mở rộng đối tượng cổ phần hóa, đẩy mạnh thực hiện cổ phần hóa các tổng công ty và công ty nhà nước quy mô lớn, kể cả ngân hàng thương mại nhà nước và các tổ chức tài chính nhà nước. Quy định chi tiết các phương thức và biện pháp liên quan đến việc cổ phần hóa các công ty nhà nước lớn và các tổng công ty; cần mở rộng hình thức định giá thông qua các tổ chức thẩm định giá, kiểm toán, tư vấn tài chính; vận dung nguyên tắc thị trường trong cơ chế thực hiện cổ phần hóa. Cần quy đinh đấu giá cổ phiếu bao gồm cả việc đấu giá niêm yết qua trung tâm giao dịch chứng khoán lẫn đấu giá trong nội bộ doanh nghiệp.
Chính phủ đã chỉ đạo tiếp tục đưa thêm một số DN vào diện CPH, và con số phải thực hiện trong thời gian tới là khoảng 1.500 - 1.600 DN. Năm 2006 sẽ sắp xếp khoảng 900 DNNN, trong đó khoảng 600 phải CPH.
Trước hết sẽ chuyển các doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp chung. Thu hẹp tối đa diện Nhà nước độc quyền; xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp. Có cơ chế giám sát và chính sách điều tiết đối với những doanh nghiệp có vị thế độc quyền kinh doanh...
Theo phương án, dự kiến đến cuối năm 2006 cả nước chỉ còn khoảng 1.800 doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn; 900 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa nhưng Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối; 700 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa nhưng Nhà nước không giữ cổ phần chi phối và có khoảng 500 doanh nghiệp cổ phần mới thành lập có đầu tư vốn của Nhà nước, 8 tập đoàn và 93 tổng Công ty nhà nước.
III.3 Hoàn thiện các yếu tố của kinh tế thị trường, nhất là thị trường chứng khoán
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể phát triển; khuyến khích các hình thức liên kết, liên doanh với nhà nước; nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; tạo lập đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là phát triển thị trường chứng khoán. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán ngày càng phát triển thuận lợi; hoàn thiện các công cụ quản lý vĩ mô. Điểm mấu chốt là tăng tiềm lực và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, hoàn thiện chính sách tài chính- tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thiểu phát, nâng cao năng lực quản lý kinh tế thị trường của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương; điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường, đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm túc các Luật đã ban hành.
III.4 Giải quyết vướng mắc ở khâu định giá doanh nghiệp nhà nước.
Thiết lập hệ thống kiểm tra, giám sát công tác định giá doanh nghiệp. Cần có cơ chế kiểm tra các đơn vị thực hiện định giá doanh nghiệp như quy trình hoạt động, chất lượng dịch vụ, nhân sự… Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra giám sát là cơ quan quy định trong pháp lệnh thẩm định giá đã ban hành.
Cổ phần hóa là hoạt động mang tính trao đổi mua bán, trong đó bên bán là Nhà nước do các cấp khác nhau được ủy uyền đại diện và bên mua là xã hội công dân với các chủ thể đa dạng như cá nhân, pháp nhân, tổ chức đoàn thể, xã hội, người trong nước và người nước ngoài… Trong quan hệ mua bán đó lợi ích của các bên không phải tuyệt đối thống nhất với nhau. Do đó tất yếu giá phải được hai bên chấp nhận qua thỏa thuận và ngày nay đa số dân chúng đều cho rằng cơ chế tạo ra giá thỏa đáng ấy chính là giá thị trường trên cơ sở cung – cầu và cạnh tranh. Thời gian qua cơ chế định giá theo Nghị định số 28/CP, Nghị định số 44/CP, Nghị định số 46/CP đều chưa thể hiện tính cạnh tranh và cung cầu, do người mua chưa được cạnh tranh với nhau, do sự định giá dựa nhiều vào giá trị sổ sách (đã quá lạc hậu) và sự định giá chủ quan của các chuyên gia. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì việc định giá do các tổ chức chuyên nghiệp như: Công ty định giá doanh nghiệp, công ty tư vấn tài chính, công ty kiểm toán… tính toán, đặt ra một mức giá làm căn cứ đưa ra chào thầu, sau đó trên cơ sở bỏ thầu mà xác định được mức giá cổ phiếu. Do thị trường chứng khoán nước ta chưa phát triển nên các tổ chức dịch vụ thị trường tài chính cũng còn yếu kém. Để khắc phục tình trạng này, trước mắt có thể mời thầu các cổ đông chiến lược vì đây là yếu tố hiệu quả và đổi mới của công ty cổ phần sau này, sau đó căn cứ vào giá thầu có tham chiếu và tính toán để quyết định giá trị doanh nghiệp nhà nước. Theo cách làm này có thể xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp sau cổ phần hóa giá tăng cao, đồng thời cũng có thể xuất hiện nhiều doanh nghiệp sau cổ phần không bán được vì doanh nghiệp quá kém. Nếu việc tăng giá cao do năng lực quản trị và chiến lược của công ty cổ phần tốt thì đó không phải là thất thoát của Nhà nước. Không nên quá gạn vốn Nhà nước trong khi cổ phần hóa, bởi lẽ xã hội phải chấp nhận sự định giá của thị trường và coi đó là giá trị trao đổi đúng. Vấn đề thất thoát cần được xem xét ở khía cạnh những người liên quan đến định giá và cổ phần hóa doanh nghiệp có dấu hiệu cấu kết với cổ đông chiến lược để dìm giá bán doanh nghiệp nhà nước hay không, và nên đưa khía cạnh này vào hoạt động điều tra hình sự, không thuộc khuôn khổ của cổ phần hóa. Đối với các doanh nghiệp kém cỏi, giống như món hàng ế không bán được, khi đó cần giảm giá. Thậm chí có nhiều doanh nghiệp nhà nước nếu cố tình cổ phần hóa cũng không thể tồn tại trong môi trường cạnh tranh thì không thể trông chờ vào cổ phần hóa mà cần chuyển qua xử lý bằng các hình thức khác như: giao, bán, khoán, cho thuê, giải thể, phá sản… Ngoài ra, không nên quá coi nặng vấn đề thất thoát vốn của Nhà nước khi cổ phần hóa, bới lẽ những người mua cổ phiếu đã gánh trách nhiệm rũi ro cùng doanh nghiệp.
Ngoài ra, vấn đề quyền sử dụng đất cũng gây rất nhiều tranh cải trong định giá doanh nghiệp nhà nước. Có thực trạng là một số doanh nghiệp nhà nước như: khách sạn Phú Gia, kèm Trang Tiền… có những vị trí đất rất thuận lợi mà địa tô của nó có thể nuôi sống sung túc những cổ đông của các công ty cổ phần sau chuyển đổi. Vì thế cũng khá nhiều người kiến nghị phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Tuy nhiên ý kiến này chỉ phù hợp với các doanh nghiệp nhà nước có vị trí đất tốt và có thể dụng quyền sử dụng đất đó cho việc giao dịch thương mại. Còn với đa số các doanh nghiệp khác do giá trị quyền sử dụng đất là khá lớn (theo thời giá hiện tại), nên nếu tính ngay vào giá trị doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa thì sẽ đội giá trị doanh nghiệp nhà nước lên rất cao, khó bán cổ phiếu trong khi chúng ta cần cổ phần hóa nhanh. Do đó, nên có phương thức ngỏ, cho phép doanh nghiệp nhà nước tự lựa chọn, nếu chấp nhận mua và có thể mua thì bán quyền sử dụng, nếu không thể mua được thì nên tiếp tục áp dụng hình thức cho thuê. Quan điểm chung là nên tách phần đất đai khỏi cổ phần hóa tạm thời bằng cơ chế công ty cổ phần thuê đất theo giá đất Nhà nước hoặc điều chỉnh theo thị trường nhằm khuyến khích cổ phần hóa, kể cả khi Nhà nước bị thiệt ít nhiều. Vì giá thuê đất chỉ chiếm phần nhỏ trong giá đất nên sự sai lệch không ảnh hưởng lớn đến giá trị doanh nghiệp và quyền lợi của người chủ đất là Nhà nước, và nguyên tắc thuê đất cũng dễ xử lý cho Nhà nước sau này.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Thị Băng Tâm cho biết, sẽ xoá bỏ việc xác định giá trị DN thông qua hội đồng. Ngoài 44 tổ chức đã được Bộ Tài chính công bố, sẽ xem xét, bổ sung thêm cả các tổ chức nước ngoài tham gia xác định giá DN để nâng cao minh bạch, tăng tính cạnh tranh.
Theo ông Hồ Xuân Hùng - Phó Trưởng ban CĐĐM & PTDNTƯ, để CPH thực sự gắn với thị trường, tránh tham nhũng, trục lợi, phương thức đấu giá CP sẽ được áp dụng rộng rãi hơn. Giá bán CP lần đầu phải thực hiện trên cơ sở đấu giá. Cổ phần ưu đãi đối với người lao động sẽ được giảm 40% thay vì 30% như trước kia. Đại diện Bộ Tài nguyên - Môi trường cho biết sẽ bổ sung quy định về việc đưa giá trị đất vào giá trị DN khi CPH.
Phải đấu giá cổ phần trước, sau đó mới bán ưu đãi cho CBCNV (giảm giá 40% so với đấu giá) và cổ đông chiến lược (giảm 20%). Cách giải quyết công nợ của DN cũng rõ ràng, chặt chẽ hơn.
Cả nước sẽ nỗ lực cao nhất đẩy nhanh quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước, áp dụng tối đa các phương thức thị trường trong xác định giá trị DN, bán, đấu giá cổ phần, khắc phục bằng được việc bán cổ phần khép kín trong nội bộ DN và thất thoát tài sản nhà nước. Phải coi CPH như một trong những giải pháp chủ yếu tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả không chỉ khối DNNN mà cả nền kinh tế VN nói chung.
Việc tính giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp hầu như chưa được thực hiện khi CPH DNNN vì có nhiều vướng mắc. Thực tế cho thấy, nếu tính giá trị đất theo giá thị trường vào giá trị doanh nghiệp để CPH thì giá trị doanh nghiệp quá cao, không thể kinh doanh có hiệu quả. Mặt khác, đất đai không thể tính khấu hao như máy móc, thiết bị. Hơn nữa, giá trị sinh lời của mảnh đất còn phụ thuộc vào mục đích kinh doanh, nhất là đất ở trung tâm thành phố lớn. Nếu đất chỉ để làm nhà xưởng sản xuất sẽ thu lợi thấp hơn nhiều so với chuyển đổi mục đích sang kinh doanh nhà hàng, khách sạn.
Giải pháp cơ bản để khắc phục tồn tại trên là chỉ nên cho doanh nghiệp tiếp tục thuê đất theo giá quy định mà không tính giá trị quyền sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh vào giá trị doanh nghiệp. Đất đai là tài sản toàn dân, khi giải toả người dân không thể đòi bồi thường bằng giá thị trường, họ chỉ được hưởng một phần, còn một phần phải đưa vào phục vụ nhu cầu công cộng. Vì vậy, Nhà nước cần đứng ra giải toả, đền bù rồi cho doanh nghiệp thuê theo quy định của Nhà nước đối với từng khu vực cụ thể.
Tại TP.HCM, hàng loạt giải pháp được đề ra để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa. Thành phố đã đề ra các biện pháp như thành lập hội đồng xác định giá trị các tổng công ty với sự tham gia của các sở, ban ngành liên quan, nhất là Chi cụ tài chính doanh nghiệp thành phố, Cục Thuế, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp, các quận huyện để tháo gỡ kịp thời những vướng mắc cho doanh nghiệp; xác định thời gian giải quyết từng khâu như giao tài sản cố định, quyết toán thuế, tài chính, xác định giá trị của các doanh nghiệp. Ngoài ra Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước thành phố còn phối hợp với Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM tổ chức tập huấn cho hơn 200 doanh nghiệp đã và đang cổ phần hóa về thị trường chứng khoán, từng bước gắn cổ phần hóa doanh nghiệp với phát hành cổ phiếu trên sàn giao dịch.
III.5 Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước
Tất yếu phải CPH các NHTMNN. Việc CPH các NHTMNN sẽ làm tăng tiềm lực tài chính, tăng tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của ngân hàng, giảm độc quyền, tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước và cải thiện mạnh mẽ năng lực quản trị, điều hành NHTM.
CPH là phương tiện hữu hiệu để các NHTM có thể cùng một lúc đạt được nhiều mục tiêu trong chiến lược phát triển của mình.... Có nghĩa là, các NHTMNN sẽ có thể hy vọng bù đắp được 117 ngàn tỉ đồng vốn thiếu hụt vào năm 2010 thông qua con đường CPH. Nhưng từ nay tới đó, các rào cản về cơ chế cần được sớm gỡ bỏ, trong đó cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp vẫn đang được xem như vấn đề nan giải nhất.
III.6 Tạo sự bình đẳng trong môi trường kinh doanh giữa Công ty CP và DNNN
Phát triển thị trường chứng khoán để kích thích tiến trình cổ phần hóaSự thiếu bình đẳng giữa DNNN với Công ty cổ phần đang cản trở việc đẩy nhanh tiến độ CPH. Bởi hiện nay, các DNNN đang được hưởng quá nhiều ưu đãi: không phải góp vốn, không phải chịu rủi ro trong kinh doanh, đặc biệt có nhiều lợi thế hơn so với doanh nghiệp CPH về sử dụng đất, vay vốn ngân hàng, được khoanh nợ, xóa nợ khi gặp rủi ro, được xét giảm, miễn thuế dễ dàng.
Thủ tướng Chính phủ vừa chỉ đạo Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp trong năm 2006 phải thực hiện những biện pháp quyết liệt ngay từ đầu năm 2006 như xóa bỏ khác biệt về điều kiện kinh doanh giữa các loại hình, thu hẹp tối đa diện độc quyền nhà nước, kiên quyết chuyển từ quản lý hành chính sang hình thức Nhà nước đầu tư vốn theo cơ chế thị trường.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để từng bước và tiến tới xoá bỏ sự khác biệt về điều kiện kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp.
Thu hẹp tối đa diện Nhà nước độc quyền. Có cơ chế giám sát và chính sách điều tiết đối với những doanh nghiệp có vị thế độc quyền kinh doanh; thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước theo hướng hình thành loại hình doanh nghiệp Nhà nước có nhiều chủ sở hữu; Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn điều lệ đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, lĩnh vực công ích mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn tham gia.
Kiên quyết xử lý và sắp xếp lại những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh thua lỗ theo hình thức thích hợp. Gắn cổ phần hoá với mở rộng bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán góp phần nâng cao tính minh bạch trong cổ phần hoá.
Chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn sang hoạt động theo chế độ công ty dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; thứ ba, hoàn thiện cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước, góp phần sớm phát hiện những khiếm khuyết trong quản lý, điều hành của doanh nghiệp để kịp thời điều chỉnh; đồng thời giúp chủ sở hữu thực hiện được chức năng của mình mà không cần trực tiếp can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước; thứ tư, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước, thực hiện thu hẹp và tiến tới xoá bỏ dần chức năng đại diện chủ sở hữu của các bộ, UBND các tỉnh, thành phố đối với doanh nghiệp Nhà nước. Kiên quyết chuyển từ phương thức quản lý chủ yếu bằng biện pháp hành chính sang hình thức Nhà nước đầu tư vốn theo cơ chế thị trường.
Để thực hiện tốt việc CPH, Chính phủ yêu cầu các bộ, ban ngành cần đẩy mạnh việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước một cách chắc theo hướng hình thành loại hình doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh đa ngành có nhiều chủ sở hữu (chủ yếu là công ty cổ phần) để nâng cao hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh, nhằm làm tốt vai trò nòng cốt trong những ngành, lĩnh vực then chốt, thúc đẩy phát triển, kinh tế xã hội.
Chính phủ sẽ tăng cường đầu tư có trọng điểm vào các lĩnh vực kinh tế cần chi phối, tập trung chỉ đạo và xây dựng cơ chế để các tập đoàn kinh tế thí điểm hoạt động có hiệu quả, đồng thời chuyển các doanh nghiệp nhà nước giữ 100% vốn sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Việc thí điểm cổ phần hóa các tổng công ty nhà nước cũng sẽ được tiếp tục thực hiện.
III.7 Tạo sự minh bạch khi CPH DNNN, đẩy nhanh tiến trình CPH
Để chuyển đổi sở hữu, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phải trải qua các công đoạn khác nhau và trên thực tế đã nảy sinh khá nhiều phức tạp do sự thiếu ăn khớp của các công đoạn này. Nhằm mục đích đẩy nhanh tiến trình CPH, Bộ Tài chính chủ trương liên hoàn các khâu lại với nhau theo hướng khâu sau phải đứng trên nền của khâu trước. Mục tiêu cuối cùng mà Bộ Tài chính hướng đến là DN đấu giá cổ phần thành công.
Trong quy trình chuyển đổi sở hữu, trước hết báo cáo tài chính của DNNN phải được kiểm toán bởi công ty kiểm toán độc lập nhằm xác nhận sự trung thực của số liệu. Tiếp theo là công đoạn tư vấn phương án cổ phần hoá (CPH), thường được DN thuê công ty chứng khoán thực hiện. Để tiết kiệm chi phí, đồng thời cũng nhằm mục đích đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi sở hữu, tại khâu tư vấn CPH, DN thường thuê luôn đơn vị tư vấn xác định giá trị DN.
Bán cổ phần ra công chúng dưới hình thức bán đấu giá trực tiếp tại DN hoặc bán đấu giá thông qua định chế tài chính trung gian hoặc bán đấu giá qua trung tâm giao dịch chứng khoán. Theo số liệu của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, năm 2005, Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM và Hà Nội thực hiện đấu giá cổ phần cho 64 DNNN chuyển đổi sở hữu với tổng giá trị 4.574 tỷ đồng. Như vậy, từng công đoạn trong quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN đều có sự tham gia của tổ chức trung gian. Theo ông Trương Hùng Long, Phó vụ trưởng Vụ Tài chính - Ngân hàng (Bộ Tài chính) thì các công đoạn của quá trình này tách rời nhau và đây chính là một trong những nguyên nhân khiến việc CPH bị kéo dài. Đơn cử, trường hợp đơn vị tư vấn CPH không chấp nhận kết quả kiểm toán đã hoàn thành ở khâu trước với lý do công ty kiểm toán loại bỏ một số giá trị của DN, trong khi phương án CPH phải đưa ra cách thức xử lý hoặc buộc phải tính vào giá trị DN. Nếu “sự cố” xảy ra thì kết quả kiểm toán không có giá trị và DN phải thực hiện lại từ đầu. Ngay cả trường hợp cả 3 công đoạn đầu tiên đều “thông đồng bén giọt” nhưng giá trị DN không được nhà đầu tư chấp nhận do được xác định quá cao hoặc không được cơ quan chủ quản DN chấp nhận vì được xác định quá thấp thì quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN cũng bị ngưng trệ.
Do sự không ăn khớp giữa các công đoạn kể trên khiến thị trường cung cấp các dịch vụ chuyển đổi sở hữu DNNN trở nên lộn xộn và khó kiểm soát. “Ngoài ra, còn phải kể đến chất lượng dịch vụ khó bảo đảm, nên đã có trường hợp giá trị DN được xác định sau khi định giá thấp hơn mức phí mà DN phải trả cho công ty kiểm toán, tổ chức tư vấn, định giá”, ông Long nói. Hơn nữa, các đơn vị tham gia quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN lại thuộc nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác nhau, như công ty chứng khoán do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quản lý, công ty kiểm toán do Vụ Chế độ kế toán - kiểm toán quản lý, việc xác định kết quả giá trị DN thuộc thẩm quyền của Cục Tài chính doanh nghiệp. Nếu DN thực hiện niêm yết ngay lại phải qua công đoạn thuê tư vấn hồ sơ niêm yết, trong nhiều trường hợp, đơn vị tư vấn đưa ra khuyến cáo khiến nảy sinh thêm nhiều khâu phức tạp.
Khi liên hoàn các khâu lại với nhau thì các đơn vị cung cấp dịch vụ chỉ được hưởng phí dựa trên kết quả đấu giá cổ phần thành công thay vì việc khách hàng buộc phải trả phí bất kể kết quả ra sao. Mức phí được căn cứ trên tổng giá trị cổ phần bán được nên những tổ chức tham gia vào quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN phải nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm mục đích hỗ trợ khách hàng bán được cổ phần tối đa với mức giá cao nhất. Điều này sẽ giảm được thất thoát tài sản nhà nước do giá trị DN được xác định thấp hơn giá thị trường.
Tháng 10/2005, Việt Nam phát hành thành công 750 triệu USD trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế. Việc phát hành thành công có đóng góp không nhỏ của các tổ chức quốc tế cũng như các bên bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành, xác định hệ số tín nhiệm. Tất cả những tổ chức tham gia vào quá trình này chỉ nhận được phí khi Việt Nam phát hành thành công trái phiếu quốc tế. Quá trình CPH từ khâu kiểm toán đến bán đấu giá cổ phần cũng sẽ thực hiện theo hướng này. Một khi quy trình được khép kín, sẽ có những đơn vị sẵn sàng tư vấn CPH, xác định giá trị DN miễn phí, đổi lại họ được đứng ra tổ chức bán đấu giá hoặc làm đại lý phát hành cổ phần và sẽ được hưởng phí trên giá trị cổ phần bán được.
Để khắc phục những tồn tại trên, đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN trong thời gian tới, cần phải tiếp tục đổi mới DNNN cơ bản hơn, mạnh mẽ hơn. Những DNNN cần được đổi mới trong những năm tới chính là những DN có vị trí hết sức quan trọng, kết quả đổi mới bộ phận DNNN chiếm giữ hơn 80% tổng lượng vốn của Nhà nước này sẽ tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể, phải thu hẹp mạnh hơn diện DN 100% vốn nhà nước, nói chung đại bộ phận DNNN tồn tại dưới hình thức đa sở hữu. Bên cạnh đó, cần tập trung hơn nữa DNNN, mà chủ yếu là những DN trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối nhưng không nhất thiết trên 51%, vào một số ngành, lĩnh vực rất then chốt của nền kinh tế. Trước mắt, cần quy định rõ theo hướng mở rộng những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX). Phải hình thành các DN lớn, các tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu, nòng cốt là sở hữu nhà nước. Việc sắp xếp các DNNN phải kết hợp nguyên tắc ngành và lãnh thổ. DNNN phải thực sự hoạt động theo chế độ công ty; phải có quyền tự chủ đầy đủ hơn trên thị trường. Phải thực hiện đúng nguyên tắc thị trường, không được áp đặt chủ quan, duy ý chí, trái nguyên tắc thị trường trong việc sắp xếp, CPH DNNN như: không nên sáp nhập những DNNN đang thua lỗ, đang trong tình trạng phá sản vào những DN mạnh, tạo gánh nợ cho các DN này; không nên áp dụng hình thức công ty TNHH một thành viên là Nhà nước đối với những DN thuộc diện CPH; không nên CPH những DN đang trong tình trạng thua lỗ mà chưa có phương án kinh doanh mới...
Trong năm 2006, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ đẩy mạnh cổ phần hóa, phấn đấu hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa 51 doanh nghiệp và đạt 10% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa niêm yết trên thị trường chứng khoán. Thành phố cũng đặt mục tiêu trong năm 2006 hoàn thành việc chuyển đổi các Tổng Công ty và công ty Nhà nước có quy mô lớn sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ-công ty con.
Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp thành phố cho biết theo kế hoạch, đến cuối năm 2007 TP.HCM sẽ cổ phần hóa 8 trong số 17 Tổng Công ty và công ty lớn theo mô hình Công ty mẹ-công ty con, xây dựng 1 hoặc 2 tập đoàn kinh tế lớn trong 2 ngành công nghiệp-dịch vụ và mở rộng ra các ngành khác trong các năm tiếp theo.
Trong năm 2006, Thành phố cũng phấn đấu hoàn thành việc tách chức năng quản lý Nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh của các sở, ngành, quận, huyện đối với các doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc, trừ các doanh nghiệp đặc thù.
KẾT LUẬN
Cổ phần hóa DNNN là một chiến lược mà cả nước cần phải đẩy mạnh thực hiện thống nhất ở các cấp. Thực tế đã cho thấy, nhờ cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp đã hoạt động hiệu quả hơn, thể hiện ở các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, tiền lương, cổ tức. Nhờ hoạt động hiệu quả, nhiều doanh nghiệp đã huy động nhiều nguồn vốn của xã hội như Công ty Cổ phần cơ điện lạnh REE, nệm Kim Đan, sơn Bạch Tuyết, gỗ SAVIMEX.
Tuy nhiên, tiến trình CPH DNNN ở nước ta, do các nguyên nhân khách quan và chủ quan, vẫn còn chậm và chưa thực sự đồng bộ, rộng khắp trên cả nước, trong tất cả các ngành nghề. Trên thế giới, Quốc gia được coi là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thành công nhất như Malaysia cũng phải mất hơn 10 năm. Và trong tương lai, đó thực sự là một quá trình nhiều khó khăn, đầy thử thách đối với các nhà quản lý, lãnh đạo ở Việt Nam. Dẫu khó khăn, nhưng đây là mục tiêu phải thực hiện bằng được của nước ta nếu muốn phát triển đất nước- giống như một chú cá chép nhỏ phải vượt ải môn quan để được hóa rồng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá thực trạng công tác cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước.doc