EmpTest là phần mềm được thiết kế nhằm tự động hóa các vấn đề liên quan
đến việc tổ chức và thực hiện thi trắc nghiệm. Phần mềm được cài đặt thành
6 đơn thể chương trình với các chức năng riêng. Các đơn thể này có thể hoạt
động phối hợp với nhau để đáp ứng mọi yêu cầu đặt ra đối với hệ thống thi
trắc nghiệm:
Editor : Giúp giáo viên sọan thảo câu hỏi trắc nghiệm và lưu vào cơ
sở dữ liệu. Đồng thời tạo ra các đề thi để thi trực tiếp trên máy kể cả mạng
máy tính cục bộ, kết xuất đề thi ra dạng HTML để dùng cho Internet hoặc
in đề thi ra giấy (kèm answers key). Điều này cho phép giáo viên làm đề thi
thực hiện buổi thi của mình trên máy đơn, máy mạng, hoặc thi trên giấy đều
được. Khả năng xáo trộn câu hỏi và thứ tự đáp án: a,b,c,d. rất tốt. Nội dung
câu hỏi trắc nghiệm cho phép chèn vào hình ảnh, âm thanh, phim, mục tự
luận; tiện dụng cho mọi lĩnh vực: tóan, ngọai ngữ, tin học,.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá ứng dung công nghệ thông tin trong nhà trường phổ thông; kiểm tra đánh giá và phƣơng pháp trắc nghiệm khách quan, ứng dụng phần mềm emptest trong kiểm tra đánh giá môn Tin học 10, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đắn
trong quá trình dạy học.
Thực tế cho thấy hệ thống Giáo dục-Đào tạo nước ta hiện nay, mặc dù
mục tiêu đào tạo đã có những thay đổi để phù hợp với yêu cầu và xu thế phát
triển của xã hội, phương pháp dạy học đã được nâng cao, nhưng cách thức
và công cụ kiểm tra đánh giá mà chúng ta đang sử dụng thì chưa thực sự đổi
mới. Lâu nay, chúng ta hầu như chỉ sử dụng loại bài kiểm tra tự luận để đánh
giá kết quả học tập của học sinh. Loại câu hỏi có nhiều bất cập vì những câu
hỏi thường dài, tốn nhiều thời gian cho việc làm bài, khối lượng kiến thức
được kiểm tra hạn chế, khó sử dụng các phương tiện hiện đại trong kiểm tra
đánh giá chẳng hạn như máy vi tính.
Để góp phần khắc phục những nhược điểm trên, nhiều nước trên thế
giới đã và đang sử dụng dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan để đánh giá
thành quả học tập của học sinh. Ở Việt Nam hiện nay, hình thức kiểm tra
trắc nghiệm đã được dùng khá phổ biến, từ năm học 2005-2006 Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm khách quan cho kỳ thi tốt nghiệp
THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng
11
2.Phương pháp kiểm tra, đánh giá; phương pháp trắc nghiệm khách
quan
2.1. Khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng và các hình thức kiểm tra-
đánh giá việc học tập của học sinh
a. Khái niệm kiểm tra, đánh giá
- Kiểm tra:
Kiểm tra là quá trình giáo viên thu thập thông tin về kết quả học tập của
học sinh. Các thông tin này giúp cho giáo viên kiểm soát được quá trình dạy
học, phân loại và giúp đỡ học sinh. Những thông tin thu thập được so sánh
với tiêu chuẩn nhất định.
- Đánh giá:
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về
trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và
nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm
của giáo viên và nhà trường, cho bản thân học sinh để học sinh ngày một
học tập tiến bộ hơn. Kết quả của việc đánh giá được thể hiện chủ yếu bằng
điểm số theo thang điểm đã được quy định, ngoài việc đánh giá thể hiện
bằng lời nhận xét của giáo viên.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là đánh giá mức độ hoàn thành
các mục tiêu đề ra cho việc học sau một giai đoạn học tập. Các mục tiêu này
thể hiện ở từng môn học cụ thể. Đánh giá kết quả học tập là xác định mức độ
nắm bắt kĩ năng kĩ xảo của học sinh theo yêu cầu của chương trình đề ra.
[Theo giáo dục học]
Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Kiểm tra là để đánh giá, đánh giá dựa trên cơ sở của kiểm tra.
b. Vị trí, vai trò, chức năng và các hình thức của kiểm tra đánh giá
- Vị trí:
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong
quá trình giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai
đoạn giáo dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo
với yêu cầu cao hơn, chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.
Vị trí của kiểm tra-đánh giá trong quá trình giáo dục được thể hiện qua
sơ đồ dưới đây:
12
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận cấu
thành và là giai đoạn cuối cùng của quá trình dạy học.
Vị trí của kiểm tra-đánh giá trong quá trình dạy học được thể hiện qua
sơ đồ dưới đây:
Trong quá trình dạy học nói riêng và giáo dục nói chung, kiểm tra-đánh
giá là một trong những bộ phận chủ yếu và hợp thành một chỉnh thể thống
nhất trong quá trình đào tạo.
MỤC TIÊU
KIỂM TRA
ĐÁNH GIÁ
TRÌNH ĐỘ
XUẤT PHÁT
TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN
KIẾN THỨC
KỸ NĂNG
13
Mục tiêu
Nội dung
Phương
pháp
Hìnhthức
Tổ chức
Kiểm tra
& Đánh giá
Phương
tiện
Sơ đồ các thành phần quá trình dạy học
Sơ đồ cho thấy 6 nhân tố trên đều có mối liên hệ mật thiết với nhau và
tác động qua lại với nhau. Kiểm tra-đánh giá cho phép thẩm định chất lượng
của quá trình đào tạo, mặt khác nó tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối
với quá trình đào tạo, phương pháp đào tạo, thái độ học tập và giảng dạy;
đảm bảo sự nghiêm túc kết quả, công bằng, khách quan, tạo mối quan hệ
đúng đắn giữa thầy và trò, tạo điều kiện để công tác quản lý đào tạo có hiệu
quả. Như vậy, đổi mới kiểm tra-đánh giá sẽ có tác động tới quá trình dạy
học.
- Vai trò:
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, thông
qua kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh giúp cho giáo viên thu
được những thông tin ngược từ học sinh, phát hiện thực trạng kết quả học
tập của học sinh cũng như những nguyên nhân cơ bản dẫn tới thực trạng kết
quả đó. Đó là cơ sở thực tế để giáo viên điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động
14
học của học sinh và hướng dẫn học sinh tự điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt
động học của bản thân.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận hợp thành rất
quan trọng và tất yếu của toàn bộ quá trình dạy học. Kết quả toàn bộ quá
trình dạy học ở một mức độ quan trọng phụ thuộc vào việc tổ chức kiểm tra
và đánh giá kết quả học tập của học sinh một cách đúng đắn. Công tác đánh
giá trong dạy học-giáo dục là một việc làm phức tạp, bởi lẽ kết quả cuối
cùng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tác động.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh vừa đóng vai trò bánh
lái, vừa giữ vai trò động lực của dạy học. Nó định hướng, thúc đẩy mạnh mẽ
hoạt động dạy học và hoạt động quản lý giáo dục. Kiểm tra đánh giá có tác
động đến việc canh tân trong đào tạo. G.K.Miler đã khẳng định:“Thay đổi
một chương trình hoặc những kỹ thuật giảng dạy mà không thay đổi hệ
thống đánh giá, chắc chắn là chẳng đi tới đâu! Thay đổi hệ thống đánh giá
mà không thay đổi chương trình giảng dạy, có thể có một tiếng vang đến
chất lượng học tập hơn là một sự sửa đổi chương trình mà không sờ đến
kiểm tra, đánh giá, thi cử. ”
Trong mọi sự đánh giá, vai trò hàng đầu của kiểm tra, đánh giá là giúp
thực hiện được quyết định cho điểm, cho lên lớp. Vì quá trình đánh giá cung
cấp những cơ sở cho một sự phán xét về giá trị. Sự phán xét này cho phép
giáo viên ra được những quyết định sư phạm tốt nhất.
Kiểm tra, đánh giá không chỉ đóng vai trò kích thích mà còn đóng vai
trò dạy học. Kiểm tra, đánh giá là nhiệm vụ cần thiết nhất để tổ chức quá
trình dạy học, điều chỉnh quá trình dạy học, cũng như giúp chọn lựa những
phương pháp làm việc và tính chất tài liệu học tập, phân hóa bài tập một
cách hợp lý đối với học sinh.
Kiểm tra, đánh giá không những là một nhân tố dạy học mà còn là một
nhân tố kích thích. Hai yêu cầu này liên quan mật thiết với nhau: Nếu đánh
giá mà không kích thích học sinh học tập thì nó chỉ là nhân tố dạy học đơn
thuần và ngược lại nếu vai trò dạy học mất đi hay bị lu mờ thì tất yếu điều
đó sẽ được phản ánh lên tác dụng của đánh giá. Đánh giá càng chính xác bao
nhiêu, thì càng giúp giáo viên trong việc cải tiến, hoàn thiện được nội dung
đào tạo, quy định chính xác tài liệu, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ
chức dạy học thích hợp bấy nhiêu.
Vai trò của kiểm tra đánh giá có thể được tóm lược thông qua từng đối
tượng cụ thể như sau:
15
- Đối với học sinh: Kiểm tra và đánh giá giúp cung cấp những thông tin
“ liên hệ ngược trong”, giúp người học tự điều chỉnh hoạt động học. Qua
kiểm tra, đánh giá người học tự thấy mình đã tiếp thu những điều đã học đến
mức nào, có những lỗ hổng nào cần phải bổ khuyết trước khi bước vào một
phần mới của chương trình học tập. Cũng qua kiểm tra đánh giá học sinh
còn có cơ hội thể hiện, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ như: ghi nhớ, tái
hiện, chính xác hóa, phân tích, tổng hợp,Kiểm tra và đánh giá còn tạo
động cơ khuyến khích học sinh phát huy tinh thần học tập, tự học và nâng
cao ý thức tự giác, tổ chức, kỷ luật. Học sinh sẽ so sánh kết quả của các bạn
và thi đua học tập với bạn bè, đề ra phương hướng phấn đấu, ý chí vươn lên
đạt kết quả học tập cao hơn.
- Đối với giáo viên: Kiểm tra và đánh giá cung cấp cho giáo viên những
thông tin “liên hệ ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy.
Việc kiểm tra, đánh giá được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc cung cấp
cho giáo viên những thông tin về trình độ chung của cả tập thể học sinh và
giúp giáo viên đánh giá chính xác năng lực học tập và nhận thức của từng cá
nhân học sinh để kịp thời có biện pháp giúp đỡ, bồi dưỡng thích hợp. Kết
quả bài kiểm tra của học sinh còn là cơ sở để dựa vào đó giáo viên có thể
phân loại kết quả học tập của học sinh trong lớp.
- Đối với các cấp quản lý: Kiểm tra đánh giá cung cấp những thông tin
cơ bản về thực trạng dạy và học để có thể có những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn
những lệch lạc, khuyến khích và hỗ trợ những sáng kiến hay, đảm bảo thực
hiện tốt mục tiêu giáo dục. Kiểm tra, đánh giá cũng giúp cho các cơ quan
quản lý đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo để cấp phát chứng chỉ, văn bằng
được chính xác và có những biện pháp quản lý giáo dục thích hợp.
- Chức năng: Kiểm tra và đánh giá có những chức năng sau:
+ Chức năng định hướng: Đánh giá nhằm phân tích các phương tiện vật
chất và định ra một kế hoạch lý tưởng về tiến trình của hành động. Đây là
đánh giá chẩn đoán hay đánh giá dự báo;
Kiểm tra-đánh giá để dự báo khả năng của học sinh- trình độ đạt tới
những chỉ tiêu trong quá trình học tập đồng thời xác định những điểm mạnh
yếu của học sinh. Việc kiểm tra-đánh giá cũng làm cơ sở cho việc lựa chọn
bồi dưỡng năng khiếu, đồng thời giúp giáo viên có thể chọn cách dạy phù
hợp với khả năng học tập của học sinh và học sinh có thể lựa chọn con
đường học tập, phương pháp, tài liệu, các hình thức học tập phù hợp
+ Chức năng điều chỉnh: Đánh giá là khâu quan trọng nhằm tác động
ngược trong thời điểm hiện thực. Đây là đánh giá uốn nắn;
16
Kiểm tra-đánh giá nhằm hỗ trợ việc học tập. Chức năng này đòi hỏi
phải có cách xử lý thông tin để vừa thâu tóm được các thời diểm khác nhau
của quá trình học tập, vừa có tính chất thúc đẩy củng cố, mở rộng và nâng
cao chất lượng tri thức. Kiểm tra-đánh giá chẩn đoán được tiến hành thường
xuyên, cung cấp cho người học những tín hiệu ngược về học tập, từ đó khắc
phục những thiếu sót, điều chỉnh cách học cho phù hợp.
+ Chức năng xác nhận hay xếp loại: Đây là chức năng đánh giá tổng
hợp. Khi thực hiện chức năng này cần xác định rõ mục tiêu cuối cùng mà ta
nhằm tới. Mục tiêu này phải có ý nghĩa đối với cá nhân cũng như đối với
toàn xã hội. Ngoài ra, Trình độ mong muốn phải được đánh giá trong những
điều kiện xem xét càng gần điều kiện thực tế càng tốt.
- Đánh giá xác nhận cung cấp những số liệu để thừa nhận hay bác bỏ
sự hoàn thành hay chưa hoàn thành khoá học, chương trình học hoặc môn
học để đi đến quyết định là cấp chứng chỉ, cấp bằng hoặc cho lên lớp hoặc
nhằm xếp loại người học theo mục đích nào đó, thường được tiến hành sau
một giai đoạn học tập. Chức năng này có ý nghĩa xã hội quan trọng. Đánh
giá góp phần xác nhận sự bộc lộ tính hiệu quả của hệ thống đào tạo.
- Các hình thức kiểm tra đánh giá
Kiểm tra đánh giá có thể sử dụng những hình thức sau:
+ Theo câu hỏi: Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi vấn đáp để kiểm tra,
đánh giá-Đây là một hình thức kiểm tra vừa có hiệu quả vừa nhanh và linh
hoạt, toàn diện.
+ Kiểm tra viết theo yêu cầu của giáo viên: Kiểm tra chủ quan này
thường kiểm tra sâu một lĩnh vực không những về kiến thức mà còn kiểm tra
cả kĩ năng viết, theo cách trình bày tự do qua đó xem cấu trúc có chặt chẽ
không, ý tứ sắp xếp có logic không, tình cảm có chân thật không hoặc những
sự kiện, thuật ngữnêu ra có chính xác không. Kiểm tra viết đánh giá ổn
định hơn vì có văn bản rõ ràng.
+ Kiểm tra thực hành: Qua một bài tập, một tình huống học sinh vận
dụng những kiến thức đã học vào những công việc thực tế-đây là mục đích
cuối cùng của việc học tập và cũng là mục đích của việc đánh giá.
2.2. Định hƣớng đổi mới phƣơng pháp kiểm tra đánh giá
2.2.1. Thực trạng của việc kiểm tra đánh giá hiện nay ở các trƣờng
phổ thông
Qua nghiên cứu thực trạng em thấy trong nhà trường phổ thông của
chúng ta, việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh chưa được chú
17
ý một cách đúng mức. Một số giáo viên còn thể hiện những thiếu sót về cả tổ
chức, quy trình, phương pháp lẫn nội dung kiểm tra. Giáo viên giảng dạy
thường cho các đề thi có nội dung câu hỏi chủ yếu nằm trong sách giáo
khoa, hoặc đã giảng trên lớp, rất ít có các câu hỏi kiểm tra trong phần tự học
ở nhà đòi hỏi sự sáng tạo của học sinh. Các đề kiểm tra, đề thi được đưa ra
dựa trên kinh nghiệm cá nhân, thiếu cơ sở lý luận về mục tiêu, phương pháp
kiểm tra đánh giá. Những thiếu sót trên phần lớn do giáo viên không hiểu
đầy đủ chức năng của việc kiểm tra đánh giá: khi thì đánh giá quá cao vai trò
và vị trí của nó trong quá trình học tập, thậm chí biến thành yếu tố nhằm đe
dọa học sinh khi thì xem nhẹ và buông lỏng công tác kiểm tra, đánh giá
làm cho khâu này mất tác dụng.
Câu hỏi kiểm tra chủ yếu dùng tự luận, hình thức này phần nào đã đánh
giá được kết quả học tập của trò và phương pháp dạy của thầy, song trong
giai đoạn hiện nay nó đã bộc lộ một số hạn chế như:
- Do thời gian làm bài kiểm tra hạn chế trong 15 phút, 45 phút hay 90
phút nên mỗi bài kiểm tra viết bằng hình thức tự luận chỉ tập trung vào một
số kiến thức trọng tâm, không bao quát rộng. Cũng do đó, học sinh có thể
đoán được và chỉ học tủ một số vấn đề và các kiến thức khác bỏ qua. Trong
quá trình làm bài học sinh có thể quay cóp, sử dụng tài liệu, trao đổi,
- Đề kiểm tra không bao trùm được nội dung học bài, phụ thuộc vào
giáo viên ra đề nên độ tin cậy không cao.
- Việc đánh giá bài làm của học sinh phụ thuộc vào người chấm, mất
nhiều thời gian, đôi khi gây cảm giác nặng nề cho giáo viên.
- Kết quả khó xác định đúng trình độ học tập của học sinh do chưa xác
định được các chuẩn mực mới để đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Cách tổ chức kiểm tra đánh giá phức tạp, tốn kém nhất là trong các kỳ
thi lớn như thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao
đẳng.
Vừa qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm khách
quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, Cao đẳng đối với
một số môn . Tuy nhiên, ngoài tài liệu hướng dẫn học sinh cách làm bài thi
trắc nghiệm, hướng dẫn giáo viên cách coi thi và thu bài thi giáo viên không
được hướng dẫn gì thêm. Cho nên hình thức kiểm tra đánh giá này vẫn còn
xa lạ đối với học sinh và cả giáo viên do bởi những lí do sau đây:
- Đa số các trường Trung học phổ thông chưa có phần mềm soạn thảo,
chấm điểm và đánh giá hệ thống câu hỏi trắc nghiệm.
18
- Việc sử dụng hệ thống kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm chỉ
được nhà trường khuyến khích giáo viên sử dụng dưới góc độ thử nghiệm.
- Các tổ bộ môn chưa có kế hoạch xây dựng ngân hàng đề thi trắc
nghiệm khách quan cho bộ môn mình giảng dạy.
- Đa số giáo viên chưa nắm được cách thức xây dựng một bài kiểm tra
bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan, cách đánh giá một câu hỏi trắc
nghiệm theo độ tin cậy và độ phân biệt.
- Học sinh còn ít được kiểm tra đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm
khách quan nên chưa có kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm.
2.2.2. Tại sao phải đổi mới phƣơng pháp kiểm tra đánh giá?
Hiện nay, việc kiểm tra và đánh giá ở các trường phổ thông còn chưa
được coi trọng và bị phê phán là thiếu chính xác, không đủ độ tin cậy và làm
sai lệch chất lượng giáo dục. Trong tình hình đó vấn đề đổi mới trong đánh
giá chất lượng dạy và học đang được quan tâm và cần được nghiên cứu.
Đổi mới phương pháp đánh giá là khâu quan trọng trong quá trình đổi
mới phương pháp dạy học, bởi lẽ dạy học là một qua trình bao gồm các khâu
cơ bản như: Thiết kế bài giảng, thực hiện bài giảng và kiểm tra đánh giá.
Đổi mới phương pháp dạy học với mục tiêu là nhằm nâng cao chất
lượng dạy học, trong đó đổi mới kiểm tra đánh giá có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả của đổi mới dạy học nói chung, do
đó phương pháp kiểm tra đánh giá cũng cần phải đổi mới.
2.2.3. Định hƣớng đổi mới kiểm tra đánh giá
- Định hướng chung:
Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu
cầu mới của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biển mạnh
theo hướng phát triển trí thông minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích
vận dụng linh hoạt các kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực
tế, làm bộc lộ những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng
hổi của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra
đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển
dạy và học tích cực.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên, việc kiểm tra,
đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và
mục tiêu giáo dục môn học ở từng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được
mức độ thực hiện các mục tiêu đã được xác định.
19
Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả
học tập của học sinh, bộ công cụ đánh giá đuợc bổ sung các hình thức đánh
giá khác như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm, chú ý hơn tới đánh
giá cả quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt
động tích cực, chủ động của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu
tri thức mới lẫn tiết thực hành, thí nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ
môn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà
trường cần quan tâm và giám sát hoạt động này.
Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm
bảo 70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn-mặt bằng về nội
dung học vấn dành cho mọi học sinh THPT và 30% còn lại phản ánh mức độ
nâng cao, dành cho học sinh có năng lực trí tụệ và thực hành cao hơn.
- Định hướng riêng đối với môn Tin học:
Riêng đối với môn Tin việc kiểm tra đánh giá bao gồm cả lý thuyết và
thực hành, hình thức có thể là tự luận hoặc trắc nghiệm, kiểm tra vấn đáp,
trên giấy hoặc trên máy. Nội dung môn Tin học rất thuận lợi cho ra đề kiểm
tra trắc nghiệm, cần tăng cường sử dụng phương pháp kiểm tra trắc nghiệm
để có thể kiểm tra phạm vi kiến thức rộng và để tiết kiệm thời gian.
Việc kiểm tra, đánh giá không chỉ thực hiện để nhằm lấy điểm vào sổ
điểm cho học sinh, mà quan trọng hơn nữa là cung cấp thông tin phản hồi để
điều chỉnh quá trình dạy học, nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.
Đặc điểm khá đặc trưng của môn Tin học là kiến thức đi đôi với thực
hành, kiểm tra kiến thức có lẽ đã quen thuộc đối với người giáo viên, còn
kiểm tra thực hành ở khía cạnh nào đó còn chưa quen. Không nên lạm dụng
máy vi tính trong kiểm tra, cần phân biệt bài tập và thực hành. Do điều kiện
hạn chế về máy vi tính nên chỉ kiểm tra những kĩ năng mà không thể kiểm
tra được nếu không có máy vi tính (ví dụ: nếu muốn kiểm tra kĩ năng gõ bàn
phím 10 ngón ). Cũng xin lưu ý là có những phần kiểm tra lại không nên
thực hiện trên máy vi tính, ví dụ: nếu muốn kiểm tra học sinh về quy tắc đặt
tên tệp của hệ điều hành, hoặc tên biến trong ngôn ngữ lập trình, và sử dụng
trắc nghiệm đặt tên tệp đúng hoặc tên biến đúng, nếu thực hiện trên máy vi
tính học sinh có thể chỉ cần gõ vào máy vi tính và căn cứ vào thông báo của
máy tính để chọn đáp án mà không cần biết tại sao.
Tin học là môn học mới đưa vào chương trình học phổ thông và có
những đặc thù riêng như liên quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, cách suy
nghĩ và giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ, coi trọng làm việc theo
nhómVì vậy, có thể đánh giá học sinh thông qua :
20
- Mức độ nắm vững kiến thức cơ bản: có thể thực hiện thông qua bài
kiểm tra trắc nghiệm hoặc tự luận.
- Khả năng sử dụng máy tính và ứng dụng phần mềm: có thể thực hiện
bằng bài kiểm tra thực hành ( trên máy vi tính hoặc trên giấy).
- Khả năng giải quyết vấn đề thể hiện qua khả năng biết đề xuất phương
hướng giải quyết và biết lựa chọn công cụ thích hợp để giải quyết: có thể
thực hiện bằng việc giao vấn đề hoặc bài tập lớn.
- Khả năng làm việc theo nhóm: có thể giao nhiệm vụ, chủ đề, đề án
nhỏ.
- Cần lưu ý đến việc tự đánh giá hoặc học sinh tự đánh giá với nhau.
2.3. Kiểm tra đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm
2.3.1. Giới thiệu các loại hình thi trắc nghiệm
Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo
lường năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định.
Trong giáo dục trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kỳ thi, kiểm
tra để đánh giá kết quả học tập, giảng dạy đối với một phần của môn học,
toàn bộ môn học, đối với cả một cấp học; hoặc để tuyển chọn một số người
có năng lực nhất vào học một khoá học.
Có thể phân chia các phương pháp trắc nghiệm ra làm 3 loại:
1. Loại quan sát: giúp xác định những thái độ, những phản ứng vô ý
thức, những kỹ năng thực hành và một số kỹ năng về nhận thức, chẳng
hạn cách giải quyết vấn đề trong một tình huống đang được nghiên cứu.
2. Loại vấn đáp: có tác dụng tốt khi nêu các câu hỏi phát sinh trong
một tình huống cần kiểm tra. Trắc nghiệm vấn đáp thường được dùng
khi tương tác giữa người chấm và người học là quan trọng, chẳng hạn
cần xác định thái độ phản ứng khi phỏng vấn
3. Loại viết: thường được sử dụng nhiều nhất vì nó có những ưu điểm
sau:
- Cho phép kiểm tra nhiều thí sinh một lúc
- Cho phép thí sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời
- Đánh giá được một vài loại tư duy ở mức độ cao
- Cung cấp bản ghi rõ ràng các câu trả lời của thí sinh để dùng khi chấm
- Dễ quản lý hơn vì bản thân người chấm không tham gia vào bối cảnh
kiểm tra.
21
Trắc nghiệm viết được chia thành 2 nhóm chính:
- Nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc trả lời theo dạng mở, thí sinh phải
tự trình bày ý kiến trong một bài viết dài để giải quyết vấn đề mà câu hỏi
nêu ra. Người ta gọi trắc nghiệm theo kiểu này là kiểu tự luận (essay).
Phương pháp tự luận rất quen biết với mọi người chúng ta.
- Nhóm các câu trắc nghiệm mà trong đó đề thi thường gồm rất nhiều
câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết sao
cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu. Người ta thường gọi nhóm
phương pháp này là trắc nghiệm khách quan (objective test).
Ta có sơ đồ về các phương pháp trắc nghiệm như sau:
2.3.2. Đặc điểm chung
Đặc điểm chung của trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan
là:
- Đều có thể đo lường hầu hết mọi thành quả học tập của học tập quan
trọng mà một bài khảo sát bằng lối viết có thể khảo sát được.
- Tất cả đều có thể được sử dụng để khuyến khích học sinh học tập
chăm chỉ nhằm đạt đến các mục tiêu, hiểu biết các nguyên lý, tổ chức và
22
phối hợp các ý tưởng, ứng dụng các kiến thức trong việc giải quyết các vấn
đề.
2.3.3. Đặc điểm riêng
Cả 2 loại trắc nghiệm đều đòi hỏi sự vận dụng ít nhiều phán đoán chủ
quan. Giá trị của cả hai loại trắc nghiệm phụ thuộc vào tính khách quan và
đáng tin cậy của chúng. Tuy nhiên, chúng có những điểm khác nhau như
sau:
Trắc nghiệm tự luận Trắc nghiệm khách quan
1. Một câu hỏi thuộc loại tự
luận đòi hỏi thí sinh tự mình
soạn câu trả lời và diễn tả nó
bằng ngôn ngữ của chính mình.
Một câu hỏi trắc nghiệm
khách quan buộc thí sinh phải
lựa chọn câu trả lời đúng nhất
trong một số câu hỏi đã cho sẵn.
2. Một bài kiểm tra tự luận
gồm số câu hỏi tương đối ít và
có tính cách tổng quát, đòi hỏi
thí sinh phải triển khai câu trả lời
bằng lời lẽ dài dòng.
Một bài kiểm tra trắc
nghiệm thường gồm những câu
hỏi có tính chất chuyên biệt và
chỉ đòi hỏi những câu trả lời
ngắn gọn.
3. Khi làm một bài tự luận thí
sinh phải bỏ ra nhiều thời gian
để suy nghĩ và viết câu trả lời.
Khi làm một bài trắc
nghiệm thí sinh chỉ dùng thời
gian để đọc và suy nghĩ mà
không tốn thời gian trình bày câu
trả lời.
4. Kết quả của bài tự luận
được xác định nhiều do người
chấm.
Chất lượng của bài trắc
nghiệm được xác định một phần
do kĩ năng soạn thảo bộ câu hỏi.
5. Một bài tự luận tương đối
dễ soạn nhưng khó chấm và khó
cho điểm chính xác.
Một bài trắc nghiệm khó
soạn đề nhưng việc chấm và cho
điểm tương đối dễ dàng hơn.
6. Với tự luận thí sinh có thể
tự do bộc lộ cá tính của mình
trong câu trả lời và người chấm
bài cũng có tự do cho điểm các
câu trả lời theo xu hướng của
Với một bài trắc nghiệm
người soạn thảo có thể tự do bộc
lộ kiến thức và các giá trị của
mình thông qua việc đặt câu hỏi
và các phương pháp trả lời,
nhưng thí sinh chỉ được chứng tỏ
23
mình. mức độ hiểu biết của mình qua tỉ
lệ câu trả lời đúng.
2.3.4. Phƣơng pháp trắc nghiệm khách quan
2.3.4.1. Lịch sử nghiên cứu trắc nghiệm khách quan
a. Lịch sử nghiên cứu trắc nghiệm khách quan trên thế giới
Theo Trần Trọng Thúy (2003), từ những năm 2000 trước Công
Nguyên, người Trung Hoa đã dùng trắc nghiệm trí tuệ để chọn người hầu,
thê thiếp. Theo Question stodola, kaneer stardahl (1967) và Nguyễn Phụng
Hoàng, Võ Ngọc Lan (1996), các phương pháp đo lường và trắc nghiệm đầu
tiên được tiến hành vào thế kỷ XVII-XVIII ở khoa Vật lý-Tâm lý và sau đó
lan dần sang ngành động học, phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên được
Wichelm Weent thành lập tại Leipzig (Đức) năm 1879.
Ở Mỹ, ngay từ năm 1926-1931 đã có một số nhà sư phạm ở Matxcơva,
Lêningrat thử nghiệm dùng trắc nghiệm để thăm dò đặc điểm tâm lý cá nhân
và kiểm tra kiến thức của học sinh.
Năm 1963, xuất hiện công trình của Gedevik dùng máy tính điện tử xử
lý các kết quả trắc nghiệm trên diện rộng.
Ở Anh, cũng năm 1963 đã có hội đồng hoàng gia hàng năm quyết định
các trắc nghiệm chuẩn cho trường trung học.
Từ 1963, ở Liên Xô (cũ) việc nghiên cứu kết quả của phương pháp trắc
nghiệm đã trở thành một đề tài lớn của viện hàn lâm khoa học Liên Xô.
Năm 1964, khi K.M.Pancheshnicova, V.A.Korinskaja ứng dụng
phương pháp kiểm tra trắc nghiệm đối với môn Địa Lý lớp 6, 7, 8 đã cho
rằng kiểm tra trắc nghiệm là một phương pháp kiểm tra đáp ứng được các
yêu cầu: mất ít thời gian, kiểm tra được nhiều mặt khác nhau như: kỹ năng,
kỹ xảo và lượng kiến thức rộng và lớn.
Năm 1965, K.A.Karamjanskaja dùng trắc nghiệm để kiểm tra kiến thức
hình học không gian cho học sinh lớp 9, 10.
Hiện nay, ở hầu khắp các nước trên thế giới đã sử dụng phương pháp
trắc nghiệm vào kiểm tra đánh giá trên nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng. Liên
tục có các cuộc hội thảo, trao đổi về lĩnh vực này, các khóa huấn luyện cung
cấp những hiểu biết cơ bản về phương pháp trắc nghiệm. Các nước trên thế
giới đã tiến hành triển khai cải tiến phương pháp kiểm tra đánh giá, thi cử ở
các truờng Đại học. Cụ thể:
24
+ Ở Trung Quốc kỳ thi tuyển sinh Đại học đã thống nhất trên toàn quốc
bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan được tiêu chuẩn hóa áp dụng từ
năm 1985.
+ Ở Hàn Quốc từ năm 1980 đã thay đổi các kỳ thi tuyển sinh riêng rẽ ở
từng trường bằng kỳ thi trắc nghiệm thành quả học tập trung học bậc cao
trên toàn quốc.
+ Ở Thái Lan năm 1995 đã thành lập trung tâm trắc nghiệm quốc gia.
Rất nhiều các nhà khoa học đang tiến hành nghiên cứu, điều tra nhằm sử
dụng phương pháp này một cách tốt nhất vào việc kiểm tra đánh giá kết quả
học sinh phổ thông, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học
chuyên nghiệp.
b. Lịch sử nghiên cứu trắc nghiệm khách quan ở Việt Nam
- Miền Bắc:
Việc áp dụng phương pháp trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra đánh
giá kết quả học tập vẫn còn là những vấn đề mới mẻ. Có thể nói những
nghiên cứu sớm nhất thuộc lĩnh vực này là của giáo sư Trần Bá Hoành. Năm
1971, giáo sư đã soạn thảo các câu hỏi, thực nghiệm và áp dụng trắc nghiệm
vào kiểm tra kiến thức học sinh và đã thu được nhiều kết quả quý báu. Tuy
nhiên, trong một thời gian dài phương pháp này hầu như không được sử
dụng như là một phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh do nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan chi phối.
Năm 1986, tại khoa Sinh-KTNN thuộc Đại học Sư phạm Hà Nội các
cuộc hội thảo đã được tổ chức với nội dung: “Phương pháp xây dựng hệ
thống câu hỏi lựa chọn đa phương án” do J.P.Herath trình bày và hướng dẫn
trong chương trình tài trợ của UNDP. Phát huy kết quả của hội thảo, khoa
Sinh-KTNN đã triển khai, xây dựng hàng loạt các bộ câu hỏi trắc nghiệm ở
các bộ môn, bước đầu sử dụng để làm phương tiện kiểm tra ở một số bộ
môn.
Từ những năm đầu của thập niên 90, phương pháp trắc nghiệm khách
quan mới thực sự được quan tâm và ứng dụng ở các cấp học, ngành học.
Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã tìm ra những kinh
nghiệm quý báu về các đặc tính của phương pháp Test. Để đổi mới công tác
kiểm tra - đánh giá, khắc phục tình trạng lạc hậu của giáo dục nước ta so với
khu vực và trên thế giới.
Tháng 2-1994, Bộ Giáo dục và Đào tạo theo hướng đổi mới phương
pháp kiểm tra-đánh giá đã phối hợp với Viện công nghệ Hoàng Gia
Melbourne của Australia, tổ chức các cuộc hội thảo với chủ đề “Kỹ thuật
25
xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan” tại thành phố Hồ Chí Minh, Huế
và Hà Nội.
Năm 1996-1997, có những cuộc hội thảo mang tầm cỡ quốc gia đã
được tổ chức. Nhiều bộ đề trắc nghiệm của sinh viên ra đời ở trường Đại học
đại cương thuộc Đại học Quốc gia.
Đối với các trường THPT việc sử dụng phương pháp trắc nghiệm khách
quan trong kiểm tra-đánh giá kết quả học tập của học sinh đã và đang được
nghiên cứu và sử dụng.
- Miền Nam:
Phương pháp trắc nghiệm khách quan đã được nghiên cứu và áp dụng
rải rác trong các trường học từ những năm đầu thập niên 50. Học sinh được
tiếp xúc nhiều với dạng bài trắc nghiệm khách quan qua các cuộc khảo sát
khả năng ngoại ngữ do các tổ chức quốc tế tài trợ. Đến những năm 60 trắc
nghiệm khách quan được sử dụng khá phổ biến trong kiểm tra và thi ở bậc
trung học. Một số nghiên cứu về vấn đề này như: “Trắc nghiệm vạn vật lớp
12” của tác giả Lê Quang Nghĩa (1963), “phương pháp học và thi trắc
nghiệm vạn vật lớp 12” của tác giả Phùng Văn Hướng (1964),
Năm 1969, Giáo sư Dương Thiệu Tống đã đưa môn trắc nghiệm và
thống kê giáo dục vào giảng dạy tại các lớp cao học và tiến sỹ giáo dục tại
trường Đại học Sài Gòn. Có thể nói lần đầu tiên khoa học trắc nghiệm được
chính thức giảng dạy cho các thầy giáo ở nước ta. Vấn đề soạn câu hỏi Test
cũng đã trở thành đề tài nghiên cứu lúc bấy giờ. Kỳ thi tú tài toàn phần 1971
đã được thi bằng trắc nghiệm khách quan MCQ.
Từ năm 1995 đến nay, nhóm các nhà khoa học thuộc trung tâm đảm
bảo chất lượng và nghiên cứu phát triển giáo dục đứng đầu là GS.TS Đặng
Ứng Vận, đã triển khai xây dựng hệ thống các câu hỏi MCQ dùng cho việc
KT-ĐG kết quả học tập của sinh viên. Trung tâm đã thử nghiệm cài đặt hệ
thống câu hỏi vào chương trình của máy vi tính. Sinh viên làm bài trực tiếp
trên máy, máy tự động chấm điểm và cho biết kết quả ngay sau khi làm bài
trên máy.
Tuy vậy, ở các trường THPT việc xây dựng hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm và áp dụng trắc nghiệm khách quan vào kiểm tra đánh giá kết quả
học tập của học sinh vẫn là những vấn đề mới mẻ và cần được quan tâm.
Khái niệm :
Trắc nghiệm theo định nghĩa Tiếng Anh là “test” có nghĩa là thử, phép
thử hay bài kiểm tra. Theo tiếng Hán “trắc” là đo lường, nghiệm là “suy
26
xét”. Ghép lại “trắc nghiệm” có nghĩa là phép thử nghiệm, tiêu chuẩn hoá để
đo lường và đánh giá kiến thức riêng hoặc là tầm vóc, nhân cách con người.
Theo X.G.Ghenlecsten, trắc nghiệm là một thực nghiệm, thử nghiệm
mang tính chất của một bài tập nhất định. Bài tập này kích thích một hình
thức nhất định của tính tích cực và việc thực hiện nó là dấu hiệu của sự hoàn
thiện các kĩ năng nhất định được đánh giá về mặt định tính và định lượng.
Trắc nghiệm khách quan trong giáo dục chỉ hình thức trắc nghiệm
không phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan của người giáo viên. Hình thức
này chỉ hoàn toàn khách quan trong việc chấm điểm còn việc lựa chọn nội
dung đề kiểm tra, xây dựng câu hỏi và câu trả lời vẫn có phần mang tính chủ
quan.
2.3.5.Ƣu, nhƣợc điểm của phƣơng pháp trắc nghiệm khách quan
- Ưu điểm:
+ Đo được nhiều mức độ nhận thức khác nhau như: nhớ, hiểu, vận
dụng, tổng hợp, phân tích hoặc phán đoán;
+ Đánh giá kiến thức của học sinh trên một diện rộng, hạn chế được khả
năng học tủ của học sinh, đòi hỏi học sinh phải chịu khó khai thác tài liệu,
học và đọc nhiều hơn;
+ Chấm điểm kết quả nhanh chóng chính xác, có độ tin cậy cao hơn hẳn
các phương pháp kiểm tra đánh giá khác;
+ Trong một thời gian ngắn có thể kiểm tra được nhiều nội dung kiến
thức, với lượng câu hỏi lớn, phù hợp trong một thời gian làm bài hợp lý..
Việc quay cóp, gian lận trong thi cử sẽ bị hạn chế đến mức tối đa đảm bảo
tính nghiêm túc trong thi cử;
+ Rèn luyện cho học sinh khả năng nhận biết, khai thác và xử lý thông
tin, óc tư duy suy đoán nhanh nhẹn;
+ Có thể giúp cho người học sinh tư kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của mình một cách khách quan, hoặc giúp người học tự mình ôn tập đạt hiệu
quả trước khi bước vào kỳ thi;
+ Có thể áp dụng các phương tiện hiện đại như máy vi tính vào các
khâu làm bài, chấm điểm, lưu trữ, xử lý kết quả. Đảm bảo tính khách quan,
chính xác, tiện lợi, giảm bớt những cồng kềnh về các thủ tục hành chính
trong thi cử.
+ Bảo đảm được tính khách quan trong việc đánh giá, tránh được
một số hiện tượng thiếu công bằng trong thi cử.
27
+ Do các câu hỏi được hạn định về số lượng, các đáp án cho
trước được hạn định về nội dung và do các mức đánh giá đã được chuẩm
hoá, cho nên dễ sử dụng phương pháp thống kê toán học trong xử lý kết quả
kiểm tra của từng lớp học sinh.
- Nhược điểm:
+ Khó đo lường được các kỹ năng xử lý vấn đề của học sinh, việc sử
dụng đơn thuần một loại câu hỏi dạng nhiều lựa chọn trong quá trình kiểm
tra làm hạn chế khả năng diễn đạt, sắp xếp ý tưởng, tự lập luận hoặc khả
năng sáng tạo trong giải quyết câu hỏi;
+ Để có một câu hỏi hay đúng yêu cầu kỹ thuật, đòi hỏi việc soạn thảo
rất công phu, lại phải qua thử nghiệm nhiều lần để chuẩn định giá trị mới có
thể được đưa vào sử dụng. Mỗi đề kiểm tra thường gồm rất nhiều câu hỏi,
nên công sức trí tuệ đầu tư dùng vào việc xây dựng câu hỏi là rất lớn.
- Câu hỏi thường liên quan đến các kiến thức hơn là mục tiêu ở mức độ
cao hơn nên nhiều khi gán cho kiến thức một tầm mở rộng quá lớn
- Không thể dùng để kiểm tra kĩ năng thực hành của học sinh, nhất là
những bài lập trình đòi hỏi sử dụng máy tính trong môn Tin lớp 11;
- Có thể nảy sinh việc học sinh “đoán mò”.
2.3.6 Các loại câu hỏi khách quan
Trắc nghiệm khách quan có nhiều loại, mỗi loại có ưu, nhược điểm
riêng và được sử dụng thích hợp cho các mục đích và đối tượng khác nhau.
a. Loại câu hỏi nhiều lựa chọn:
Câu hỏi nhiều lựa chọn là dạng câu hỏi được sử dụng rộng rãi trong các
bài kiểm tra khách quan, câu hỏi nhiều lựa chọn gồm hai phần là phần câu
dẫn và phần lựa chọn, như chọn câu trả lời đúng trong số các phương án:
Ví dụ: Xâu ký tự “Bit” chuyển sang mã nhị phân tương ứng với đáp án
nào sau đây?
a) 01000011 01001001 01010100
b) 01000010 01001001 01010100
c) 01000010 01101001 01110100
d) 01000010 01101001 01110101
Câu hỏi nhiều lựa chọn được hiểu là loại câu hỏi kèm theo nhiều câu trả
lời cho sẵn. Câu trắc nghiệm khách quan thuộc loại này gồm 2 bộ phận:
phần câu dẫn và phần lựa chọn. Trong đó:
28
- Phần câu dẫn là một câu hỏi hay một số câu bỏ lửng (câu chưa hoàn
tất) tạo cơ sở cho sự lựa chọn.
- Phần lựa chọn gồm nhiều phương án trả lời (thường là 4 hoặc 5
phương án trả lời). Người trả lời sẽ chọn 1 phương án trả lời duy nhất hoặc
đúng nhất. Những phương án còn lại được gọi là phương án trả lời sai hay
phương án gây nhiễu.
* Ưu điểm: Giáo viên có thể dùng loại câu hỏi này để kiểm tra đánh giá
về những mục tiêu dạy học khác nhau, chẳng hạn như: xác định mối tương
quan nhân quả; nhận biết các điều sai lầm; ghép các kết quả hay điều quan
sát; định nghĩa các khái niệm; tìm nguyên nhân của một số sự kiện; nhận
biết điểm tương đồng hay khác biệt giữa hai hay nhiều sự vật; xét đoán vấn
đề đang được tranh luận dưới nhiều quan điểm. Mặt khác, loại câu hỏi này
có độ tin cậy cao hơn, khả năng may rủi khi số phương án lựa chọn tăng lên
và học sinh buộc phải xét đoán phân biệt kĩ trước khi trả lời.
* Nhược điểm: Loại câu này khó soạn, các câu nhiễu phải có vẻ hợp lý,
phải soạn câu hỏi sao cho đo được các mức trí tuệ, nâng cao hơn mức biết,
nhớ, hiểu; không thoả mãn với những học sinh có óc sáng tạo, tư duy tốt có
thể tìm ra nhiều câu trả lời hay hơn đáp án; tốn kém để in và mất nhiều thời
gian để học sinh đọc nội dung câu hỏi.
Loại câu hỏi này cần được xây dựng một cách thận trọng để tránh
những chỗ không rõ nghĩa, nhưng chúng có thể được dùng để kiểm tra
những trình độ cao hơn về nhận thức, có thể kiểm tra năng lực của học sinh
trong việc áp dụng học thuyết, định luật, dự đoán, đánh giá ngoại suy chuỗi
các diễn biến, xác định những sai lầm về mặt logic.
Khi ra câu hỏi lựa chọn giáo viên cần lưu ý:
+ Phải có yếu tố dẫn dắt ở phần gốc, đơn giản và có ý nghĩa. Phần lựa
chọn tiếp theo phải được rút ra một cách tự nhiên từ phần gốc. Phần gốc có
thể là một câu trần thuật, câu hỏi hay một vấn đề;
+ Bảo đảm phần gốc và phần lựa chọn phải chuẩn về mặt ngữ pháp.
Chúng phải cùng một thì (quá khứ, hiện tại, tương lai) và chủ ngữ phải phù
hợp với động từ (số ít hay số nhiều). Nếu không làm được như vậy, học sinh
sẽ có đầu mối hiển nhiên đoán biết câu trả lời đúng;
+ Tránh các từ phủ định như: không có, không, chúng có thể bỏ sót
hoặc làm học sinh lúng túng;
+ Phải làm cho các phương án lựa chọn được hợp lý, chúng có thể
tương đương về độ dài và mức độ khó. Một sự lựa chọn sai một cách hiển
29
nhiên là cái làm lộ bí mật, do đó làm giảm hiệu lực của bài kiểm tra. Chính
nó cũng tạo cho học sinh cơ may đoán được câu trả lời đúng, đặc biệt trong
câu hỏi có 3 hoặc 4 phương án lựa chọn;
+ Các phương án lựa chọn nên được xếp theo thứ tự có thể được. Ở đâu
có một sự tăng tiến hoặc một sự liên tục trong các phương án lựa chọn, giáo
viên có thể xếp theo thứ tự đó;
+ Chỉ sử dụng 4 hoặc 5 phương án lựa chọn. Đó là con số thích hợp và
đủ để giảm yếu tố “cơ may” đến mức thấp nhất trong trường hợp học sinh
đoán mò;
+ Tránh lạm dụng các phương án lựa chọn “tất cả các phương án trên”
hay “không có phương án nào trong số đã đưa ra”. Cả hai câu đều cho thấy
người ra đề thiếu phương tiện đánh đố hợp lý và như thế có thể khuyến
khích học sinh đoán mò. Tất cả các phương án trên sẽ là các yếu tố làm lộ
câu trả lời một khi các em nhận ra hơn một câu trả lời đúng;
+ Thông thường các câu hỏi loại này chỉ nên có một phương án trả lời
đúng, nếu không sẽ rất khó cho điểm;
b. Loại câu hỏi đúng-sai:
Trong loại câu hỏi này các thí sinh lựa chọn một trong hai khả năng đặt
ra. Đó có thể là những phát biểu, nhận định được đánh giá là đúng hay sai và
học sinh được hỏi cần xác định xem điều đó là đúng hay sai.
Loại câu hỏi này có 50% xác suất trả lời đúng nên chỉ thích hợp cho
việc kiểm tra những kiến thức, sự kiện, khái niệm, công thức. Chúng thường
đòi hỏi trí nhớ, ít kích thích suy nghĩ, khả năng phân loại học sinh rất thấp.
* Ưu điểm: là loại câu hỏi đơn giản dùng để trắc nghiệm kiến thức về
những sự kiện nên soạn loại này tương đối dễ dàng, ít phạm lỗi, mang tính
khách quan khi chấm.
* Nhược điểm: học sinh có thể đoán mò. Vì vậy, độ tin cậy thấp, dễ tạo
điều kiện cho học sinh đọc thuộc lòng hơn là hiểu, ít phù hợp với đối tượng
học sinh giỏi.
Khi soạn câu hỏi giáo viên cần chú ý:
+ Sử dụng ngôn ngữ đơn giản và rõ ràng, câu nhận định phải ngắn;
+ Câu trả lời phải là sự kiện chứ không phải là ý kiến. Nếu câu hỏi là
nguyên nhân và kết quả thì chỉ nên có một nguyên nhân là rõ ràng;
+ Câu kiểm tra chỉ có một hàm ý làm trọng tâm;
30
+ Tránh sử dụng những từ: không bao giờ, đôi khi, luôn luôn, có
thể,Bởi lẽ những từ này cung cấp cho học sinh đoán biết những câu hỏi
đúng hay sai;
+ Kết hợp câu trả lời đúng- sai theo một cơ sở tương đối cân bằng. Hơn
nữa, câu trả lời không nên đặt ở vị trí dễ nhận biết như (Đ.S. Đ.S). Làm
được việc này sẽ có tác dụng hạn chế đến mức tối thiểu việc đoán mò hay
nói cách khác nó làm giảm đi cơ may thành công nhờ việc đoán mò;
Ví dụ: : Trình tự của thuật toán tìm giá trị lớn nhất của một dãy số
nguyên như sau đúng hay sai?
Bước 1: Nhập N và dãy a1, ,an
Bước 2: Max a1, i 2
Bước 3:- Nếu ai > Max thì Max ai
- ii+1 rồi quay lại bước 2
Bước 4: Nếu i> N thì đưa ra giá trị Max rồi kết thúc
a) Đúng b) Sai
c. Loại câu hỏi ghép đôi:
Loại câu hỏi này thường bao gồm hai dãy thông tin gọi là các câu dẫn
và câu đáp. Hai dãy thông tin này có số câu có thể không bằng nhau, một
dãy danh mục gồm các tên hay thuật ngữ và một dãy là danh mục gồm các
định nghĩa, đặc điểm, Mỗi câu nhận định hay một từ ở dãy thứ nhất được
kết hợp với một câu hay một cụm từ đúng ở dãy thứ hai để trở thành một
nhận định đúng. Nhiệm vụ người làm bài là ghép chúng lại một cách thích
hợp.
* Ưu điểm: dễ viết dễ dùng, thích hợp cho học sinh cấp THCS và đặc
biệt hữu hiệu trong việc đánh giá khả năng nhận biết các mối quan hệ tương
quan.
* Nhược điểm: không thích hợp cho việc thẩm định như sắp đặt nội
dung kiến thức, để soạn cho độ mức trí nâng cao cần đòi hỏi nhiều công phu.
Mặt khác loại câu này tốn nhiều thời gian đọc nội dung mỗi cột trước khi
ghép đôi của học sinh.
Ví dụ: Hãy nối nội dung cột A với cột B sao cho phù hợp
A B
31
1) Format
2) Tools
3) Table
4) Window
5) Help
a) Chứa các lệnh trợ giúp công việc soạn thảo
b) Chứa các hướng dẫn trợ giúp
c) Chứa các lệnh định dạng như Font,
Paragraph,
d) Chứa các lệnh liên quan đến cửa số hiển thị
e) Chứa các lệnh làm việc với bảng
d. Loại câu hỏi điền khuyết
Đó là một nhận định được viết dưới hình thức một mệnh đề không đầy
đủ hay một câu hỏi. Học sinh phải trả lời bằng cụm từ hoặc một từ. Loại câu
hỏi này có ưu thế ở chỗ đòi hỏi học sinh tìm kiếm câu trả lời đúng hơn là
nhận ra câu trả lời đúng từ các thông tin đã cho.
* Ưu điểm: Học sinh không có cơ hội đoán mò mà phải nhớ ra, nghĩ ra
tự tìm câu trả lời, dễ soạn hơn câu hỏi nhiều lựa chọn.
* Nhược điểm: Khi soạn loại này thường dễ mắc sai lầm là người soạn
thường dịch nguyên văn các câu từ SGK. Ngoài ra loại câu hỏi này thường
chỉ giới hạn vài chi tiết vụn vặt, chấm bài mất nhiều thời gian và thiếu khách
quan hơn những dạng câu hỏi khác.
Ví dụ: Điền từ thích hợp vào chỗ trống (máy hơi nước, máy tính điện
tử, máy điện thoại, khoa học, công nghiệp, công nghệ thông tin, thông tin,
dữ liệu).
“Tin học là một ngành(1)có mục tiêu là phát triển và sử dụng(2)để
nghiên cứu cấu trúc, tính chất của thông tin, phương pháp thu thập, lưu trữ,
tìm kiếm biến đổi, truyền(3)và ứng dụng vào các lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội”.
e. Câu trả lời ngắn:
Là câu trắc nghiệm đòi hỏi chỉ trả lời bằng câu rất ngắn.
Lấy thí dụ về câu trắc nghiệm Sinh học:
Nguyên nhân hình thành các đặc điểm thích nghi của sinh vật là gì?
Trả lời: Chọn lọc tự nhiên
32
1.3.2.4. Yêu cầu đối với việc xây dựng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
a. Yêu cầu đối với một bài trắc nghiệm khách quan là:
- Bài trắc nghiệm cần phải khách quan, toàn diện, hệ thống, công khai
và hiệu quả. Phải đo được cái cần đo, có độ giá trị và độ tin cậy cao.
- Mỗi câu trắc nghiệm phải đánh giá được nhận thức của học sinh một
cách toàn diện: nhận biết, hiểu, vận dụng, phân tích, tổng hợp. Có độ khó và
độ phân biệt tốt.
b. Để viết tốt câu hỏi trắc nghiệm cần:
- Phải xác định được những mục tiêu mà mình muốn trắc nghiệm.
Người viết phải hiểu rất sâu sắc về nội dung, chương trình của môn học,
đồng thời cũng phải hiểu về cách học và cách dạy môn học đó.
- Phải nắm vững các khái niệm về Tin học, các phần mềm soạn thảo,
tính toán, lập trình và sử dụng thành thạo máy vi tính.
- Xác lập được mức độ phức tạp đối với các thí sinh và thời gian cần
thiết để làm bài trắc nghiệm khách quan.
- Câu hỏi trắc nghiệm phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác.
- Các câu hỏi lựa chọn phải đồng nhất, song song và được sắp xếp một
cách logic hoặc được đánh số thứ tự.
- Tránh sử dụng các kiến thức quá xa lạ đối với câu trả lời.
- Phân bố ngẫu nhiên vị trí câu trả lời đúng.
- Các câu hỏi trắc nghiệm cần được phân bố sao cho có thể đo lường
được năng lực nhận thức ở các thứ bậc khác nhau như:
+ Bậc 1: Nhớ - Nhắc lại khái niệm, trình tự, thao tác.
+ Bậc 2: Hiểu – Truyền đạt, làm sáng tỏ.
+ Bậc 3: Áp dụng vào vấn đề mới.
c. Các bƣớc xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan:
- Bước 1: Xác định mục tiêu cần đánh giá:
Xác định rõ ràng mục đích kiểm tra là tìm hiểu xem học sinh đã thực
hiện có hiệu quả các mục tiêu học tập đã đề ra như thế nào, hay là để so
sánh, phân loại học sinh hay để thu thập ý kiến phản hồi từ học sinh về chất
lượng giảng dạyTừ mục tiêu cụ thể của bài kiểm tra cho phép xác định đối
tượng đánh giá và nội dung kiến thức xây dựng câu hỏi để đánh giá.
33
Xác định đúng đắn các mục tiêu làm cơ sở cho việc xây dựng câu hỏi
trắc nghiệm. Xác định được các mục tiêu về lĩnh hội tri thức lý luận và mục
tiêu vận dụng tri thức lý luận vào giải quyết các bài tập trong thực tế. Trong
đó mức độ lĩnh hội tri thức lý luận mới chỉ đề cập đến 3 mức độ: Nhớ, hiểu
và vận dụng.
Xác định mục tiêu dựa vào mục đích môn học, nội dung chương trình
môn học. Chỉ khi nào mục tiêu kiểm tra được xác định rõ ràng, việc phác
họa kế hoạch xây dựng bài kiểm tra mới có thể tiến hành được. Mặt khác,
căn cứ vào mục đích, yêu cầu của bài kiểm tra ta mới có thể xác định được
thang độ của các chỉ tiêu cần đạt để đưa vào sử dụng.
- Bước 2: Xác định kế hoạch cho nội dung cần trắc nghiệm:
Căn cứ vào mục tiêu của việc kiểm tra và nội dung chương trình bảng
kế hoạch cho nội dung của các câu hỏi sẽ được xác định. Việc lập kế hoạch
giúp cho việc xác định chính xác số câu hỏi trong từng mục tiêu và nội dung
học tập.
Mục đích của việc xây dựng kế hoạch cho nội dung cần trắc nghiệm là
nhằm đạt được mức độ giá trị cao nhất về mặt nội dung, tức là phải đo được
đúng cái cần đo. Hệ thống các câu hỏi trắc nghiệm phải là một mẫu tiêu biểu
cho những điều đã giảng dạy, phải chứa đựng các mục tiêu học tập và các
yêu cầu mà học sinh phải giải quyết và liên quan tới những chủ đề đã trình
bày ở phần bài giảng. Số lượng câu hỏi phải xứng với thời lượng phân bố
cho từng nội dung. Mặt khác, các câu hỏi cần đo được đúng mức độ mà nó
định đo. Các mức độ này cần có độ phân định rõ ràng và phân bố cụ thể, hợp
lý ở những nội dung kiến thức nhất định. Sự chuẩn bị chu đáo như vậy sẽ
tránh được việc xây dựng ra các câu hỏi có nội dung nhiệm vụ đơn giản, chỉ
đo được những mức độ nhận thức thấp như: ghi nhớ, tái hiện. Bởi vì những
câu hỏi như vậy thường dễ xây dựng và không có độ phân biệt cao.
- Bước 3: Soạn thảo các câu hỏi trắc nghiệm khách quan:
Khi tiến hành viết các câu hỏi trắc nghiệm cần dựa vào nội dung kiến
thức của môn học, trình độ nhận thức của học sinh và tuân thủ nguyên tắc
viết câu hỏi trắc nghiệm khi viết câu hỏi trắc nghiệm khách quan cần chú ý
một số vấn đề sau:
- Lựa chọn các khái niệm quan trọng mà với học sinh cần nhớ, hiểu.
- Thiết kế câu hỏi trắc nghiệm xoay quanh một vấn đề trọng tâm, trình
bày rõ ràng trong câu câu dẫn. Toàn bộ các lựa chọn có quan hệ với câu dẫn
được xây dựng theo cùng một phương thức.
34
Khi soạn thảo xong, cần có sự rà soát lại nhiều lần, nhằm tránh những
sơ suất do chủ quan, với những câu hỏi có sự vướng mắc về nội dung kiến
thức cần có sự trao đổi với các nhà chuyên môn.
Bước 4: Thực nghiệm kiểm định các câu hỏi:
3.Phần mềm tạo đề trắc nghiệm Emptest :
EmpTest là phần mềm được thiết kế nhằm tự động hóa các vấn đề liên quan
đến việc tổ chức và thực hiện thi trắc nghiệm. Phần mềm được cài đặt thành
6 đơn thể chương trình với các chức năng riêng. Các đơn thể này có thể hoạt
động phối hợp với nhau để đáp ứng mọi yêu cầu đặt ra đối với hệ thống thi
trắc nghiệm:
Editor : Giúp giáo viên sọan thảo câu hỏi trắc nghiệm và lưu vào cơ
sở dữ liệu. Đồng thời tạo ra các đề thi để thi trực tiếp trên máy kể cả mạng
máy tính cục bộ, kết xuất đề thi ra dạng HTML để dùng cho Internet hoặc
in đề thi ra giấy (kèm answers key). Điều này cho phép giáo viên làm đề thi
thực hiện buổi thi của mình trên máy đơn, máy mạng, hoặc thi trên giấy đều
được. Khả năng xáo trộn câu hỏi và thứ tự đáp án: a,b,c,d... rất tốt. Nội dung
câu hỏi trắc nghiệm cho phép chèn vào hình ảnh, âm thanh, phim, mục tự
luận; tiện dụng cho mọi lĩnh vực: tóan, ngọai ngữ, tin học,...
Test : Cho phép thí sinh làm bài thi trên máy, kể cả máy nối mạng cục
bộ.
Server : Chương trình thay thế giám thị làm chức phân phát đề và điều
hành các chương trình test cho việc thực hiện thi trắc nghiệm trên mạng cục
bộ. Server hỗ trợ các chức năng theo dõi thí sinh và điều khiển buổi thi rất
chặt chẽ.
Scanner : Chương trình xử lý thẻ từ hoặc thẻ mã vạch của thí sinh,
phối hợp với Server trong việc làm thủ tục cho thí sinh vào phòng thi qua
máy đọc thẻ. Thông tin quét tự động sẽ giúp hệ thống không yêu cầu thí sinh
nhập thông tin của mình khi bắt đầu làm bài.
Statistic : Chương trình thực hiện bảng thống kê về tình hình sử dụng
các câu hỏi trong kho đề thi và kết quả làm bài của thí sinh. Các mục thông
tin kết xuất tùy thuộc vào người sử dụng. Các báo cáo kết xuất này là cơ sở
cho các nghiên cứu dựa trên mô hình thống kê, Máy học, DataMining cho
các vấn đề về thi trắc nghiệm.
MarkScanner : Chương trình chấm điểm bảng trả lời trên giấy
(answersheet) của thí sinh thông qua máy quét scanner. Chương trình này
35
chỉ cần dùng máy scanner thông thường (giá vào khoảng $32 nếu cho cá
nhân; tốc độ 3 bài/phút/sheet140 câu, hoặc $480 cho một phòng, ban;
tốc độ 12 bài/phút/sheet140 câu), và loại giấy A4 thường dùng trong văn
phòng. Chương trình có khả năng khử nhiểu - lọc bỏ vết bẩn, chỉnh nghiêng
và chấm điểm một cách thông minh. Kết quả xử lý được cập nhật vào cơ sở
dữ liệu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ung_dung_cntt_trong_nha_truong_pho_thong_kiem_tra_danh_gia_va_phuong_phap_trac_nghiem_khach.pdf