MỞ ĐẦU
Trước bậc thềm của thế kỷ XXI, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đang từng bước tạo những dấu ấn cho một thời kỳ phát triển đầy năng động. Đặc biệt hơn, Đảng và Nhà nước ta đã và đang chủ trương phát triển đất nước, tạo một bước nhảy lớn để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Để làm được điều đó, chúng ta phải không ngừng phấn đấu trong mọi khía cạnh xã hội nhất mà biểu hiện rõ nhất là tốc độ phát triển kinh tế. Tuy vậy, những năm 2008 -2009 là giai đoạn mà toàn thế giới đang phải đối mặt với những thách thức của cuộc khủng hoàng tài chính – kinh tế toàn cầu diễn ra ngoài mong đợi. Bắt nguồn từ Mỹ, cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới với quy mô và mức độ nghiêm trọng. Theo đó, Việt Nam cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng của cuộc đại khủng hoảng này. Khó khăn chồng chất khó khăn, con đường tiến tới mục tiêu của chúng ta đến năm 2020 lại càng trở lên gồ ghề hơn bao giờ hết. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo, thận trọng trong từng bước đi, các nhà quản lý kinh tế cần đưa ra được các giải pháp hữu hiệu cho những vấn đề còn tồn tại nhằm “một bước đi đôi”, đưa nền đất nước chúng ta đạt được mục tiêu đã định.
Trong thời gian thực tập và nghiên cứu tại Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, em nhận thấy hoạt động phát triển các KCN – KCX hiện nay có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm: KCN – KCX đã và đang là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong bức tranh chung của toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh sự đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng, quá trình thành lập và hoạt động của các KCN đã bộc lộ không ít những bất cập, hạn chế cần khắc phục. Từ nhận thức này, trong khi hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp tại Vụ, em đã lựa chọn cho mình đề tài nghiên cứu: “Đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Thực trạng và giải pháp” những mong nâng cao được sự hiểu biết về thực trạng phát triển các KCN – KCX cả nước nói chung và vùng KTTĐBB nói riêng. Đồng thời từ đó từng bước đề ra các giải pháp nhằm xử lý các vấn đề còn tồn tại nhằm tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ các KCN – KCX cả nước nói chung và vùng KTTĐBB nói riêng trong tương lai.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế do thiếu thông tin và kinh nghiệm thực tiễn có hạn. Bởi vậy, rất mong thầy Nguyễn Hồng Minh chỉ bảo, góp ý để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn!
Em cũng xin chân thành cảm ơn quá trình hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy Nguyễn Hồng Minh, sự nhiệt tình và thiện chí giúp đỡ từ các cô chú, anh chị tại Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp em hoàn thành chuyên đề này!
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT 1
DANH MỤC CÁC BẢNG 2
DANH MỤC CÁC BIỂU 2
CHƯƠNG 1 : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN 5
CÁCKCN-KCX TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ. 5
1.1. Những nét khái quát về Khu công nghiệp, Khu chế xuất. 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm KCN - KCX. 5
1.1.1.1. Khái niệm. 5
1.1.1.2. Đặc điểm. 6
1.1.2. Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất. 8
1.1.2.1. Đóng góp lớn vào thành tựu phát triển chung của kinh tế cả nước, thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 8
1.1.2.2. Phát triển KCN, KCX cũng là hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng. 10
1.1.2.3. KCN, KCX góp phần trong việc nâng cao trình độ công nghệ, hiện đại hóa cách thức quản lý sản xuất. 11
1.1.2.4. KCN, KCX đã góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. 13
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư phát triển các KCN – KCX. 13
1.1.3.1. Các nhân tố vĩ mô:. 13
1.1.3.2. Các nhân tố vi mô:. 15
1.2. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển các KCN, KCX Việt Nam. 16
1.3. Thực trạng đầu tư phát triển các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. 20
1.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. 20
1.3.2. Nhu cầu phát triển các KCN vùng KTTĐ Bắc Bộ. 22
1.3.3. Thực trạng đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng KTTĐ Bắc Bộ. 24
1.3.3.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các KCN. 24
a) Sự phù hợp về quy hoạch KCN:. 24
b) Tình hình thu hút đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng KCN:. 30
1.3.3.2. Đầu tư phát triển sản xuất trong các KCN. 37
a) Về thu hút đầu tư trong KCN:. 37
b) Tình hình sản xuất và hiệu quả hoạt động:. 39
c) Tình hình đền bù, giải phóng mặt bằng. 41
d) Tình hình sử dụng đất. 43
e) Tình hình bảo vệ môi trường trong KCN. 47
f) Tình hình thu hút lao động trong KCN. 49
1.3.4. Nhận xét, đánh giá quá trình phát triển các KCN. 51
1.3.4.1. Những thành quả đạt được. 51
1.3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân. 54
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 61
HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC KCN VÙNG KTTĐ BẮC BỘ 61
2.1. Định hướng phát triển các KCN của Đảng và Nhà nước ta thời gian tới. 61
2.1.1. Việt Nam với chiến lược phát triển các KCN. 61
2.1.2. Đối với các KCN vùng KTTĐBB: 64
2.2. Đề xuất các giải pháp: 68
2.2.1. Các giải pháp vĩ mô. 68
2.2.2. Các giải pháp vi mô. 71
KẾT LUẬN
60 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2741 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư phát triển các khu công nghiệp – Khu chế xuất vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những chính sách đơn giản hóa, giảm thiểu các thủ tục hành chính, giảm thời gian cấp phép đầu tư, chế độ công khai thủ tục, để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh đang “tiên phong” trong việc giảm thiểu thủ tục hành chính, thời gian cấp phép đầu tư và giảm thiểu những “nhũng nhiễu” hành chính thôngqua chính sách “đăng ký đầu tư kinh doanh qua mạng”. Như vậy, việc phân phối quản lý nhà nước bước đầu đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ cơ chế “bộ máy cai trị” sang cơ chế “bộ máy phục vụ”.
Theo đó, các BQLKCN đã góp phần quan trọng trong việc tăng thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói chung, việc triển khai thực hiện các dự án trong khu công nghiệp diễn ra nhanh và thuận lợi, xu hướng mở rộng sản xuất và tăng vốn của các doanh nghiệp trong KCN, KCX đang diễn ra sôi động. Nhiều địa phương triển khai thu hút đầu tư rất nhanh chóng, không chỉ lấp đầy nhanh diện tích đất công nghiệp của các KCN mà còn thu hút được những dự án có quy mô lớn, có hàm lượng công nghệ cao vào KCN. Nổi bật nhất trong thu hút đầu tư trong thời gian qua là tỉnh Hải Dương: với 4 KCN được thành lập trong 3 năm trở lại đây, đến nay KCN Đại An giai đoạn I và KCN Nam Sách về cơ bản đã lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Các KCN đã quan tâm nhiều hơn đến cơ cấu đầu tư vào KCN, có sự lựa chọn nhà đầu tư theo hướng ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao; thu hút một số nhà đầu tư có uy tín vào KCN như: Brother Industries, Sumidenso…; Việc huy động và sử dụng vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng KCN, đặc biệt là nguồn vốn khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội và Bắc Ninh là khá hiệu quả. Đây là các chủ đầu tư có kinh nghiệm trong xây dựng hạ tầng KCN, đã sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ nhiều nguồn (vay, tiền thuê đất, vốn tự có…) kết hợp với sự hỗ trợ về đền bù, giải phóng mặt bằng của chính quyền địa phương trong quá trình xây dựng KCN.
Thứ tư, việc đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN đã có những tiến triển tích cực. Một số KCN trước đây triển khai chậm nay đang khẩn trương triển khai công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và thu hút đầu tư gồm: KCN Nam Thăng Long, Đồ Sơn và Phúc Khánh.. Thời gian gần đây, tốc độ triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN vùng KTTĐBB được cải thiện đáng kể.. Phần lớn các địa phương đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đền bù giải phóng mặt bằng trong phát triển KCN nên đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban quản lý KCN với các sở, ban, ngành của tỉnh; triển khai nhiều phương án đền bù vừa kiên quyết vừa đảm bảo công bằng và hài hoà về mặt lợi ích, do đó đã hoàn thành công tác đền bù trong thời gian tương đối nhanh (Hải Dương). Một số địa phương đã lựa chọn được chủ đầu tư có tiềm lực về tài chính và kinh nghiệm trong xây dựng kết cấu hạ tầng, do đó đạt hiệu quả cao trong triển khai xây dựng hạ tầng KCN như ở Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh.
Thứ năm, các địa phương đã bước đầu chú ý tới việc đảm bảo các khía cạnh xã hội và môi trường trong phát triển KCN. Hầu hết các địa phương đều có sự gắn kết giữa quy hoạch KCN và quy hoạch đô thị, khi xây dựng KCN các địa phương đều có lập quy hoạch xây dựng khu đô thị, khu tái định cư cho người lao động trong KCN và người dân có đất bị thu hồi trong KCN.. Ngoài việc thực hiện các chính sách đền bù đối với các hộ mất đất theo quy định, các địa phương đã có nhiều biện pháp hỗ trợ người dân bị thu hồi đất trong ổn định cuộc sống như: cấp đất dịch vụ, hỗ trợ đạo tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người lao động, hỗ trợ xây dựng hạ tầng cho địa phương mất đất, ưu tiên giải quyết lao động cho các hộ có đất bị thu hồi vào làm việc trong các doanh nghiệp KCN.
Thứ sáu, các địa phương đã dần chuyển đổi nhận thức trong quá trình xây dựng và phát triển KCN theo hướng đảm bảo phát triển bền vững. Nhiều địa phương rất kiên quyết trong việc bảo đảm vấn đề môi trường khi tiếp nhận dự án đầu tư, các dự án đầu tư trong những lĩnh vực có nguy cơ ô nhiễm cao như dệt, nhuộm, hoá chất được hạn chế. Nhiều chủ đầu tư có ý thức cao trong việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải và bảo vệ môi trường như tại KCN Cái Lân, Nomura, Nam Sách, Phúc Khánh, Thăng Long, Đài Tư và Phố Nối B, số KCN đã lập dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải hoặc bắt đầu triển khai xây dựng tăng kể từ khi Quyết định 1107/QĐ-TTg được ban hành.
Tóm lại, quá trình phát triển các KCN thời gian qua đã và
1.3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
a) Hạn chế:
Song song với những thành quả đạt được, trong quá trình triển khai các KCN ở các địa phương còn bộc lộ một số vấn đề còn tồn tại. Đó là:
Thứ nhất, về vấn đề quy hoạch: Sự phát triển ồ ạt các KCN trong thời gian qua thể hiện sự thiếu hệ thống, làm cho việc phát triển hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào KCN không theo kịp. Việc quy hoạch cũng còn chậm hơn so với sự hình thành và phát triển của các khu dân cư và hạ tầng xã hội, đã làm một số KCN hoạt động lúng túng và phát triển trong cảnh chắp vá. Trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có một phần do đặc điểm của đầu tư cơ sở hạ tầng là có chu kỳ đầu tư dài, cường độ đầu tư cao, nếu đầu tư một lần phải đòi hỏi vốn lớn trong khi thời gian thu hồi chậm. Chất lượng quy hoạch còn thấp, việc hình thành, phân bố các KCN còn dàn trải, xác định quỹ đất cần dùng thiếu căn cứ khoa học. Nhiều dự án KCN đã được quy hoạch, phê duyệt nhưng tiến độ triển khai xây dựng chậm, làm nản lòng các doanh nghiệp có ý định đầu tư. Để đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng các KCN, nhất thiết phải có đơn vị chuyên đầu tư, xây dựng kinh doanh cơ sở hạ tầng trong KCN, tuy nhiên có một số doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, năng lực yếu.
Một số địa phương vẫn coi KCN đơn thuần là nơi tập hợp các doanh nghiệp công nghiệp tách rời, riêng lẻ nên chưa thực sự coi trong công tác quy hoạch, thu hút đầu tư và phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật để mang tính liên kết ngành nghề và nâng cao hiệu quả khai thác, tạo sức lan tỏa trong cả vùng, làm giảm sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước.
Thứ hai, công tác đền bù giải phóng mặt bằng để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN vẫn đang là vấn đề nổi cộm hiện nay. Điều đó đã gây khó khăn không nhỏ cho các nhà đầu tư trong việc xây dựng và phát triển hạ tầng kỹ thuật. Trong khi đó, các thủ tục hành chính còn nhiều phức tạp, nặng nề, qua nhiều khâu, chưa được tập trung giải quyết dứt điểm. Một số KCN như: Hải Yên, Ninh Phúc, Bắc Phú Cát, Đình Vũ, Kim Hoa và Phố Nối B giai đoạn II triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng còn chậm và thiếu đồng bộ chủ yếu là do việc triển khai đền bù, giải phóng mặt bằng không đồng loạt hoặc còn gặp nhiều khó khăn hoặc do năng lực tài chính của chủ đầu tư thấp, không huy động được các nguồn vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng.
Thứ ba, cơ cấu đầu tư vào các KCN còn nhiều bất cập. Hầu hết các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, KCX đều là các dự án thuộc ngành lắp ráp máy móc hoặc công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tiêu dùng như dệt, sợi, may mặc, da dày…Còn các dự án đầu tư vào những ngành đòi hỏi công nghệ tiên tiến hiện đại như điện, điện tử, vật liệu mới…còn quá ít. Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn thì mặt bằng công nghệ trong vùng nói riêng và nước ta nói chung sẽ khó có điều kiện đuổi theo các quốc gia khác. Bên cạnh đó, việc ưu tiên thu hút đầu tư để phát triển các KCN đã tạo nên sự mất cân đối nhất định trong việc tạo điều kiện phát triển đồng bộ giữa 3 khu vực kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Một số diện tích đất có lợi thế cho nông nghiệp, dịch vụ đã phải chuyển sang sử dụng làm mặt bằng sản xuất công nghiệp trong khi có thể sử dụng diện tích đất ở vị trí khác hợp lý hơn cho mục đích công nghiệp.
Thứ tư, sự phát triển nhanh các KCN trong thời gian qua tuy đã giải quyết được việc làm cho một lực lượng lao động lớn ở vùng nhưng cũng đang nẩy sinh vấn đề về xã hội như: kết cấu hạ tầng xã hội chưa đáp ứng kịp thời, tình hình an ninh và trật tự xã hội…, đặc biệt là vấn đề xây dựng nhà cho người lao động. Mặc dù đa số các KCN đã có quy hoạch khu đô thị hoặc khu nhà ở phục vụ cho người lao động làm việc tại KCN nhưng hiện nay việc xây dựng nhà ở cho các KCN trong vùng đều mới đang trong quá trình đang triển khai dự án hoặc mới quy hoạch quỹ đất xây dựng. Thậm chí đã có một số dự án khu đô thị được triển khai xây dựng song lại không phù hợp với đối tượng người lao động hoặc người dân bị thu hồi đất trong KCN. Nguyên nhân chính là do chưa có vốn và chưa có cơ chế, chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư để kêu gọi các nhà đầu tư thực hiện dự án xây dựng nhà ở cho công nhân làm việc tại các KCN hoặc có nhà nhưng giá cho thuê hoặc giá bán quá cao và không phù hợp với thu nhập của người lao động trong KCN.
Thứ năm, có sự chồng chéo trong việc quản lý nguồn vốn nhà nước đã đầu tư và nguồn vốn đầu tư kinh doanh của công ty hạ tầng, tiêu biểu như một số KCN tại Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng. Điều đó đã gây nhiều khó khăn trong việc thu phí sử dụng hạ tầng của các doanh nghiệp đã đầu tư vào cụm công nghiệp trước khi thành lập KCN hay trong việc điều chỉnh quy hoạch chi tiết.
Thứ sáu, tỷ lệ số dự án chưa triển khai và không có khả năng ở các KCN trong vùng còn lớn (khoảng 16%), tỷ lệ vốn giải ngân vốn còn chậm và tỷ lệ vốn thực hiện chưa được cao. Thực tế này cho thấy các KCN-KCX trong vùng còn nhiều bất cập trong quy trình thực hiện các thủ tục khiến các KCN-KCX chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Thứ bảy, hầu hết lực lượng lao động ở các địa phương chưa đáp ứng được về trình độ chuyên môn, chưa quen với môi trường lao động công nghiệp, chưa đáp ứng được những yêu cầu của công nghệ quản lý, sản xuất hiện đại. Trình độ đại học và trên đại học trong các KCN, KCX chỉ chiếm khoảng 4,5% tổng lao động, trong khi đó lao động giản đơn chiếm khoảng 60%. Vì vậy mà tỷ lệ thất nghiệp của các địa phương vẫn ở mức cao trong khi các doanh nghiệp vẫn thiếu lao động.
Thứ tám, về vấn đề môi trường trong các KCN: nhiều KCN đã lấp đầy diện tích đất công nghiệp nhưng còn chưa xây dựng công trình xử lý nước thải công nghiệp tập trung như: KCN Tiên Sơn, Sài Đồng B, Nội Bài, Đình Vũ, Hoà Xá, Nguyễn Đức Cảnh, Đồng Văn I, Quang Minh. Một số KCN đã có dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung nhưng triển khai còn chậm như: KCN Quế Võ, Khai Quang. Tỷ lệ đất đã trồng cây xanh ở đa số các KCN đã đi vào hoạt động của các nhà đầu tư trong nước đạt được còn rất thấp. Nói chung các KCN chưa có phương án giải quyết vấn đề môi trường ngay từ khi quy hoạch xây dựng. Trên thực tế có nhiều nơi có biểu hiện vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các hành vi vi phạm tại các KCN chủ yếu là vi phạm tiêu chuẩn môi trường khi tiến hành hoạt động sản xuất, vi phạm các cam kết thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động của các KCN. KCN đã là nguyên nhân gây ô nhiễm như khu dân cư tại Hưng Yên, Hải Dương. Hầu hết các loại nước thải đều được đưa thẳng ra môi trường và hậu quả là nước thải tại cống xả chung của nhiều KCN hiện nay bị ô nhiễm nặng, vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép.
b) Nguyên nhân:
Những tồn tại nêu trên trong quá trình phát triển các KCN Vùng KTTĐBB có nhiều nguyên nhân. Dưới đây là các nguyên nhân được nhìn nhận từ cả hai góc độ khách quan và chủ quan để thấy rõ hơn những tồn tại này:
Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư vào các KCN nói riêng còn đang trong giai đoạn hoàn thiện, nên còn những kẽ hở trong quá trình áp dụng, làm giảm lòng tin ở một số nhà đầu tư nên lượng vốn đầu tư có phần giảm sút so với tiềm năng.
Thứ hai, CSHT của toàn vùng nói chung còn yếu. Một hình ảnh được được lấy làm minh hoạ về sự yếu kém của cơ sở hạ tầng khu vực là: Thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế - văn hoá - chính trị của cả nước có sáu trục giao thông xuyên tâm thì không có trục nào là đường cao tốc, các của ngõ ra vào thành phố liên tục bị ùn tắc. Nếu xét trên bình diện chung thì cả Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cũng chưa có 1 km đường cao tốc nào. Hệ thống cảng biển phục vụ xuất nhập khẩu còn nhiều hạn chế. Cảng Hải Phòng mỗi năm bốc xếp 14 triệu tấn hàng hoá, đã đạt đến ngưỡng. Trong tương lai khi nhu cầu tăng lên hàng chục, hàng trăm triệu tấn mỗi năm thì hệ thống cảng hiện nay sẽ trở nên quá tải.
Nhìn chung, hầu hết các tỉnh khác chủ yếu mới đi lên từ nông nghiệp nên hệ thống CSHT cho phát triển công nghiệp đang từng bước hoàn thiện, gây hạn chế cho quá trình hình thành, hoạt động và phát triển các KCN.
Thứ ba, các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất như nguyên liệu, lao động (nhất là lao động trình độ cao), công nghệ sản xuất… còn thiếu thốn và ở trình độ thấp. Điều đó cũng được đề cập đến nhiều hiện nay và có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các KCN.
Thứ tư, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế chung năm 2008-2009 khiến cho tốc độ phát triển của các KCN có phần chững lại và còn có thể còn kéo dài sau một khoảng thời gian nhất định.
Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, sự thiếu kinh nghiệm trong quy hoạch các KCN dẫn đến khi các KCN được triển khai thì có hiện tượng quy hoạch chưa phù hợp với thực tế. Những phát sinh đó đòi hỏi được xử lý và có thể gây ra những tổn thất, mất cân đối trong phát triển giữa các vùng.
Thứ hai, các chính sách thu hút, xúc tiến đầu tư trong những năm gần đây tuy đã được triển khai nhưng vẫn còn nhiều điểm yếu. Giống như một hình thức marketing, đây là một yếu tố hết sức cần thiết trong phát triển ngày nay. Các KCN cả nước nói chung và vùng KTTĐBB nói riêng cần có một kế hoạch cụ thể trong việc quảng bá những tiềm năng của mình đến các nhà đầu tư trong và ngoài nước như các chương trình như hội thảo, thăm quan nghiên cứu, mời chào các nhà đầu tư mới đến thăm quan, tìm hiểu địa phương mình…Trên thực tế những hoạt động này chưa được triển khai đồng bộ, dứt điểm nên kết quả mang lại chưa cao.
Thứ ba, một số Ban Quản lý KCN ở địa phương còn hạn chế về tính năng động trong việc quản lý, chỉ đạo đối với các KCN trên địa bàn; chưa có ý thức cao và sự phân công, phối hợp giữa bộ phận môi trường trong Ban quản lý KCN với Sở Tài nguyên và Môi trường địa phương còn chưa chặt chẽ.
Tóm lại, sự phát triển của các KCN vùng KTTĐBB đã và đang tạo ra những đóng góp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế chung của cả Vùng nói riêng và cả nước nói chung. Tuy vậy cùng với đó cũng nảy sinh không ít các vấn đề còn tồn tại đòi hỏi cần có các biện pháp xử lý kịp thời nhằm tránh các hậu quả hiện tại và lâu dài. Trong chương tiếp theo sẽ đề cập đến các giải pháp cho những vấn đề này.
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC KCN VÙNG KTTĐ BẮC BỘ
2.1. Định hướng phát triển các KCN của Đảng và Nhà nước ta thời gian tới.
2.1.1. Việt Nam với chiến lược phát triển các KCN.
Thực hiện đường lối đổi mới được khởi xướng từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định :” Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Theo đó, việc hình thành và phát triển các KCN để tổ chức lại nền sản xuất, đời sống xã hội trên phạm vi cả nước phù hợp với quá trình này là một biện pháp để thực hiện chủ trương nêu trên, đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH.
Quá trình phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam trong những năm qua đã thể hiện sự đúng đắn trong đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Các KCN, KCX đã có những đóng góp không nhỏ trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao trình độ và hiện đại hóa công nghệ, tăng cường khả năng tổ chức quản lý sản xuất và quản lý nhà nước, từ đó làm giảm chi phí sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập. Các KCN, KCX cũng thể hiện vai trò không thể thiếu trong việc xây dựng và hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, KCX nhằm thích ứng với nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại, nó cũng đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước những mục tiêu khắc phục các yếu kém, hạn chế, nâng cao hơn nữa hiệu quả và vai trò của KCN, KCX trong các giai đoạn tới, góp phần tích cực hơn nữa vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Hiện nay, với vai trò quan trọng của các KCN – KCX trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm cũng như mục tiêu chung cho phát triển các KCN–KCX cả nước. Theo đó, mục tiêu và yêu cầu đặt ra là phát triển bền vững KCN ở Việt Nam. Nội dung này được xem xét trên 2 góc độ:
Thứ nhất, duy trì tính chất bền vững và hiệu quả trong hoạt động của bản thân KCN. Bảo đảm các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của KCN; nâng cao khả năng cạnh tranh của các KCN Việt Nam, bảo đảm chất lượng môi trường trong nội bộ KCN.
Thứ hai, tác động lan toả tích cực của KCN đến hoạt động kinh tế, xã hội và môi trường của địa phương, khu vực có KCN. Điều này được thể hiện trên các mặt: tạo sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hướng về xuất khẩu; tác động tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội cho khu vực có KCN; tác động tích cực và giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề xã hội, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho dân cư, giảm thiểu tác động tiêu cực của ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển KCN.
Theo đó, mục tiêu phát triển các KCN cả nước thời gian tới cần đạt được những điểm sau:
- Phát triển các KCN đảm bảo hình thành hệ thống các KCN nòng cốt có vai trò dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia. Hình thành hệ thống các KCN vừa và nhỏ tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn, làm thay đổi bộ mặt kinh tế-xã hội nông thôn. Thúc đẩy phát triển các KCN trên các vùng, tránh quá tập trung tạo ra sự chênh lệch lớn về phát triển, thông qua tác động của chính sách và hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng.
- Phát triển các KCN hiện có theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động theo hướng lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển các ngành công nghệ cao như thông tin, cơ điện tử, công nghệ sinh học. Chuyển mạnh từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu trong nước sẵn có và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị gia tăng và tạo khả năng cạnh tranh.
- Chấm dứt việc phát triển các KCN xen lẫn khu dân cư, thực hiện di chuyển các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra ngoài đô thị, hướng các nhà đầu tư vào KCN, trừ những dự án đòi hỏi nguồn nguyên liệu và diện tích lớn, các dự án đầu tư chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp quy hoạch.
- Phát triển KCN, KCX đi đôi với việc bảo vệ môi trường trong và ngoài KCN, KCX; chăm lo điều kiện làm việc, đời sống và nhà ở cho người lao động; giám sát chặt chẽ việc thi hành pháp luật về lao động trong các doanh nghiệp KCN, KCX.
- Giai đoạn đến 2015: Tiếp tục đầu tư đồng bộ, thành lập mới một cách có chọn lọc khoảng 23.000 – 26.000 ha đất KCN; phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy của các KCN, KCX bình quân trên toàn quốc khoảng trên 60%; Tiếp tục đổi mới thể chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN, KCX phấn đấu thu hút thêm khoảng 6.500 – 6.800 dự án (bao gồm cả dự án trong nước và đầu tư nước ngoài) đăng ký đầu tư và triển khai thực hiện sản xuất kinh doanh trong các KCN, KCX với tổng lượng vốn đầu tư khoảng 36-39 tỷ USD (vốn đăng ký), trong đó vốn đầu tư thực hiện đạt khoảng 50%.
- Giai đoạn tiếp theo đến 2020: Quản lý tốt và có quy hoạch sử dụng hợp lý dự trữ diện tích đất KCN; Hoàn thiện về cơ bản mạng lưới KCN, KCX trên toàn lãnh thổ; nâng tổng diện tích các KCN đạt khoảng từ 60.000 ha đến 80.000 ha vào năm 2020; Quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các KCN đã được thành lập trước đây theo hướng đồng bộ hóa, hình thành những “công viên công nghiệp” nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả của các KCN, KCX.
2.1.2. Đối với các KCN vùng KTTĐBB:
- Việc phát triển các khu công nghiệp phải kiên quyết theo hướng chuyển bớt các đô thị mới và khu công nghiệp mới lên phía trục Quốc lộ 21 và 18 để giảm bớt sự tập trung quá mức vào vùng Đồng bằng sông Hồng. Sớm có kế hoạch xây dựng những cơ sở đào tạo nghề để đáp ứng nhu cầu lao động có kỹ năng nghề ở trình độ cao cho cả miền Bắc; xây dựng chính sách phát triển hệ thống thông tin cho Vùng.
2.2. Phân tích SOWT hoạt động đầu tư phát triển các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Trên cơ sở quá trình phân tích chương 1 ta có thể có thấy được các nội dung trong mô hình SOWT của quá trình đầu tư phát triển các KCN Bắc Bộ như sau:
2.2.1. Điểm mạnh
- Các KCN đã và đang dần đi vào guồng phát triển, là thế mạnh trong phát triển kinh tế toàn vùng: Giá trị sản xuất công nghiệp tại đây chiếm một phần đáng kể trong đóng góp vào GDP, góp phần cho tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng và của cả nước.
- Tạo ra một lượng việc làm lớn giải quyết vấn đề lao động đã và đang trở lên bức xúc hiện nay.
- Góp phần hiện đại hóa kết cấu hạ tầng; nâng cao năng lực sản xuất, quản lý; thúc đẩy chuyển giao công nghệ từng bước hiện đại hóa quá trình sản xuất.
2.2.2. Điểm yếu
- Với thực trạng phát gia tăng mạnh mẽ các KCN mới cũng như mở rộng diện tích của các KCN đang hoạt động hiện nay, một lượng lớn đất nông nghiệp đang được chuyển đổi. Cùng với đó, rất nhiều vấn đề nảy sinh cần giải quyết như giải phóng mặt bằng, vấn đề di dân tái định cư, nhà ở cho người lao động trong các KCN…
- Trình độ công nghệ cũng như lao động kỹ thuật cao trong các KCN nói chung còn ở mức độ thấp. Điều này cho thấy trình độ công nghệ trong sản xuất không chỉ trong các KCN mà trong sản xuất chung của nước ta còn yếu, đặt ra nhu cầu hiện đại hóa công nghệ sản xuất.
- Còn những tồn tại nhất định trong các vấn đề với người lao động như đối xử không công bằng, trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ lợi ích với người lao động gây ra các hiện tượng như đình công, phản đối…
- Ô nhiễm môi trường là một trong những vấn đề bức xúc nhất trong phát triển các KCN hiện nay. Vấn đề cốt lõi nằm ở ý thức của các nhà quản lý KCN. Với mục tiêu lợi nhuận đặt lên hàng đầu đôi khi vấn đề chất thải công nghiệp chưa được xem xét một cách phù hợp với thực trạng ô nhiễm của nó. Các KCN đã có hoặc đang triển khai các nhà máy xử lý nước thải tập trung còn chưa được triển khai đồng bộ và khá chậm chạp. Với mục tiêu đến năm 2010 tất cả các KCN đều có nhà máy xử lý nước thải tập trung là một thách thức lớn không chỉ cho các nhà hoạt định chính sách, các nhà quản lý KCN mà còn cả của các đơn vị sản xuất thi công.
2.2.3. Cơ hội
- Vùng bao gồm các tỉnh có tốc độ phát triển mạnh tại khu vực phía Bắc trong đó có thủ đô Hà Nội. Điều đó đã và đang là một cơ hội rất lớn trong quảng bá hình ảnh, xúc tiến đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đẩy nhanh lượng vốn chảy vào các KCN.
- Hiện nay với xu thế toàn cầu hóa, có nhiều doanh nghiệp lớn, nhiều công ty xuyên quốc gia với kinh nghiệm và trình độ năng lực công nghệ phát triển bậc nhất thế giới đang biết đến Việt Nam nói chung và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nói riêng như một thị trường mới đầy tiềm năng. Việc các công ty này quyết định bỏ vốn đầu tư tại các KCN là một tín hiệu cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng, cũng là một cơ hội lớn cho các KCN.
- KCN, KCX là một trong những lĩnh vực đã và đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đặt mục tiêu lên phát triển hàng đầu. Cùng với đó là quá trình hoàn thiện các chính sách, văn bản quy phạm chung, riêng về đầu tư nhằm tạo một hành lang pháp lý thông thoáng, minh bạch để thu hút các nhà đầu tư.
2.2.4. Thách thức
- Vấn đề xúc tiến, thu hút các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài vào các KCN còn yếu, bên cạnh đó vấn đề môi trường đầu tư trên cơ sở so sánh tương quan với các nước còn nhiều hạn chế.
- Hạn chế các nguồn lực đầu vào như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, máy móc thiết bị, công nghệ…cho quá trình sản xuất.
- Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu có ảnh hưởng đáng kể đến giá trị sản xuất và khả năng phát triển các KCN trong Vùng. Theo các chuyên gia kinh tế, cuộc đại khủng hoảng này sẽ còn kéo dài và có ảnh hưởng chung trong thời gian tới.
2.2.5. Mô hình SOWT
ĐIỂM MẠNH
- Các KCN đã và đang dần đi vào guồng phát triển.
- Tạo ra một lượng việc làm lớn.
- Góp phần hiện đại hóa kết cấu hạ tầng; nâng cao năng lực sản xuất, quản lý; thúc đẩy chuyển giao công nghệ từng bước hiện đại hóa quá trình sản xuất.
ĐIỂM YẾU
- Nhiều vấn đề nảy sinh cần giải quyết như giải phóng mặt bằng, vấn đề di dân tái định cư, nhà ở cho người lao động trong các KCN…
- Trình độ công nghệ cũng như lao động kỹ thuật cao trong các KCN nói chung còn ở mức độ thấp.
- Còn những tồn tại nhất định trong các vấn đề với người lao động.
- Ô nhiễm môi trường KCN.
CƠ HỘI
- Vùng bao gồm các tỉnh có tốc độ phát triển mạnh tại khu vực phía Bắc trong đó có thủ đô Hà Nội.
- Nhiều doanh nghiệp lớn, nhiều công ty xuyên quốc gia với kinh nghiệm và trình độ năng lực công nghệ phát triển bậc nhất thế giới đang biết đến Việt Nam
- KCN, KCX là một trong những lĩnh vực đã và đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đặt mục tiêu lên phát triển hàng đầu
THÁCH THỨC
- Vấn đề xúc tiến, thu hút các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài vào các KCN còn yếu.
- Hạn chế các nguồn lực đầu vào.
- Cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu.
2.2. Đề xuất các giải pháp:
Tình hình kinh tế thế giới năm 2009 sẽ còn khó khăn, kinh tế Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nhất định và phải mất thời gian dài mới có sự phục hồi, theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, phải mất từ 1 đến 1,5 năm. Giai đoạn khủng hoảng chỉ kết thúc khi kinh tế Hoa Kỳ ngừng sụt giảm và sau đó kinh tế châu Á phục hồi sẽ kéo theo cả thế giới phục hồi. Năm 2009, Việt Nam sẽ phải giải quyết nhiều khó khăn về tình hình xuất nhập khẩu, hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp… Trong bối cảnh đó, định hướng điều hành hoạt động của các KCN, KCX có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy các KCN – KCX phát triển. Trên cơ sở những mặt tồn tại và nguyên nhân đã nghiên cứu trong các nội dung trên, tác giả đưa ra một số biện pháp sau đây nhằm khắc phục các điểm yếu còn tồn tại:
2.2.1. Các giải pháp vĩ mô.
Ở phần trên chúng ta đã thấy các yếu tố vĩ mô cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các. Bởi vậy, việc đưa ra một số biện pháp ở tầm vĩ mô nhằm hỗ trợ phát triển các KCN là hết sức cần thiết:
Thứ nhất, các quản lý cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa, tại chỗ” đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập theo hướng đối xử công bằng, thông thoáng và minh bạch. Nội dung này được cụ thể như sau:
+ Tổ chức bộ máy và hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của các Ban quản lý trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước trực tiếp đối với KCN, KCX, KKT sẽ tiếp tục được tăng cường và quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, đất đai, xây dựng, môi trường, lao động, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và thương mại, thanh tra v.v... theo hướng chuyển từ cơ chế uỷ quyền sang giao nhiệm vụ trực tiếp gắn với việc nâng cao trình độ, trách nhiệm và ý thức chấp hành kỷ luật của đội ngũ cán bộ công chức của các Ban quản lý, vấn đề biên chế và phụ cấp trách nhiệm với lãnh đạo Ban quản lý và xây dựng các Ban quản lý KCN, KCX thực sự trở thành các tổ chức “dịch vụ hành chính công”.
+ Về đăng ký và thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư: tiếp tục hoàn thiện cơ chế một cửa trong thủ tục hành chính xét duyệt, thẩm tra đầu tư. Thực hiện cơ chế phân cấp mạnh cho các UBND cấp tỉnh và giao nhiệm vụ cụ thể cho Ban quản lý KCN cấp tỉnh trong thẩm tra và cấp giấy chứng nhận đầu tư.
+ Chú trọng và thường xuyên nâng cao chất lượng của bộ máy quản lý KCN, đặc biệt là việc nâng cao trách nhiệm và ý thức kỷ luật của đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các Ban quản lý; xoá bỏ hoàn toàn cơ chế “xin - cho”, kỷ luật nghiêm khắc những cán bộ, công chức có hiện tượng nhũng nhiễu doanh nghiệp, đảm bảo hiệu lực quản lý nhà nước trong công tác quản lý KCN.
+ Phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị có liên quan trong quản lý KCN, KCX; mối quan hệ phối hợp giữa Ban quản lý KCN cấp tỉnh với các Sở, ban, ngành địa phương; với công ty phát triển hạ tầng và doanh nghiệp theo hướng vừa đảm bảo cơ chế một đầu mối quản lý tại Ban quản lý, vừa đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ trong quản lý KCN.
Thứ hai, Nhà nước có chính sách điều tiết giá thuê đất gắn với hạ tầng trong các KCN nhằm thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào đầu tư sản xuất trong KCN; tăng thêm những KCN đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước với cơ chế Nhà nước định giá giao đất, cho thuê đất hợp lý nhằm điều tiết giá thuê đất trong KCN.
Thứ ba, tăng cường hiệu quả bộ máy quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư trong KCN, KCX. Việc đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý nhằm nâng cao trình độ là vấn đề cần quan tâm hàng đầu.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về đất đai, pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các KCN, KCX, cụm công nghiệp; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật, đặc biệt tập trung vào các dự án sử dụng đất sai mục đích, đang gây ô nhiễm môi trường.
Thứ năm, nghiên cứu và vận dụng cho Việt Nam các mô hình khu công nghiệp theo hướng hiện đại và phù hợp với điều kiện thị trường mở: Cần thay đổi lại quan niệm về khu công nghiệp, kể cả khái niệm và mục tiêu thành lập khu công nghiệp trong các văn bản pháp quy của nhà nước. Theo xu thế chung, không nên coi khu công nghiệp là chỉ có sản xuất công nghiệp và cần phải có hàng rào riêng. Đặc biệt là, xây dựng khu công nghiệp hiện nay, không phải chỉ với mục tiêu thu hút bằng mọi cách vốn đầu tư, mà còn phải đặt ra những yêu cầu khác như: tính hiệu quả, tính bền vững và khả năng lan toả cho các khu vực khác, v.v...
Thực hiện chuyển đổi mô hình tổ chức khu công nghiệp theo hướng hiện đại, cụ thể là: (1) Chuyển từ khu công nghiệp thành lập mang tính tận dụng lao động, điều kiện tự nhiên để thu hút các nhà đầu tư thuộc nhiều ngành nghề sản xuất công nghiệp khác nhau với mục tiêu lấp đầy khu công nghiệp thành những khu công nghiệp mang tính sản xuất và chế biến chuyên môn hoá ngày càng cao và với mục tiêu hiệu quả kinh tế đặt ra là chủ yếu; (2) Chuyển từ khu công nghiệp chỉ bao gồm chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp, chuyên môn hoá sản xuất cho xuất khẩu, sang mô hình khu công nghiệp tổng hợp, trong đó bao gồm cả sản xuất công nghiệp, thương mại (xuất khẩu và tiêu thụ nội địa), dịch vụ như ngân hàng, bưu điện, dịch ivụ cung ứng thường xuyên và các hoạt động dịch vụ; hoạt động khoa học công nghệ cao; (3) Chuyển từ khu công nghiệp không có dân cư sang khu công nghiệp có dân cư thường gọi là khu kinh tế mở, đặc khu kinh tế, v.v...
Thực hiện sự liên kết toàn diện theo xu hướng thị trường mở, cụ thể là sự liên kết trong nội bộ khu công nghiệp, liên kết giữa các khu công nghiệp trên cùng một khu vực, và hình thành nhiều kiểu, loại khu công nghiệp đa dạng.
2.2.2. Các giải pháp vi mô.
Thứ nhất, nâng cao chất lượng triển khai thực hiện quy hoạch các KCN, KCX, gắn việc thực hiện quy hoạch với nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong KCN, KCX. Về nguyên tắc xây dựng quy hoạch KCN, KCX, cần phải đảm bảo mối quan hệ gắn kết nhiều chiều giữa quy hoạch KCN, KCX với quy hoạch ngành, vùng, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong KCN, KCX, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và cả nước. Quy hoạch phát triển các KCN phải đồng bộ với quy hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, đảm bảo tính bền vững trong phát triển.
Đối với quy hoạch tổng thể, trên cơ sở phân tích, đánh giá lại một cách tổng thể các nguồn lực, các tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, dự báo diễn biến của những yếu tố “động”, tác động của những cơ chế, chính sách mới nhất liên quan đến KCN, cần rà soát, cập nhật, từ đó tiến hành bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đã lập. Trong quá trình này cần đặc biệt lưu ý tính liên vùng. Đồng thời, việc phân tích, đánh giá cần phải đặt trong bối cảnh nước ta đang tích cực tham gia quá trình hội nhập và phân công lao động quốc tế, có tính đến xu thế chuyển dịch một số ngành công nghiệp từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, khả năng đón bắt làn sóng đầu tư mới. Trong quy hoạch tổng thể cần đặc biệt lưu ý tới khả năng phát triển của các KCN vì đây chính là những KCN cho phép đạt hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai cao nhất; định hướng phân loại trình độ các KCN để có sự ưu tiên, hỗ trợ khác nhau; định hướng việc phát triển các KCN chuyên ngành, giảm bớt các KCN tổng hợp. Ngoài ra, trong quy hoạch tổng thể cũng cần đề cập - ít nhất là về định hướng đến loại hình cụm liên kết doanh nghiệp (trong đó, ngoài các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ công nghiệp còn có các cơ sở nghiên cứu, triển khai, đào tạo, cung ứng nguyên liệu, kinh doanh thương mại), các khu, cụm công nghiệp địa phương (hiện do UBND các tỉnh, thành phố quyết định thành lập).
Đối với công tác xây dựng quy hoạch chi tiết: việc xây dựng quy hoạch chi tiết trước hết cần phải gắn chặt với quy hoạch phát triển công nghiệp theo vùng lãnh thổ, quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn, quy hoạch phát triển dân cư đô thị, sử dụng tài nguyên, phát triển mạng lưới giao thông trên địa bàn của địa phương có KCN. Trong quá trình xây dựng quy hoạch, còn cần phải dự kiến được nhà đầu tư sẽ đầu tư và kinh doanh hạ tầng KCN; đồng thời đề ra các giải pháp cụ thể về chuẩn bị nguồn nhân lực, vì đây là một trong những yếu tố quyết định khả năng thu hút các dự án đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài. Khi lập quy hoạch chi tiết, do mỗi vùng, mỗi địa phương có thể có nhiều KCN, nên cần lưu ý vấn đề cơ cấu đầu tư trong từng KCN, cố gắng định hướng theo hướng khuyến khích việc xây dựng các KCN chuyên ngành (KCN hoá chất, cơ khí, luyện kim, đóng tàu, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm), hạn chế đến mức thấp nhất các KCN tổng hợp. Đối với các KCN mà quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt cũng cần rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đó cho phù hợp với tình hình thực tế và xu hướng phát triển.
Theo đó, để thực hiện tốt công tác quy hoạch, trong quá trình thực hiện cần lầm tốt một một số công việc sau đây:
- Khi thẩm định các dự án đầu tư cần xem xét toàn diện hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của từng dự án. Nếu dự án nào có mức đóng góp cho ngân sách mà không bù đắp được các khoản mà Nhà nước phải bỏ ra để xử lý vấn đề ổn định đời sống, việc làm cho người có đất bị thu hồi, cũng như để xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường do dự án đó sẽ gây nên thì kiên quyết không cho phép triển khai thực hiện. Cần tập trung rà soát chi tiết quy hoạch sử dụng đất để xây dựng các KCN, KCX, cụm công nghiệp nhằm điều chỉnh cho phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của từng vùng kinh tế. Đối với các KCN, KCX đã thành lập nhưng không có khả năng triển khai thực hiện thì phải công bố điều chỉnh hoặc hủy bỏ, khắc phục tình trạng “quy hoạch treo” cũng như dự án treo.
- Từ nay không chuyển đất chuyên trồng lúa nước, đất sản xuất nông nghiệp đã được đầu tư nhiều năm sang xây dựng các KCN, cần ưu tiên giải pháp đầu tư hạ tầng đường giao thông điện, nước để đưa đất chưa sử dụng hoặc đất ít khả năng sử dụng vào mục đích nông nghiệp vào sử dụng để xây dựng các KCN (trừ trường hợp không còn đất loại này).
- Không được bố trí các KCN nằm sát các trục quốc lộ, sát các khu dân cư tập trung. Quy hoạch phát triển các KCN nằm sát các trục quốc lộ, sát các khu dân cư tập trung. Quy hoạch phát triển các KCN phải đồng bộ với quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN, giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân làm việc trong các KCN phù hợp với thu nhập theo cách quy hoạch xây dựng các khu nhà ở công nhân ngay trong quá trình xây dựng các KCN.
- Tập trung rà soát quy hoạch sử dụng đất KCN, KCX để điều chỉnh phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế – xã hội từng địa phương và có biện pháp kiên quyết xử lý đối với trường hợp lãng phí đất đai hoặc sử dụng đất không đúng mục đích.
- Về nội dung quy hoạch cần dự kiến thứ tự ưu tiên thành lập mới và mở rộng các KCN, KCX phù hợp với định hướng phát triển vùng, địa phương trên cả nước, vừa tạo sự năng động của địa phương nhưng tuân thủ quy định về tiêu chí thành lập KCN.
- Xây dựng phát triển KCN phải tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt và gắn với việc thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật khu vực.
- Cần thường xuyên theo dõi, đánh giá các KCN đã được thành lập. Căn cứ tình hình triển khai thực tế của các KCN đã được thành lập, chủ động đề xuất phương án xử lý đối với các KCN như:
+ Tạo điều kiện cho các KCN đã được thành lập tiếp tục mở rộng khi đã cho thuê lấp đầy trên 60% diện tích đất công nghiệp và đã xây dựng dựng xong công trình xử lý nước thải tập trung.
+ Tập trung giải quyết triệt đề các vướng mắc có liên quan đối với các KCN gặp khó khăn trong quá trình triển khai.
+ Đối với các KCN không có triển vọng triển khai thực hiện, cần kiên quyết xem xét việc rút Giấy phép đầu tư hoặc Quyết định phê duyệt dự án tránh tình trạng dự án treo, không triển khai, gây dư luận không tốt trong xã hội.
- Ngoài ra, một giải pháp hết sức quan trọng đối với công tác xây dựng quy hoạch KCN nói chung là phải quan tâm đến việc nâng cao năng lực của đội ngũ tư vấn cũng như năng lực của các cơ quan thẩm định và Chính phủ cần sớm nghiên, điều chỉnh việc phân công nhiệm vụ giữa các bộ, ngành liên quan đến việc QLNN đối với các KCN nhằm khắc phục những chồng chéo hiện nay.
Thứ hai, phát triển cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN một cách đồng bộ với cơ sở hạ tầng trong hàng rào; giao trách nhiệm tối đa cho các doanh nghiệp chuyên ngành đầu tư phát triển các công trình hạ tầng ngoài hàng rào; đầu tư cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc giao cho ngành điện lực, nước và bưu điện địa phương.
Các địa phương khi xây dựng quy hoạch phát triển KCN cần có kế hoạch triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội bên ngoài hàng rào KCN một cách đồng bộ so với bên trong KCN.
Ngoài việc dùng vốn ngân sách để hỗ trợ đầu tư các công trình ngoài hàng rào, UBND các tỉnh, thành phố cần có cơ chế, biện pháp khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, dân cư và các tổ chức khác đầu tư kinh doanh khai thác dịch vụ với các chính sách ưu đãi hợp lý. Bên cạnh đó, cần lồng ghép các chương trình phát triển dân sinh, xã hội trong những khu vực xây dựng KCN, đảm bảo hài hoà môi trường bên trong và bên ngoài KCN.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống các chính sách ưu đãi đầu tư, môi trường đầu tư; đẩy mạnh vận động và xúc tiến đầu tư vào các KCN, KCX. Trong thời gian tới, cơ chế quản lý hoạt động đầu tư vào KCN, KCX nói chung và chính sách ưu đãi đầu tư vào KCN, KCX nói riêng cần phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng:
- Có những chính sách khuyến khích cao hơn đối với những chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng các KCN chuyên ngành, những KCN công nghệ cao, những nhà đầu tư đầu tư vào những lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp cơ khí chính xác và công nghiệp phù trợ...trong KCN, KCX.
- Điều chỉnh thủ tục đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng KCN, KCX và đầu tư vào KCN, KCX đảm bảo có sự phân công, phối hợp rõ ràng gắn với trách nhiệm cụ thể của các cơ quan, đơn vị trong thẩm tra dự án, đảm bảo giải quyết nhanh gọn, chính xác nguyện vọng của nhà đầu tư, đồng thời tăng cường cơ chế phối hợp giám sát thực hiện sau khi cho phép đầu tư.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào các KCN, KCX trong thời gian tới cần phải thực hiện tốt các công việc sau đây:
- Đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiến đầu tư; cần xây dựng định hướng đầu tư cụ thể trên cơ sở điều kiện và tiềm năng của các địa phương, chú trọng xúc tiến đầu tư theo lĩnh vực, địa bàn và đối tác cụ thể, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp.
- Các cơ quan xúc tiến đầu tư cần kết hợp với các cơ quan quản lý nhà nước tháo gỡ, giải quyết kịp thời những khó khăn và đề nghị của doanh nghiệp và nhà đầu tư, phấn đấu đưa tỷ lệ vốn giải ngân lên cao hơn nữa.
- Xây dựng Quỹ xúc tiến đầu tư trên cơ sở ngân sách nhà nước cấp kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Các địa phương phải căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng được xét duyệt để điều tra, lập kế hoạch đào tạo, chuyển đổi ngành nghề cho số lao động tại các khu vực sẽ bị thu hồi đất. Kế hoạch này phải được trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và triển khai trước khi ra quyết định thu hồi đất, hoặc chậm nhất cũng phải trình đồng thời với việc trình phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư nhằm giúp cho người bị thu hồi đất có thể nhanh chóng tìm được việc làm mới và ổn định cuộc sống. Tăng cường đầu tư phát triển các làng nghề, khu dịch vụ tại địa phương gắn với các KCN nhằm thu hút lao động từ những gia đình có đất bị thu hồi. Nghiên cứu thành lập Quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người dân có đất bị thu hồi; quỹ được hình thành từ một phần của các khoản tiền sử dụng đất, tiền thuê đất nộp ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp sử dụng đất KCN. Thực hiện nghiêm chính sách tái định cư theo quy định của Luật Đất đai, những dự án chưa chuẩn bị được khu tái định cư thì kiên quyết chưa thực hiện việc thu hồi đất.
Sử dụng đất hiệu quả, khắc phục ô nhiễm môi trường: Cần tập trung lấp đầy và khai thác hiệu quả các KCN. Những dự án đầu tư phải hoàn tất các hạng mục công trình xử lý chất thải rắn, nước thải, khí thải mới được phép hoạt động. Cần có biện pháp phối hợp giữa các KCN trên một địa bàn và các địa phương trong bảo vệ môi trường, tránh gây ô nhiễm cho nhau.
+ Cần thường xuyên rà soát các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp phép trong KCN để có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai; rà soát các mô hình đầu tư và quản lý KCN đang được áp dụng để điều chỉnh và xây dựng các mô hình đầu tư hạ tầng KCN và chính sách phù hợp, đặc biệt cần xem xét, đánh giá hiệu quả và vai trò của mô hình đơn vị sự nghiệp có thu.
Thứ năm, đẩy nhanh việc nghiên cứu và xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ về nhà ở cho người lao động làm việc trong KCN, KCX.
- Quy hoạch KCN phải được gắn với quy hoạch khu nhà ở cho công nhân. Quy hoạch khu nhà ở cho công nhân cần đáp ứng quy hoạch chung của đô thị, nhà ở dành cho công nhân là một bộ phận cấu thành của hệ thống nhà ở đô thị.
- Cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn nhà ở tối thiểu cho người lao động trong KCN, đồng thời điển hình hoá các thiết kế nhà ở nhằm thống nhất và đảm bảo phù hợp với nhu cầu và khả năng của người lao động trong KCN.
- Đa dạng hoá các hình thức đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân; huy động tổng hợp các nguồn lực để đầu tư nhà ở; dành một phần tỷ lệ vốn ngân sách, các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, huy động tiềm lực của dân doanh dưới sự hướng dẫn và quản lý của nhà nước và áp dụng mức ưu đãi ở mức cao nhất về thuế, đất đai,....
- Thành lập quỹ nhà ở cho người lao động làm việc trong các KCN nhằm hỗ trợ tiền thuê, mua nhà cho người lao động có thu nhập thấp làm việc trong các doanh nghiệp KCN. Quỹ này được hình thành dựa trên đóng góp từ ngân sách địa phương, vận động đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan trên địa bàn.
- Xây dựng các chế tài cụ thể quy định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương, doanh nghiệp trong KCN, doanh nghiệp phát triển hạ tầng và người lao động trong việc xây dựng, quản lý, sử dụng nhà ở cho người lao động trong KCN.
Thứ sáu, phát triển KCN, KCX kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường.
- Cần hệ thống hoá và xây dựng đồng bộ các cơ chế quản lý, chính sách hỗ trợ và hệ thống các tiêu chuẩn về môi trường trong KCN, KCX phù hợp với đặc thù phát triển của KCN, KCX.
- Có những chế tài có tính bắt buộc cao đối với chủ đầu tư trong việc xây dựng các công trình xử lý chất thải tập trung trong KCN, KCX. Thời gian tới, có thể nghiên cứu đưa vấn đề xây dựng công trình xử lý chất thải tập trung là một trong những điều kiện khi thực hiện các ưu đãi về thuế, đất đai…cho chủ đầu tư cơ sở hạ tầng KCN, KCX theo quy định, hoặc là điều kiện tiên quyết để xem xét việc mở rộng các KCN, KCX hiện có.
- Cần nâng cao chất lượng công tác thẩm định thành lập KCN, KCX đặc biệt là thẩm định về yếu tố môi trường, bên cạnh đó, cần có những quy định cụ thể về giám sát các dự án đầu tư nói chung và việc công tác bảo vệ môi trường trong KCN, KCX nói riêng. Để bảo đảm hiệu quả của công tác giám sát, cần quy định cụ thể trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của cơ quan giám sát khi thực hiện chức năng giám sát môi trường, đồng thời cần có quy định về những ưu đãi, khen thưởng, xử phạt đối với các doanh nghiệp trong thực hiện các nghĩa vụ bảo vệ môi trường.
- Hỗ trợ về tài chính cho việc xây dựng các công trình xử lý nước thải tập trung đối với các địa phương không đủ điều kiện được hỗ trợ vốn ngân sách trung ương cho công trình xử lý nước thải tập trung và đền bù giải phóng mặt bằng KCN, KCX theo Quyết định 183/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Có thể xem xét cho vay từ quỹ tín dụng đầu tư phát triển với lãi suất ưu đãi đối với các dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý chất thải tập trung trong KCN, KCX.
- Về phía chủ đầu tư và các doanh nghiệp trong KCN, KCX cần phải ý thức rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm của mình đối với vấn đề bảo vệ môi trường trong và ngoài KCN, KCX.
KẾT LUẬN
Quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng và khẩn trương hơn đặt Việt Nam trước nhiều thử thách, nhất là trong bối cảnh đất nước có điểm xuất phát là một nước nông nghiệp với hơn 60% lao động và 70% dân số sống ở nông thôn. Trải qua 17 năm hình thành và phát triển, các KCN Việt Nam nói chung và Vùng KTTĐBB nói riêng đã đạt được một số thành quả nhất định. Tuy nhiên thực tế cho thấy trong quá trình phát triển các KCN cũng bộc lộ không ít những bất cập cần giải quyết. Điều này đòi hỏi để tiếp tục phát huy tác động của các KCN, cần phải tiếp tục có một sự nhìn nhận một cách thống nhất, khách quan các nhân tố hình thành KCN, tác động và đặc biệt là các trở ngại trong việc phát triển các KCN, mới có thể có giải pháp xử lý thích hợp. Có như vậy, các KCN mới thực sự đóng góp thích đáng cho sự thúc đẩy quá trình CNH - HĐH ở nước ta diễn ra một cách nhanh chóng, có chất lượng và bền vững.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương, giáo trình “Kinh tế đầu tư” – 2007.
2. PGS.TS. Từ Quang Phương, giáo trình “Quản lý dự án” – 2008.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển các KCN – KCX ở Việt Nam”
4. Tạp chí điện tử Khu công nghiệp Việt Nam (www.khucongnghiep.com.vn); Website Viện nghiên cứu TP.HCM (www.hids.hochiminhcity.gov.vn); Website các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Vĩnh Phúc…
5. Vụ Quản lý các KKT, Số liệu các KCN qua các năm.
6. Đại học Kinh tế Quốc dân, “Tạp chí Kinh tế và phát triển” tháng 2; 7/2007, 1; 5; 8; 9/2008, 1/2009.
7. Trường ĐH Kinh tế TPHCM, “Tạp chí “Phát triển kinh tế” tháng 5;6 /2008, 1;2/2009.
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT.. 1
DANH MỤC CÁC BẢNG.. 2
DANH MỤC CÁC BIỂU.. 2
CHƯƠNG 1 : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.. 5
CÁCKCN-KCX TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ. 5
1.1. Những nét khái quát về Khu công nghiệp, Khu chế xuất. 5
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm KCN - KCX. 5
1.1.1.1. Khái niệm. 5
1.1.1.2. Đặc điểm. 6
1.1.2. Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất. 8
1.1.2.1. Đóng góp lớn vào thành tựu phát triển chung của kinh tế cả nước, thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 8
1.1.2.2. Phát triển KCN, KCX cũng là hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng. 10
1.1.2.3. KCN, KCX góp phần trong việc nâng cao trình độ công nghệ, hiện đại hóa cách thức quản lý sản xuất. 11
1.1.2.4. KCN, KCX đã góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. 13
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư phát triển các KCN – KCX. 13
1.1.3.1. Các nhân tố vĩ mô:. 13
1.1.3.2. Các nhân tố vi mô:. 15
1.2. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển các KCN, KCX Việt Nam. 16
1.3. Thực trạng đầu tư phát triển các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. 20
1.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. 20
1.3.2. Nhu cầu phát triển các KCN vùng KTTĐ Bắc Bộ. 22
1.3.3. Thực trạng đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng KTTĐ Bắc Bộ. 24
1.3.3.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các KCN. 24
a) Sự phù hợp về quy hoạch KCN:. 24
b) Tình hình thu hút đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng KCN:. 30
1.3.3.2. Đầu tư phát triển sản xuất trong các KCN. 37
a) Về thu hút đầu tư trong KCN:. 37
b) Tình hình sản xuất và hiệu quả hoạt động:. 39
c) Tình hình đền bù, giải phóng mặt bằng. 41
d) Tình hình sử dụng đất. 43
e) Tình hình bảo vệ môi trường trong KCN. 47
f) Tình hình thu hút lao động trong KCN. 49
1.3.4. Nhận xét, đánh giá quá trình phát triển các KCN. 51
1.3.4.1. Những thành quả đạt được. 51
1.3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân. 54
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO.. 61
HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC KCN VÙNG KTTĐ BẮC BỘ.. 61
2.1. Định hướng phát triển các KCN của Đảng và Nhà nước ta thời gian tới. 61
2.1.1. Việt Nam với chiến lược phát triển các KCN. 61
2.1.2. Đối với các KCN vùng KTTĐBB: 64
2.2. Đề xuất các giải pháp: 68
2.2.1. Các giải pháp vĩ mô. 68
2.2.2. Các giải pháp vi mô. 71
KẾT LUẬN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Thực trạng và giải pháp.doc