Có thể nhận thấy đầu tư vào lĩnh vực khai mỏ, dệt may – da giầy và
dịch vụ cơ bản đã, đang và sẽ là xu hướng chủ đạo mà các doanh nghiệp
Trung Quốc đầu tư vào các nước ASEAN cũng như vào Việt Nam.
Mặc dù hiện tại Trung Quốc chưa phải là đối tác trọng điểm của Việt
Nam trong việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tuy nhiên có thể
thấy Trung Quốc có thế mạnh trong lĩnh vực dịch vụ cơ bản mà Việt Nam
đang rất cần phát triển. Bên cạnh đó lĩnh vực dệt may, da giầy là ngành Việt
Nam có lợi thế và có tiềm lực xuất khẩu lớn, giải quyết được vấn đề việc là m
cho người lao động có trình độ phổ thông, đồng thời lĩnh vực khai mỏ giúp
phát triển kinh tế vùng sâu vùng xa. Do đó, khai thác được thế mạnh vốn có
của Trung Quốc sẽ góp phần giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của mình.
114 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2407 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào các nước Đông Nam Á và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoảng 19% tổng
vốn đầu tƣ của toàn xã hội (Cục đầu tƣ nƣớc ngoài, 2007). Từ đó có thể thấy
FDI của Trung Quốc chiếm 0,16% tổng vốn đầu tƣ cho phát triển của Việt
Nam. Lƣợng vốn FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tuy chƣa nhiều
nhƣng với số dự án và giá trị các dự án ngày càng tăng, Trung Quốc hứa
hẹn ngày càng đóng góp thêm nhiều vào vốn đầu tƣ cho phát triển kinh tế
của Việt Nam.
- FDI từ Trung Quốc góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống
ngƣời dân Việt Nam: Theo thống kê, hiện có khoảng 53.000 ngƣời lao động
Việt Nam có việc làm nhờ có các dự án FDI của Trung Quốc, chiếm 6,1%
tổng số việc làm đƣợc tạo ra trong khu vực FDI (Trịnh Thị Hậu, 2007). Do
các ngành Trung Quốc đầu tƣ vào nƣớc ta chủ yếu là ngành khai thác chế biến
khoáng sản, ngành dệt may... là những ngành cần nhiều lao động và trình độ
lao động không đòi hỏi quá cao nên những dự án nhƣ vậy sẽ mang lại việc
làm cho những lao động phổ thông, đặc biệt là ngƣời dân ở vùng sâu vùng xa
78
nơi tổ chức khai khoáng. Nhờ vậy, ngƣời dân lao động đã có thêm thu nhập
và đời sống đƣợc cải thiện.
- FDI của Trung Quốc trợ giúp quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
của Việt Nam: Đầu tƣ trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam chủ yếu tập
trung vào các ngành công nghiệp (chiếm đến 66,48% tổng vốn FDI của Trung
Quốc vào Việt Nam), từ đó giúp Việt Nam có đƣợc một số nhà xƣởng máy
móc thiết bị để sản xuất đƣợc một số loại hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu
ngƣời dân. Bên cạnh đó, những KCN, KCX, các nhà máy hiện đại đƣợc hình
thành dựa trên hoạt động đầu tƣ của các doanh nghiệp Trung Quốc vào lĩnh
vực dịch vụ xây dựng đã thay thế cơ sở hạ tầng lạc hậu tạo nên nguồn lực
tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc.
2.2. Những điểm hạn chế
Mặc dù có nhiều đóng góp tích cực nhƣng FDI của Trung Quốc vẫn
còn tồn tại một số hạn chế, đó là lƣợng FDI đăng ký và thực hiện vẫn còn
nhỏ, cơ cấu đầu tƣ chƣa hợp lý và chƣa có tác động tích cực lên công nghệ
các ngành sản xuất của Việt Nam.
- Kết quả thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam còn khiêm tốn, chƣa
tƣơng xứng với tiềm năng quan hệ kinh tế Việt - Trung: quan hệ Việt – Trung
đƣợc cả hai nƣớc coi trọng phát triển theo phƣơng châm 16 chữ “láng giềng
hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài và hƣớng tới tƣơng lai” và tinh
thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Kim ngạch
xuất nhập khẩu hai chiều đạt 15,85 tỷ USD, Trung Quốc là thị trƣờng xuất
khẩu lớn thứ ba của Việt Nam (Website hợp tác Kinh tế Thƣơng mại Việt
Nam - Trung Quốc). Tuy nhiên FDI của Trung Quốc vào Việt Nam chƣa
đƣợc nhƣ mong đợi. Tính đến 22/3/2008, lƣợng vốn đăng ký FDI của Trung
Quốc vào Việt Nam chỉ chiếm 2,1% lƣợng FDI cả nƣớc. Tỷ lệ vốn thực hiện
trên vốn đăng ký đạt 13,74% còn thấp so với mức thực hiện chung là 33,4%
(Cục đầu tƣ nƣớc ngoài, 2008), chứng tỏ tốc độ triển khai dự án của các nhà
79
đầu tƣ Trung Quốc còn chậm. Quy mô các dự án còn nhỏ, bình quân lƣợng
vốn cho mỗi dự án chỉ vào khoảng 2,84 triệu USD, thấp hơn so với quy mô
dự án bình quân vào Việt Nam là 8,87 triệu USD (Cục đầu tƣ nƣớc ngoài,
2008). Số các dự án có vốn đầu tƣ ban đầu 9-10 triệu USD rất ít, đa phần là
các dự án có vốn đăng ký trên dƣới 1 triệu USD. Thời gian hoạt động của các
dự án là 10-15 năm, thậm chí có dự án chỉ kéo dài 5-7 năm nhằm nhanh
chóng thu hồi vốn (ASEAN Secretariat, 2006).
- Cơ cấu FDI chƣa hợp lý: Cơ cấu vốn đầu tƣ trực tiếp của Trung Quốc
vào Việt Nam hiện tập trung vào các ngành công nghiệp nhƣng chủ yếu chỉ là
gia công, lắp ráp, khai khoáng. Số dự án đầu tƣ vào dịch vụ còn ít, các dự án
nông lâm nghiệp tuy nhiều nhƣng quy mô nhỏ. Ngành khai thác và chế biến
khoáng sản đƣợc Trung Quốc quan tâm đầu tƣ nhƣng mới chỉ dừng lại ở sơ
chế, đem lại ít giá trị gia tăng khiến Việt Nam không có lợi khi xuất các loại
khoáng sản này. Bên cạnh đó, ngành này sẽ gây tác động tiêu cực về tài
nguyên môi trƣờng cho nƣớc ta nếu không có biện pháp quản lý thích hợp.
- FDI của Trung Quốc chƣa có tác dụng nâng cao trình độ công nghệ của
các ngành sản xuất ở Việt Nam: Thông thƣờng các dự án FDI sẽ mang đến
cho nƣớc nhận đầu tƣ những lợi ích về chuyển giao công nghệ và kỹ năng
quản lý công ty, nhƣng do các nhà đầu tƣ Trung Quốc đầu tƣ sang Việt Nam
là cá nhân hoặc doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ nên năng lực công nghệ
còn hạn chế. Trình độ kỹ thuật và công nghệ phía Trung Quốc sử dụng trong
các dự án đầu tƣ sang Việt Nam chỉ ở mức độ trung bình, do đó khó có thể
chuyển giao kỹ thuật hiện đại cho các ngành sản xuất của Việt Nam.
Những hạn chế trên đây một phần là do những nguyên nhân từ phía các
doanh nghiệp Trung Quốc nhƣ: bản thân nhiều doanh nghiệp Trung Quốc có
quy mô vừa và nhỏ, năng lực tài chính còn hạn chế, trình độ công nghệ không
cao... Tuy vậy, những nguyên nhân chính vẫn là từ phía Việt Nam. Hệ thống
luật pháp, chính sách của nƣớc ta về đầu tƣ hiện đang trong quá trình hoàn
80
thiện nên chƣa thực sự đầy đủ, nhiều khi còn thiếu nhất quán, gây khó khăn
cho các doanh nghiệp trong việc áp dụng. Thủ tục thẩm định và cấp giấy phép
đầu tƣ phức tạp và mất rất nhiều thời gian. Môi trƣờng đầu tƣ mặc dù có
nhiều thuận lợi hơn trƣớc nhƣng so với các nƣớc thì vẫn còn nhiều tồn tại
trong cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, chi phí kinh doanh... Chỉ bằng cách
nhanh chóng khắc phục những hạn chế đó mới có thể giúp Việt Nam đứng
vững trong cuộc cạnh tranh khá khốc liệt trong khối các nƣớc ASEAN nhằm
thu hút FDI của các nƣớc nói chung và từ Trung Quốc nói riêng.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Hoạt động thu hút đầu tƣ trực tiếp từ Trung Quốc của các nƣớc khu vực
ASEAN giai đoạn 1999-2006 đã đạt đƣợc những bƣớc tiến đáng kể. Có đƣợc
thành công này là do các nƣớc đã giữ vững đƣợc ổn định kinh tế, chính trị,
thiết lập đƣợc hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến hoạt động FDI
vừa hoàn chỉnh, thông thoáng vừa đồng bộ, minh bạch, xây dựng đƣợc cơ sở
hạ tầng tiên tiến hiện đại, nguồn nhân lực có trình độ cao, đồng thời Chính
phủ các nƣớc đã làm tốt công tác “Nhà nƣớc dịch vụ” hỗ trợ tích cực cho hoạt
động FDI. Những kinh nghiệm này là bài học quý báu mà Việt Nam có thể
học tập nhằm tăng cƣờng thu hút hơn nữa đầu tƣ trực tiếp nói chung và đầu tƣ
trực tiếp từ Trung Quốc nói riêng trong thời gian tới.
1. Giữ vững ổn định kinh tế, chính trị là điều kiện tiên quyết thu hút FDI
Ổn định về kinh tế chính trị xã hội là điều kiện tiên quyết nhằm giảm
thiểu những rủi ro cho dòng vốn FDI. Kinh tế chính trị bất ổn sẽ khiến các kế
hoạch về đầu tƣ, kế hoạch hoạt động, sử dụng vốn, các dự tính về lợi nhuận của
nhà đầu tƣ bị phá sản. Do đó, một môi trƣờng kinh tế chính trị bất ổn sẽ khiến
các nhà đầu tƣ không yên tâm làm ăn, các nhà đầu tƣ tiềm năng từ bỏ dự định
đầu tƣ. Bất kỳ sự bất ổn về chính trị, xung đột khu vực, nội chiến hay biến
động kinh tế đột ngột nào đều là những nhân tố tiêu cực góp phần “đẩy lùi” đầu
81
tƣ nƣớc ngoài. Đặc biệt đối với các nhà đầu tƣ nhỏ và vừa, năng lực tài chính
có hạn thì ổn định kinh tế chính trị lại càng mang ý nghĩa quan trọng.
Thực tế đầu tƣ trực tiếp của Trung Quốc vào khu vực ASEAN giai
đoạn vừa qua một lần nữa chứng minh tầm quan trọng của việc ổn định kinh
tế – chính trị. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997 cùng các khó khăn
nội bộ của một số nƣớc ASEAN đã có tác động tiêu cực và lâu dài đến đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài của Trung Quốc vào các nƣớc này. Philippin là một ví dụ
điển hình. Trƣớc năm 1997, nƣớc này là một trong những điểm đến hấp dẫn
nhất của dòng FDI từ Trung Quốc trong khu vực ASEAN. Vị thế trên đã bị
thay đổi hoàn toàn sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 xảy ra.
Khi đó, nền kinh tế Philippin lâm vào khó khăn do những ảnh hƣởng trầm
trọng từ cuộc khủng hoảng, cộng thêm những bất ổn liên tiếp về chính trị
trong nƣớc. Nhà nƣớc không có biện pháp xử lý kịp thời khiến đồng peso của
Philippin sụt giá nghiêm trọng, lạm phát trong nƣớc dâng cao, gây khó khăn
cho việc duy trì hoạt động của doanh nghiệp Trung Quốc. Nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ không đủ năng lực chống đỡ, làm ăn thua lỗ đã bị phá sản
hàng loạt, ảnh hƣởng xấu đến hình ảnh môi trƣờng đầu tƣ của Philippin trong
con mắt các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Hậu quả là cho đến nay các doanh nghiệp
Trung Quốc hầu nhƣ không còn quan tâm đến việc đầu tƣ vào Philippin.
Nhiều nƣớc khác trong khu vực ASEAN nhƣ Indonesia, Myanma, Thái
Lan với môi trƣờng chính trị không ổn định, thƣờng xuyên xảy ra các vụ bạo
động, khủng bố cũng phải gánh chịu những tác động tiêu cực đến việc thu hút
FDI của Trung Quốc tƣơng tự nhƣ Philippin. Bất ổn chính trị dẫn đến chỉ một
vài nhà đầu tƣ Trung Quốc đƣợc Nhà nƣớc bảo hiểm cho rủi ro chính trị mới
dám đầu tƣ nhƣ trƣờng hợp của Indonesia và Myanma. Thái Lan mặc dù môi
trƣờng đầu tƣ rất thông thoáng, có nhiều chính sách hấp dẫn cùng nhiều yếu
tố thuận lợi khác (cơ sở hạ tầng khá hiện đại, nguồn nhân lực dồi dào và có
trình độ cao...) nhƣng đối với các nhà đầu tƣ Trung Quốc đặc biệt là các nhà
82
đầu tƣ vừa và nhỏ thì nhƣ thế là chƣa đủ. Rủi ro bất ổn chính trị nếu xảy ra sẽ
là tổn thất quá lớn mà các nhà đầu tƣ vừa và nhỏ khó có thể gánh chịu. Ngoài
ra, trong một môi trƣờng bất ổn, nhà đầu tƣ không lƣờng trƣớc đƣợc các tình
huống có thể xảy ra, vấn đề quản trị và lập kế hoạch gặp khó khăn dẫn đến
mức độ sinh lời không chắc chắn. Hậu quả là lƣợng vốn FDI của Trung Quốc
đổ vào Thái Lan giai đoạn 1999-2006 còn rất hạn chế.
Trong khi đó, mặc dù cũng chịu tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng
tài chính nhƣng với các biện pháp kịp thời, hiệu quả, Chính phủ Singapore đã
nhanh chóng phục hồi nền kinh tế, giữ chân đƣợc các nhà đầu tƣ Trung Quốc
tiếp tục bỏ vốn đầu tƣ vào Singapore. Từ tháng 7 năm 1997, Cục Tiền tệ
Singapore (MAS) đã thi hành một số chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho nền kinh
tế (nhƣ cho phép đôla Singapore lên xuống trong phạm vi rộng hơn so với
đôla Mỹ) đã giúp nƣớc này thoát khỏi sức ép lạm phát. Giữa năm 1998, Chính
phủ Singapore đã phát hành thêm 2 tỷ đôla Singapore và sang tháng 11 năm
1998, Chính phủ tiếp tục trích ngân sách ra 10,5 tỷ đôla Singapore nhằm mục
đích giảm chi phí kinh doanh, giúp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp (Tuanvietnam.net, 2008). Đến năm 1999, Chính phủ áp
dụng chính sách tài khóa mở rộng đã đem lại các kết quả khả quan. Việc kết
hợp các biện pháp tài khóa và tiền tệ phù hợp đã đƣa nền kinh tế Singapore
phục hồi nhanh chóng. Việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô đã đem lại niềm
tin cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài khi đầu tƣ vào Singapore nên các nhà đầu
tƣ Trung Quốc luôn coi Singapore là một điểm đến hấp dẫn cho luồng vốn
đầu tƣ.
Nhƣ vậy, môi trƣờng kinh tế, chính trị ổn định của nƣớc nhận đầu tƣ là
nhân tố tiên quyết trong quyết định đầu tƣ của các nhà đầu tƣ Trung Quốc.
Nhà nƣớc ta giai đoạn vừa qua đã thực hiện khá tốt nhiệm vụ ổn định kinh tế
– chính trị – xã hội, góp phần quan trọng trong việc thu hút đƣợc một lƣợng
vốn FDI khá lớn và ổn định từ Trung Quốc. Trong thời gian tới, Việt Nam
83
cần tiếp tục nâng cao bài học giữ vững ổn định chính trị – xã hội, đồng thời
tăng cƣờng hơn nữa ổn định kinh tế vĩ mô để thu hút vốn FDI một cách hiệu
quả từ các doanh nghiệp Trung Quốc.
2. Bài học trong công tác xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách về FDI
Để tăng cƣờng thu hút đƣợc nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, các chính sách về
đầu tƣ cần phải thông thoáng với nhiều ƣu đãi hơn đồng thời luật liên quan
đến đầu tƣ cần phải đồng bộ, minh bạch.
Luật đầu tƣ mà các nƣớc trong ASEAN đƣa ra ngày càng tự do hơn,
thông thoáng hơn cùng với ngày càng nhiều ƣu đãi hấp dẫn cho nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài. Những điều chỉnh này đã mang lại những tác động tích cực đối
với dòng vốn FDI của Trung Quốc vào các nƣớc khu vực ASEAN giai đoạn
vừa qua. Việt Nam với sự ra đời của Luật Đầu tƣ và Luật Doanh nghiệp 2005
cùng các nghị định hƣớng dẫn đƣợc ban hành đã tạo một môi trƣờng pháp lý
thông thoáng tƣơng đối cạnh tranh với các nƣớc ASEAN. Tuy nhiên, để hệ
thống pháp luật, chính sách về FDI thực sự thông thoáng và hiệu quả, chúng
ta cần tham khảo kinh nghiệm của các nƣớc khác trong khu vực ở những khía
cạnh sau đây :
Về vấn đề cấp phép đầu tƣ, nhà đầu tƣ tại Singapore không phải trải
qua bất kỳ thủ tục kiểm tra phiền hà nào. Ủy ban phát triển kinh tế EDB của
Singapore xét duyệt các dự án chỉ nhằm mục đích đảm bảo dự án đáp ứng đủ
điều kiện để hƣởng các chế độ khuyến khích, ƣu đãi. Trong khi đó, Luật Đầu
tƣ 2005 của Việt Nam vẫn duy trì tiền kiểm nặng nề, kiểm tra ngay từ khi
đăng ký đầu tƣ với khá nhiều thủ tục rƣờm rà: dự án đầu tƣ nƣớc ngoài dƣới
300 tỷ phải đăng ký, trên 300 tỷ phải thẩm tra để cấp phép đầu tƣ (Điều 46,47,
Luật Đầu tƣ 2005). Tiền kiểm nặng nề sẽ gia tăng chi phí cho cả nhà đầu tƣ
lẫn cơ quan quản lý Nhà nƣớc, khiến cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài nói chung
cũng nhƣ nhà đầu tƣ Trung Quốc nói riêng do dự trong việc quyết định đầu tƣ
vào Việt Nam
84
Về chính sách ƣu đãi: Trong cạnh tranh thu hút FDI của Trung Quốc
trong ngành công nghiệp đặc biệt là lĩnh vực dệt may, da giầy, Campuchia có
nhiều ƣu đãi hơn ta: doanh nghiệp nƣớc ngoài có quyền thuê đất từ 70-90
năm, đƣợc miễn thuế thu nhập (20%) với thời hạn 8 năm. Trong khi đó, luật
của nƣớc ta quy định thời hạn hoạt động của dự án không quá 50 năm, tối đa
là 70 năm đối với một số dự án đặc biệt (Điều 36, Luật Đầu tƣ 2005). Điều
này đã hạn chế việc làm ăn lâu dài của nhà đầu tƣ, đặc biệt là các nhà đầu tƣ
lớn, những ngƣời chấp nhận thua lỗ trong thời gian đầu và chỉ thu lợi nhuận
sau khi có vị trí vững chắc trên thị trƣờng. Mức thuế thu nhập doanh nghiệp ở
nƣớc ta là 28% và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc ƣu đãi miễn trong thời hạn từ
2-4 năm, kém ƣu đãi hơn nhiều so với tại Campuchia. Với những ƣu đãi cạnh
tranh nhƣ vậy, Campuchia đã thực sự thu hút đƣợc các doanh nghiệp Trung
Quốc trong lĩnh vực dệt may, da giầy, lƣợng vốn của các nhà đầu tƣ Trung
Quốc đổ vào ngành này của Campuchia cao hơn nhiều so với vào Việt Nam.
Một vấn đề khác cần quan tâm là các chính sách ƣu đãi có đem lại ƣu
thế cho các nƣớc hay không còn tùy thuộc vào sự đồng bộ, minh bạch của các
nguồn luật cùng các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Chỉ khi các nƣớc xây dựng
đƣợc một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và rõ ràng, minh bạch thì nhà
đầu tƣ nói chung cũng nhƣ nhà đầu tƣ Trung Quốc nói riêng mới có thể dễ
dàng nắm bắt và tin tƣởng bỏ vốn đầu tƣ.
Singapore đã ban hành một hệ thống hoàn chỉnh các luật liên quan đến
đầu tƣ nhƣ Luật mở rộng kinh tế 1967, Luật công ty 1967, Luật thuế thu nhập
1967, Luật khuyến khích mở rộng kinh tế 1971... (Bộ Thƣơng mại, 2000).
Các luật này đều có nội dung rõ ràng và thống nhất với nhau, giúp cho các
nhà đầu tƣ trong đó có nhà đầu tƣ Trung Quốc dễ dàng tìm hiểu các điều kiện
và các ƣu đãi khi tiến hành đầu tƣ tại Singapore.
Việt Nam cần quan tâm hơn nữa về vấn đề đồng bộ và minh bạch của
luật để tăng cƣờng thu hút FDI nói chung cũng nhƣ FDI của Trung Quốc nói
85
riêng. Mặc dù chúng ta đã rất nỗ lực trong việc gia tăng mức độ hấp dẫn của
môi trƣờng đầu tƣ trong nƣớc bằng cách ban hành một loạt các luật mới liên
quan đến đầu tƣ vào năm 2005 nhƣ Luật đầu tƣ, Luật doanh nghiệp, Luật sở
hữu trí tuệ, Luật đấu thầu, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế
tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng... cùng nhiều nghị định hƣớng
dẫn thi hành luật nhƣng đến nay vẫn còn nhiều tồn tại. Theo Tổ công tác thi
hành Luật doanh nghiệp và Luật đầu tƣ 2005, các luật liên quan đến đầu tƣ
(Luật đầu tƣ, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật môi trƣờng, Luật xây
dựng...) đều còn vƣớng mắc nhiều vấn đề nhƣ các quy định chồng chéo giữa
các luật, nhiều quy định không rõ ràng thậm chí còn có các quy định trái
ngƣợc, mâu thuẫn nhau... (Tổ công tác thi hành Luật doanh nghiệp và Luật
đầu tƣ 2005, 2008). Những bất cập này gây ra hậu quả là các địa phƣơng nhận
thức và hiểu khác nhau về quy định của luật, lúng túng trong việc lựa chọn
luật áp dụng, từ đó dẫn tới việc áp dụng luật không thống nhất giữa các địa
phƣơng. Điều này đã làm giảm tính hiệu quả trong công tác thi hành luật và
gây tâm lý lo ngại cho nhà đầu tƣ trong đó có nhà đầu tƣ Trung Quốc. Một ví
dụ điển hình nhƣ nhà đầu tƣ Trung Quốc khi đầu tƣ vào các lĩnh vực thuộc
danh mục các lĩnh vực đầu tƣ có điều kiện (tài chính, ngân hàng, kinh doanh
bất động sản, khai thác tài nguyên, dịch vụ giải trí...), các điều kiện cụ thể của
các dự án đầu tƣ vẫn chƣa có văn bản quy định rõ ràng hoặc quy định hƣớng
dẫn áp dụng theo các luật chuyên ngành, gây khó khăn cho cơ quan quản lý
đầu tƣ ở các địa phƣơng cũng nhƣ cho nhà đầu tƣ Trung Quốc trƣớc khi quyết
định đầu tƣ. Ngoài ra, các lĩnh vực đầu tƣ có điều kiện còn bao gồm các lĩnh
vực đầu tƣ theo lộ trình thực hiện cam kết quốc tế trong các điều ƣớc quốc tế
mà nƣớc ta là thành viên. Tuy nhiên đến nay vẫn chƣa có văn bản hƣớng dẫn
hoặc hƣớng dẫn, áp dụng không thống nhất về thực hiện các cam kết nói trên
đặc biệt là đối với lĩnh vực dịch vụ, gây cản trở cho việc thực hiện. Cụ thể
nhƣ trong lĩnh vực dịch vụ, đối với các dự án đăng ký thực hiện nhiều mục
86
tiêu khác nhau nhƣng mức độ cam kết mở cửa khác nhau, do chƣa có văn bản
hƣớng dẫn rõ ràng đã khiến các cơ quan quản lý không tìm ra đƣợc biện pháp
xử lý, gây tâm lý e ngại đối với các nhà đầu tƣ. Đặc biệt là đối với trƣờng hợp
các nhà đầu tƣ Trung Quốc mua cổ phần của doanh nghiệp kinh doanh nhiều
loại hình ngành nghề khác nhau, tỷ lệ mua cổ phần trong một số lĩnh vực,
ngành nghề cũng chƣa có văn bản nào quy định rõ là bao nhiêu. Ngoài ra,
nhiều vấn đề khác nhƣ trình tự, thủ tục mở chi nhánh, thanh lý, giải thể, chế
độ báo cáo thống kê... chƣa đƣợc hƣớng dẫn đầy đủ, hoặc chƣa đƣợc sửa đổi
phù hợp... Những tồn tại này đã làm giảm tính hiệu quả khi thi hành các Luật,
chính sách, khiến cho hoạt động thu hút FDI của Trung Quốc vào Việt Nam
giai đoạn qua còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân nằm ngay trong nội dung của
các văn bản pháp luật có liên quan, do đó cần phát hiện những bất hợp lý,
kém rõ ràng, chồng chéo, trùng lặp và không tƣơng thích để có biện pháp giải
quyết triệt để, tạo một khung pháp lý đồng bộ và minh bạch, giúp các nhà đầu
tƣ nói chung cũng nhƣ nhà đầu tƣ Trung Quốc nói riêng dễ dàng tìm hiểu và
đƣa ra quyết định đầu tƣ cuối cùng.
Nhƣ vậy, để có thể thu hút hơn nữa nguồn vốn FDI dồi dào từ Trung
Quốc, thời gian tới nƣớc ta cần tích cực học hỏi kinh nghiệm của các nƣớc
trong khu vực: xây dựng đƣợc một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhƣng đơn
giản, tăng cƣờng hơn nữa các ƣu đãi hợp lý dành cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài,
đồng thời hạn chế tối đa các thủ tục hành chính rƣờm rà, làm cho hệ thống
luật và chính sách liên quan đến hoạt động FDI của Việt Nam thực sự cạnh
tranh với các hệ thống luật và chính sách của các nƣớc trong khu vực nói
riêng và toàn thế giới nói chung.
3. Bài học trong công tác tạo môi trƣờng đầu tƣ thuận lợi, trong đó Nhà
nƣớc thân thiện, đóng vai trò là ngƣời hỗ trợ cho các nhà đầu tƣ
Để tăng cƣờng thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, một nƣớc cần tạo
dựng đƣợc một môi trƣờng đầu tƣ thuận lợi trong đó Nhà nƣớc đóng vai trò
87
hỗ trợ, tạo thuận lợi cho nhà đầu tƣ. Nhà đầu tƣ khi tiến hành đầu tƣ vào
một nƣớc phải giải quyết rất nhiều vấn đề từ khâu đăng ký đầu tƣ đến khâu
thực hiện dự án và cuối cùng là chấm dứt hoạt động. Các hoạt động này
đều ít nhiều liên quan đến chức năng quản lý của Nhà nƣớc. Rõ ràng nếu
Nhà nƣớc nào có các hoạt động hỗ trợ tích cực, tạo dựng đƣợc các yếu tố
thuận giúp cho nhà đầu tƣ dễ dàng xử lý các vấn đề trên thì nƣớc đó sẽ có
nhiều cơ hội thu hút đầu tƣ hơn. Các hoạt động hỗ trợ của Nhà nƣớc bao
gồm các hoạt động xúc tiến đầu tƣ (giới thiệu hình ảnh đất nƣớc, môi
trƣờng đầu tƣ, cơ hội đầu tƣ), các hoạt động hỗ trợ đầu tƣ, các dịch vụ tạo
thuận lợi cho đầu tƣ, thủ tục hành chính...
Nhiều nƣớc trong khu vực đã có hoạt động xúc tiến đầu tƣ rất hiệu quả
đồng thời tạo ra đƣợc một môi trƣờng thông thoáng với thủ tục đơn giản đã
thu hút các nhà đầu tƣ nói chung cũng nhƣ nhà đầu tƣ Trung Quốc nói riêng
lựa chọn là nơi bỏ vốn đầu tƣ. Điển hình nhƣ Singapore. Chính phủ Singapore
đã thực hiện rất tốt chức năng “Nhà nƣớc dịch vụ” đối với nhà đầu tƣ thông
qua việc cung cấp đầy đủ thông tin đầu tƣ với các hoạt động xúc tiến đầu tƣ có
hiệu quả, hƣớng dẫn và tạo điều kiện để nhà đầu tƣ thực hiện dự án một cách
nhanh chóng và tiện lợi nhất. Ủy ban phát triển kinh tế EDB trực thuộc Bộ
Thƣơng mại và Công nghiệp Singapore đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ
trợ doanh nghiệp FDI do chuyên môn hóa vào hoạt động xúc tiến đầu tƣ, phối
kết hợp đồng bộ với các ban ngành khác nhƣ cơ quan một cửa, tạo điều kiện
rất thuận lợi cho doanh nghiệp nƣớc ngoài đến xin tƣ vấn và hỗ trợ về tài
chính, kỹ thuật. EDB mở văn phòng tại các nƣớc trên thế giới trong đó có
Trung Quốc nhằm giới thiệu cơ hội đầu tƣ và trợ giúp các đối tác nƣớc ngoài
muốn đầu tƣ vào Singapore. Ngoài ra, EDB còn cung cấp hàng loạt các biện
pháp trợ giúp doanh nghiệp FDI nhƣ mở trang web đăng ký thành lập công ty
(the Registry of Company) cung cấp đầy đủ thông tin và mẫu đơn cần thiết tải
dễ dàng từ Internet, hỗ trợ 80% kinh phí hoạt động cho các quỹ phát triển
88
nguồn nhân lực nội bộ doanh nghiệp bằng việc lập Quỹ phát triển kỹ năng với
nhiều chƣơng trình đào tạo đa dạng (chƣơng trình đào tạo công nghệ thông
tin, quản trị kinh doanh, đào tạo cán bộ...), hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và
phát triển... (Bộ Thƣơng mại, 2000). Các hoạt động xúc tiến đầu tƣ tiến hành
thuận lợi và có hiệu quả là nhờ Chính phủ Singapore luôn dành một khoản
kinh phí không nhỏ cho hoạt động này. Ví dụ nhƣ năm 1999, Singapore chi 45
triệu đôla Singapore tƣơng ứng với 14% ngân sách nhà nƣớc cho hoạt động
xúc tiến đầu tƣ (Bộ Thƣơng mại, 2000). Các nhà đầu tƣ sau khi đặt trụ sở tại
Singapore còn nhận đƣợc trợ giúp tích cực từ Tổ chức kinh doanh quốc tế IE
Singapore. Nhằm khuyến khích hợp tác kinh doanh quốc tế, IE Singapore đã
hình thành các chƣơng trình trợ giúp đa dạng, thiết lập các mối quan hệ chiến
lƣợc với Chính phủ và các tổ chức kinh doanh khác thông qua mạng lƣới đa
dạng của họ, và thƣờng xuyên tổ chức các sự kiện thích hợp cho cộng đồng
kinh doanh ở Singapore, từ đó giúp nhà đầu tƣ tìm kiếm cơ hội kinh doanh
trên đất Singapore. Singapore đƣợc Ngân hàng thế giới (WB) xếp hạng là
nƣớc có môi trƣờng kinh doanh tốt nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng
trong nhiều năm trở lại đây. Nhà đầu tƣ chỉ phải trải qua rất ít bƣớc thủ tục,
tốn ít thời gian cũng nhƣ chi phí trong trong quá trình hoạt động kinh doanh từ
khâu khởi sự doanh nghiệp, giải quyết giấy phép, thuê mƣớn nhân công, nộp
thuế cho đến khâu đóng cửa doanh nghiệp. Nhà đầu tƣ tại Singapore luôn hài
lòng với các biện pháp hỗ trợ mà Nhà nƣớc cung cấp.
Chính việc cung cấp các biện pháp hỗ trợ hết sức hiệu quả của Chính
phủ Singapore đã lôi kéo các nhà đầu tƣ nói chung cũng nhƣ các nhà đầu tƣ
trong lĩnh vực dịch vụ của Trung Quốc nói riêng lựa chọn Singapore là địa
điểm đầu tƣ. Nhà nƣớc ta có thể học hỏi kinh nghiệm này từ Chính phủ
Singapore để tạo đƣợc một môi trƣờng đầu tƣ thuận lợi, góp phần thu hút hơn
nữa các nhà đầu tƣ Trung Quốc đến Việt Nam.
89
4. Bài học về việc chuẩn bị cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực để chủ động
tiếp nhận đầu tƣ.
Một môi trƣờng kinh tế thuận lợi với cơ sở hạ tầng hiện đại và nguồn
nhân lực có trình độ cao của nƣớc nhận đầu tƣ là một điều kiện quan trọng
tạo thuận lợi để nhà đầu tƣ nƣớc ngoài có thể triển khai và thực hiện dự án.
Nắm bắt đƣợc điều này, nhiều nƣớc trong ASEAN đã rất nỗ lực phát triển
hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực để tăng cƣờng thu hút FDI của Trung
Quốc và đã đạt đƣợc thành công nhất định. Những nỗ lực tạo dựng các yếu
tố môi trƣờng kinh tế thuận lợi cho lĩnh vực dịch vụ cơ bản của Singapore
và cho lĩnh vực khai thác tài nguyên của Indonesia thời gian qua là hai điển
hình cho Việt Nam học tập.
Singapore có định hƣớng thu hút FDI vào các lĩnh vực dịch vụ cơ bản
nhƣ tài chính (ngân hàng, bảo hiểm), giao nhận vận tải đặc biệt là vận tải
biển, bất động sản (xây dựng văn phòng, hạ tầng khu công nghiệp), xuất nhập
khẩu... nên rất chú trọng xây dựng nâng cấp các cơ sở vật chất cần thiết cho
phát triển các ngành dịch vụ này nhƣ cơ sở hạ tầng giao thông (hệ thống
đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng không, đƣờng biển, hệ thống cầu cảng, kho
bãi...), mạng lƣới viễn thông...
Trong lĩnh vực vận tải biển, để tận dụng tối đa vị trí địa lý chiến lƣợc là
trạm trung chuyển hàng hóa thuận lợi trên con đƣờng biển nối giữa ấn Độ
Dƣơng và Thái Bình Dƣơng, Singapore rất tích cực phát triển hệ thống cầu
cảng đặc biệt là cảng nƣớc sâu, bến bãi, gia tăng năng lực xếp dỡ hàng hóa...
Hạ tầng cảng biển thuận lợi giúp gia tăng hiệu suất hoạt động (thông qua việc
tăng quy mô, giảm thời gian bốc xếp...) của dịch vụ vận tải biển, nhờ đó thu
hút đƣợc nhiều nhà đầu tƣ lớn trong đó có các TNCs của Trung Quốc đầu tƣ
vào dịch vụ này.
Trong lĩnh vực tài chính, giao dịch chủ yếu thực hiện thông qua mạng
lƣới viễn thông nên việc Singapore có hệ thống viễn thông hiện đại trong
90
nƣớc và quốc tế đã giúp giảm chi phí cũng nhƣ thời gian giao dịch của nhà
đầu tƣ với các đối tác trong và ngoài nƣớc. Bên cạnh đó, ngay bản thân các
thể chế tài chính của Singapore có năng lực lớn mạnh đã tạo một môi trƣờng
cạnh tranh cũng nhƣ hợp tác có hiệu quả cho các doanh nghiệp FDI...
Trong lĩnh vực bất động sản (xây dựng văn phòng, KCN...), vấn đề giải
phóng mặt bằng đƣợc Singapore xử lý rất nhanh chóng, kịp thời bàn giao
đúng tiến độ cho nhà đầu tƣ. Việc làm này giúp các doanh nghiệp FDI của
Trung Quốc hoạt động trong lĩnh vực bất động sản tiết kiệm thời gian cũng
nhƣ chi phí, tăng hiệu quả hoạt động.
Sau những nỗ lực trên, cơ sở hạ tầng của Singapore đƣợc đánh giá là
tốt nhất khu vực Đông Nam Á với các sân bay quốc tế, cảng container, hệ
thống công nghệ thông tin hiện đại, hệ thống giao thông luôn thông suốt... tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động mở cửa cũng nhƣ cung cấp dịch vụ của các
nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại nƣớc này. Cơ sở hạ tầng phát triển đã góp phần thu
hút nhiều nhà đầu tƣ Trung Quốc đầu tƣ vào lĩnh vực dịch vụ của Singapore
giai đoạn vừa qua.
Nhân tố thứ hai mà Singapore đã làm rất tốt là việc phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài trong các lĩnh vực dịch
vụ cơ bản. Singapore đã thành lập các trƣờng đào tạo suốt đời (school of
lifelong learning), xây dựng một kế hoạch đào tạo hoàn chỉnh và đồng bộ cho
sinh viên, chú trọng giảng dạy các môn kinh tế (tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, giao nhận và vận tải, xuất nhập khẩu...). Bằng đại học kinh tế của
nhiều trƣờng tại Singapore đƣợc công nhận trên phạm vi quốc tế. Mỗi năm
Chính phủ Singapore đều dành một phần đáng kể trong ngân sách cho phát
triển giáo dục đào tạo. Chính phủ còn cử các cán bộ ra nƣớc ngoài đào tạo
cùng nhiều chính sách khuyến khích ngƣời dân ra nƣớc ngoài học tập, trở về
nƣớc phục vụ phát triển kinh tế. Nguồn nhân lực có trình độ của Singapore
91
đáp ứng đƣợc nhu cầu về lao động trong các lĩnh vực dịch vụ cơ bản của các
nhà đầu tƣ nƣớc ngoài.
Kết quả của các nỗ lực trên là hàng loạt các TNCs lớn của Trung Quốc
đã đầu tƣ vào lĩnh vực dịch vụ cơ bản của Singapore, góp phần quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế cho đất nƣớc Singapore. Các tập đoàn lớn
của Trung Quốc thuộc danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới (Top
Fortune Global 500) nhƣ công ty vận tải biển Trung Quốc COSCO, các
ngân hàng lớn thuộc sở hữu Nhà nƣớc nhƣ ngân hàng Trung Uơng Trung
Quốc Bank of China, ngân hàng nông nghiệp Trung Quốc Agricultural
Bank of China, ngân hàng công thƣơng Trung Quốc Industrial and
Commercial Bank of China, ngân hàng xây dựng Trung Quốc China
Construction Bank... đều đã mở chi nhánh tại Singapore và hoạt động rất
có hiệu quả, không chỉ thu lợi nhuận cho bản thân doanh nghiệp mà còn
đóng góp to lớn cho quá trình phát triển kinh tế nói chung cũng nhƣ hoạt
động xuất nhập khẩu nói riêng của Singapore (Wu, 2002).
Một bài học kinh nghiệm khác là nỗ lực nâng cấp cơ sở hạ tầng của
Indonesia để thu hút FDI của Trung Quốc vào ngành khai mỏ. Có thể thấy, do
chƣa có đủ năng lực để khai thác dầu khí, Indonesia rất chú trọng cải thiện cơ
sở hạ tầng để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tƣ trong
lĩnh vực dầu khí nhƣ xây dựng các đƣờng ống dẫn dầu mỏ, khí gas từ các mỏ
của nhà đầu tƣ đang khai thác đến các thành phố, tạo thuận lợi trong việc vận
chuyển sản phẩm cho các nhà đầu tƣ. Với các điều kiện thuận lợi mà
Indonesia cung cấp, nhiều TNCs của Trung Quốc nhƣ Tổng công ty dầu khí
ngoài khơi quốc gia Trung Quốc CNOOC, Tổng công ty dầu khí quốc gia
Trung Quốc CNPC đã đầu tƣ và khai thác các mỏ dầu tại Indonesia, gia tăng
sản lƣợng dầu xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu xuất khẩu của
Indonesia.
92
Nhƣ vậy, một điều kiện quan trọng để có thể thu hút đƣợc các nhà đầu
tƣ Trung Quốc nói chung và các nhà đầu tƣ vào lĩnh vực dịch vụ cơ bản và
khai mỏ nói riêng là tạo lập một cơ sở hạ tầng thuận lợi với một nguồn nhân
lực có trình độ cao, đáp ứng đƣợc nhu cầu của nhà đầu tƣ.
Sau khi gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO (2007), Việt Nam
đã cam kết mở cửa lĩnh vực dịch vụ cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, đây là một
hƣớng đi đúng đắn cho phát triển kinh tế của nƣớc ta trong giai đoạn hiện
nay. Hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu của nƣớc ta tăng trƣởng mạnh mẽ
trong thời gian gần đây. Mức độ phát triển của sản xuất, xuất nhập khẩu đã
vƣợt xa khả năng đáp ứng của các ngành dịch vụ trong nƣớc. Để cải tiến và
phát triển thƣơng mại hàng hóa thì phát triển dịch vụ cơ bản mang tính hỗ trợ
nhƣ ngân hàng, bảo hiểm, giao nhận vận tải... là việc làm cấp thiết hiện nay.
Việt Nam hoàn toàn có cơ hội thu hút FDI của Trung Quốc đặc biệt là các
TNCs vào các lĩnh vực dịch vụ này. Hiện nay chúng ta đã đáp ứng đƣợc “điều
kiện cần” để thu hút đƣợc sự chú ý của nhà đầu tƣ trong lĩnh vực dịch vụ cơ
bản, đó là dung lƣợng thị trƣờng ngày càng mở rộng với hoạt động sản xuất,
xuất nhập khẩu tăng trƣởng nhanh. Hơn nữa, Việt Nam sở hữu một vị trí địa
lý vô cùng thuận lợi để có thể phát triển thành một trạm trung chuyển hàng
hóa nhƣ Singapore. Nhu cầu liên kết và giao thƣơng giữa các nƣớc, các khu
vực ngày càng phát triển là một cơ hội to lớn để Việt Nam phát triển các lĩnh
vực dịch vụ cơ bản đặc biệt là dịch vụ vận tải biển. Để có thể tận dụng triệt để
lợi thế này, Việt Nam cần tạo một môi trƣờng đầu tƣ với các điều kiện cơ sở
vật chất thuận lợi đảm bảo cho việc triển khai và thực hiện dự án của nhà đầu
tƣ Trung Quốc.
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú nhƣ than, quặng
sắt, thiếc... Mặc dù khai thác khoáng sản không phải là lĩnh vực mà Việt Nam
ƣu tiên đầu tƣ nhƣng do năng lực trong nƣớc chƣa đủ để khai thác có hiệu quả
nguồn tài nguyên này nên việc thu hút các dự án có quy mô hợp lý là cần
93
thiết. Tuy nhiên, các vùng tập trung nhiều khoáng sản thƣờng là các vùng sâu,
vùng xa nên hạ tầng còn yếu kém. Để tăng cƣờng thu hút FDI của Trung
Quốc vào khai khoáng, Việt Nam cần nâng cao chất lƣợng hệ thống giao
thông tại các vùng này.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM THU HÚT FDI CỦA TRUNG QUỐC
VÀO VIỆT NAM
1. Giữ vững ổn định chính trị, lành mạnh hóa môi trƣờng kinh tế vĩ mô
Trong những năm vừa qua, nƣớc ta dƣới sự lãnh đạo thống nhất và
xuyên suốt của một Đảng - Đảng Cộng Sản Việt Nam, Đảng đƣợc sự đồng
lòng ủng hộ nhất trí của toàn dân nên nền chính trị của nƣớc ta rất ổn định,
đƣợc dƣ luận thế giới đánh giá cao. Trong điều kiện tình hình thế giới có
nhiều biến động thì sự ổn định chính trị của nƣớc ta là một lợi thế so sánh cần
đƣợc tăng cƣờng. Để chính trị luôn đƣợc giữ vững, Đảng cầm quyền phải
phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo đối với sự nghiệp xây dựng đất nƣớc, đảm
bảo tăng trƣởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói
giảm nghèo, hạn chế bớt chênh lệch giữa ngƣời giàu ngƣời nghèo, giữa thành
thị với nông thôn, giữa các vùng kinh tế.
Bên cạnh chính trị ổn định, sự ổn định và phát triển của nền kinh tế vĩ
mô theo hƣớng tích cực cũng là tiền đề cho việc mở rộng và nâng cao hiệu
quả hoạt động của FDI. Môi trƣờng kinh tế vĩ mô thuận lợi cho đầu tƣ bao
hàm sự lành mạnh về giá cả hàng hoá nguyên vật liệu, về giá trị đồng tiền và
tỉ giá hối đoái, về hoạt động của hệ thống ngân hàng, thị trƣờng vốn, cơ chế tổ
chức quản lý nền kinh tế. Hai công cụ quản lý đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc tạo lập và ổn định môi trƣờng kinh tế vĩ mô là chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ.
Hiện nay, Việt Nam đang là nƣớc có tỷ lệ lạm phát cao nhất Đông Á.
Lạm phát cao tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, khiến cho chi
phí đầu vào của sản xuất kinh doanh gia tăng gây khó khăn cho hoạt động của
94
các doanh nghiệp FDI. Nhanh chóng hạn chế lạm phát, ổn định kinh tế phải là
mục tiêu ƣu tiên hàng đầu của Việt Nam để đảm bảo một môi trƣờng kinh
doanh thuận lợi cho các nhà đầu tƣ nói chung cũng nhƣ nhà đầu tƣ Trung
Quốc nói riêng. Để làm đƣợc điều này, Nhà nƣớc cần kết hợp một cách hợp
lý, có hiệu quả hai công cụ vĩ mô quan trọng là chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ.
2. Hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách đối với FDI
Về vấn đề thông thoáng của luật: Chính phủ cần tiếp tục cải tiến quá
trình kiểm tra, thẩm định dự án, rút ngắn thời hạn kiểm tra, từng bƣớc chuyển
từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” theo hƣớng đơn giản hóa các thủ tục, mở rộng
diện đăng ký trong cấp phép đầu tƣ và tăng cƣờng hậu kiểm làm cho hoạt
động đầu tƣ ngày càng có chất lƣợng.
Về các chính sách ƣu đãi: Với đặc thù chế độ sở hữu đất đai thuộc Nhà
nƣớc, việc cho phép nhà đầu tƣ tự quyết định thời hạn đầu tƣ là không thể, tuy
nhiên Nhà nƣớc cần giảm bớt hạn chế liên quan đến thời hạn đầu tƣ bằng
cách kéo dài thời gian sao cho hợp lý vừa tính đến lợi ích của Nhà nƣớc vừa
tính đến lợi ích lâu dài của nhà đầu tƣ. Bên cạnh đó, Chính phủ cần xem xét
một cách toàn diện đƣợc và mất khi cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
(đang ở mức 28%) và kéo dài thời gian ƣu đãi miễn giảm thuế. Đồng thời,
Chính phủ cũng cần chú trọng thu hút đầu tƣ bằng các biện pháp khác nhƣ tạo
các yếu tố tạo thuận lợi trong kinh doanh (xúc tiến đầu tƣ có hiệu quả, thủ tục
hành chính đơn giản), tạo các yếu tố môi trƣờng kinh tế thuận lợi (cơ sở hạ
tầng hiện đại, nguồn nhân lực có trình độ cao…).
Về tỷ lệ mua cổ phần: Chính phủ nên xem xét soạn riêng một nghị định
hƣớng dẫn về mua bán, sáp nhập có liên quan đến yếu tố nƣớc ngoài, trong đó
hƣớng dẫn cụ thể doanh nghiệp nƣớc ngoài mua cổ phần doanh nghiệp trong
nƣớc.
95
Về vấn đề đồng bộ của luật: trƣớc mắt, để tiếp tục đẩy mạnh việc thi
hành Luật đầu tƣ và Luật doanh nghiệp 2005 và các nghị định hƣớng dẫn, các
Bộ, ngành, UBND các cấp cần nhanh chóng bãi bỏ những quy định không cần
thiết, bổ sung, sửa đổi các quy định khác có liên quan theo hƣớng rõ ràng, đầy
đủ; Chính phủ cần ban hành ngay danh mục các điều kiện đầu tƣ đối với dự
án đầu tƣ trong lĩnh vực đầu tƣ có điều kiện quy định tại Điều 29, Luật đầu tƣ
2005, đồng thời rà soát việc triển khai thực hiện các cam kết về mở cửa thị
trƣờng cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài theo đúng các cam kết của WTO, công
khai các văn bản pháp quy của các Bộ, ngành có liên quan về điều kiện đầu tƣ
hoặc hành nghề của doanh nghiệp nói chung để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với cam kết của Nhà nƣớc.
Tuy nhiên để giải quyết triệt để vấn đề không đồng bộ giữa các luật thì
Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ cần phối hợp với các Bộ có liên quan nghiên cứu,
soạn thảo, ban hành nghị định sửa đổi Nghị định số 108/2006/NĐ-CP trong
đó tập hợp và giải quyết tập trung tất cả các vấn đề liên quan đến đầu tƣ.
3. Nhóm giải pháp hỗ trợ nhà đầu tƣ Trung Quốc
Về công tác xúc tiến đầu tƣ: Để tăng hiệu quả của hoạt động xúc tiến
đầu tƣ, Việt Nam cần nhanh chóng thực hiện các giải pháp sau:
- Thành lập một cơ quan cấp quốc gia chuyên môn hóa vào hoạt động
xúc tiến đầu tƣ (hiện nay hoạt động này thuộc trách nhiệm của Bộ Kế hoạch
và Đầu tƣ).
- Thiết lập các trung tâm chuyên xúc tiến đầu tƣ tại một số địa bàn trọng
điểm ở Trung Quốc để chủ động tiếp cận, vận động, xúc tiến trực tiếp đối với
các nhà đầu tƣ có tiềm năng nhất là các TNCs của Trung Quốc (hiện nay chỉ
có Đại sứ quán của Việt Nam tại Trung Quốc thực hiện hoạt động xúc tiến đầu
tƣ tại nƣớc này).
- Đổi mới phƣơng thức xúc tiến đầu tƣ, chuyển mạnh sang hình thức vận
động đầu tƣ theo các dự án và đối tác trọng điểm.
96
- Tăng cƣờng công tác đào tạo bồi dƣỡng cán bộ làm công tác xúc tiến
đầu tƣ đồng thời vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các
lớp đào tạo về xúc tiến đầu tƣ.
- Thiết lập hệ thống quản lý thông tin để các cơ quan có liên quan có thể
trao đổi, sử dụng và hỗ trợ nhau trong công tác xúc tiến đầu tƣ.
- Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tƣ thông qua các hoạt động đối
ngoại, sử dụng tổng hợp các phƣơng tiện kêu gọi đầu tƣ thông qua các phƣơng
tiện truyền thông đại chúng nhƣ Internet, hội thảo, hội chợ... Kết hợp chặt chẽ
các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nƣớc với hoạt động
xúc tiến đầu tƣ tại Trung Quốc, tận dụng hội chợ triển lãm Trung Quốc -
ASEAN đƣợc tổ chức hàng năm để vận động giới thiệu tới các nhà đầu tƣ
Trung Quốc hình ảnh một đất nƣớc Việt Nam với một môi trƣờng đầu tƣ thực
sự hấp dẫn.
- Tài liệu phục vụ công tác xúc tiến đầu tƣ phải đƣợc cập nhật, phản ánh
kịp thời các thay đổi của môi trƣờng đầu tƣ trong nƣớc, đƣợc thể hiện dƣới
nhiều ngôn ngữ trong đó có tiếng Trung.
Nội dung của hoạt động xúc tiến đầu tƣ không chỉ dừng lại ở việc giới
thiệu môi trƣờng đầu tƣ, cơ hội đầu tƣ mà cần mở rộng ra các hoạt động hỗ
trợ cho đầu tƣ và các dịch vụ tạo thuận lợi cho đầu tƣ nhƣ :
- Tổ chức thƣờng xuyên các hội thảo, hội chợ để tạo cơ hội cho các
doanh nghiệp FDI nói chung và doanh nghiệp FDI của Trung Quốc nói riêng
tìm kiếm đối tác.
- Thiết lập quỹ hỗ trợ cho các chƣơng trình đào tạo nguồn nhân lực nội
bộ các doanh nghiệp FDI.
- Thành lập các tổ chức tƣ vấn đầu tƣ chuyên ngành ở một số địa phƣơng
để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ triển khai dự án khi đƣợc cấp giấy phép đầu tƣ
nhƣ dịch vụ về đất đai, dịch vụ quản lý xây dựng...
97
- Khuyến khích các công ty tƣ nhân có năng lực đứng ra kinh doanh
cung cấp dịch vụ tƣ vấn để phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu của nhà đầu tƣ.
Để đảm bảo kinh phí thực hiện các giải pháp trên cần tiếp tục tăng
nguồn kinh phí hàng năm của Quỹ xúc tiến đầu tƣ.
Về thủ tục hành chính: Để thực hiện hiệu quả công tác phân cấp quản
lý Nhà nƣớc, từ đó đơn giản hóa các thủ tục hành chính, cần :
- Phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm cho từng cơ quan có liên quan (Sở
Kế hoạch và Đầu tƣ, Sở Tài nguyên và Môi trƣờng, Sở Văn hóa thông tin...).
- Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc về đầu tƣ tại địa phƣơng phối hợp đồng
bộ, tập trung giải quyết các thủ tục cho nhà đầu tƣ theo đúng tinh thần của cơ
chế một cửa liên thông.
- Cần phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ với các cơ sở quản lý đầu tƣ
tại địa phƣơng do năng lực tại địa phƣơng vẫn còn yếu, chƣa thực hiện có
hiệu quả việc phân cấp quản lý đầu tƣ.
- Qui định rõ ràng, công khai các thủ tục, đơn giản hoá và giảm bớt các
thủ tục không cần thiết liên quan đến đầu tƣ tại các Bộ, ngành, địa phƣơng.
- Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện
tốt công tác quản lý đầu tƣ, kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trƣờng hợp sách
nhiễu, cửa quyền, vô trách nhiệm gây phiền hà cho nhà đầu tƣ.
4. Nhóm giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lƣợng nguồn
nhân lực
Để tăng cƣờng thu hút FDI của Trung Quốc, Việt Nam cần giải quyết
triệt để các vấn đề còn tồn tại liên quan đến cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực.
Về cơ sở hạ tầng: Tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng bằng cách rà soát lại
toàn bộ các công trình đã và đang thực hiện, sẵn sàng phá đi, làm lại các công
trình không đảm bảo chất lƣợng. Các công trình mới chuẩn bị đƣợc xây dựng
phải đƣợc tính toán thật kỹ lƣỡng, quy hoạch xây dựng phải đồng bộ và hợp
lý. Do Ngân sách Nhà nƣớc chƣa thể đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng, Nhà nƣớc
98
cần huy động và sử dụng một cách hiệu quả mọi nguồn lực trong và ngoài
nƣớc đặc biệt là nguồn vốn tƣ nhân và nguồn vốn FDI. Các dự án kêu gọi đầu
tƣ cần ƣu tiên tập trung vào các công trình trọng điểm nhƣ các khu cảng nƣớc
sâu, sân bay quốc tế, các tuyến đƣờng giao thông huyết mạch, mạng lƣới công
nghệ thông tin hiện đại...
Trong lĩnh vực dịch vụ vận tải biển, vấn đề xây dựng khu cảng cần kết
hợp cả đầu tƣ mở rộng và xây dựng mới hệ thống cảng biển nƣớc sâu với định
hƣớng đáp ứng nhu cầu của tàu container dung tích lớn, bên cạnh đó cần phát
triển các yếu tố phụ trợ đi kèm để gia tăng năng lực cảng biển nhƣ năng lực
quản trị, thiết bị hiện đại và nhân lực chuyên môn. Bộ Giao thông vận tải xem
xét cử ra một ban chuyên trách trong việc lập quy hoạch tổng thể và xây
dựng, phát triển cảng biển với mục tiêu nhanh chóng và hiệu quả khi mốc
2009 mở cửa cho lĩnh vực vận tải biển đang đến gần.
Trong lĩnh vực tài chính, cần phát triển mạng lƣới viễn thông một cách
đồng bộ, áp dụng công nghệ cao đáp ứng đƣợc nhu cầu đa dịch vụ (nhƣ
Internet băng thông rộng, đƣờng truyền tốc độ cao, fax, điện thoại công nghệ
cao...), đảm bảo chất lƣợng, dung lƣợng và thời gian kết nối. Thêm vào đó,
Chính phủ cần có các chính sách ƣu đãi cho đầu tƣ trong lĩnh vực bƣu chính
viễn thông để tăng cƣờng thu hút các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài có thế mạnh về
công nghệ, nhân lực đầu tƣ vào ngành này; đồng thời chú trọng phát triển
mạng lƣới liên lạc của các thể chế tài chính trong nƣớc đảm bảo các giao dịch
đƣợc thực hiện thông suốt, nhanh gọn. Ngoài ra, bản thân các thể chế tài
chính trong nƣớc cũng cần tăng cƣờng năng lực hoạt động để trở thành các
đối tác tiềm năng tạo một môi trƣờng cạnh tranh và hợp tác hiệu quả, thu hút
các ngân hàng lớn của Trung Quốc bỏ vốn đầu tƣ.
Trong lĩnh vực bất động sản (xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, xây dựng
văn phòng...), vấn đề giải quyết mặt bằng đất đai cho nhà đầu tƣ cần đƣợc chú
trọng hàng đầu. Nhà nƣớc cần nâng cao chất lƣợng các quy hoạch sử dụng
99
đất, quy hoạch đô thị, quy hoạch đầu tƣ phát triển bất động sản một cách công
khai, minh bạch; đồng thời tiếp tục cải cách hơn nữa các thủ tục liên quan đến
đất đai, đặc biệt là thủ tục giao đất cho thuê đất đối với các nhà đầu tƣ tạo
thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, điều chỉnh
một số nội dung trong quy định về giải phóng mặt bằng, bồi thƣờng, hỗ trợ,
tái định cƣ đặc biệt là thời hạn công bố công khai phƣơng án. UBND các địa
phƣơng cần kiên quyết tổ chức cƣỡng chế thực hiện giải phóng mặt bằng các
trƣờng hợp đã đền bù theo đúng chính sách và quy định của Nhà nƣớc nhƣng
vẫn không chấp hành.
Trong lĩnh vực khai mỏ, do khoáng sản tập trung chủ yếu ở vùng sâu,
vùng xa, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, Nhà nƣớc cần kết hợp nhiều biện pháp để
phát triển hệ thống giao thông tại các vùng này nhƣ tạo nhiều ƣu đãi cho các
nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, ký các hợp đồng BOT, BTO, BT với các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài hoặc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) để đầu tƣ nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông tại các vùng xa xôi, hẻo
lánh.
Về nguồn nhân lực, có thể thấy khi đầu tƣ vào Việt Nam, nhu cầu chủ
yếu của nhà đầu tƣ Trung Quốc về nguồn nhân lực có trình độ là trong lĩnh
vực tài chính (ngân hàng, bảo hiểm), giao nhận vận tải và xuất nhập khẩu. Do
đó, cần tăng cƣờng công tác đào tạo sinh viên tại các trƣờng đại học có liên
quan nhƣ Đại học Ngoại thƣơng, Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính...
Ngoài ra, một số trƣờng chƣa chú trọng đến đào tạo ngoại ngữ cho sinh viên
cần nhanh chóng có chƣơng trình giảng dạy ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng
Trung) hiệu quả để có thể cung nguồn nhân lực vừa giỏi trình độ chuyên môn
vừa biết ngoại ngữ để giao tiếp thuận lợi với nhà đầu tƣ nƣớc ngoài mà ở đây
là nhà đầu tƣ Trung Quốc. Ngành giáo dục cần tăng cƣờng hợp tác đào tạo
với các trƣờng quốc tế, khuyến khích sinh viên đi du học để tiếp cận các kiến
thức hữu ích, đáp ứng nhu cầu nhân lực trong lĩnh vực dịch vụ cơ bản. Nhà
100
nƣớc cần có chính sách đãi ngộ ngƣời tài để tận dụng tối đa nguồn nghiên cứu
sinh, sinh viên du học ở nƣớc ngoài có trình độ cao về phục vụ đất nƣớc.
KẾT LUẬN
Có thể nhận thấy đầu tƣ vào lĩnh vực khai mỏ, dệt may – da giầy và
dịch vụ cơ bản đã, đang và sẽ là xu hƣớng chủ đạo mà các doanh nghiệp
Trung Quốc đầu tƣ vào các nƣớc ASEAN cũng nhƣ vào Việt Nam.
Mặc dù hiện tại Trung Quốc chƣa phải là đối tác trọng điểm của Việt
Nam trong việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, tuy nhiên có thể
thấy Trung Quốc có thế mạnh trong lĩnh vực dịch vụ cơ bản mà Việt Nam
đang rất cần phát triển. Bên cạnh đó lĩnh vực dệt may, da giầy là ngành Việt
Nam có lợi thế và có tiềm lực xuất khẩu lớn, giải quyết đƣợc vấn đề việc làm
cho ngƣời lao động có trình độ phổ thông, đồng thời lĩnh vực khai mỏ giúp
phát triển kinh tế vùng sâu vùng xa. Do đó, khai thác đƣợc thế mạnh vốn có
của Trung Quốc sẽ góp phần giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu kinh tế -
xã hội của mình.
Kinh nghiệm của các nƣớc ASEAN trong việc thu hút FDI của Trung
Quốc, đặc biệt là của Singapore trong lĩnh vực dịch vụ cơ bản, của Indonesia
trong lĩnh vực khai mỏ, của Campuchia trong lĩnh vực dệt may – da giầy cho
thấy để tăng cƣờng thu hút FDI của Trung Quốc, Việt Nam cần giải quyết tốt
một số vấn đề sau. Đó là giữ vững ổn định kinh tế, chính trị; hoàn thiện hệ
thống pháp luật theo hƣớng thông thoáng và đồng bộ; Nhà nƣớc phải đóng vai
trò là ngƣời hỗ trợ cho các hoạt động của nhà đầu tƣ đồng thời phải tăng
cƣờng cải thiện chất lƣợng cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực.
Trong khuôn khổ một bài khóa luận, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhƣng
do hạn chế về tầm nhìn cũng nhƣ hiểu biết, những nhận định và phân tích của
101
em chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận đƣợc sự góp ý của thầy
cô và độc giả để luận văn đƣợc hoàn thiện và có tính hữu dụng.
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Thƣơng mại (2000), Những điều cần biết về thị trường Singapore,
NXB Lao động, Hà Nội.
2. Cục đầu tƣ nƣớc ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2007), Báo cáo đầu
tư trực tiếp của Trung Quốc vào Việt Nam năm 2006, Hà Nội.
3. Cục đầu tƣ nƣớc ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2007), Hai mươi năm
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1988-2007).
4. Cục đầu tƣ nƣớc ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2008), Tình hình đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam quý I năm 2008.
5. Cục đầu tƣ nƣớc ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2007), Tổng hợp tình
hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2007, dự báo năm 2008.
6. Chính phủ (2006), Nghị định số 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư mới, Hà Nội.
7. Trịnh Thị Hậu (2007), Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc
vào Việt Nam: thực trạng và giải pháp.
8. Kiêm Hƣơng (2008), Chính sách khai thác tài nguyên châu Phi của
Trung Quốc, Kinh tế quốc tế số 006-TTX, Thông tấn xã Việt Nam.
9. PGS.TS. Tăng Văn Khiên (2004), Phân tích biến động chỉ tiêu GDP
thời kỳ 1991-2003 và dự đoán đến năm 2010, Tổng cục thống kê
10. Thông tấn xã Việt Nam (2008), Tài liệu tham khảo đặc biệt số 075-TTX.
11. Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tƣ 2005 (2008),
Báo cáo rà soát đánh giá các nội dung không tương thích giữa Luật
Đầu tư và các luật khác có liên quan và kiến nghị bổ sung sửa đổi.
12. Viện kinh tế và chính trị thế giới (2004), Môi trường đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) ở các nước ASEAN-5, Trung Quốc và Việt Nam
những năm gần đây.
103
13. ASEAN Secretariat (2006), Statistics of foreign direct investment in
ASEAN, eighth edition, 2006.
14. ASEAN Secretariat (2007), Statistics of foreign direct investment in
ASEAN, ninth edition, 2007.
15. Bank of Tokyo – Mitsubishi UFJ Ltd. (2006), Economic review –
outward investment by China Gathering Stream under the Go Global
Stretagy.
16. Central Intelligence Agency (2007), The World Factbook.
17. China Ministry of Commerce (2006), 2006 statistical bulletin of
China’s outward foreign direct investment.
18. Deutsche Bank (2006), Global champion in waiting perspectives on
China’s overseas direct investment.
19. Eurasia Group (2006), China’s overseas investments in oil and gas
production
20. Imad A.Moosa (2002), Foreign Direct Investment: Theory, Evidence
and Practice, Palgrave.
21. Leonard K. Cheng, Zihui Ma (2007), China’s Outward FDI: Past and
Future.
22. Randall Morck, Bernard Yeung, Minyuan Zhao (2007), Perspectives on
China’s Outward Foreign Direct Investment.
23. Ren Yi (2006), Motivation of Chinese investment in Vietnam, Science
press, 2006.
24. Poncet, Sandra (2007), Inward and Outward Foreign Direct
Investment in China.
25. WWF (2007), Re-think Chinese Outward Investment Flows.
26. Wu, Friedrich (2005), Coporate China Goes Global
27. Wu, Friedrich (2002), China’s rising investment in Southeast Asia:
How ASEAN and Singapore can benefit?
104
28. Các website:
- Vietnamnet (2005),
- Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế Việt Nam (2005),
- Doanh nghiệp 24h (2007),
- Thông tấn xã Việt Nam (2004),
- Vneconomy (2006),
75024585c9443
- Tạp chí Cộng Sản (2007),
136
- Website hợp tác kinh tế thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc (2008),
&col_no=553
- Tuầnvietnam.net (2008),
=3429
- Chinaeconomicreview (2006),
105
PHỤ LỤC
BẢNG PHÂN NGÀNH KINH TẾ QUỐC DÂN
106
107
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4066_2966.pdf