Hiện nay lĩnh vực giám định rất đa dạng và phong phú, hầu như bao
trùm toàn bộcác mặt của đời sống xã hội. Các tổchức giám định không chỉ
đảm nhận việc giám định các sản phẩm hàng hoá mà còn giám định các khâu
trong quá trình sản xuất hàng hoá và các lĩnh vực liên quan đến hàng hoá theo
yêu cầu của khách hàng nhằm đảm bảo chất lượng của các sản phẩmsản xuất
ra. Bên cạnh đó do quá trình hội nhập và mởcửa giao lưu quốc tếnên tại Việt
Nam ngoài các loại hình giám định truyền thống còn ra đời nhiều loại hình
giám định mới như: giám định thông tin, giám định thiết kế, thẩm định
giá, cũng đang phát triển mạnh. Đặc biệt thị trường giám định Việt Nam
hiện nay quá lộn xộn, phức tạp với các thành phần tham gia giám định, chính
vì thếcác nhà kinh doanh cần sáng suốt lựa chọn cho mình một đối tác giám
định có hiệu quảvà độan toàn cao nhất. Cũng do nhiều thành phần tham gia
nhưvậy nên đã có sựcạnh tranh không lành mạnh gây khó khăn cho các tổ
chức giám định làm ăn chân chính, tuân thủpháp luật.
110 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3361 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Dịch vụ giám định hàng hoá xuất nhập khẩu và các giải pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám định hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăn cứ vào biểu thuế để đưa ra kết luận. Tình trạng
trên là do cơ quan giám định non tay cũng như thiết bị kỹ thuật còn hạn chế.
Thực tế, hiện nay các công ty kinh doanh dịch vụ giám định đua nhau ra đời
trong khi lực lượng cán bộ chuyên nghiệp và máy móc không đảm bảo, nhiều
đơn vị đã trở thành ”cò” hoặc làm trung gian trong loại dịch vụ khá béo bở
này.
Tuy đã cố gắng cải tiến nhưng cơ cấu tổ chức, thủ tục hành chính trong
quản lí điều hành công việc nhất là trong kinh doanh vẫn còn cồng kềnh, hiệu
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 73
quả chưa cao như mong muốn, chưa thực sự đáp ứng với những đòi hỏi mới
ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Việc kiểm soát chất lượng dịch vụ
trên hồ sơ, giấy tờ đã có điều kiện để làm tốt hơn song việc kiểm tra, kiểm
soát hoạt động của giám định viên ngoài hiện trường, việc kiểm tra kết quả
giám định thực tế ngoài hiện trường vẫn là một vấn đề rất khó khăn.
Một điều nhiều năm nay chúng ta mong muốn là đặt được một vài cơ
quan đại diện của các công ty giám định Việt Nam tại nước ngoài nhưng vẫn
chưa thực hiện được vì nhiều lí do khác nhau.
Một bộ phận đội ngũ cán bộ, giám định viên còn có những hạn chế về
chuyên môn, tuổi lại cao do lịch sử để lại, trong khi giám định viên trẻ còn
thiếu kinh nghiệm. Nhìn chung trình độ giám định viên chưa đáp ứng được
những nhiệm vụ lâu dài. Ở hầu hết các công ty giám định đều có những vụ
giám định bị khách hàng kêu ca hoặc bị khiếu nại do cấp kết quả sai hoặc
giám định viên có thái độ không đúng mực. Thậm chí có những vụ cán bộ,
giám định viên bị cơ quan pháp luật điều tra, xem xét và phải ra hầu toà, có
những vụ đặc biệt nghiêm trọng như: vụ giám định than, vụ giám định chè,
giám định sắt thép, vụ việc liên quan đến giám định xăng dầu, giám định gạo,
giám định ô tô…và gần đây nhất là vụ giám định tinh dầu tại Vinh, Nghệ An
liên quan đến vụ án chiếm đoạt tiền hoàn thuế VAT lớn nhất Hà Nội13. Theo
cáo trạng ngày 10/6/2002 (lập trên cơ sở kết luận điều tra bổ sung ngày
24/5/2002 của Cảnh sát điều tra Bộ Công an), trách nhiệm chính trong vụ án
vẫn thuộc về ông Nguyễn Thừa Hùng, Trạm trưởng trạm Vinacotrol tại Vinh
(Nghệ An). Ông đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, không thực hiện đúng quy
trình, cấp chứng thư giám định chất lượng hàng cho Nguyễn Viết Thìn (Giám
đốc Công ty tinh dầu, là chủ hàng)- Tên này đã cùng đồng bọn lập bộ chứng
từ hợp đồng bán khống hơn 280 tấn tinh dầu xả, quế…trị giá 72,3 tỉ đồng để
xin hoàn thuế VAT và đã rút được hơn 7,2 tỉ đồng từ Ngân sách Nhà nước.
Nguyên nhân của những vụ việc nói trên là do trình độ chuyên môn, nghiệp
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 74
vụ của giám định viên còn yếu kém, không nghiêm chỉnh chấp hành các quy
định, quy trình, phương pháp giám định, coi thường kỷ cương, thiếu đạo đức
nghề nghiệp, chạy theo những nhu cầu cá nhân ích kỷ, các công ty giám định
và Nhà nước còn chưa kiên quyết thi hành kỷ luật. Những vụ vi phạm kỷ luật
nói trên xảy ra đã thể hiện công tác quản lý, giáo dục cán bộ còn lỏng lẻo, sơ
hở và chưa đầy đủ. Hậu quả của những vụ việc đó là rất lớn, làm giảm uy tín
của công ty giám định, làm mất khách hàng, mất nhiều thời gian để xử lí và
giải quyết.
Tình trạng cùng một mặt hàng nhưng các cơ quan giám định cho các kết
quả khác nhau, thậm chí cùng một cơ quan kết quả của hai lần giám định cũng
ngược nhau. Tình trạng này khiến nhiều doanh nghiệp thiệt đơn thiệt kép, vừa
tốn công sức, vừa tiền mất tật mang. Một doanh nghiệp nhập rượu etylic đã
chế biến, dùng làm nguyên liệu, nhưng cơ quan giám định kết luận đây là
rượu etylic nguyên chất, doanh nghiệp phải chịu thêm thuế tiêu thụ đặc biệt.
Không đồng ý, doanh nghiệp yêu cầu giám định lại và được xác định là rượu
đã biến tính, chỉ sử dụng làm nguyên liệu sản xuất. Đơn vị giám định này sau
đó đã lên tiếng xin lỗi doanh nghiệp do có sai sót. “Cơ quan giám định có thể
sửa sai, Hải quan có thể điều chỉnh nhưng thiệt hại cho doanh nghiệp thì
không sao kể hết”, Giám đốc một doanh nghiệp xuất nhập khẩu than thở.
Máy móc thiết bị phục vụ công tác còn thiếu và lạc hậu, trang thiết bị
của phòng thí nghiệm còn nghèo nàn và lạc hậu, chỉ đáp ứng được một phần
yêu cầu trước mắt, chính vì vậy mà hiện nay trung bình mỗi công ty giám
định còn khoảng 40%14 giá trị phân tích phải gửi cộng tác viên, hạn chế tính
kịp thời trong việc cung cấp kết quả phân tích và đặc biệt là đôi khi thiếu độ
tin cậy đối với kết quả giám định, vụ giám định Ampicilin do Bộ y tế nhập
13 Nguồn:
14 Nguồn: Bộ Thương mại: Tổng kết hoạt động giám định trong điều kiện kinh tế thị trường (giai
đoạn 1989-2001) – 06/2002
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 75
khẩu của Ấn Độ năm 1993 vẫn còn là một bài học đắt giá không chỉ cho
Vinacontrol mà còn cho tất cả các công ty giám định.
Mặc dù các công ty đã chú ý đầu tư nhưng trang thiết bị cầm tay phục vụ
cho công việc ở hiện trường còn rất thiếu, chưa thoả mãn được yêu cầu của
khách hàng khi giám định ở một số lĩnh vực đòi hỏi kĩ thuật cao vì chưa có đủ
quy trình, phương pháp, tiêu chuẩn, chưa có tài liệu để tham khảo, trình độ
giám định viên cũng còn rất hạn chế.
Mẫu phân tích do khách hàng yêu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp,
không dự báo được đầu vào về số lượng, chủng loại mặt hàng nên nhiều khi
làm cho cả công ty giám định và cộng tác viên bị động, lúng túng vì không có
phương pháp thử hoặc trang thiết bị phù hợp. Bên cạnh đó vẫn có một số
trang thiết bị vì nhiều lí do mà vẫn chưa phát huy hết tác dụng của nó. Có
những chương trình kinh tế lớn của Nhà nước (như đầu tư xây dựng khu công
nghiệp Dung Quất…) hứa hẹn rất nhiều cho giám định kĩ thuật cao hoạt động
nhưng các công ty giám định của ta ở vào tình trạng “lực bất tòng tâm”, chỉ
đảm nhận những loại hình đơn giản do chúng ta không có năng lực về cán bộ
và trang thiết bị.
Trong một thời gian dài, hoạt động đào tạo về giám định ở nước ta ở
trong tình trạng thụ động, chắp vá, không theo kế hoạch nên hiệu quả thấp. Có
những trường hợp chọn không đúng đối tượng nên sau khi đào tạo xong
không sử dụng được hoặc cán bộ bỏ sang phục vụ ngành khác. Việc đào tạo
giám định viên thuộc các loại hình giám định có kĩ thuật cao chưa được nhiều,
chưa được mở rộng. Bên cạnh đào tạo kiến thức chuyên môn, các công ty
giám định chưa quan tâm đầy đủ đến việc đào tạo, giáo dục về chính trị, đạo
đức nghề nghiệp cho cán bộ, giám định viên vì vậy còn xảy ra những việc làm
trái lương tâm trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, giám định viên.
Hoạt động cạnh tranh thu hút khách hàng của các công ty giám định Việt
Nam còn mang tính bị động, chưa thực sự có bài bản. Việc nắm bắt và cung
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 76
cấp thông tin về khách hàng, nguồn hàng từ các cơ quan quản lí Nhà nước còn
chậm và ít. Do chưa lập được văn phòng đại diện ở nước ngoài và chưa cử
được nhiều đoàn đi khai thác ở bên ngoài nên việc khai thác khách hàng,
nguồn hàng từ nước ngoài thu được rất ít, uy tín, tiếng tăm của các công ty
giám định Việt Nam ở thị trường nước ngoài còn hết sức khiêm tốn. Mặt
khác, các công ty giám định Việt Nam chưa có đánh giá phân tích cụ thể, chi
tiết về mối quan hệ hợp tác với từng tổ chức giám định đồng nghiệp quốc tế
nên cũng chưa có những chính sách cụ thể đối với từng đối tác để đưa quan hệ
hợp tác đạt hiệu quả cao hơn.
II. XU HƯỚNG VỀ THỊ TRƯỜNG VÀ DỊCH VỤ GIÁM ĐỊNH HIỆN
NAY
Theo dự kiến của Nhà Nước thì kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá
trong những năm tới vẫn tăng so với năm 2001. Dự kiến năm 2002 xuất khẩu
tăng 9,4%, nhập khẩu tăng 11%; năm 2003 xuất khẩu tăng 8,6%, nhập khẩu
tăng 9,8%15. Đây là điều kiện tốt cho hoạt động giám định hàng hoá phát
triển, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như: gạo, than đá, dầu
thô, dệt may, giày dép, hải sản, cà phê, chè, hạt điều, lạc, cao su, khoáng
sản,… sẽ là những mặt hàng giám định chính trên thị trường giám định.
Không những thế, chủ trương của Nhà Nước ta là khuyến khích Đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam vì vậy sẽ tạo điều kiện cho hoạt động giám định các
loại máy móc thiết bị nhập khẩu phát triển. Đây là loại hình giám định mang
lại hiệu quả kinh tế cao, phí lớn và đảm bảo việc làm trong một thời gian dài
nên tất cả các công ty giám định hiện nay đều đặt chiến lược phát triển lâu dài
loại hình giám định này.
Bên cạnh đó, nhu cầu giám định đối với khá nhiều mặt hàng sẽ giảm do
sự thay đổi trong chính sách của Nhà Nước , của các tổ chức kinh tế quốc tế
hoặc của khách hàng. Ví dụ, Hải quan giảm trưng cầu giám định để tạo sự
thông thoáng, EU chỉ định người đại diện của mình kiểm tra hàng hoá ngay
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 77
trên dây chuyền sản xuất. Mặt khác, các nhà nhập khẩu nước ngoài lại thường
chỉ định các tổ chức quốc tế lớn (SGS, BV,…) giám định một số mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của ta như gạo, than, lạc, hàng công nghiệp nhẹ,…nên thị
trường giám định các mặt hàng này đối với các công ty giám định trong nước
sẽ bị thu hẹp lại.
Do khoa học kĩ thuật phát triển nên một số loại hình giám định truyền
thống sẽ giảm và thay vào đó sẽ là các loại hình giám định mới. Cụ thể như:
- Loại hình giám định về quy cách phẩm chất sẽ giảm do hầu hết các
công ty sản xuất đều áp dụng hệ thống quản lí chất lượng ISO 9000 nên thay
vì kiểm tra chất lượng sản phẩm người ta kiểm tra các giấy tờ liên quan đến
chất lượng hàng hoá.
- Loại hình giám định về số, khối lượng cũng sẽ giảm do ngày nay khoa
học kĩ thuật phát triển, hàng hoá được đóng, xếp vào bao, kiện đều bằng máy
thay vì đóng thủ công như trước kia nên thường là đủ. Vì vậy mà trước kia
khi giám định khối lượng phân bón, giám định viên phải cân kiểm tra 10%
nhưng nay chỉ còn cân đại diện 1-2% tổng số khối lượng hàng hoá.
Do còn nhiều cách hiểu không thống nhất về tên hàng, đặc biệt là giữa
cơ quan quản lí Nhà Nước với chủ hàng, đồng thời biểu thuế của Việt Nam
còn nhiều điều bất cập (như việc áp mã thuế cứng nhắc dựa vào mục đích sử
dụng của hàng hoá …) nên loại hình giám định tên hàng, công dụng,… vẫn sẽ
tăng.
Thương mại gia tăng cùng vối việc xuất hiện nhiều phương thức vận tải mới
đã tạo điều kiện để hình thành những loại hình, mặt hàng giám định mới. Loại
hình giám định hàng hoá sẽ giảm, thay vào đó là giám định các vấn đề có liên
quan đến phương tiện vận tải, giám định công trình xây dựng, giám định về
môi trường, thẩm định giá, tư vấn về quản lí chất lượng, giám định
container,…
15 Nguồn: SGS: Kế hoạch phát triển dịch vụ giám định hàng hoá của SGS thời kì 2001-2005
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 78
Ngày nay, gia công sản phẩm ngày càng phát triển kéo theo các loại hình
giám định mới phát triển như: giám định quá trình sản xuất, giám định đảm
bảo chất lượng,…
Khoa học kĩ thuật phát triển, các loại hình giám định đòi hỏi kĩ thuật cao,
hiệu quả lớn sẽ phát triển hơn nữa, trong đó đặc biệt chú ý là các loại hình
giám định: giám định kiểm tra không phá huỷ, giám định về an toàn phương
tiện vận tải, lai dắt tàu, xà lan, kiểm tra cẩu, giám định lường bồn…
Thương mại phát triển, khoa học kĩ thuật áp dụng trong vận tải ngày
càng hiện đại thì nguy cơ rủi ro đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển
càng cao do đó loại hình giám định truyền thống là giám định tổn thất sẽ vẫn
còn phát huy tác dụng.
Việt Nam đang trên đà phát triển, đang trong quá trình CNH-HĐH đất
nước nên có rất nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất và các công trình kinh tế
xã hội trọng điểm được xây dựng như: KCN Dung Quất, KCN Thăng Long,
cảng Cái Lân, Khí Điện Đạm Cà Mau, các công trình thuỷ điện, các nhà máy
lọc dầu, các dự án, công trình lớn về xi măng,…nên tại các khu vục có các
công trình lớn này sẽ tập trung rất nhiều công ty giám định và hoạt động giám
định tại các khu vực này sẽ rất nhộn nhịp.
Tóm lại: Dự báo trong tương lai không xa, các loại hình, mặt hàng giám
định truyền thống như: giám định số, khối lượng, tình trạng, giám định mặt
hàng nông sản thực phẩm, giám định mặt hàng khoáng sản, giám định mặt
hàng công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng, giám định phục vụ quản lí Nhà
Nước,..sẽ vẫn được các công ty giám định chú ý nhưng có chiều hướng thu
hẹp lại. Bên cạnh đó, xu hướng giám định các lĩnh vực đòi hỏi kĩ thuật cao sẽ
tăng như:
- Giám định xăng, dầu thô và các sản phẩm dầu mỏ
- Giám định máy móc thiết bị, dây truyền sản xuất
- Giám định các phương tiện vận tải
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 79
- Giám định container
- Hun trùng
- Giám định an toàn con tàu trước khi phá dỡ, sửa chữa
- Giám định con tàu trước khi cho thuê và nhận lại
- Thẩm định giá
- Giám định về kĩ thuật và an toàn lai dắt tàu, xà lan
- Giám định và tư vấn về xây dựng, giám sát quá trình lắp ráp, thi công công trình
- Giám định về môi trường
- Giám định về nước thải công nghiệp
- Giám định lường bồn, xi téc
- Giám định không phá huỷ
- Các dịch vụ tư vấn đầu tư, tư vấn thương mại,…
III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN, PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
GIÁM ĐỊNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC
1.1. Tránh trồng chéo, mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật
Các quy định về công tác giám định trong luật là cơ sở, nền tảng cho
dịch vụ giám định hoạt động. Các quy định đó tạo điều kiện cho dịch vụ giám
định hoạt động dễ dàng. Tuy nhiên, đến nay mới chỉ có một số ít các văn bản
pháp luật về quản lí dịch vụ giám định ra đời như: Luật Thương mại ngày
10/5/1997, Nghị định số 20/1999/NĐ-CP ngày 12/4/1999, Thông tư số
33/1999/TT-BTM ngày 18/11/1999 của Bộ Thương mại, Thông tư số
1907/1999/TT-BKHCNMT ngày 28/10/1999, Thông tư số 44/2001/TT-
BKHCNMT ngày 25/7/2001, và Thông tư số 45/2001/TT-BKHCNMT ngày
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 80
25/7/2001… mà đã có rất nhiều sự mâu thuẫn, chồng chéo làm cho các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ giám định hàng hoá lúng túng.
Thứ nhất, theo Điều 2 và 3 trong Nghị định số 20/1999/NĐ-CP thì chỉ có
các thương nhân là doanh nghiệp được thành lập theo các quy định của pháp
luật mới được kinh doanh dịch vụ giám định và cấp chứng thư giám định.
Nghĩa là ngoài các doanh nghiệp nói trên thì các tổ chức khác không phải là
doanh nghiệp không được kinh doanh dịch vụ giám định và cấp chứng thư
giám định hàng hoá. Tuy nhiên, trong Thông tư số 44/2001/TT-BKHCNMT
và Thông tư số 45/2001/TT-BKHCNMT đã hướng dẫn không phù hợp với
các quy định tại Nghị định số 20/1999/NĐ-CP, không làm minh bạch và
không phân biệt rõ cơ quan quản lí Nhà nước với tổ chức kinh doanh, cụ thể
là vẫn hướng dẫn các tổ chức sự nghiệp kĩ thuật trực thuộc các Bộ quản lí
chuyên ngành (như các Trung tâm Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng khu vực
I, II, III…) thực hiện việc giám định hàng hoá như các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ giám định là trái với các quy định trong Luật Thương mại,
Nghị định 20 và Thông tư 33. Điều này khiến cho các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu vẫn phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” như một số các
phương tiện thông tin đại chúng đã nêu.
Thứ hai, về các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu giám định
hàng hoá và các cơ quan được yêu cầu giám định hàng hoá là hoàn toàn thuộc
thẩm quyền quy định của Chính phủ, do vậy việc xác định “cơ quan trưng
cầu” và “cơ quan được trưng cầu” tại các Mục 3 và 4 của Thông tư số 44 là
không đúng thẩm quyền của Bộ KHCNMT. Mặt khác, trong Thông tư số 45,
lại đặt ra các điều kiện, tiêu chuẩn về các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
giám định hàng hoá nói chung (Mục 1 và 3 Phần II) là trái với các quy định
của pháp luật vì kinh doanh dịch vụ giám định hàng hoá không thuộc loại
ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Đặc biệt, thông tư đưa ra các điều kiện,
tiêu chuẩn bắt buộc về phòng thí nghiệm, các phương tiện kĩ thuật thử nghiệm
là không phù hợp với cơ chế thị trường, gây lãng phí.
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 81
Thứ ba, Thông tư số 44 (Mục 9) và Thông tư số 45 (Khoản 3 Mục V)
đều đặt ra vấn đề lấy ý kiến Bộ, Ngành quản lí chuyên ngành làm kết luận
cuối cùng trong trường hợp kết quả giám định không thống nhất là hoàn toàn
trái với quy định tại Điều 11 Nghị định số 20 của Chính phủ và lẫn lộn giữa kĩ
thuật với hành chính.
Thứ tư, Thông tư số 44 (Mục 10) và Thông tư số 45 (Khoản 4 Mục V)
đều đặt ra vấn đề phí kiểm tra và phí giám định theo quy định của Nhà nước
là không phù hợp với Điều 6 và Điều 15 Nghị định số 20/1999/NĐ-CP về phí
giám định vì “phí giám định” là “giá dịch vụ giám định”, và khi đã là “giá” thì
nguyên tắc là do các bên thoả thuận. Cơ quan Nhà nước không có thẩm quyền
và cũng không thể quy định mức giá này được. Các hiện tượng cạnh tranh
không lành mạnh của các doanh nghiệp về vấn đề này sẽ được giải quyết theo
các văn bản pháp luật khác.
Thứ năm, theo quy định tại Khoản 3, Điều 11 Nghị định số 20/1999/NĐ-
CP thì “nếu tổ chức giám định ban đầu hoặc bên yêu cầu giám định lại không
thừa nhận kết quả của chứng thư giám định lại thì bên yêu cầu giám định lại
có quyền yêu cầu tổ chức Trọng tài chỉ định một tổ chức khác giám định lại.
Kết quả giám định của tổ chức giám định do Trọng tài chỉ định có giá trị cuối
cùng”. Quy định này mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác trong lĩnh vực
Trọng tài ở điểm sau: Một trong các nguyên tắc tố tụng Trọng tài quan trọng
nhất là Trọng tài chỉ có thể nhận đơn yêu cầu giải quyết các tranh chấp kinh tế
khi các bên đương sự thoả thuận đưa ra Trọng tài giải quyết. Nguyên tắc này
thể hiện rõ tại tất cả các văn bản pháp luật trên như: Khoản 2 Điều 3 Nghị
định 116/CP, Khoản 2 Điều 3 Điều lệ Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam
ban hành kèm theo Quyết định 204/TTg, Điều 1 Quyết định 114/TTg. Nếu vi
phạm nguyên tắc tố tụng trọng tài này thì quyết định giải quyết tranh chấp của
trọng tài sẽ bị vô hiệu toàn bộ. Như vậy nếu chỉ có bên yêu cầu giám định lại
có quyền yêu cầu tổ chức trọng tài xử lý mà không có sự thoả thuận của các
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 82
bên có liên quan thì việc vi phạm nguyên tắc tố tụng trên là điều không thể
tránh khỏi, và như vậy phán quyết của trọng tài sẽ không có hiêu lực.
Thứ sáu, Chính phủ có quy định “tổ chức giám định phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về kết quả giám định của mình. Hải quan cửa khẩu căn
cứ vào kết quả giám định để xử lý”. Thế nhưng theo quy định của Tổng cục
Hải quan thì “mã số mà các cơ quan giám định ghi vào kết quả giám định chỉ
có giá trị tham khảo”. Chính những bất cập này khiến trong những trường hợp
một mặt hàng mà có hai kết quả khác nhau thì Hải quan sẽ áp dụng phương
pháp an toàn là áp mã số thuế suất cao trước, sau đó mới “hạ hồi phân giải”.
Điều này đã làm cản trở hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu bởi “được vạ thì má đã sưng”, doanh nghiệp phải tốn nhiều thời
gian, công sức đi lại, gõ nhiều cửa. Thực tế, có một số vụ khiếu nại liên quan
đến lĩnh vực giám định, doanh nghiệp phải chờ 7-8 tháng mới được giải
quyết.
Thứ bảy, Quyết định 177 của Bộ KHCNMT quy định một số nhóm hàng
buộc phải qua giám định bắt buộc để kiểm tra chất lượng Nhà nước nhưng
nhiều mặt hàng trong Quyết định 177 lại không thống nhất với quy định trong
biểu thuế xuất nhập khẩu nên đã gây khó khăn cho cả doanh nghiệp lẫn cơ
quan Hải quan khi thực hiện. Vì vậy các văn bản liên quan đến hoạt động
giám định cần có giải thích, định nghĩa rõ ràng về thuật ngữ, tránh việc hiểu
và áp dụng khác nhau do ngôn ngữ không rõ ràng, vừa gây mất thời gian, thiệt
hại cho doanh nghiệp cũng như khó khăn cho cơ quan quản lí Nhà nước.
Mặc dù những quy định trong lĩnh vực giám định hàng hoá đã được luật
hoá tại các văn bản pháp luật, tạo ra một hành lang pháp lí điều chỉnh hoạt
động của các chủ thể trong lĩnh vực giám định hàng hoá. Nhưng những quy
định tại các văn bản pháp luật này đã bộc lộ những điểm hạn chế trong thực
tiễn áp dụng gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác giám định
hàng hoá ở Việt Nam. Chính vì vậy, các cơ quan Nhà nước cần xem xét lại
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 83
những quy định này nhằm tránh chồng chéo, mâu thuẫn, tạo điều kiện cho
hoạt động giám định hàng hoá được tiến hành thuận lợi.
1.2. Có biện pháp quán lí chặt chẽ các tổ chức kinh doanh dịch vụ
giám định
Trong khi các cơ quan quản lí Nhà nước chỉ chú trọng vào việc ban hành
các thông tư, nghị định về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hoá thì công
tác quản lí đối với hoạt động của các tổ chức giám định dường như lại không
dược các cơ quan chức năng quan tâm một cách đúng mực. Theo trách nhiệm
đã được Chính phủ giao, Bộ Thương mại là cơ quan chịu trách nhiệm quản lí
Nhà nước đối với hoạt động này. Nhưng họ lại thừa nhận rằng họ không biết
chính xác hiện nay có bao nhiêu tổ chức giám định đang chính thức hoạt động
ở Việt Nam. Hơn nữa, Thông tư 33 của Bộ Thương mại quy định: định kì 6
tháng một lần vào trước ngày 15/7 và trước ngày 15/1 năm sau, tổ chức kinh
doanh dịch vụ giám định hàng hoá có trách nhiệm gửi báo cáo tình trạng hoạt
động cho sở Thương mại tỉnh, thành phố nơi tổ chức giám định đặt trụ sở
chính để tổng hợp báo cáo cho Bộ Thương mại. Như vậy, nếu doanh nghiệp
giám định có vi phạm trong quá trình giám định mà không báo cáo hoặc báo
cáo không hết thì liệu các cơ quan quản lí có thể biết và điều chỉnh kịp thời
được không, trong khi Bộ ở xa còn cấp sở lại không được giao nhiệm vụ.
Thêm vào đó, khi tổ chức giám định có vi phạm (chưa tới mức xử lí hình sự)
thì cũng không thể xử lí vì thiếu những chế tài cần thiết.
Mặt khác, trong Khoản 7 Điều 6 Nghị định số 20/1999/NĐ-CP quy định:
nếu giám định sai thì phải trả tiền phạt theo mức doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ giám định hàng hoá và bên yêu cầu giám định đã thoả thuận nhưng
không quá 10 lần phí giám định. Điều này trong nhiều trường hợp gây nhiều
thiệt thòi cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu vì thực tế, có những thiệt hại do
những tổ chức giám định gây ra lớn gấp nhiều lần tiền đền bù phí giám định
do hậu quả giám định sai gây nên. Có trường hợp giám định sai làm thất thu
thuế hàng trăm triệu đồng hoặc làm ảnh hưởng đến uy tín và cơ hội làm ăn
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 84
của các doanh nghiệp , gây tổn thất không nhỏ thì liệu 10 lần phí giám định có
bồi thường đủ không? Vì vậy đã đến lúc các cơ quan quản lí Nhà nước phải
quản lí số lượng và chất lượng của các tổ chức giám định chặt chẽ hơn nữa và
cần phải có các biện pháp nghiêm khắc sử lí việc cấp chứng thư giám định sai
như:
+ Tổ chức giám định phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về
kết quả giám định của mình.
+ Yêu cầu tổ chức giám định phải chịu hoàn toàn phần thất thu thuế nếu
kết quả giám định là nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế.
+ Bồi thường hợp lí những mất mát, tổn thất cho các doanh nghiệp có
liên quan.
+ Nếu có sai sót nghiêm trọng, Nhà nước không cho phép tổ chức giám
định đó hoạt động bằng cách thu hồi giấy phép kinh doanh.
Muốn làm được điều này, cơ chế chính sách của Chính phủ phải đầy đủ,
các chế tài đối với tổ chức giám định cần chặt chẽ hơn nhằm nâng cao trách
nhiệm của các tổ chức giám định cũng như có quy định rõ ràng, cụ thể về việc
thành lập một tổ chức trọng tài để xử lí các tranh chấp phát sinh khi có các ý
kiến khác nhau trong chứng thư giám định của các tổ chức giám định về việc
giám định một lô hàng.
1.3. Nâng cao giá trị pháp lí của chứng thư giám định
Ta biết rằng chứng thư giám định là văn bản xác định tình trạng thực tế
của hàng hoá về số lượng, chất lượng, quy cách, bao bì, giá trị hàng hoá, tổn
thất, vệ sinh và các yêu cầu khác được một tổ chức kinh doanh dịch vụ giám
định hàng hoá độc lập cấp theo yêu cầu của bên yêu cầu giám định. Chứng
thư giám định là chứng cứ pháp lí quan trọng trong tranh chấp, khiếu nại và tố
tụng về hàng hoá xuất nhập khẩu. Điều đó đồng nghĩa với việc chứng thư
giám định phải có giá trị ràng buộc đối với các bên liên quan đến hàng hoá
như: người bán, người mua, người vận tải, người bảo hiểm và các cơ quan
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 85
Nhà nước (thuế, hải quan…). Thế nhưng trong Điều 10 Chương III Nghị định
số 20/1999/NĐ-CP quy định:
- Chứng thư giám định chỉ có giá trị đối với hàng hoá được yêu cầu giám định.
- Chứng thư giám định có giá trị ràng buộc đối với bên yêu cầu giám
định nếu bên yêu cầu giám định không chứng minh được rằng kết quả giám
định không khách quan, không trung thực hoặc sai về kĩ thuật, nghiệp vụ
giám định.
- Chứng thư giám định có giá trị ràng buộc trách nhiệm đối với tổ chức
kinh doanh dịch vụ giám định về những kết quả và kết luận trong chứng thư
giám định.
Điều này có nghĩa là chứng thư giám định chỉ có giá trị ràng buộc đối
với người yêu cầu giám định và tổ chức giám định mà thôi. Việc quy định
như trên đã làm giảm hẳn ý nghĩa của hoạt động giám định hàng hoá. Điều
này gây khó khăn cho rất nhiều các doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà vụ việc
của công ty sản xuất dịch vụ thương mại Đức Tiến dưới đây là một ví dụ:
Ngày 26/3/1999 Cục Hải quan Hải Phòng ra quyết định tạm giữ lô hàng
nhập khẩu giấy in dạng cuộn đã gia keo bề mặt của công ty sản xuất dịch vụ
thương mại Đức Tiến do nghi vấn lô hàng này thuộc diện phải xin giấy phép
nhập khẩu. Cục Hải quan Hải Phòng đã trưng cầu giám định để xác minh lô
giấy nhập khẩu trên đã gia công bề mặt chưa; có thuộc loại giấy in chất lượng
cao hay không; có thuộc mặt hàng phải xin giấy phép nhập khẩu không? Theo
kết quả của Trung tâm kĩ thuật khu vực I: Bề mặt giấy có gia keo tinh bột
(nhưng không phải lớp tráng phấn); mẫu giấy là loại giấy in. Kết quả giám
định của chi cục đo lường chất lượng Hải Phòng: Mẫu giấy bề mặt có gia keo
tinh bột, do chưa đủ tài liệu kĩ thuật nên chưa kết luận được mẫu giấy trên đã
gia công bề mặt hay chưa.
Theo Thông tư số 03/1999/TT-BTM ngày 15/1/1999 quy định chi tiết cơ
chế điều hành xuất nhập khẩu năm 1999 thì: Giấy viết, giấy in thông thường
chưa gia công bề mặt, định lượng từ 50g/m2 – 80g/m2 khi nhập khẩu phải xin
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 86
giấy phép của Bộ Thương mại. Theo quy định này, lô hàng do công ty Đức
Tiến nhập không thuộc diện phải xin giấy phép nhập khẩu vì giấy đã gia công.
Vì vậy với kết quả giám định trên đáng lẽ Hải quan Hải Phòng phải trả hàng
và bồi thường những thiệt hại cho công ty Đức Tiến do việc giữ hàng gây nên.
Nhưng bất chấp kết quả giám định, Cục Hải quan Hải Phòng vẫn tiếp tục giữ
hàng của công ty Đức Tiến. Lí lẽ của Cục Hải quan Hải Phòng đưa ra: khái
niệm gia công bề mặt giấy phải bao gồm đủ các quy trình tráng, phủ, gia keo,
cán láng, làm bóng,…bề mặt giấy để thay đổi tính chất và mục đích của loại
giấy ban đầu đưa vào gia công.
Để làm sáng tỏ vấn đề giấy đã gia keo bề mặt có phải là giấy đã gia công
bề mặt hay không, công ty Đức Tiến đã trưng cầu ý kiến của nhà khoa học
hàng đầu về ngành giấy GS TS Đỗ Văn Bá (hiện là giảng viên Trường Đại
học Bách Khoa – Hà Nội).Theo GS TS Đỗ Văn Bá: gia keo tinh bột bề mặt
giấy là quá trình tráng lên bề mặt giấy một lớp tinh bột. Giấy đã gia keo bề
mặt là một trường hợp giấy đã gia công bề mặt. Trong công văn số 906/CV-
VP gửi Bộ Công nghiệp về vấn đề này, Tổng công ty Giấy Việt Nam đã
khẳng định: gia keo cũng là một công việc của gia công bề mặt giấy. Viện
Công nghiệp Giấy và Xenluylo cũng đã khẳng định: gia công bề mặt giấy bao
gồm các công việc: tráng phủ, gia keo, cán láng, làm bóng bề mặt giấy. Để
khẳng định thêm tính khoa học của các kết quả giám định trước, công ty Đức
Tiến đã tiếp tục trưng cầu giám định tại Trung tâm giám định Kĩ thuật-Công
nghệ và Hàng hoá. Kết quả giám định mẫu giấy yêu cầu giám định của công
ty Đức Tiến là giấy trên bề mặt có tráng một lớp tinh bột và đã được gia công
bề mặt.
Tuy nhiên khi công ty Đức Tiến có đầy đủ cơ sở khoa học để khẳng định
lô hàng của mình không thuộc diện phải xin giấy phép nhập khẩu của Bộ
Thương mại thì Tổng cục Hải quan,Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao vẫn quyết
định giao cho Cục Hải quan Hải Phòng, Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố
Hải Phòng thụ lí vụ án và xử công ty Đức Tiến đã có hành vi gian lận thương
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 87
mại. Sự việc này không dừng lại ở đó, công ty Đức Tiến còn phải tiếp tục
trưng cầu giám định ở nhiều tổ chức giám định khác nhau để chứng minh
mình không có hành vi gian lận thương mại. Tất cả các chứng thư giám định
đều có cùng một kết luận nhưng Hải quan Hải Phòng vẫn không thừa nhận.
Sau hơn một năm, ngày 28/4/2000 Chính phủ mới ra quyết định cho Hải quan
Hải Phòng đình chỉ việc điều tra vụ công ty Đức Tiến và trả lô hàng đã tạm
giữ.
Thiệt hại của công ty Đức Tiến sau hơn một năm hàng bị tạm giữ lên đến
hàng tỉ đồng bao gồm tiền phạt lưu kho, lưu bãi (khoảng 1triệu đồng/ngày),
tiền phí trưng cầu giám định của các công ty giám định, chi phí theo hầu toà
hàng năm trời, toàn bộ sản xuất của công ty Đức Tiến bị đình trệ do không có
nguyên liệu, công nhân không có việc làm, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh giấy vụ
1999,…
Thông qua vụ việc trên ta thấy rằng nếu chứng thư giám định không ràng
buộc các bên có liên quan (đặc biệt là Hải quan,Công an, Toà án,…) thì gây
rất nhiều thiệt hại cho các doanh nghiệp. Như vậy các cơ quan chức năng cần
sửa đổi lại những quy định đã ban hành, cần đưa ra một pháp chế cao hơn về
giá trị pháp lí của chứng thư giám định nhằm làm cho chứng thư giám định có
giá trị ràng buộc đối với tất cả các bên liên quan đến hàng hoá nếu các bên
này không chứng minh được rằng bên kia phạm phải ít nhất là 1 trong trong 3
trường hợp sau đây :
. Không trung thực, có hành vi man trá, lừa đảo,…
. Phát hiện ra hoặc chứng minh được là hàng hoá có ẩn tì, nội tì hoặc có
tính chất đặc biệt.
. Chứng minh được những thiếu sót, khiếm khuyết của chứng thư giám
định.
Và đồng thời Nhà nước cần có những chế tài nghiêm khắc đối với các tổ
chức, cá nhân cố tình làm sai, coi thường pháp luật, gây phiền hà cho các
doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu.
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 88
2. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP KINH DOANH DỊCH VỤ GIÁM ĐỊNH
2.1. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực
Con người là yếu tố quan trọng nhất, có tính quyết định tới sự thành bại
trong mọi hoạt động của một tổ chức, vì vậy các công ty giám định phải có
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí, giám định viên có năng lực, có đạo
đức tốt, tâm huyết với nghề, có trách nhiệm với công việc …Muốn được như
vậy, các công ty giám định phải chú trọng vào việc đào tạo, đào tạo lại, đào
tạo bổ sung kiến thức cho đội ngũ cán bộ, giám định viên một cách thường
xuyên, bài bản và hiệu quả. Đặc biệt chú ý đào tạo và xây dựng đội ngũ giám
định viên đầu ngành để làm nòng cốt cho các lĩnh vực giám định chủ lực của
công ty.
2.2. Đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật
Các công ty giám định cần quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất kĩ thuật ,
đầu tư có trọng tâm, trọng điểm đặc biệt chú ý và quan tâm đúng mức vào
việc đầu tư trang thiết bị phục vụ ngoài hiện trường, các thiết bị cầm tay cũng
như hiện đại hoá phương tiện làm việc cho giám định viên.
Đặc biệt chú ý đầu tư nâng cấp trang thiết bị, máy móc cho các trung tâm
thí nghiệm để có đủ năng lực giám định phần lớn các loại mặt hàng giám định
trên phạm vi toàn quốc. Trước mắt cần đầu tư đầy đủ những thiết bị cầm tay,
bổ sung những máy móc, dụng cụ thiết yếu để phục vụ cho những loại hình
giám định mới.
Bên cạnh đó ưu tiên đầu tư trang thiết bị cho những lĩnh vực mũi nhọn,
mặt hàng, loại hình giám định chủ lực có tiềm năng kinh tế và có thể phát
triển ổn định, lâu dài, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Ngoài việc bổ sung và
mua sắm thêm máy móc, trang thiết bị cho các phòng thí nghiệm, các công ty
giám định cần bổ sung, xây dựng mới các quy trình, phương pháp giám định
phù hợp cho từng loại hình, mặt hàng giám định.
2.3. Nâng cao chất lượng dịch vụ giám định
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 89
Chất lượng dịch vụ là chính sách quan trọng nhất trong hoạt động kinh
doanh của các công ty, nó tri phối mọi giải pháp cạnh tranh. Muốn có nhiều
đơn hàng, khách hàng, muốn giữ gìn uy tín của công ty lâu dài, muốn kinh
doanh đạt hiệu quả cao thì chất lượng dịch vụ phải được mọi cấp từ lãnh đạo
đến giám định viên đặc biệt quan tâm. Chất lượng dịch vụ được thể hiện ở
nhiều mặt, nhưng nó phải được tóm gọn lại trong phương châm phục vụ
khách hàng là “chính xác, trung thực, kịp thời”.
Để thực hiện được phương châm đặt ra như trên, ngoài việc phải quan
tâm đến yếu tố về tổ chức, con người, cơ sở vật chất-kĩ thuật…Các công ty
giám định cần phải duy trì thật tốt và không ngừng cải tiến hệ thống quản lí
chất lượng, quản lí nghiệp vụ giám định, phải coi đây là nền tảng tạo ra những
dịch vụ có chất lượng để tự giác và nghiêm túc thực hiện.
2.4. Thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thị trường/khai thác giám định
Công tác thị trường/khai thác nguồn hàng giám định là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các công ty giám định. Để có nhiều yêu
cầu giám định, tăng doanh thu, các công ty giám định phải tập trung vận dụng
có hiệu quả chính sách “4P” của Marketing trong hoạt động của mình:
Production (Chính sách sản phẩm): Chứng thư giám định.
Price (Chính sách giá cả): Phí giám định.
Place (Chính sách địa điểm): Địa điểm giám định/Khách hàng.
Promotion (Chính sách hỗ trợ cổ động kinh doanh): Khai thác, quảng cáo.
Từ những chính sách trên, các công ty giám định phải căn cứ vào nhu
cầu khách hàng (người yêu cầu giám định), tình hình khả năng xuất nhập
khẩu để đề ra những biện pháp cụ thể cho mỗi yếu tố.
2.4.1. Production (Chính sách sản phẩm): Chứng thư giám định
Chứng thư giám định là sản phẩm cuối cùng của một công ty giám định,
yêu cầu cơ bản của chứng thư giám định là đáp ứng và thoả mãn nhu cầu
chính đáng của khách hàng. Do đó muốn tạo ra sản phẩm mới, công ty giám
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 90
định phải thường xuyên nắm thông tin từ khách hàng để thay đổi hoặc bổ
sung nội dung của các loại hình giám định nhằm đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Nói một cách khác sản phẩm mới của công ty giám định chính là loại
hình giám định mới. Trước khi cho ra đời một loại hình giám định mới, công
ty giám định phải tuân thủ những nguyên tắc chính của Marketing là nghiên
cứu xem loại hình giám định mới này có phù hợp với mục tiêu và khả năng
của công ty hay không, nhu cầu của khách hàng về loại hình giám định mới
này như thế nào, khả năng tồn tại của loại hình giám định này ra sao?…Song
song với việc nghiên cứu, phát triển thị trường, các công ty phải thực hiện đa
dạng hoá mặt hàng, loại hình giám định, đồng thời phải đặc biệt quan tâm đến
phát triển những loại hình, loại hàng có kĩ thuật cao, hứa hẹn nguồn thu lớn.
Bên cạnh việc tập trung vào chính sách sản phẩm mới, các công ty giám
định phải luôn chú ý cải tiến sản phẩm cũ. Muốn vậy, các công ty giám định
phải thường xuyên nắm thông tin từ khách hàng để xác định xem nội dung
của chứng thư giám định có đáp ứng được yêu cầu hiện tại của khách hàng
hay không, từ đó thay đổi nội dung các loại hình giám định để đưa sản phẩm
phù hợp với nhu cầu. Ví dụ trước đây khi giám định hàng xuất khẩu, các công
ty giám định chỉ giám định tại kho. Nhưng nay do đòi hỏi của người nhập
khẩu và người xuất khẩu Việt Nam cũng muốn hàng xuất khẩu của mình có
quy cách phẩm chất phù hợp với hợp đồng, nên ngày nay các công ty giám
định không những tiến hành giám định tại kho bãi mà sau đó còn giám sát cho
đến khi hàng hoá được xếp lên phương tiện vận tải.
Riêng lí thuyết vòng đời sản phẩm trong Marketing, các công ty giám
định chỉ nên tập trung vào nghiên cứu ý nghĩa thực tiễn của nó để sử dụng các
giai đoạn trong việc phân phối giữa chất lượng và quảng cáo hay quảng cáo
và chất lượng trong chính sách sản phẩm của mình.
2.4.2. Price (Chính sách giá cả): Phí giám định
Các công ty giám định đều đã xây dựng riêng cho mình một bảng phí
giám định, nhưng các công ty cần nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 91
phí như những nhân tố ảnh hưởng đến giá cả trong Marketing đó là: lượng
cầu, tính cạnh tranh của thị trường, tình hình nền kinh tế,…ngoài ra còn phải
quan tâm đến những quy định về chất lượng hàng xuất nhập khẩu của Nhà
nước.
Tuy nhiên giá cả ở đây cũng được áp dụng linh hoạt chứ không phải
cứng nhắc, tuỳ theo những dịch vụ giám định cụ thể và những khách hàng cụ
thể mà công ty nên đưa ra chính sách “giá hớt váng” hay chính sách “giá tấn
công”. Bên cạnh đó, công ty nên có chính sách hoa hồng mềm dẻo, thu hút và
phù hợp với quy định của Nhà nước.
2.4.3. Chính sách khách hàng.
Trong hoạt động của mình các công ty giám định phải luôn quan tâm đến
việc tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng trong khâu làm thủ tục yêu
cầu giám định cũng như phải luôn duy trì thái độ phục vụ đúng mực, tạo mối
thiện cảm đối với khách hàng. Các công ty cần đưa ra một quy chế cụ thể để
áp dụng xử lí những trường hợp vi phạm trong quan hệ với khách hàng đồng
thời nên thiết lập một đường dây điện thoại nóng để tiếp nhận những phản ánh
của khách hàng, giúp cho công ty sửa chữa kịp thời những mặt còn hạn chế.
Mặt khác các công ty cần nghiên cứu phát triển hệ thống phân phối hàng
hoá trong Marketing, cụ thể là thành lập nhiều chi nhánh, trạm giám định ở tất
cả những điểm giao nhận hàng hoá như ở các cảng chính, các cửa khẩu ... để
thu thập thông tin cần thiết giúp công ty lập kế hoạch kinh doanh và phổ biến
thông tin về khả năng của mình đến khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác giám định nhanh chóng, kịp thời. Bên cạnh đó, khách hàng có thể
yêu cầu giám định trực tiếp hoặc thông qua telephone, fax, telex....Ngoài ra
các công ty phải tập trung vào việc khai thác khách hàng và thị trường nước
ngoài vì đây là một trong những nguồn thu ngoại tệ lớn của công ty.
Tăng cường hợp tác quốc tế, thường xuyên liên lạc và đẩy mạnh hơn nữa
mối quan hệ sẵn có với các đồng nghiệp nước ngoài, đồng thời mở rộng quan
hệ với các tổ chức giám định mới tại các thị trường lớn như Mỹ, Nga, EU,
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 92
Trung Quốc và các nước khu vực ASEAN,…trên cơ sở các bên cùng có lợi;
có thể liên doanh, kí kết các hợp đồng hợp tác kinh doanh với các tổ chức
giám định nước ngoài này.
Tham khảo ý kiến của Cục xúc tiến thương mại, Bộ Thương mại để tìm
hiểu khả năng đặt văn phòng đại diện tại nước ngoài, vừa thực hiện nhiệm vụ
khai thác giám định vừa để thực hiện các dịch vụ cụ thể.
2.4.4. Promotion (Chính sách cổ động hỗ trợ kinh doanh): Khai thác,
quảng cáo
Tình hình cạnh tranh trên thị trường giám định ngày càng trở nên khốc
liệt, do vậy việc khai thác thị trường để tăng lượng yêu cầu giám định là chính
sách ưu tiên của các công ty giám định. Thông qua việc khai thác kinh doanh
của mình nhằm:
- Tạo uy tín cho công ty
- Thông tin khả năng, lợi ích của chứng thư giám định
- Thông tin cho khách hàng những loại hình giám định đặc biệt là những
loại hình mới mà công ty thực hiện được.
- Làm vũ khí cạnh tranh.
- Tăng tài sản vô hình của công ty
Các chính sách hỗ trợ kinh doanh của công ty nên là những hình thức
như quảng cáo, tuyên truyền, in lịch, đăng báo, đặc biệt là hàng năm nên tổ
chức hội nghị khách hàng trong và ngoài nước để nắm thông tin về chất lượng
chứng thư giám định, đồng thời cũng để biết nhu cầu của khách hàng, qua đó
tìm biện pháp phù hợp để nâng cao vị trí của mình trên thị trường giám định.
Trên quy định chung của công ty, các đơn vị, phòng ban nên chủ động
quy định cụ thể về chế độ khen thưởng cho những người có công trong khai
thác, về chi phí phục vụ cho khai thác…vừa đảm bảo quản lí tốt về mặt tài
chính, vừa kích thích khai thác trong cơ chế thị trường đạt hiệu quả.
2.5. Có biện pháp xử lí kịp thời các sai phạm trong giám định
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 93
Do có những vi phạm về kĩ thuật nghiệp vụ và đạo đức của một bộ phận
cán bộ, giám định viên nên đã để xảy ra nhiều vụ giám định không có chất lượng
thậm trí làm trái ngược hoàn toàn hoặc làm bậy, làm ẩu vì động cơ cá nhân đến
mức bị pháp luật can thiệp. Những vi phạm đó đã ảnh hưởng rất xấu đến hình
ảnh của ngành giám định, đặc biệt có những vụ hết sức nghiêm trọng đã bị đưa
trên các phương tiện thông tin đại chúng - đó là điều tối kị đối với các doanh
nghiệp. Để giải quyết những vi phạm nêu trên, bên cạnh việc tìm mọi biện pháp
hạn chế dư luận, các công ty giám định phải xử lí nghiêm minh những cán bộ,
giám định viên đã gây ra những sai phạm đó. Việc xử lí nghiêm các sai phạm
vừa đảm bảo thực hiện đúng các quy định đã ban hành, vừa có tác dụng răn đe
đối với các trường hợp khác. Bên cạnh đó các công ty giám định cũng phải kịp
thời tổ chức rút kinh nghiệm và tìm biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
2.6. Duy trì mối quan hệ tốt với các cơ quan quản lí Nhà nước
Ngoài việc tăng cường mối quan hệ chặt chẽ và có thái độ đúng mực với
khách hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, các công ty giám định phải chú ý duy
trì mối quan hệ thân thiện, thường xuyên với các cơ quan quản lí Nhà nước ở
cả địa phương lẫn Trung ương.
Quan hệ chặt chẽ thân thiện với các cơ quan quản lí Nhà nước sẽ giúp
các công ty giải quyết được nhiều vấn đề thuộc về chính sách, đồng thời sẽ
nhận được sự ủng hộ và lợi thế cho công ty trong khai thác giám định (ví dụ:
quan hệ với Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng để phát triển dịch vụ
tư vấn ISO 9000; với Hải quan để giám định hàng thông quan; với Bộ Kế
hoạch và Đầu tư để giám định các dự án…)
3. GIẢI PHÁP TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP KINH DOANH HÀNG HOÁ XUẤT
NHẬP KHẨU
Doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu với tư cách là một chủ
thể trong hợp đồng giám định, là người có quyền lợi liên quan trực tiếp đến
chứng thư giám định và cũng là người sử dụng trực tiếp sản phẩm của các tổ
chức giám định. Do đó các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có thái độ
nghiêm khắc hơn nữa đối với chất lượng sản phẩm của các tổ chức giám định
và phải luôn đòi hỏi chất lượng phục vụ ngày càng cao. Bên cạnh đó, để đảm
Chương III: Các biện pháp nhằm hoàn thiện, phát triển dịch vụ giám
định
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 94
bảo quyền lợi chính đáng của mình trong trường hợp có tranh chấp về kết quả
giám định, các công ty xuất nhập khẩu phải đưa thêm các điều khoản ràng buộc
trách nhiệm pháp lý cũng như trách nhiệm vật chất đối với các công ty giám
định vào hợp đồng giám định, phải luôn đòi hỏi được sử dụng loại dịch vụ cạnh
tranh lành mạnh, chất lượng tương xứng với đồng tiền mà mình đã bỏ ra.
Một mặt hết sức giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty giám
định hoạt động nhưng đồng thời cũng cần phải mạnh dạn, thẳng thắn lên tiếng
tố cáo các giám định viên cũng như các công ty giám định cố tình làm sai,
tiêu cực. Không bao che, tiếp tay cho các hành vi trái pháp luật.
Khoá luận tốt nghiệp
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 93
Kết luận
Hiện nay lĩnh vực giám định rất đa dạng và phong phú, hầu như bao
trùm toàn bộ các mặt của đời sống xã hội. Các tổ chức giám định không chỉ
đảm nhận việc giám định các sản phẩm hàng hoá mà còn giám định các khâu
trong quá trình sản xuất hàng hoá và các lĩnh vực liên quan đến hàng hoá theo
yêu cầu của khách hàng nhằm đảm bảo chất lượng của các sản phẩm sản xuất
ra. Bên cạnh đó do quá trình hội nhập và mở cửa giao lưu quốc tế nên tại Việt
Nam ngoài các loại hình giám định truyền thống còn ra đời nhiều loại hình
giám định mới như: giám định thông tin, giám định thiết kế, thẩm định
giá,…cũng đang phát triển mạnh. Đặc biệt thị trường giám định Việt Nam
hiện nay quá lộn xộn, phức tạp với các thành phần tham gia giám định, chính
vì thế các nhà kinh doanh cần sáng suốt lựa chọn cho mình một đối tác giám
định có hiệu quả và độ an toàn cao nhất. Cũng do nhiều thành phần tham gia
như vậy nên đã có sự cạnh tranh không lành mạnh gây khó khăn cho các tổ
chức giám định làm ăn chân chính, tuân thủ pháp luật.
Thực trạng giám định hàng hoá trong những năm qua đã chứng minh
rằng nguyên nhân chính dẫn đến những sai sót của các tổ chức giám định
hàng hoá xuất nhập khẩu và những vướng mắc của các doanh nghiệp kinh
doanh trong và ngoài nước đều xuất phát từ việc thiếu các tiêu chuẩn cũng
như các quy định, sự trồng chéo của các văn bản pháp luật cùng với sự quản
lý lỏng lẻo của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy trong
bối cảnh nhu cầu giám định hàng hoá xuất nhập khẩu tăng mạnh, rất cần có sự
đổi mới của tất cả các tổ chức giám định nói riêng và lĩnh vực giám định của
Việt Nam nói chung. Đồng thời Nhà nước cần nhanh chóng ban hành các văn
bản pháp luật phù hợp, cập nhật, rõ ràng nhằm tạo hành lang pháp lý vững
chắc cho lĩnh vực dịch vụ giám định hoạt động cũng như tạo niềm tin cho các
doanh nghiệp kinh doanh trong và ngoài nước.
Tất cả nước đang thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, phát triển
kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu, vì vậy cần sự nỗ lực của tất cả các ngành,
Khoá luận tốt nghiệp
Nguyễn Tuyết Thanh - A3 -K37 94
nghề trong đó có cả ngành giám định hàng hoá xuất nhập khẩu. Ngành giám
định hãy chuyển mình để cùng Việt Nam tiến bước trên con đường hội nhập.
Khoá luận tốt nghiệp
NguyÔn TuyÕt Thanh - A3 -K37
Tài liệu tham khảo
[1]. Luật Thương mại Việt Nam ban hành ngày 10 tháng 5 năm 1997
[2]. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 9 tháng 6 năm 2000
[3]. Nghị định số 20/1999/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 1999
[4]. Thông tư số 33/1999/TT-BTM ngày 18 tháng 11 năm 1999
[5]. Thông tư số 1907/TT-BKHCNMT ngày 28 tháng 10 năm 1999
[6]. Thông tư số 44/2001/TT-BKHCNMT ngày 25 tháng 7 năm 2001
[7]. Thông tư số 45/2001/TT-BKHCNMT ngày 25 tháng 7 năm 2001
[8]. Công văn số 3537 TM-PC của Bộ Thương mại gửi văn phòng Chính phủ
ngày 6 tháng 9 năm 2001
[9]. Sổ tay giám định – Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật – 2002
[10]. Vinacontrol: Các phương pháp giám định – 2002
[11]. SGS: Các phương pháp giám định cơ bản – 1999
[12]. Vinacontrol: Tài liệu đào tạo nghiệp vụ giám định – Hà Nội, 2002
[13]. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam: Tài liệu giám định hàng
hoá xuất nhập khẩu – 2001
[14]. Nguyễn Đình Trọng - Davicontrol: Những điều cần biết về hoạt động
giám định hàng hoá xuất nhập khẩu - 2001
[15]. Bộ Thương Mại: Tổng kết hoạt động giám định trong điều kiện kinh tế
thị trường (giai đoạn 1989 - 2001) – 06/2002.
[16]. Bộ Thương mại: Báo cáo tóm tắt hội nghị chuyên đề về giám định hàng
hoá - 08/2001
[17]. Vinacontrol: Tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch năm 2001 và
phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2002, tháng 2/2002
[18]. SGS: Kế hoạch phát triển dịch vụ giám định hàng hoá của SGS thời
kỳ 2001-2005
Khoá luận tốt nghiệp
NguyÔn TuyÕt Thanh - A3 -K37
[19]. FTDC: Biên bản buổi đối thoại lần 2 giữa Doanh nghiệp và Tổng cục
Hải quan về giám định hàng hoá xuất nhập khẩu do Trung tâm phát
triển Đầu tư và Ngoại thương (FTDC) tổ chức ngày 15/5/2002
[20]. Viện nghiên cứu hợp tác Khoa học kỹ thuật Châu Á-Thái Bình Dương:
Hướng dẫn thực hiện công tác xuất nhập khẩu của doanh nghiệp đúng
pháp luật, đúng nghiệp vụ, đúng nguyên tắc quản lý theo cơ chế thị
trường ở nước ta
[21]. Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý (VIM): Tài liệu tập huấn khoá
học “Các thông tin, chính sách cập nhật liên quan tới hoạt động kinh
doanh, dịch vụ hàng hoá xuất nhập khẩu” – HN, 2001
[22]. Phòng kỹ thuật tổng hợp – Vinacontrol: Các báo cáo, tài liệu về công
tác giám định
[23]. Các tài liệu, thông tin trên các website:
[24]. Các văn bản pháp luật khác
[25]. Các thông tin, tài liệu trên các báo và tạp chí khác…
Khoá luận tốt nghiệp
NguyÔn TuyÕt Thanh - A3 -K37
Phụ Lục
[1]. Giấy yêu cầu giám định
[2]. Giấy nhận yêu cầu giám định
[3]. Chứng thư giám định về quy cách phẩm chất
[4]. Chứng thư giám định về số lượng – Tình trạng
[5]. Chứng thư giám định về số lượng, chủng loại
[6]. Chứng thư giám định về số lượng, chủng loại, tình trạng
[7]. Chứng thư giám định về chủng loại và chất lượng
[8]. Chứng thư giám định về số lượng, chủng loại, tính đồng bộ, phạm vi sử dụng
[9]. Chứng thư giám định về số lượng, chủng loại, tình trạng, tỷ lệ % chất
lượng còn lại và sự đồng bộ
[10]. Chứng thư giám định về tên hàng và công dụng
[11]. Certificate of weight and analysis
[12]. Survey report on quality during the guarantee period
[13]. Chứng thư giám định về phẩm chất trong thời gian bảo hành
Khoá luận tốt nghiệp
NguyÔn TuyÕt Thanh - A3 -K37
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 56_dvu_giam_dinh_hang_hoa_xnk_8183.pdf