Đề tài Định chế bán lẻ

MỞ BÀI Ngày nay do thu nhập của người dân ngày càng gia tăng, họ có khuynh hướng thích mua sắm ở những nơi sang trọng, tiện nghi, nơi có thể vừa mua sắm, vừa thư giãn, giải trí, Nắm bắt được nhu cầu đó các nhà kinh doanh sáng tạo ra nhiều loại định chế bán lẻ khác nhau như là: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hóa, chuỗi cửa hàng, cửa hàng giảm giá, siêu thị, Nếu như khách hàng muốn mua một loại sản phẩm độc đáo, mới lạ, khác xa với những người khác, họ có thể vào cửa hàng chuyên doanh. Ở đó họ sẽ tha hồ lựa chọn những sản phẩm mà mình yêu thích nhưng không sợ đụng hàng. Còn nếu muốn mua sản phẩm của các thương hiệu nổi tiếng, hoặc vừa mua sắm vừa thưởng thức các loại hình giải trí thì không lựa chọn nào tốt hơn là vào cửa hàng bách hoá. Khi đi dạo phố chắc hẳn chúng ta cũng thấy các cửa hàng có cách bài trí, phục vụ, thương hiêu, giống nhau, đó chính là các chuỗi cửa hàng. Trong các cửa hàng giảm giá có nhiều chủng loại hàng hoá tha hồ cho bạn lựa chọn nhưng giá lại rất mềm. Khi bạn quá bận rộn, muốn chế biến một loại thức ăn để tạo không khí gia đình thì chắc hẳn nơi đó là siêu thị. Vì ở đây có các loại thực phẩm tươi sống đã được chế biến sơ cộng với tài nấu ăn của bạn thì sẽ tạo nên một món ăn tuyệt vời. Ngoài ra, khi các chủ doanh nghiệp kinh doanh các cửa hàng, siêu thị đó đã làm cho họ trở nên chuyên nghiệp hơn, cung cấp các lọai dịch vụ tốt hơn, khả năng thuyết phục người tiêu dùng cao hơn do họ đã xây dựng được những thương hiệu uy tín. Do đó sẽ thúc đẩy được sự phát triển của nền kinh tế thị trường, làm cho đất nước ta ngày một giàu mạnh hơn. Với đề tài “Các định chế bán lẻ” chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn biết về các loại định chế bán lẻ, cũng như cách thức bán hàng của các cửa hàng này để bạn có thể hiểu biết thêm về chúng. Mong rằng Thầy và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài này tốt hơn. Nhóm sinh viên thực hiện. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 2 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ BÁN LẺ. 1.1.Bán lẻ là gì ? Bán lẻ là tất cả những hoạt động liên quan đến việc bán các sản phẩm vật chất và các dịch vụ trực tiếp cho người sử dụng cuối cùng đáp ứng nhu cầu cá nhân, gia đình và các tổ chức không kinh doanh. Bán lẻ đã có từ lâu đời, từ việc bán hàng đơn giản ở các chợ từ thành thị đến nông thôn, các quầy hàng cố định hoặc lưu động,đến các cửa hiệu dịch vụ,của hàng tổng hợp hoặc chuyên doanh,các trung tâm thương mại lớn nhỏ, hệ thống siệu thị ở các trung tâm thành phố Kinh tế càng phát triển, hoạt động bán lẻ được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể tiến hành trực tiếp qua người bán hàng, hoặc qua điện thoại, thư từ, catalogue, máy bán hàng tự động, internet Sản phẩm bán lẻ cho người sử dụng cuối cùng rất đa dạng từ các mặt hàng tiêu dùng thông thường cho cá nhân,gia đình, tổ chức không kinh doanh đến các dịch vụ như: pháp lý, tư vấn, kế toán,y tế,đào tạo,bảo hiểm,ăn uống,khách sạn, vui chơi, giải trí, sử chữa, cắt tóc,uốn tóc, thẩm mỹ, vận chuyển hành khách,và hàng hoá Ngày nay, bán lẻ được tiến hành tại các cửa hàng hoặc không qua cửa hàng, người bán lẻ có thể là người bán hàng chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp và sử dụng linh hoạt các hình thức bán lẻ để phục vụ tốt nhất nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng khắp nơi. Ơ Việt Nam, hoạt động bán lẻ được nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia hoạt động, bao gồm: hệ thống các chợ có qui mô lớn hoặc nhỏ thừ thành thị đến nông thôn, các hình thức bán lẻ đa dạng trong nhân gian, các hình thức cửa hàng, hệ thống siêu thị của các công ty thương mại, các công ty dịch vụ công cộng (vận chuyển hành khách, khu vui chơi – giải trí, dịch vụ khác ), hệ thống cửa hàng ăn uống , dịch vụ sửa chữa Ngoài ra, căn cứ vào một số tính chất trong các hoạt động, nhiều loại hình tổ chức trong xã hội đang cung cấp các dịch vụ cho các tầng lớp nhân dân cũng có các đặc điểm của hoạt động bán lẻ ( ví dụ : bệnh viện, trường học, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội ). Vì vậy, các tổ chức này cũng cần xem xét để vận dụng các nguyên tắc bán hàng nhằm đạt được mục tiêu và hiệu quả phục vụ công chúng. 1.2.Tầm quan trọng của hoạt động bán lẻ. Qua thực tế hoạt động bán lẻ ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới như: số nơi bán lẻ hàng hoá, doanh số bán lẻ trong từng kỳ ở mỗi khu vực địa lý, số người thực hiện công việc bán lẻ hàng hóa trên thị trường ; bán lẻ là loại hình hoạt động có tầm quan trọng bậc nhất trong nhiều lĩnh vực bán hàng của các ngành kinh tế. Đây là công việc liên quan trực tiếp đến nhu cầu tiêu dùng sản phẩm hữu hình và vô hình của tất cả các tầng lớp dân cư ở mỗi quốc gia. Vì vậy, bán lẻ có các vai trò quan trọng tiêu biểu như: - Phục vụ rộng rãi nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong xã hội. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 3 - Giải quyết việi làm cho đông đảo người lao động ở mỗi quốc gia, nhất là lao động nữ - Góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư từ thành thị đến nông thôn. - Thúc đẩy sự luân chuyển hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng nhanh chóng. 1.3.Đặc điểm của hoạt động bán lẻ. Bán lẻ dù được tiến hành ở đâu, bán trong cửa hàng hay không qua cửa hàng, thực hiện theo hình thức này hay hình thức khác điều có một số đặc điểm cơ bản sau: 1.3.1.Khách hàng chủ động và độc lập trong quyết định mua hàng. Thông thường đối với hoạt động bán lẻ, ngưòi bán hàng không có quá trình thăm dò nhu cầu trước khi tiếp xúc với người tiêu dùng. Khách hàng có khả năng tài chính, có động cơ mua hàng cụ thể và có quyết định mua tương đối độc lập so với người mua hàng cho các tổ chức. Vì vậy trong quá trình tiếp xúc, người bán hàng phải nhạy cảm với nhu cầu và xây dựng mối quan hệ lâu dài với họ. 1.3.2.Nhiều hình thức và cạnh tranh rất mạnh mẽ. Bán lẻ hàng hoá được nhiều thành phần kinh tế trong mỗi quốc gia cùng tham gia hoạt động,tiến hành kinh doanh theo nhiều qui mô lớn nhỏ khác nhau, cách thức bán hàng đa dạng và linh hoạt. Bán lẻ còn tập trung theo các khu vực, chuyên doanh về một số loại hàng hoá giống nhau hoặc tương tự, các gian hàng hoặc cửa hiệu nằm cạnh nhau thành chuỗi liên hoàn ( buôn có bạn, bán có phường ). Vì vậy, cạnh tranh trong bán lẻ diễn ra rất gay gắt giữa các công ty thương mại, giữa các cửa hàng và giữa những người bán hàng với nhau. Hiệu quả cao hay thấp và lâu dài hay không phụ thuộc phần lớn vào quan điểm kinh doanh; đạo đức, kỹ năng của người quản lý và người bán hàng. 1.3.3.Bán nhiều loại hàng hoá. Phần lớn các nơi bán lẻ cung cấp nhiều loại hàng hoá khác nhau, vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng, vừa tăng cường hiệu quả kinh doanh trong từng kỳ. Thậm chí trong các cửa hàng chuyên doanh:tuỳ theo chủng loại sản phẩm, nhà sản xuất còn đa dạng hóa thành nhiều mặt hàng có kích cỡ, chất lượng, màu sắc, kiểu dáng khác nhau để tối đa hóa sự lựa chọn của khách hàng. Cho nên người bán hàng phải hiểu rõ những đặc điểm cơ bản của sản phẩm, mới có thể giúp khách hàng lựa chọn mặt hàng phù hợp như mong muốn, có cơ sở vững chắc để trả lời các câu hỏi và thuyết phục được khách hàng.

pdf42 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2977 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Định chế bán lẻ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* McDonald cũng đã mời được ca sỹ nổi tiếng Justin Timberlake quảng bá hình ảnh McDonald trong giới trẻ trên toàn thế giới. * Đột phá lớn nhất của McDonald là việc khai trương nhà hàng ở Sierra Vista năm 1975 mà khách hàng tới mua đồ ăn không phải đi xuống khỏi xe ô tô. * Hoạt động tài trợ: Cúp bóng đá thế giới, Thế Vận hội Olympic, Hiệp hội bóng đá Scotland, Hiệp hội bóng đá Bắc Ailen, Hiệp hội bóng đá xứ Wales * Hoạt động nhượng quyền. 2.3.2.5. Khách hàng của McDonald’s. Hiện nay, trung bình mỗi ngày, cứ bốn người Mỹ thì có một người ghé vào quán fastfood của McDonald, tập đoàn thức ăn nhanh lớn nhất thế giới. Đây là một con số mà bất cứ hãng thức ăn nào cũng mơ ước. Vậy khách hàng của Mc Donald’s họ là ai. - Họ là những người công nghiệp bận rộn. Công việc của xã hội và công ty làm họ ngập đầu và không còn thời gian để đến với việc bếp núc, hay thong thả ngồi nhâm nhi từng ngớp rượu trong các nhà hàng sang trọng. - Họ là những người thích sự mau chóng và tiện nghi. - Họ thích cái cách tự mình phục vụ mình trong một cửa hàng không phải của mình, rất tự nhiên như ở nhà. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 22 - Họ không phải nấu ăn, không phải lo lắng về chất lượng của món ăn, hàm lượng dinh dưỡng, bởi tất cả những điều này đã được cửa hàng tính toán kỹ, trong thực đơn của họ. - Họ là những người trẻ và lối sống cũ không còn nhiều trong họ (lối sống cũ là lối sống mang đậm nét truyền thống như phụ nữ phải lo chuyện bếp núc, gia đình). - Họ thường tập trung ở trong thành phố nơi mà nền công nghiệp phát triển và thời gian được xem như vàng. 2.3.2.6. Chúng ta nói gì? Việc thay thế các hình thức kinh doanh độc lập (independent business) bằng hình thức kinh doanh theo chuỗi ( chains) đã tạo ra rất nhiều cuộc tranh cãi, những làn sóng phản đối của các quốc gia hay cộng đồng. Đó là những tranh cãi về vấn đề tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hay là những ảnh hưởng đối với nền kinh tế địa phương nơi đặt các cửa hàng…Nhưng đồng thời nó cũng làm gia tăng sự hợp tác giữa các cơ sở kinh doanh độc lập. Và từ đó dẫn đến sự xuật hiện các nhóm thương mại trong phạm vi quốc gia. Ví dụ như ở Mỹ, hình thành nên Hiệp Hội Các Nhà Bán Sách Mỹ ( American Booksellers Association), Khối Liên Minh Kinh Doanh Độc Lập ( Independent Business Alliances), tổ chức The New Rules Project. Ở Anh, có tổ chức New Economics Foundation. Mặt trái của fast food đã bị các nhà y tế kết tội là một trong những nguyên nhân chính gây bệnh tim mạch. Live as american, die as american. Sống như Mỹ, ăn fast food thường xuyên, thì phải chết như Mỹ (béo phì và bệnh tim mạch), đây là sự thật hiển nhiên rồi. Phải chăng toàn cầu hóa (globalization, mondialisation) fast food đồng thời cũng là toàn cầu hóa bệnh tật? Nhưng dù muốn dù không thì mọi người đều phải nhìn nhận rằng McDonald’s vẫn rất xứng đáng với ngôi vị chúa tể về fast food trên thế giới. Fast food tại Việt Nam và lý do McDonald chưa xuất hiện ở Việt Nam. Ở đây nếu chúng ta chỉ nói về McDonald thì McDonald chưa có mặt tại Việt Nam, và nếu chỉ nói về FastFood thì đó lại là cuộc chiến của các thương hiệu nước ngoài. Và như vậy trong cuộc đua này các khách hàng của Việt Nam sẽ được lợi vì sẽ được hưởng những dịch vụ tốt hơn, và có sự lựa chọn đa dạng hơn. Hiện nay, nếu chỉ xét riêng ở thành phố Hồ Chí Minh đã có 4 hãng thức ăn nhanh nước ngoài cạnh tranh nhau quyết liệt, đó là KFC (Kentucky Fried Chicken) với hơn 10 cửa hàng, Lotteria với 8 cửa hàng, Chicken Town, Jollibee (do công ty Tân Việt Hương mua của nước ngoài) với 3 cửa hàng. Vậy tại sao một tập đoàn lớn như McDonald lại chưa có một cửa hàng nhượng quyền nào tại Việt Nam, họ sợ đối thủ cạnh tranh ư? Chắc là không rồi mà có thể đó là vì họ chưa thấy phù hợp hay thời điểm xuất hiện là chưa phù hợp. Có thể đó là do lối sống văn hoá của người Việt, vì cho dù đã quen với Fast food nhưng cách mà họ dùng Fast food lại chưa “đúng điệu”. Ở nước ngoài người ta sử Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 23 dụng Fast food như một bữa ăn chính và mục đích là chạy với thời gian, thì ngược lại ở Việt Nam người ta ăn nó như một bữa ăn phụ và dùng như thưởng thức. Các cửa hàng thúc ăn truyền thống trong nước liệu có chống đỡ nổi làn sóng fastfood từ nước ngoài mà đặc biệt là khi người khổng lồ McDonald’s đến Việt Nam trong thời gian tới. Trong những nhiều năm qua McDonald’s nổi lên như một thương hiệu của toàn cầu, sự thành công của McDonald’s là niềm mơ ước của tất cả các công ty, thế nhưng McDonald’s đã từng thất bại. Người ta so sánh sự kiện vùng Altamura ở phía Nam Italia, đánh bật Mc Donald’s như người anh hùng tí hon David đánh thắng kẻ khổng lồ Goliah hùng mạnh. McDonald’s không phải bị đánh bại bởi một hay nhiều người thợ làm bánh. McDonald’s đã thua bởi nền văn hóa lâu đời ở đây. Như vậy cho dù MacDonald’s có vào Việt Nam thì những chuỗi như Phở 24 vẫn đủ sức cạnh tranh vì phở đã là một món ăn văn hóa của người Việt. Nói tóm lại một điều sự xuất hiện của các cửa hàng thức ăn nhanh chỉ góp phần làm tăng thêm sự đa dạng của ẩm thực Việt Nam, chứ không ảnh hưởng gì đến các nhà bán lẻ lĩnh vức ăn uống trong nước, có chăng đó chỉ là cuộc chiến giữa các hãng đến từ nước ngoài nhằm lấy lòng của khách hàng người Việt. 2.3.2.7. Một số chuỗi cửa hàng khác. 2.4. Discount Store – Cửa hàng giảm giá. 2.4.1. Giới thiệu về Discount store. Cửa hàng giảm giá thực chất là một dạng của cửa hàng bách hoá tổng hợp (department store), chuyên bán các sản phẩm với giá rẻ hơn các nhà bán lẻ truyền thống. Hầu hết các cửa hàng loại này thường mang đến cho khách hàng sự đa dạng về chủng loại hàng hoá. Tuy nhiên cũng có một số cửa hàng giảm giá chỉ chuyên bán một số loại mặt hàng nhất định như trang sức, các thiết bị và dụng cụ điện… Cũng cần nói rõ ở đây các cửa hàng giảm giá không phải là dạng cửa hàng một đô Lĩnh vực Cửa hàng Thời trang Quần áo:Việt Tiến, Việt Thy, May Nhà Bè, May Phương Đông, Thái Tuấn, Ad, Tốt, Nino Max, Blue Exchange, Sea, Focci… Giày dép: Biti’s, giày 199.000 đồng, Hồng Thạnh, Hồng Anh… Siêu thị Coop-Mart, Maxi Mart, Bigc… Điện máy Nguyễn Kim… G7-mart… 24h… Ẩm thực Bánh: Kinh Đô Bakery, Đức Phát, Hỷ Lâm Môn… Thức Ăn Nhanh: KFC, Loterria… Đồ Nguội: Vissan… Giải Khát: Cà Phê Trung Nguyên, Nước Mía Siêu Sạch, Alo Trà… Phở 24 Di động Thế giới di động, Nettra Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 24 ( Dollar Store) – loại cửa hàng chuyên bán sản phẩm với giá một đô hoặc thấp hơn. Bởi vì, tại cửa hàng giảm giá người ta có thể mua nhiều loại nhãn hiệu hàng hoá và giá cả cho từng chủng loại cũng có nhiều khác biệt. Ngày nay cửa hàng giảm giá xuất hiện khá phổ biến tại Mỹ và nhiều quốc gia trên toàn thế giới. Nhưng có lẽ cũng ít ai biết là sự ra đời của loại cửa hàng này là trong giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai, khi mà một loạt các nhà bán lẻ tại Mỹ đã bắt đầu nhận thấy lợi ích của chiến thuật giảm giá để hấp dẩn nhiều khách hàng hơn để rồi từ đó tăng lợi nhuận nhờ tính quy mô. Trong giai đoạn những năm 1950 đến những năm cuối của thập niên 80, các cửa hàng giảm giá đã xuất hiện phổ biến và rộng rãi đến người tiêu dùng còn hơn cả siêu thị và các cửa hàng bách hoá tổng hợp cùng thời khác. Hàng trăm cửa hàng giảm giá mọc ra như nấm, và mang lại thời hoàng kim cho loại cửa hàng này vào thập niên 60 tại Mỹ, với sự ra đời của những hệ thống cửa hàng giảm giá đầy tên tuổi như là K-Mart, Zayre, Kuhn’s-BigK (sau này bán lại cho Wal-Mart vào năm 1981), GEM, TG&Y, Woolco (đóng cửa vào 1983, và cũng bán một phần lại cho Wal-Mart) cùng một loạt các cửa hàng giảm giá khác. Còn về hiện tại thì sao, Wal-Mart đang là nhà bán lẻ lớn nhất trên toàn thế giới với hơn 1,353 cửa hàng tại Mỹ, còn Target và K-Mart là hai đối thủ cạnh mạnh hàng đấu của Wal-Mart xếp ở những vị trí tiếp theo. Và chúng tôi xin giới thiệu cửa hàng giảm giá tiêu biểu đó là: 2.4.2.Cửa hàng giảm giá WAL-MART. 2.4.2.1.Vài nét về Wal-Mart. Type Discount department store/Public Founded Rogers, Arkansas (1962) Headquarters Bentonville, Arkansas, USA Key people Sam Walton (1918–1992), Founder H. Lee Scott, CEO S. Robson Walton, Chairman Thomas Schoewe, CFO Industry Retail Products Discount stores, grocery stores, and hypermarkets Revenue $315.654 billion USD (2006) Net income $11.231 billion USD (2006) Employees 1.8 Million (2006) Slogan Wal-Mart. Always Low Prices. Always./ Save More. Smile More. (U.S.) / WE SELL FOR LESS every day! (Canada) Website Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 25 Vào năm 1962, Sam Walson đã mở cửa hàng Wal-Mart đầu tiên, Wal- Mart Discount City, tại Rogers, Arkansas. Trong vòng 5 năm sau đó, công ty đã mở rộng thêm 24 cửa hàng xuyên suốt bang Arkansas và mang về doanh thu cho Wal-Mart là $12.6 triệu USD. Vào 1-10-1972 công ty chính thức niêm yết giá trên New York Stock Exchange. Tờ cổ phiếu đầu tiên được công ty đưa đến công chúng là vào tháng 5- 1971 với mệnh giá là 47USD Đến 1975, và lúc này công ty đã có 125 cửa hàng với 7,500 nhân viên, và tổng doanh thu bán hàng là $340.3 triệu USD. Và tiếp tục nhanh chóng phát triển trong giai đoạn những năm 1980 đến 1990. Trong năm 2005, Wal-Mart là tập đoàn bán lẻ đứng hàng đầu thế giới và là tập đoàn mạnh thứ hai sau Exxon Mobil. Kết thúc năm tài chính vào ngày 31-1- 2006, thu nhập ròng của Wal-Mart là 11,2 triệu USD trên tổng doanh thu bán hàng là 316 triệu USD, mức tăng trưởng lợi nhuận là 3,5%. Vào ngày 2-11-2006 thu nhập ròng của công ty đã là 26,7 triệu USD cao hơn so với một năm trước đó. Đó là một thành quả to lớn của tập đoàn bán lẻ này khi họ đã chiếm lĩnh 20% thị phần bán lẻ tại Mỹ và Mexico. Và chiếm 22% thị phần về đồ chơi mà nổi bật là loại đồ chơi Toys*R*Us, một thương hiệu có từ khoảng cuối thập niên 90. 2.4.2.2. Hệ thống cửa hàng và sản phẩm. Diện tích: 3,000x21,000 (m2) Sản phẩm: các loại hàng hoá thông thường như thực phẩm chín, đông lạnh, các phẩm sữa, gia dụng, dụng cụ, đồ điện tử….. Nhiều Wal-Mart Discount Stores cũng có những đặc trưng để tạo nên sự khác biệt như một garden center, pharmacy, Tire & Lube Express, optical center, one-hour photo processing lab, portrait studio, hay như một cửa hàng fast food. Đặc điểm: Đây là mô hình phổ biến của Wal-Mart. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 26 Wal-mart supercenter Wal-Mart Neighborhood Market Sam's Club Đây là một hệ thống kho dùng để bán tạp hoá, và các sản phẩm thông dụng khác, có một điểm khác biệt là Sam’s Club chỉ bán cho các khách hàng thân quen của mình, hiện có khoảng 574 Sam’s Club tại Mỹ. Wal-Mart International Madison Heights, Virginia, United States. Diện tich: 9,000x24,000 (m2) Sản Phẩm: Các mặt hàng thông thường tương tự như Wal-Mart Discount Stores và cũng có những sự khác biệt. Tuy nhiên ở đây, Wal-Mart phân chia các mặt hàng, dịch vụ ra từng khu, và cũng có các dịch vụ tương tự như trên thậm chí có cả cửa hàng cung cấp dịch vụ điện thoại, beauty salons, cửa hàng cho thuê phim, trung tâm giải trí gia đình, chi nhánh ngân hàng địa phương, và cả việc bán gas….. Đậc điểm: lớn hơn Wal-Mart Discount Stores, có nhiều dịch vụ và sản phẩm đa dạng hơn, và có hai cổng chính. Diện tích: 3,900m2 Sản phẩm: tương tự như hai mô hình trên, nhưng hàng hóa không đa dạng bằng, có tính chất gần gũi như chợ. Đặc điểm: Thường chỉ xuất hiện tại các vùng nông thôn. Winter Springs, Florida. Wal-Mart Supercenter in Torreón, Mexico. Wal-Mart Supercenter in Bucheon, South Korea. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 27 Hiện tại Wal-Mart có khoảng 2700 cửa hàng có mặt trên 14 quốc gia. 2.4.2.3. Động thái của ngưới bán. - Kế hoạch mở rộng nhóm khách hàng. Theo một thông tin trên Wall Street Journal vào 7-9-2006 Wal-Mart đang chuẩn bị kế hoạch để mở rộng nhóm khách hàng tiềm năng của mình từ one-size- fits-all (tạm dịch: chỉ một nhóm khách hàng phù hợp với cửa hàng) sang fitting (tạm dịch: tất cả đếu phù hợp). Được chia làm 6 nhóm: người Mỹ gốc phi, người giàu có, người vô gia cư, Người la tinh, người sống ngoại ô và người dân ở thôn quê. Như vậy kế hoạch trên cho thấy Wal-Mart đang bắt đầu cho chiến dịch thay đổi hình tượng của mình, không chỉ phục vụ đối tượng “con nhà nghèo” mà còn phục vụ cho những đối tượng “con nhà giàu” và các đối tượng khác. - Giá cả: đây cũng là một đặc điểm chính của bất kỳ cửa hàng giảm giá nào đó là giá cả của tất cả các mặt hàng phải thấp hơn các nhà bán lẻ khác ( không so sánh với cửa hàng một đô). 2.4.2.4. Khách hàng của Wal-Mart. Khách hàng của Wal-Mart là hệ thống khách hàng toàn cầu nơi mà có sự hiện diện của họ. Tuy nhiên về cơ bản tại Mỹ, người ta nhận thấy khách hàng của Wal- Mart có những đặc điểm như sau: - Đa số họ là người có mức thu nhập thấp so với mức trung bình của quốc gia. - Một điều tra cho biết rằng, 1/5 khách hàng của Wal-Mart không có tài khoản tại ngân hàng. - Trong cuộc bầu cử năm 2004, có đến 76% những người mua sắm tại Wal-Mart bỏ phiếu cho George W Bush. Trong khi đó chỉ có 23% bầu John Kerry. Trái lại những người không mua sắm tại Wal-Mart (những người nói không với Wal- Mart) đến 80% bầu cho John Kerry trong khi Geogre W Bush chỉ có được 18% người ủng hộ. 2.4.2.5. Chúng ta nói gì?. Ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa xuất hiện loại cửa hàng giảm giá nào (không tính các cửa hàng giảm giá theo thời vụ), và theo chúng tôi lý do đó là vì: - Các công ty trong nước năng lực còn yếu chưa đủ năng lực để có thể ép giá nhà sản xuất. - Quan niệm cũ thường thích bán với giá cáo hơn là bán với giá thấp. Chuyện gì sẽ xảy ra khi Wal-Mart vào Việt Nam, Theo dự báo thì sau khi Việt Nam vào WTO, Wal-Mart và một số tập đoàn bán lẻ khác sẽ tiếp cận thị trường Việt Nam. Nhận định: - Khách hàng sẽ đổ xô đi mua sắm vì giá rẻ. - Trong giai đoạn đầu khách hàng của họ không phải phân loại theo thu nhập. - Tình hình sẽ khó khăn cho các nhà bán lẻ trong nước. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 28 - Một số công ty bán lẻ sẽ phải giã từ cuộc chơi, tuy nhiên nếu công ty nào đủ sức chống trả thì về lâu dài khách hàng sẽ có thể quay lại với mình nếu như mình có những chính sách tốt cũng như sự chuẩn bị tốt (xem phần giải pháp trong chương 3). 2.4.2.6. Một số cửa hàng giảm giá khác: Kmart, Target, … 2.5. Supermarket - Siêu thị. 2.5.1. Giới thiệu. Siêu thị là một cửa hàng tự phục vụ được chia ra nhiều khu vực, bộ phận cung cấp nhiều loại mặt hàng khác nhau như: thức ăn, quần áo, mỹ phẩm, đồ dùng gia đình,………... Nó có qui mô lớn và có nhiều sự lựa chọn hơn là cửa hàng bách hóa truyền thống. Ở Việt Nam, siêu thị là một loại hình giải trí văn hoá nhằm thỏa mãn nhu cầu nhìn ngắm và chọn lựa của người dân – là hình thức bán lẻ giành cho mọi đối tượng xã hội. Tuy chỉ mới phát triển tại Việt Nam năm 1994, từ 10 siêu thị ở 4/64 tỉnh thành phố thì 10 năm sau đã có khoảng 150 siêu thị đang hoạt động tại 25 tỉnh thành. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của kênh phân phối hiện đại này khoảng 15%-20%. Từ chỗ chỉ chiếm dưới 3% thị phần bán lẻ, siêu thị đã tăng lên khoản trên 20% và tốc độ này vẫn chưa dừng lại. Người tiêu dùng Việt Nam đã có xu hướng chuyển từ mua sắm tại chợ truyền thống sang mua sắm tại siêu thị. Ở Tp.Hồ Chí Minh và Hà Nội hiện nay có trên 80% hộ gia đình có thói quen đi chợ hảng ngày. Chỉ hơn 10% hộ thích đi siêu thị thay cho đi chợ hàng tuần nhưng nếu chỉ đi 1 lần/tháng thì con số tăng lên tới hơn 60%. Một số siêu thị mà người dân đến như Maximak, Big C, Metro, Citimart,… mỗi siêu thị có những đặc trưng và ưu điểm riêng. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi sẽ giới thiệu vài nét về siêu thị Co.opMart. 2.5.2. Siêu thị CO.OPMART. 2.5.2.1. Vài nét về Co.op Mart. Bước vào lĩnh vực siêu thị bán lẻ từ năm 1996, sau 8 năm, Saigon Co.op đã đưa 12 Co.opMart đi vào hoạt động, hiện chiếm trên 50% thị phần siêu thị tại TP.HCM. Từ cuối năm 2000, Saigon Co.op đã quyết định tiến hành xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào hoạt động quản lý kinh doanh tại đơn vị và hệ thống siêu thị Co.opMart để phục vụ khách hàng hiệu quả nhất. Cũng theo bình chọn này, Saigon Co.op tiếp tục là nhà bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam. Đây là năm thứ 2 liên tiếp Saigon Co.op chiếm vị trí số 1 của các nhà cung cấp hàng hóa tại Việt Nam và lọt vào top 500 nhà bán Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 29 lẻ lớn trong khu vực của tạp chí này. Năm ngoái, Saigon Co.op ở thứ hạng 330, có nghĩa là trên bảng xếp hạng năm nay Saigon Co.op đã tụt 37 bậc. Tên chính thức : Liên Hiệp Hợp Tác Xã Thương Mại TP Hồ Chí Minh Tên giao dịch đối ngoại : Saigon Union of Trading Co-operatives Tên viết tắt : Saigon Co.op Thành lập : 12/5/1989 Địa điểm : Trụ sở chính tại 199-205 Nguyễn Thái Học, Quận 1, Tp HCM Điện thoại : ( 84.8 ) 8.360.143 Fax : ( 84.8 )8.370.560 Email : sgcoop@saigonco-op.com.vn Website : www.saigonco-op.com.vn Hệ Thống Co.op Mart ƒ Siêu thị Co.opMart Cống Quỳnh ƒ Siêu thị Co.opMart Trần Hưng Đạo ƒ Siêu thị Co.opMart Hậu Giang ƒ Siêu thị Co.opMart Ðầm Sen ƒ Siêu thị Co.op Mart Nguyễn Ðình Chiểu ƒ Siêu thị Co.opMart Ðinh Tiên Hoàng ƒ Siêu thị Co.opMart Phú Lâm ƒ Siêu thị Co.opMart Thắng Lợi ƒ Siêu thị Co.opMart Phú Mỹ Hưng ƒ Siêu thị Co.opMart Nguyễn Kiệm ƒ Siêu thị Co.opMart Xa lộ Hà Nội ƒ Siêu thị Co.opMart Qui Nhơn ƒ Siêu thị Co.opMart Cần Thơ ƒ Siêu thị Co.opMart Mỹ Tho Thương hiệu Co.opMart đã trở thành một trong những thương hiệu có tên tuổi trên thị trường hệ thống bán lẻ bởi việc luôn cố gắng hoàn thiện để đem đến sự phục vụ tốt hơn cho khách hàng. Với gam màu xanh đỏ trắng (Mart màu đỏ, nhỏ nổi bật trên nền màu xanh của chữ Co.op, hai chữ ấy kết hợp hài hòa trên nền màu trắng) tạo nên một phong cách riêng, độc đáo cho thương hiệu. Ngoài ra, với slogan (khẩu hiệu): “Bạn của mọi nhà" và "Nơi mua sắm đáng tin cậy" nó đã trở nên có sức sống thật sự, tồn tại trong "bộ nhớ" của người tiêu dùng chứ không chỉ trên băng rôn, tờ bướm quảng cáo hay các bản tin hàng hoá thông thường. Và chỉ mới 10 năm Co.opMart đã tạo được uy tín vững chắc chẳng những trong nước mà cả khu vực Đông Nam Á, có nhiều đối tác lớn trong vùng, học tập được nhiều kinh nghiệm trên thương trường Quốc tế. 2.5.2.2. Cách thức bán hàng: Để đi đến sự thống nhất về phương thức bán hàng ban lãnh đạo Co.opMart đã mất không ít thời gian cho việc nghiên cứu, điều tra, tìm hiểu, học hỏi từ các mô hình siêu thị trên thế giới, tìm hiểu nhu cầu của thị trường trong nước... Sau đây là một số chiêu thức bán hàng như về trưng bày hàng hóa, chính sách khuyến mãi, nhân viên phục vụ, máy móc, thiết bị dành cho việc bán hàng,… Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 30 - Hình thức trưng bày: Khi bước vào siêu thị Co.opMart, bạn không chỉ bị choáng ngợp bởi nhiều chủng lọai hàng hóa khác nhau mà bạn còn bị thu hút bởi cách thức trình bày bắt mắt không kém gì bất cứ siêu thị nước ngoài nào nhất là hàng thực phẩm, với cách thức bài trí thông thường như sau: o Tầng trệt: mỹ phẩm, giày dép, hoa quả, thực phẩm từ thực phẩm tươi sống đến thực phẩm chế biến, đồ khô,… Còn có các món ăn được chế biến, đầu tư phong phú, các bà nội trợ tha hồ lựa chọn cho bữa cơm gia đình vừa ngon lại vừa thuận tiện về thời gian. Nếu khách hàng chưa ăn sáng có thể lưa chọn một trong những món ăn đã được bán sẵn ở tầng này. o Tầng 1: quần áo may sẵn, vải vóc; hàng điện, điện tử; dụng cụ nhà bếp, đồ nội thất, hàng nhựa gia dụng... Chưa hết, còn có nhà sách, khu giải trí cho trẻ em. Khách hàng có thể yên tâm vừa lựa chọn những mẫu áo, đồ dùng gia đình vừa có thể cho chúng chơi những trò chơi để chúng khỏi quấy rầy đến những người bên cạnh.. Ngoài ra, còn có khu vực gửi xe khách hàng có thể yên tâm mua sắm mà không cần phải lo sợ bị mất xe, hay phải đứng đợi ở ngoài vì không có chỗ gửi, như vậy sẽ hạn chế thời gian mua sắm. - Máy móc thiết bị, phục vụ bán hàng: o Máy tính tiền: Hệ thống máy tính tiền hiện đại đọc qua hệ thống mã vạch, mỗi mặt hàng chỉ được tính trong vài giây, do đó khách hàng không cần phải chờ đợi lâu để có được mặt hàng mà mình mua. Hiện nay, Co.opMart đã tăng cường 2-4 quầy thu ngân phụ cho mỗi siêu thị. Mặt khác, Co.opMart còn bố trí một quầy thu ngân riêng cho những khách hàng mua dưới 10 sản phẩm, tăng cường lực lượng xếp hàng vào bao để thu ngân hoạt động nhanh tay hơn, tổ chức đóng gói sẵn một số sản phẩm, đồng thời bố trí người điều phối hài hoà lượng khách hàng thanh toán tại các quầy. o Máy lạnh: Hệ thống máy lạnh được đặt khắp cả trong siêu thị. Bạn có thể đi mua sắm bất kỳ lúc nào mà không sợ bị nóng hay bị lạnh, vì nó được lan tỏa khắp các khu vực, gian hàng, tạo không khí mát lạnh, dễ chịu cho người mua. o Máy camera: Trong siêu thị, có lắp đặt camera quan sát, bố trí nhân viên bảo vệ giả làm khách mua hàng trà trộn trong siêu thị, lắp đặt bộ từ bằng nhựa hoặc tem chống trộm bằng từ tính đính trên sản phẩm. Loại bọ từ và tem từ tính này sẽ được một cổng từ kiểm soát trong phạm vi phát sóng từ ở khoảng cách 0,9-1,5m, đặt ngay cổng ra vào của khu vực hàng tự chọn. Nếu khách hàng quên thanh toán hoặc cất giấu các sản phẩm có gắn bọ từ - tem từ trong người, khi đi ngang qua cổng từ, còi báo động sẽ kêu “tít tít”. Đối với hàng quần áo thường chọn hình thức gắn bọ từ bằng nhựa (tag) lên sản phẩm. Bọ từ nhựa là một miếng nhựa, được giữ bằng một đinh ghim. Muốn tháo bọ nhựa ra khỏi sản phẩm phải dùng đến thiết bị. Riêng các sản phẩm tiêu dùng khác như thực phẩm, hóa mỹ phẩm, chọn cách dán tem từ có hình dán bên ngoài rất giống với tem của mã hàng, nhưng nếu đưa tay sờ lên mặt tem thì mới thấy cộm vì bên dưới loại tem này có gắn thiết bị cảm Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 31 ứng từ. Như vậy, khách hàng có thể yên tâm về hệ thống bảo mật, tránh tình trạng trộm cắp làm cho một số người lo ngại, không dám đi mua sắm. - Nhân viên: o Nhân viên bán hàng: vui vẻ, thân thiện, ân cần, nhã nhặn, trung thực bạn có thể hỏi nhân viên về một món hàng hay thực phẩm họ sẽ hướng dẫn một cách cặn kẽ hay đưa ra những lời khuyên đúng đắn. Cũng có thể tự do lựa chọn hàng hóa mà không sợ bị người bán hàng khó chịu vì bị mất mở hàng hoặc trả giá quá sát…, được ngắm thỏa thích và học cách sử dụng những mặt hàng mới từ các nhân viên bán hàng. Ngoài ra, với bộ đồng phục xanh dương phù hợp với thương hiệu Co.opMart đã tạo cho nhân viên một phong cách chuyên nghiệp, lịch sự. o Nhân viên quản lý: phong cách làm việc năng động do sự bổ sung liên tục nhân sự trẻ giữ các chức vụ chủ chốt, từ Giám Đốc siêu thị, Trưởng, phó phòng chuyên môn cho đến thành viên trong Ban Tổng Giám Đốc (điều này có được nhờ sự ra đời khá đều đặn của các Co.opMart, góp phần tạo nên sự năng động trong toàn bộ máy ); của việc " bảo toàn lực lượng " hay nói cách khác là không bị mất chất xám khi cử người sang các liên doanh hay đưa đi đào tạo ở nước ngoài. Chính vì điều này sẽ làm cho khách hàng tin tưởng vào hệ thống bán hàng, bởi hệ thống này đã được quản lý bởi những người có chuyên môn. - Thời gian phục vụ: Từ 8 giờ sáng đến 10 giờ tối (cả chủ nhật và ngày lễ). Như vậy khách hàng có thể lựa chọn thời gian hợp phù hợp nhất để đi mua sắm. - Chính sách khuyến mãi: Đặc biệt để gây ấn tượng và lôi cuốn khách hàng, Co.opMart có nhiều chương trình khuyến mãi mới, hấp dẫn. Ví dụ như chương trình “Người tiêu dùng và hàng Việt Nam Chầt Lượng Cao” lần 9 với chủ đề “Người Việt Nam, tự hào dùng hàng Việt Nam” được thực hiện tại hệ thống siêu thị Co.opMart đã diễn ra vào ngày 28-8 đến 1-10-2006, với sự hợp tác giữa Saigon Co.op, Báo Sài Gòn Tiếp thị và 82 nhà cung cấp hàng Việt Nam tham gia. Tham gia chương trình, người tiêu dùng được hưởng nhiều ưu đãi, và quyền lợi đặc biệt như: Chương trình “Giá đặc biệt”: Đợt 1: từ 28-8 đến 10-9-2006. Đợt 2: từ 11-9 đến 1-10-2006 với trên 500 mặt hàng thiết yếu - chủ lực được bán với giá giảm từ 5%-30% so với giá thông thường. Bên cạnh việc mua hàng với giá đặc biệt, chương trình “Quà tặng hàng Việt Nam Chầt Lượng Cao” sẽ mang đến cho người tiêu dùng gần 300 phần quà/1ngày. Thêm vào đó Co.opMart đã tặng riêng 40.000 phiếu giảm giá 10% cho các thầy cô giáo đến mua hàng tại hệ thống siêu thị Co.opMart (từ 19/11 đến 21/11). Đến mua hàng vào ngày 19/11, các thầy cô còn được giảm giá hai lần: giảm giá trên sản phẩm APEC và giảm giá trên phiếu mừng 20/11 Ngoài hoạt động khuyến mãi tại hệ thống siêu thị Co.opMart, Saigon Co.op còn tổ chức đội bán hàng lưu động đưa hàng đi bán tại các xã vùng ven, các huyện ngoại thành, với các mặt hàng chủ yếu là hàng tiêu dùng, các mặt hàng khuyến mãi đang bán tại hệ thống siêu thị Co.opMart với giá giảm tương đương với giá bán tại hệ thống siêu thị Co.opMart. Từ ngày 7-9-2006 đến ngày 29-9-2006, Cửa hàng bán hàng lưu động Saigon Co.op bán tại 12 xã thuộc các huyện Nhà Bè, Hóc Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 32 Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ. Từ ngày 1-9-2006 đến ngày 28-9-2006, hệ thống siêu thị Co.opMart đã tổ chức đội bán hàng lưu động tại 41 xã thuộc các huyện Cần Giờ, Nhà Bè, Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh và quận 9, TP.HCM. - Bán hàng qua mạng: Siêu thị Co.opMart có ưu thế vừa có chỗ thi thố trên “mặt đất” qua hệ thống các Co.opMart ở nhiều quận huyện, tỉnh thành vừa có diện tích ở trên “trời” - siêu thị điện tử trên mạng. Co.opMart (www.saigon- coopmart.com.vn)…đang khuấy động thị trường mua sắm qua mạng máy tính. Những chương trình khuyến mãi được đẩy lên mạng để thông tin cho mọi người và ai cũng có thể tranh thủ đăng ký một gói hàng cuối năm bằng cách “nhấp chuột”. Lượng hàng hoá trên mạng cũng dần dần trở nên phong phú hơn trước nhờ sự phối hợp giữa các đơn vị kinh doanh trên mạng với các nhà phân phối. Các nhà sản xuất, nhà phân phối hàng tiêu dùng cũng muốn có thêm một kênh phân phối mới bên cạnh các kênh phân phối truyền thống hiện nay. Đồng thời, khả năng chuyển tải thông tin về những chương trình khuyến mãi qua mạng sẽ nhanh hơn việc chờ quảng cáo hoặc đăng tải thông tin trên các báo. Khách hàng muốn mua một sản phẩm nào đó chỉ cần điền vào đơn đặt hàng trên mạng, sau đó kiểm tra lại đơn đặt hàng đã đủ chưa, nếu thừa thì delete còn thiếu thì update vào. Có thể bổ sung chi tiết của món hàng cần mua như màu sắc, kích cỡ, mùi vị…. tạo sự thuận tiện cho người mua. Co.opMart cũng miễn phí vận chuyển khu vực nội thành, chiết khấu cho khách đặt hàng với số lượng lớn. Với cách thức bán hàng này Co.opMart đã thu hút được một lượng lớn khách hàng trở thành khách hàng quen thuộc và thường xuyên, làm tăng doanh thu cho siêu thị. 2.5.2.3. Khách hàng của Co.op Mart. Lượng khách hàng đến mua sắm tại hệ thống siêu thị Co.op Mart đạt trên 9,5 triệu lượt khách, tăng 28,9% so với cùng kỳ năm 2004. Bình quân mỗi ngày, hệ thống siêu thị Co.op Mart đón trên 55.000 lượt khách. Những đối tượng khách hàng đến với hệ thống siêu thị Co.opMart: - Đa số là những người nội trợ đủ mọi thành phần lứa tuổi. - Họ thường là những người có thu nhập trung bình khá trở lên. - Họ là những người không thích sự ồn ào náo nhiệt của việc mua sắm ngoài chợ. - Họ không thích trả giá - Họ là những người mua sắm bốc đồng, vì có thể họ đến siêu thị là đi cùng với bạn bè, hoặc chỉ để ngắm nhưng có thể một mặt hàng nào đó khiến họ không thể kiềm lại cái cảm giác thích mua sắm bốc đồng của mình. - Họ là những người bận rộn. - Họ là những người quan tâm đến vệ sinh an toàn thực phẩm. - Họ thường xống ở khu vực thành phố. Siêu thị Coopmart lên Internet hoà nhập vào xu hướng thương mại điện tử. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 33 2.5.2.4. Chúng ta nói gì? Hiện nay, các siêu thị ở Tp.HCM, nhìn chung đã có cố gắng trong việc quan tâm đến người mua hàng, nhưng vẫn còn nhiều yếu tố khiến người mua hàng thấy chưa thoải mái: - Giá cả hàng hóa: Chẳng hạn tại siêu thị Marximart đường 3-2, khách hàng không thể mua trọn gói một thùng mì tôm hay một thùng bia. Họ mua cả thùng nhưng lại được tính tiền theo lối phải phân ra từng gói mỳ hay từng lon bia và nhân tiền lên cộng thuế VAT. Kết quả là hàng hoá đắt đáng kể so với mua một thùng mỳ tôm hay một thùng bia ở các cửa hàng chuyên bán các sản phẩm này ngoài đường. - Phiếu quà tặng: Các khách hàng mua hàng bằng vé quà tặng thường gặp rắc rối khi trả tiền do người bán hàng xem đi xét lại vé quà tặng và khách hàng cũng phải mua hết giá trị của vé mà không được trả lại tiền thừa. - Hàng hóa: Nhiều mặt hàng không in rõ giá, thậm chí chưa có tem giá nên có khi khách hàng đã chọn lựa tơi bời mới lấy nó ra được thì quầy tính tiền không thể tính tiền, báo phải chờ đợi. Ða phần khách hàng thường bỏ không mua mặt hàng đó nữa. Phần đông người mua chỉ mua thịt và đồ khô. Họ ít mua rau vì rau được bảo quản kém, nhìn không hấp dẫn và lượng rau héo khá nhiều. - Trình bày: Một số quầy hàng cách xếp đặt không hợp lý. Như tại siêu thị Coopmart Nguyễn Ðình Chiểu, cho dù lượng quần áo bán cho dân chúng ở đây rất phong phú nhưng do cách trình bày theo kiểu dùng các móc móc quần áo sít sao trên sào hay đổ chồng đống đủ kiểu và đủ loại với nhau nên khách hàng muốn tìm mua cho mình một bộ quần áo hợp lý là rất khó khăn. - Lối đi: Đa phần các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh có lối đi nhỏ, hẹp, chen chúc, lối thóat hiểm thiếu thốn Chính vì thế mà có một vài siêu thị đã có tên trong danh sách các tòa nhà dễ cháy. Một số bãi giữ xe vẫn còn thấy rác rến làm cho khách hàng cảm thấy khó chịu, dẫn đến việc không muốn quay lại mua sắm lần nữa. - Không phải là chỗ dành cho người nghèo: Trong siêu thị mặt hàng nào cũng đắt hơn bên ngoài từ vài chục phần trăm, có khi tới gấp đôi, nên người nghèo thường không đến siêu thị. Thậm chí khi siêu thị phát triển ào ạt tạo ra càng nhiều vùng sa mạc hàng hóa, sẽ khiến người nghèo, người không có điều kiện tiếp cận còn tiếp tục khó khăn hơn. Kể từ khi có siêu thị một số sạp hàng bán lẻ ngoài chợ phải nghỉ vì mất khách, khiến cho hoạt động các chợ, các khu vực mua bán tạm dần dần bị thu hẹp. Các chuyên gia kinh tế gọi tình trạng này là “sa mạc hóa hàng hóa”. => Tóm lại, để khắc phục những tình trạng trên các siêu thị cần có những biện pháp như là: - Giá cả hàng hóa cần có thêm những giá bán sỉ để khuyến khích khách hàng mua nhiều sản phẩm và họ cũng sẽ cảm thấy thích thú vì mình đã tiết kiệm được một số tiền so với khi mua một sản phẩm. - Có một dấu hiệu đặc biệt nào đó trên các phiếu tặng quà, giảm giá để nhân viên có thể nhận biết được ngay, không làm mất thời gian của khách hàng. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 34 - Cần kiểm soát chặt chẽ việc in tem giá để khách hàng có thể biết chính xác giá cả mặt hàng mà mình muốn mua. - Thường xuyên đổi mới rau quả, tránh tình trạng khô héo. - Các quầy hàng cần được trình bày một cách hợp lý, bắt mắt, thuận lợi cho việc lựa chọn của người mua. - Cần quan tâm triệt để đến công tác phòng cháy và chữa cháy, tạo thêm các lối thoát hiểm và phải mở được dễ dàng các lối thoát hiểm này - Tạo công ăn, việc làm cho người nghèo bằng cách lấy nguồn hàng từ người nông dân để họ không bị thất nghiệp. - Cần làm sạch hơn ở khu vực bãi giữa xe để tạo được bộ mặt bên ngoài cho các siêu thị. 2.5.2.5. Các siêu thị khác: Siêu thị Big C, siêu thị Maximart, Siêu thị Metro, Siêu thị Sài Gòn……….. 2.6. Các định chế bán lẻ khác. 2.6.1. Dollar Store – Cửa hàng một đô. - Khái niệm: Cửa hàng một đô là loại cửa hàng chỉ bán những món hàng có giá trị thấp từ một USD trở xuống - Sản phẩm kinh doanh (thường thấy trong các cửa hàng một đô). * Dụng cụ làm sạch: bọt biển, bình xịt, giẻ lau, dụng cụ hốt rác… * Dụng cụ nhỏ: tua-vít, cờ-lê, đèn pin, móc khóa, dây thừng. * Dụng cụ nhà bếp: dao, đồ bóc vỏ, chén, đĩa…. * Dụng cụ văn phòng nhỏ: bút, giấy, kẹp giấy, tẩy.. * Dụng cụ trang trí trong các ngày lễ: đồ trang trí lễ giáng sinh, trứng phục sinh… * Dụng cụ làm vườn; kéo tỉa hoa…. * Và nhiều mặt hàng thông dụng có giá trị nhỏ khác như xà bông, pin, đèn pin… - Khách hàng: * Khách hàng của cửa hàng một đô là mọi thành phần trong xã hội, nhưng đa phần họ có thu nhập không cao có thể cho rằng là thấp. * Họ cũng chỉ mua sản phẩm khi họ cần, hoặc sản phẩm hết bất ngờ, không có yếu tố mua nhiều để giảm giá hay mua dự trữ. * Độ tuổi của họ cũng rất khác biệt ( ví dụ một em nhỏ thì có thể mua tập vở, một người nội trợ thì có thể mua chén đĩa…) * Họ có thể ở thành thị, nhưng thường cửa hàng loại này phù hợp với người dân vùng nông thôn hơn. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 35 - Giới thiệu cửa hàng một đô tiêu biểu: Type Dollar store Founded 1986 Headquarters Chesapeake, Virginia, USA Industry Retail Products Snacks, Toys, Books, Food, Housewares, Dollar Closeouts Website Dollar Tree Stores, Inc. là một trong những công ty bán lẻ dạng cửa hàng một USD nổi tiếng của Mỹ có trụ sở chính tại Chesapeake, Virginia. Mỗi món hàng mà cửa hàng này bán ra có giá thấp hơn hoặc bằng một đô và đây là một trong những cửa hàng một USD đúng nghĩa (vì một số cửa hàng tuy có chữ Dollar, nhưng không phải là cửa hàng một đô vì họ có bán sản phẩm cao hơn một đô, mục đích họ sử dụng chữ “dollar” là vì chính phủ không đánh thuế những mặt hàng có giá trị dưới một đô). Tính đến ngày 29-7-2006, Dollar Tree đang có mạng lưới 3,156 cửa hàng trên 48 bang của Mỹ. Hiện nay đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Dollar Tree là Family Dollar và Dollar General, Fred’s cùng với một số các công ty và tập đoàn bán lẻ khác. - Chúng ta nói gì? – Chúng ta chưa có cửa hàng một đô và chúng ta nên có những cửa hàng như vậy. Vì trên thế giới, cửa hàng một đô chính là đối thủ đáng gờm của Wal-Mart, mà đại gia này thì đang chuẩn bị đến Việt Nam, như vậy chúng ta không nên quá tự tin vào văn hoá tiêu dùng “người Việt sài hàng Việt”, phải có sự sẵn sàng đón đầu và cách xây dựng những cửa hàng một đô là chiến lược hiệu quả. Thực ra cửa hàng một đô cũng giống như các cửa hàng bán lẻ nhỏ truyền thống đã có mặt từ lâu ở Việt Nam, nhưng cách bán lẻ này thiếu chuyên nghiệp và sự chăm sóc khách hàng do đa phần người bán là những người tự mở cửa hàng và đứng bán. Còn cửa hàng một đô thực sự là một doanh nghiệp nên có những chiến lược và mục tiêu rõ ràng, có những chíến dịch bán hàng cũng như những chiến thuật chăm sóc khách hàng, đó cũng là cái mà các đại gia chiết khấu cũng thường làm. 2.6.2. Hypermarket – Siêu siêu thị. - Khái niệm: Hypermarket là sự kết hợp của Siêu thị (supermarket) và cửa hàng bách hoá tổng hợp (Department store). Khách hàng sẽ hoàn toàn bị choáng ngợp bởi một không gian rộng lớn khoảng từ 45,000 dến 65,000 m2 và có thể rộng hơn với hàng trăm nghìn chủng loại hàng hoá và dịch vụ mà khách hàng cho dù đi cả ngày cũng không thể nào đi hết. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 36 France's Carrefour là kẻ tiên phong trong việc xây dựng một hypermarket vào năm 1963 tại Sainte-Geneviève-des-Bois, Pháp. Còn hypermarket đầu tiên tại Mỹ được giới thiệu bởi Oshawa group gần Montreal vào năm 1973,. - Sản phẩm: vì là sự kết hợp của hai mô hình bán lẻ quy mô lớn nên hàng hóa của hypermarket là sự cộng lại của mô hình này đồng thời còn có thêm những loại hàng hoá, dịch vụ mà các hình thức kia có thể không có như trạm xăng, cửa hàng thuốc, dịch vụ sữa xe là một ví dụ. Còn về giá cả, thì các Hypermarket không có khác biệt gì so với supermarket và Department Store. - Khách hàng: Khách hàng của hypermarket là những người có thu nhập cao, họ thường đến hypermarket vào những ngày cuối tuần để mua sắm và hưởng các dịch vụ mà loại hình này mang lại, cũng xin nói thêm là các hypermarket thường chỉ nằm vùng ngoại ô, vì nó quá rộng nên không thích hợp trong khu vực nội thành. - Giới thiệu Hypermarket tiêu biểu: Type Grocery/Department store/Hypermarket Founded 1922 (Portland, Oregon) Headquarters Portland, Oregon Key people Micheal Ellis, president Industry Retail Products Food, clothing, footwear, bedding, furniture, jewelry, beauty products, electronics, toys, lumber, garden supplies and housewares. Parent Kroger Website Fred Meyer, Inc là một trong những nhà bán lẻ được thành lập vào năm 1922 tại khu phố kinh doanh ở Portland, Oregon bởi Fred G. Meyer. Họ là công ty tiên phong trong việc định dạng một mô hình kinh doanh mới tại Mỹ là hypermarket - Chúng ta nói gì? – Một biện pháp rất hay cho việc bảo vệ nền bán lẻ trong nước. Có thể nói Việt Nam đã gia nhập WTO trong khi nền bán lẻ trong nước còn chưa đủ lực, vậy tại sao không quy định những nhà bán lẻ muốn xây siêu thị thì phải xây đó là Hypermarket, như vậy sẽ hạn chế được việc họ đầu tư quá nhiều vào siêu thị, thêm nữa các hypermarket thường nằm khu vực ngoại thành nên cũng có ý nghĩa trong việc bảo vệ nền bán lẻ trong nước, vì đa phần người ta ngại đi xa, và thu nhập của người Việt Nam cũng chưa xứng tầm để vào các hypermarket. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 37 CHƯƠNG 3. BÁN LẺ Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐẦU WTO, NHẬN ĐỊNH – GIẢI PHÁP. Năm 2005, tổng mức hàng hoá bán lẻ tại Việt Nam đạt 23,5 tỉ USD, tăng 25%, số lượng người tiêu dùng tăng 16%. Theo thống kê, số doanh nhân trong ngành bán lẻ có độ tuổi dưới 30 chiếm tới 50% đủ cho thấy tính năng động, hấp dẫn trong lĩnh vực kinh doanh này. Dự báo đến năm 2020, Việt Nam sẽ trở thành một trong bảy thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trên thế giới và sẽ là điểm “tập kết“ của các tập đoàn bán lẻ quốc tế. Đến lúc đó những nhà bán lẻ trong nước sẽ ra sao, nếu cứ mãi “nhỏ“ như bây giờ? 3.1. Bán lẻ ở Việt Nam thời kỳ đầu WTO “cá lớn nuốt cá bé”. Mười năm trước, Wal-Mart đến Trung Quốc theo hình thức liên doanh rồi cuối cùng là 100% vốn của họ. Wal-Mart thu mua các sản phẩm của các nhà sản xuất Trung Quốc để đa dạng hoá mặt hàng, đồng thời trang trí các trung tâm phân phối này thật đẹp. Để rồi sau 10 năm, không chỉ một số tập đoàn nước ngoài khác đang có mặt tại Trung Quốc mà ngay các nhà phân phối Trung Quốc cũng không thể cạnh tranh nổi với họ. Theo tính toán, cứ một điểm bán hàng mà Wal-Mart mở ra, thì trong vòng bán kính 35 km vuông lại có tới 3 nhà phân phối Trung Quốc bị phá sản. Trung Nguyên từng đám phán với Wal-Mart để phân phối cà phê ra thế giới, nhưng cứ 6 tháng, Wal-Mart đưa những yêu sách có lợi cho họ. Ông Đặng Lê Nguyên Vũ, Tổng giám đốc Trung Nguyên cho rằng, một khi những tập đoàn lớn như Wal-Mart vào Việt Nam, các nhà phân phối khác ở Việt Nam coi như không có đất sống, và nhà sản xuất sẽ trở thành làm thuê, cả triệu người làm trong ngành bán lẻ sẽ mất việc. Theo ông Vũ, phía Việt Nam nên cấp giấy phép cho người nước ngoài ở vị trí xa trung tâm, nhằm tránh rủi ro quá cao cho các nhà phân phối nội địa. Ý kiến của Vũ xem chừng không thoả đáng, nhất là khi Việt Nam đã vào WTO. Theo bà Vũ Kim Hạnh, Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư TP.HCM (ITPC), cũng cần phải tính tới góc độ này, nhất là sức cạnh tranh của đôi bên còn quá chênh lệch. Với tỉ lệ 10/9 thì còn gọi là cạnh tranh, còn với tỉ lệ 1/10 như hiện nay thì không thể làm phép so sánh. Chỉ cần siêu thị Metro (xếp vị trí thứ 5 trên toàn cầu) được vào trung tâm thành phố, thì các nhà phân phối nội địa cũng khó tồn tại. Trong khi đó, việc hoạch định chính sách đầu tư trong lĩnh vực này giữa các bộ, ngành cũng chưa thống nhất. Ngay như với trường hợp của Metro, phía bộ thương mại chủ trương Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 38 chỉ cấp giấy phép theo năm, thế nhưng khi vừa trở về sau chuyến công tác nước ngoài, Bộ Trưởng Bộ thương mại Trương Đình Tuyển cũng thấy bất ngờ khi Bộ Kế Hoạch và Đầu tư đã cấp giấy phép cho ra đời 8 Metro, 10 Big C (đã làm 4) và 10 Parkson (đã làm 1). 3.2. Những rào cản phân phối. Mạng lưới bán lẻ hiện đại, đặc biệt là hệ thống siêu thị đang trở thành kênh phân phối quan trọng tại Việt Nam. Nếu như siêu thị gần như không tồn tại vào năm 1990, đã vươn lên chiếm tỷ trọng 10–20% thị trường bán lẻ vào đầu những năm 2000 và tiếp tục phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, theo điều tra của Trung tâm nghiên cứu người tiêu dùng và doanh nghiệp TP.HCM, trong chín kênh phân phối chính được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng thì kênh bán hàng qua một đầu mối chuyên nghiệp được sử dụng nhiều nhất, chiếm tỷ trọng 19%. Ông Đào Xuân Khương, giám đốc kinh doanh của tập đoàn phân phối Phú Thái với 2.500 nhân viên trải đều từ Bắc vào Nam, cho biết: Rất nhiều nhà sản xuất tự đứng ra phân phối sản phẩm, nhưng chi phí sẽ rất cao, chiếm tới 30% giá thành. Quan trọng hơn, một nhà phân phối chuyên nghiệp sẽ có điều kiện phân tích thị trường, tư vấn hợp lý cho nhà sản xuất. Ông Richard Moore, chuyên gia kinh tế của Mỹ, trong một buổi làm việc tới 20 doanh nghiệp TP.HCM mới đây, phát biểu: Các bạn có một “nền văn hóa“ xe gắn máy, và đó là lý do để 1,16 triệu điểm bán lẻ hộ gia đình ở Việt Nam vẫn phát triển tốt. Nhận định của ông Moore cũng trùng với dự án của Công ty Trung Nguyên, có tên “Lên đời chạp phô”. Theo ông Ngô Văn Bình giám đốc kinh doanh thương hiệu cà phê G7, chủ các tiệm tạp phô và tạp hoá quen ngồi chờ giới thiệu hoặc giao hàng tận nơi nên thường bị chi phối bởi các chương trình khuyến mãi, trang trí cửa hàng theo yêu cầu của các nhà sản xuất nên có khi không đẹp mắt hoặc dẫn đến việc đọng hàng, đọng vốn. Ông Bình cho biết, G7 mart muốn cải thiện tình trạng này với mục tiêu cửa hàng đẹp, phân phối hàng hợp lý. Ý tưởng của G7 mart cũng khó thành công khi mà các tên tuổi như Coca Cola hay Pepsi từng chi nhiều triệu USD để dành được sự độc quyền “cấp cửa hàng” trong thập niên 90 (thế kỷ trước). Đồng thời tuy chỉ mới công khai “tham vọng“ vươn ra hệ thống phân phối bán lẻ, thì G7 đã gặp phản ứng, Metro là đơn vị đầu tiên ngưng phân phối hàng của Trung Nguyên mà không nêu lý do, Ngoài ra, trước G7, tập đoàn Massan (có thương hiệu Chinsu) đã từng mở nhiều cửa hàng, nhưng sau đó đã thất bại vì doanh số mà Massan áp cho cửa hàng quá cao, trong khi cửa hàng chưa đủ gây ấn tượng với người tiêu dùng. Tại các thành phố lớn thì siêu thị dần trở thành kênh phân phối quan trọng, nhưng thực tế còn nhiều chuyện đáng phàn nàn. Ông Phạm Đình Hồng, Giám đốc công ty may Tây Đô cho biết, hàng năm May Tây Đô bán cho Metro ở châu Âu 300.000 sản phẩm, cho Wal-Mart 500.000 sản phẩm, nhưng ngoài siêu thị Coopmart Cần Thơ, công ty không thể đưa được hàng vào siêu thị trong nước, dù Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 39 giá chỉ bằng 50% giá xuất khẩu. Ông Hồng nói thẳng: “Có lẽ tôi không biết cách đưa phong bì, nên hàng của công ty mới khó vào.” Ngay cả Coopmart Cần Thơ, khách hàng báo hết hàng, họ đến gặp trưởng quầy đề nghị cung ứng thêm thì bị mắng là không biết cách làm việc. Không riêng gì May Tây Đô, nhiều doanh nghiệp khác cho biết, các siêu thị trong nước rất khó tiếp cận để đưa hàng vào. Ngược lại, hàng vào Metro, Big C không khó, kể cả ở nước ngoài. Một thông tin từ ITPC đáng quan tâm, ở TP.HCM, siêu thị, nhượng quyền thương hiệu là mô hình thành công, nhưng mô hình này lại chiếm tỷ lệ chưa tới 10% trên cả nước. Như vậy, để phát triển hệ thống phân phối đồng bộ giữa các tỉnh thành, thật sự là khó khăn. Trong bối cảnh hiện nay khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO, các đại gia bán lẻ nước ngoài đang nhăm nhe vào thị trường Việt Nam, theo ông Hoàng Thọ Xuân, Vụ trưởng Vụ Chính sách thị trường trong nước nhận định” Trong xu thế văn minh hiện đại, rất cần thiết phải cải tổ lại hệ thống bán lẻ hiện nay tại Việt Nam bằng những chuỗi cửa hàng nhằm tạo sức mạnh liên kết thị trường nội địa, đồng thời chia sẻ những rủi ro bất khả kháng”. Và từ những thực tiễn như trên chúng tôi nói gì? - Một cuộc chiến của các nhà bán lẻ sắp nổ ra, liệu những gã tý hon trong nước có thể đánh bại những người khổng lồ, thực tế đã chứng minh là có thể nhưng liệu chúng ta có thể không khi mà chúng ta vẫn còn quá bao cấp và còn muốn dựa vào chính sách của quốc gia. - Liệu sẽ có bao nhiêu nhà bán lẻ trong nước sống sót trong cuốc chiến thị trường này. Ai là kẻ mạnh thực sự, người khổng lồ hay gã tý hon. Thực khó mà nói trước được nhiều điều bởi lý luận và thực tiễn không phải lúc nào cũng giống nhau, tuy chưa biết chắc chúng ta sẽ ra sao, nhưng chúng tôi cũng xin kiến nghị các giải pháp như sau: 3.3. Giải pháp. Điều đầu tiên và là điều kiện tiên quyết nhất trong bước đầu hội nhập là đã đến lúc chúng ta phải liên kết lại và cùng hành động. Bởi vì ông cha ta ngày xưa vẫn có câu “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.Vâng sức mạnh đoàn kết bao giờ cũng là điểm mạnh của dân tộc Việt Nam ta trong bất kỳ cuộc chiến nào. Vậy thì tại sao chúng ta không phát huy tối đa tinh thần đoàn kết ấy trong một cuộc chiến mà mức độ khốc liệt của nó cũng không hề kém cạnh bất kỳ cuộc chiến tranh nào, “cuộc chiến giành thị trường”. Trên thực tế, muốn đối đầu với các nhà bán lẻ lớn nước ngoài thì chúng ta phải gia cố chắc hơn, chuyên nghiệp hơn các mạng lưới phân phối của mình. Các nhà bán lẻ Việt Nam phải nhanh chóng trở thành nhà phân phối chuyên nghiệp. Chúng tôi xin lấy dẫn chứng về Saigon Coop: Bà Nguyễn Thị Tranh, Phó tổng giám đốc Saigon Coop, cho rằng “Coop muốn phát triển nhất thiết phải liên kết, nếu không sẽ gặp khó khăn vì thiếu vốn, Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 40 thiếu mặt bằng…” Theo bà Tranh “đã đến lúc các nhà sản xuất và các nhà phân phối bắt tay nhau để tăng sức mạnh cạnh tranh với nước ngoài. Ngay trong năm nay, Coop Mart sẽ xây dựng một trung tâm phân phối cấp vùng ở tại đồng bằng sông Cửu Long”. Qua những lời nhận định này chúng ta cũng có thể nhận thấy được quyết tâm của Saigon Coop nói riêng và của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Họ đã nhận thức rõ được vấn đề và đã chọn cho mình những con đường đi phù hợp cho mình để có thể tồn tại và phát triển trong bối cảnh kinh tế nước ta ngày càng mở cửa. - Nâng cấp và phát triển nguồn nhân lực của ngành bán lẻ và phân phối, đồng thời kết nối giữa các doanh nghiệp sản xuất và phân phối, tìm kiếm và tận dụng các cơ hội thị trường. - Nâng cấp hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam cả trình độ quản lý công nghệ thiết bị kỹ thuật, đặc biệt phương thức kinh doanh phải đạt đến chuẩn mực quốc tế, và nâng cấp co sở hậu cần bán lẻ như: kho, cảng, vận chuyển,…….Ngoài ra phải tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các cửa hàng bán lẻ trong cùng hệ thống. Mặt khác để giảm giá thành sản phẩm và không bị nhà phân phối nước ngoài o ép, các doanh nghiệp sản xuất trong nước cần phải xây dựng các cửa hàng và hệ thống phân phối của riêng mình. - Đồng thời chúng ta còn nên học hỏi kinh nghiệm từ một số quốc gia Malaysia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam trong thời kỳ đầu về thu hút đầu tư, nhưng để tránh tiếng thiếu bình đẳng, Malaysia đã cấp phép cho nhiều tập đoàn phân phối lớn, sắp xếp những vị trí gần kề nhằm mục đích để họ trị lẫn nhau, nhưng quan trọng nhất là Malaysia chỉ đồng ý cho phía nước ngoài mở thêm chi nhánh sau 5 năm hoạt động. Hay như Phần Lan khi gia nhập WTO, nhà nước muốn bảo hộ ngành gỗ trong nước, vấp phải yêu cầu quyết liệt được tham gia của các tập đoàn phân phối gỗ toàn cầu của Thuỵ Điển, buộc lòng phải đồng ý, nhưng chính phủ nước này khéo léo mời nhà đầu tư ra ngoại ô. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 41 KẾT LUẬN Thị trường ngày nay đã trở thành nơi cạnh tranh khốc liệt của những nhà bán lẻ. Đã qua rồi cái thời mà nhà sản xuất cũng chính là người phân phối trực tiếp sản phẩm đến người tiêu dùng. Từ nhiều thập kỷ trở lại đây người ta đã nhìn nhận vai trò của những trung gian phân phối. Không một công ty nào không nhờ nhà trung gian mà có thể phân phối sản phẩm của mình rộng khắp trong dân chúng. Nói như vậy không có nghĩa là người ta phủ nhận vai trò của nhà sản xuất. Nhưng một nhà sản xuất có thể làm ra những sản phẩm chất lượng cao thôi chưa đủ, mà nhà sản xuất ấy còn phải biết lựa chọn những kênh phân phối đúng đắn để làm cho sản phẩm của mình ngày càng trở nên phổ biến. Trong những trung gian phân phối ấy, thì những nhà bán lẻ là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Họ có thể mang sản phẩm đến với những khách hàng dù là xa xôi nhất và cũng chính họ là người có thể hiểu được tâm tư và nguyện vọng của khách hàng nhất. Hiện nay có rất nhiều loại hình bán lẻ đang dần xuất hiện và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong nhiệm vụ phân phối hàng. Như vậy trong tương lai loại hình nào sẽ phát triển và chiếm ưu thế, điều này còn tuỳ thuộc vào chiêu bài của các đại gia bán lẻ và sự quyết định của người tiêu dùng. Các Định Chế Bán Lẻ GVHD: Ths. Trần Thanh Sơn Nhóm Sinh Viên Thương Mại 1&2 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Website: http\\:www.wikipedia.org. 2. Website: http\\:www.sailormoon.com. 3. Website: http\\:www.bwportal.com. 4. Website: http\\:www.unicom.com.vn 5. Báo Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần. 6. Báo Tầm Nhìn. 7. Diển Đàn Doanh Nghiệp.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐịnh chế bán lẻ.pdf
Luận văn liên quan