Lời mở đầu
CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VẤN ĐỀ CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ THỊ XÃ UÔNG BÍ
1.1. Ô nhiễm môi trường không khí với yêu cầu phát triển bền vững
1.1.1. Yêu cầu phát triển bền vững (PTBV)
1.1.2. Bền vững về môi trường
1.1.3. Ô nhiễm môi trường không khí, yếu tố ảnh hưởng đến bền vững môi trường
1.1.3.1. Ô nhiễm môi trường
1.1.3.2. Ô nhiễm không khí và các yếu tố ảnh hưởng.
1.2. Sự cần thiết chống ô nhiễm môi trường không khí ở thị xã Uông Bí.
1.2.1. Giới thiệu chung về thị xã Uông Bí.
1.2.2. Mục tiêu PTBV thị xã Uông Bí và yêu cầu chống ô nhiễm môi trường nói chung và môi trường khí bụi nói riêng.
1.2.2.1. Mục tiêu PTBV thị xã Uông Bí
1.2.2.2. Yêu cầu bảo về môi trường không khí trong chiến lược PTBV thị xã.
1.2.3. Các yếu tố tiềm ẩn bùng phát ô nhiễm môi trường không khí thị xã Uông Bí.
1.2.3.1. Hoạt động vận chuyển than.
1.2.3.2. Hoạt động của các nhà máy nhiệt điện
1.2.3.3. Hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng.
1.2.3.4. Hoạt động giao thông vận tải.
1.2.5. Kết luận về sự cần thiết chống ô nhiễm môi trường không khí thị xã Uông Bí.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ, QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ THỊ XÃ UÔNG BÍ.
2.1. Công tác chống ô nhiễm môi trường không khí ở thị xã Uông Bí thời gian qua.
2.1.1. Các chủ trương chính sách.
2.1.2. Thực trạng công tác quản lý ô nhiễm môi trường không khí thời gian qua
2.1.2.1. Bộ máy quản lý
2.1.2.2. Các hoạt động chống ô nhiễm
2.1.3. Kết luận về công tác chống ô nhiễm môi trường không khí ở thị xã Uông Bí thời gian qua.
2.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường không khí thị xã.
2.2.1. Hiện trạng ô nhiễm môi trường nói chung.
2.2.2 Thực trạng ô nhiễm môi trường không khí tại các khu vực trên địa bàn.
2.2.2.1. Hiện trạng môi trường không khí tại khu vực khai thác than.
2.2.2.2. Hiện trạng môi trường khu vực đô thị.
2.2.2.3. Hiện trạng môi trường các khu du lịch.
2.3. Nguồn gốc ô nhiễm môi trường không khí thị xã.
2.3.1. Các nguồn gây ô nhiễm không khí từ hoạt động kinh tế - xã hội.
2.3.1.1 Hoạt động sản xuất công nghiệp.
2.3.1.2. HĐ giao thông đường bộ và xây dựng cơ sở hạ tầng của các dự án
2.3.1.3. Các bãi rác thải
2.3.1.4. HĐ sinh hoạt của người dân.
2.3.2. Đánh giá tình trạng ô nhiễm không khí
2.3.2.1. Ô nhiễm bụi
2.3.2.2. Ô nhiễm khí thải
2.3.2.3. Tiếng ồn TCCP: 60dba (TCVN 5949 -1998)
2.4. Kết luận về tình trạng ô nhiễm môi trường không khí thị xã Uông Bí.
2.4.1. Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí
2.4.2. Nguyên nhân
2.4.3. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí đến mục tiêu phát triển bền vững thị xã Uông Bí
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG KHÔNG KHÍ NHẰM MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ XÃ UÔNG BÍ.
3.1 Quan điểm chống ô nhiễm môi trường không khí ở Uông Bí.
3.2. Mục tiêu chống ô nhiễm môi trường không khí
3.3. Các giải pháp
3.3.1. Công tác quy hoạch bảo vệ môi trường thị xã Uông Bí đến 2020
3.3.1.1 Sự cần thiết.
3.3.1.2. Một số kiến nghị điều chỉnh quy hoạch bảo vệ môi trường Uông Bí.
3.3.1.3. Một số giải pháp thúc đẩy quá trình thực hiện QH bảo vệ môi trường Uông Bí.
3.3.2 Thay đổi về cơ chế chính sách quản lý môi trường.
3.3.2.1. Thực trạng về pháp luật môi trường ở Việt Nam.
3.3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp luật về môi trường ở Việt Nam hiện nay.
3.3.2.3. Giải pháp về cơ chế chính sách đối với thị xã Uông Bí.
3.3.3. Tăng cường huy động vốn đầu tư bảo vệ môi trường.
3.3.4 Ứng dụng khoa học kỹ thuật cao vào sản xuất.
3.3.5 Giải pháp về tổ chức quản lý ô nhiễm không khí:
3.3.5.1. Vấn đề về bộ máy quản lý môi trường.
3.3.5.2. Vấn đề theo dõi quan trắc phát hiện ô nhiễm
3.3.5.3. Vấn đề xử lý vi phạm ô nhiễm không khí
3.3.6 Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường không khí
3.3.6.1. Nhiệm vụ của công tác xã hội hoá HĐ bảo vệ môi trường.
3.3.6.2. Hình thức tham gia.
3.3.6.3. Các giải pháp xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường.
Kết luận.
89 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5334 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp chống ô nhiễm môi trường không khí nhằm mục tiêu Phát Triển Bền Vững thị xã Uông Bí tỉnh Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i phí môi trường trong sản xuất kinh doanh. Còn thiếu vắng những công cụ kinh tế nhằm bảo vệ môi trường như lệ phí môi trường, thuế môi trường, người gây ô nhiễm phải trả tiền… làm cho công tác bảo vệ môi trường không phát huy được sự kích thích từ góc độ kinh tế đối với những chủ thể sử dụng các thành phần môi trường cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái. Vì thế, có thể nói rằng hiện tại các chính sách, pháp luật về kinh tế chưa thực sự “thân môi trường”.
Hai là, các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và hình thức nhưng chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái, các biện pháp chế tài nói chung chưa thích hợp và chưa đủ mạnh để trừng trị và răn đe những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hầu như còn hình thức, các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái như gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, chặt phá rừng... Vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để.
Ba là, những quy định về biện pháp xử lý vi phạm giữa các văn bản pháp luật về môi trường còn có những khoảng trống nên không có biện pháp xử lý thích hợp đối với chủ thể vi phạm. Vì thế, hiệu quả của việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường còn thấp.
Bốn là, pháp luật về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bảo vệ môi trường còn quá chung chung, thiếu cụ thể, khó áp dụng. Mặc dù, các quy định về bồi thường thiệt hại của người có hành vi gây ô nhiễm môi trường đã được đề cập nhưng các quy định này chỉ dừng lại ở mức độ chung chung. Trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lại môi trường và bồi thường thiệt hại chỉ được quy định trong văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung, mang tính nguyên tắc trong Luật Bảo vệ môi trường, Bộ luật dân sự, đến nay vẫn chưa được quy định cụ thể, hướng dẫn thực hiện. Ngay trong các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường, đến nay cũng chưa có quy định nào hướng dẫn về các phương pháp xác định thiệt hại, xác định mức bồi thường.
3.3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp luật về môi trường ở Việt Nam hiện nay.
Ngày 17/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-ttg về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam – Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam, và gần đây nhất là phiên họp đầu tiên của hội đồng phát triển bền vững quốc gia (19/3/2009) trong đó vấn đề bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các định hướng, chương trình phát triển bền vững ở nước ta, đồng thời gắn kết vấn đề môi trường với từng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
Từ đó cho thấy, trước yêu cầu phát triển bền vững, thì việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về môi trường phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
Xây dựng pháp luật về môi trường ở Việt Nam cần xuất phát và nằm trong tổng thể các chính sách, định hướng mang tính quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc xây dựng pháp luật về môi trường được xác định theo hai hướng: sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện hành để khắc phục tính thiếu nhất quán, không cụ thể, không rõ trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và ban hành văn bản mới để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cho đến nay chưa điều chỉnh.
Giải quyết triệt để vấn đề xác định phạm vi và đối tượng điều chỉnh của pháp luật về môi trường. Trong đó phạm vi điều chỉnh của pháp luật về môi trường phải gắn liền với quan điểm về phát triển bền vững, coi trọng cả việc phòng ngừa và xử lý ô nhiễm, cải thiện môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên. Đối tượng điều chỉnh của pháp luật môi trường cần xác định ở phạm vi rộng, không chỉ Nhà nước mới là chủ thể chính chịu trách nhiệm bảo vệ môi trường mà tất cả các tổ chức, cá nhân khai thác và sử dụng tài nguyên môi trường. Trong thời gian tới phạm vi, đối tượng điều chỉnh của khung pháp luật môi trường cần phải bổ sung các quy định về yêu cầu và căn cứ về bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch phát triển vùng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và của các địa phương. Các ngành, các cấp cần khẩn trương, nhanh chóng triển khai thực hiện một cách sâu rộng Chương trình nghị sự số 21 của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế xã hội gắn với bảo vệ môi trường. Bổ sung các quy định tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho cộng đồng dân cư, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia tích cực vào hoạt động bảo vệ môi trường. Cần điều chỉnh một cách cụ thể, rõ ràng hơn các quan hệ, cơ chế phối hợp cũng như trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức, cộng đồng trong hoạt động bảo vệ môi trường. Cần ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ tranh chấp môi trường và giải quyết các tranh chấp môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về môi trường.
Sửa đổi cơ bản Luật bảo vệ môi trường và các quy định liên quan đến môi trường trong các ngành luật, chú trọng các yếu tố môi trường trong các ngành luật, chú trọng đến các yếu tố tài nguyên môi trường thiên nhiên, đồng thời giải quyết mối quan hệ giữa Luật bảo vệ môi trường và các văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh về môi trường, phát huy đồng bộ sức mạnh của các biện pháp được quy định trong luật hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đặc biệt là các biện pháp kinh tế để bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và yêu cầu bảo vệ môi trường;
Xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật và các thiết chế khác liên quan đến việc bảo đảm thực thi pháp luật về môi trường. Trong đó cần bảo đảm cả ba yếu tố tăng cường hiệu lực, tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường với việc hình thành các trình tự, thủ tục thi hành pháp luật về môi trường sao cho đồng bộ, hiệu quả, khả thi và tăng cường hiệu lực của các biện pháp chế tài hành chính, dân sự, kinh tế và hình sự, đặc biệt là các biện pháp về kinh tế như cần tính toán đầy đủ chi phí môi trường trong sản xuất kinh doanh, thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, đánh thuế tài nguyên thiên nhiên và môi trường...
Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là hợp tác quốc tế về pháp luật. Cần tìm cơ chế thích hợp để đẩy mạnh hơn nữa việc nội luật hoá các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và xác định rõ hiệu lực pháp lý của cam kết quốc tế đó. Đồng thời, cần phải xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế đó tại Việt Nam.
3.3.2.3. Giải pháp về cơ chế chính sách đối với thị xã Uông Bí.
Để cụ thể hoá các văn bản pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường thị xã Uông Bí cần xây dựng các cơ chế chính sách nhằm quản lý và thực thi có hiệu quả công tác bảo vệ môi trường như: cơ chế kết hợp giữa nội dung phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường; cơ chế liên kết phát triển đô thị với công tác bảo vệ môi trường; cơ chế phối hợp các ngành công – nông nghiệp, xây dựng, thương mại - dịch vụ với công tác bảo vệ môi trường. Xây dựng cơ chế, chính sách thành lập quỹ bảo vệ môi trường nhằm thu hút và thống nhất quản lý các nguồn đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh và thị xã.
Ngoài ra cũng cần có những đổi mới đối với hệ thống chính sách áp dụng trong hoạt động chống ô nhiễm của thị xã. Mô hình mới này sẽ lại nhiều khả năng lựa chọn cho các nhà hoạch định chính sách nhưng đồng thời cũng áp đặt thêm những trách nhiệm mới: tư duy có tầm chiến lược về lợi ích và chi phí kiểm soát ô nhiễm; cam kết chắc chắn về việc tham gia của quần chúng; sử dụng sáng suốt và tập trung các công nghệ và thông tin; sẵn sàng thử nghiệm các phương pháp mới như các loại phí ô nhiễm và phổ biến thông tin cho cộng đồng. Tất nhiên bên cạnh đó, các nhà quản lý môi trường luôn luôn có trách nhiệm giám sát các hoạt động bảo vệ môi trường của các nhà máy và cưỡng chế thực thi các quy chế quản lý môi trường. Nhưng trong mô hình mới các nhà quản lý môi trường sẽ sử dụng nhiều nguồn lực hơn để thực hiện công tác thông tin cho cộng đồng tốt hơn nữa, khuyến khích các quy chế không chính thức, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nhà quả lý và thúc đẩy tiến hành cải tổ kinh tế theo hệ thống có lợi cho môi trường:
Tăng cường áp dụng việc thu phí môi trường đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường. Hiểu biết và kinh nghiệm thông thường vẫn cho rằng không thể hy vọng giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển cho tới khi các nước này cũng đạt được mức giàu có như đã thấy hiện nay ở các nước giàu. Theo quan điểm này thì sự phát triển liên tục của sản lượng công nghiệp chắc chắn sẽ làm tình trạng ô nhiễm mà ngày nay đang trở lên phổ biến ở các khu đô thị của các nước đang phát triển ngày càng trầm trọng hơn. Có một tình trạng phổ biến khác nữa là việc mở rộng thương mại toàn cầu và mở cửa biên giới đang khuyến khích các ngành công nghiệp gây ô nhiễm chuyển sang các nước đang phát triển, là những nước không có đủ khả năng tài chính ngăn ngừa nạn lạm dụng môi trường. Tuy nhiên thực tế cho thấy quan điểm này là hoàn toàn sai lầm. Các quốc gia đang phát triển đang cố gắng giảm tình trạng ô nhiễm môi trường và đạt được một số kết quả khả quan do họ đã nhận thức được rằng lợi ích thu được do giảm thiểu ô nhiễm có giá trị lớn hơn các chi phí. Một số nước đi tiên phong đã chuyển sang hướng khuyến khích bằng tài chính bằng cách bắt những người gây ô nhiễm phải trả chi phí cho mỗi đơn vị phát thải của họ.
Các nhà quản lý môi trường ở các nước đang phát triển đang thử nghiệm các phương pháp mới và tìm ra các đồng minh mới trên mặt trận ngăn ngừa ô nhiễm. Những sáng kiến này bắt nguồn từ việc nhận thức được một cách rộng rãi rằng các quy định về ô nhiễm môi trường theo truyền thống không phù hợp với các các nước đang phát triển. Nhiều cơ quan quản lý môi trường không thể cưỡng chế thực hiện các tiêu chuẩn phát thải thông thường tại các nhà máy. Nhiều nhà quản lý cũng nhận thấy rằng các tiêu chuẩn như vậy không phù hợp với quy tắc chi phí - lợi ích do chúng đòi hỏi tất cả các nhà máy gây ô nhiễm phải tuân theo cùng một định mức mà không hề tính đến các chi phí giảm ô nhiễm và các điều kiện môi trường địa phương. Các nhà quản lý môi trường ở các nước đang phát triển đã lựa chọn các phương pháp hiệu quả và linh hoạt hơn nhưng vẫn tạo nên sự khuyến khích để những người gây ô nhiễm tiến hành làm sạch.
Chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh chấp hành các quy định về bảo vệ môi trường, cải thiện môi trường, áp dụng công nghệ sạch. Chính quyền địa phương có thể cắt giảm ô nhiễm bằng cách hỗ trợ cho việc chuyển đổi qua sản xuất sạch hơn với chi phí biên giảm ô nhiễm thấp. Phương pháp này là một phương án đầy hứa hẹn thay cho các quy chế quản lý truyền thống vì nó sử dụng “củ cà rốt” thay cho “cái gậy”. Cách này cũng có thể cắt giảm ô nhiễm với chi phí thấp hơn so với cách cưỡng chế, thực hiện quy chế quản lý chính thức với các đòi hỏi phải giám sát, phân tích dữ liệu và nếu cần phải có sự tham gia của các cơ quan hành pháp_đều là những phương thức tốn thời gian và tiền của để tăng các khoản phạt biên dự tính do gây ô nhiễm. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế cho rằng sự can thiệp này cũng chỉ nên dừng lại ở ‘cổng nhà máy” vì một lý do đơn giản và hợp lý các quản lý nhà máy hiểu biết về các hoạt động của mình tốt hơn các nhà quản lý môi trường, là những người chỉ phải thiết lập các cơ chế khuyến khích.
Chính sách này hiệu quả hơn khi các nhà quản lý nhà máy với thông tin đầy đủ có khả năng dễ dàng nâng cấp công nghệ của mình khi các cơ chế khuyến khích thay đổi. Và một lần nữa lúc này vai trò của bộ máy chính quyền là tiếp tục tạo điều kiện hỗ trợ thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp tiếp thu và học hỏi công nghệ tiên tiến nhất. Trợ giúp kỹ thuật trong những tình huống phức tạp hơn cũng vẫn sẽ hữu ích và khả thi đối với các nước đang phát triển nếu có quyết tâm và nỗ lực thật sự.
Một chính sách cần phải được thực hiện ngay sau chính sách trên để bảo đảm hiệu quả cao nhất của mô hình chính sách mới này, đó chính là chế tài tài chính khắc phục hiện tượng giá thành sản phẩm bị tăng đáng kể do đầu tư đổi mới công nghệ hoặc đầu tư xử lý ô nhiễm tại các cơ sở cũ đang hoạt động. Nếu các giải pháp không thể thi hành một cách đồng bộ thì cũng chưa tạo nên sự khuyến khích và đảm bảo thoả đáng cho các doanh nghiệp đầu tư cho các hoạt động bảo vệ môi trường của mình. Những thay đổi trong công tác quản lý môi trường có thể làm giảm đáng kể tình trạng ô nhiễm và chính quyền địa phương có thể giúp các công ty thực hiện những thay đổi cần thiết ở mức chi phí chịu được.
3.3.3. Tăng cường huy động vốn đầu tư bảo vệ môi trường.
Ðầu tư là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện thành công chiến lược bảo vệ môi trường, thực hiện các dự án và các giải pháp được đề xuất. Ðầu tư bảo vệ môi trường phải được thực hiện xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước và theo nguyên tắc:"người gây ô nhiễm phải đầu tư". Hình thức xã hội hoá và nguyên tắc đầu tư này phải được quán triệt sâu rộng trong tất cả các cấp lãnh đạo của Ðảng, chính quyền và các nhà quản lý đến từng người dân sống trong cộng đồng.
Ðầu tư bảo vệ môi trường cũng phải được đa dạng hoá về hình thức nhằm huy động được mọi nguồn lực trong xã hội. Hình thức đầu tư bao gồm đầu tư bằng trí lực, vật lực, ngày công lao động hữu ích và bằng tiền… Trong đó toàn xã hội tham gia đầu tư bảo vệ môi trường dưới mọi hình thức và chủ yếu đầu tư cho những chương trình, dự án… mang tính cộng đồng; các đơn vị sản xuất kinh doanh đầu tư cho việc phòng ngừa ô nhiễm, xử lý sự cố, cải tạo, bảo vệ môi trường trong phạm vi quản lý của đơn vị mình. Ngân sách nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc đầu tư để bảo vệ môi trường có tính liên vùng, liên ngành và thực hiện các dự án quốc gia, quốc tế.
Nguồn vốn đầu tư bảo vệ môi trường được huy động từ ngân sách nhà nước, từ các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế, từ nguồn viện trợ ODA, GEF và các tổ chức trong, ngoài nước và trong cộng đồng dân cư.
Mức đầu tư bảo vệ môi trường phải được tăng cường theo nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, trước mắt trong giai đoạn 2010-2020 hàng năm cần đầu tư để bảo vệ môi trường không dưới 1% GDP, trong đó huy động khoảng 2% tổng chi ngân sách của Uông Bí. Các doanh nghiệp được tính vốn đầu tư bảo vệ môi trường trong giá thành chi phí sản xuất để huy động từ 1-2% tổng chi phí của doanh nghiệp, ngoài ra cần huy động trong cộng đồng dân cư và từ các nguồn viện trợ khác để đầu tư bảo vệ môi trường dưới mọi hình thức khác nhau.
Qui định mức kinh phí mà các doanh nghiệp phải đầu tư cho bảo vệ môi trường, xử lý chất thải và có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ thân thiện môi trường. Tranh thủ kinh phí từ các dự án quốc tế song phương, đa phương cho bảo vệ môi trường thị xã, đặc biệt là các chương trình của ngân hàng thế giới và quỹ môi trường toàn cầu.
Uông Bí là nơi có hai ngành công nghiệp mũi nhọn, có đóng góp lớn nhất cho ngân sách của thị xã và Quảng Ninh đó là than và điện. Tuy nhiên đây cũng là hoạt động chính gây suy thoái môi trường thị xã toàn diện. Để góp phần giảm nhẹ tác động của công nghiệp khai thác than tới môi trường, hàng năm ngành than đã đóng góp một khoản tiền nhất định (khoảng trên 200 tỷ đồng trong đó các công ty than Uông Bí phải đóng góp 30 tỷ đồng) làm quỹ môi trường ngành than nhằm giảm nhẹ và khắc phục những sự cố môi trường trong vùng mỏ. Hàng năm Uông Bí cũng nhận được một khoản tiền từ nguồn quỹ này. Đây là một số tiền khá lớn nhưng chưa đủ để giải quyết hết các vấn đề môi trường trong vùng ảnh hưởng của khai thác than. Do vậy nguồn vốn này cần phải được sử dụng để đầu tư vào các dự án môi trường đã được nghiên cứu kỹ là có tính khả thi, rất cấp thiết và có trọng tâm theo từng giai đoạn, không thể dàn trải. Đó là đóng góp từ phía ngành than còn riêng ngành điện với 2 nhà máy nhiệt điện hàng năm thải tới hơn 1.200 tấn bụi vào bầu không khí thị xã thì chưa có một sự đóng góp đáng kể nào vào nguồn ngân sách bảo vệ môi trường. Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” phải được thực hiện nghiêm túc và công bằng với việc tăng thêm khoản đóng góp từ phía ngành điện. Đối với 2 nhà máy là nhà máy xi măng Lam Thạch Và nhà máy gạch Dốc Đỏ thì việc áp dụng cũng tương tự.
Mặt khác thị xã cũng cần tranh thủ sự hỗ trợ kinh phí từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, nguồn tài trợ nước ngoài bằng cách nghiên cứu và thực hiện các dự án có ý nghĩa thiết thực trong công tác bảo vệ và quản lý môi trường.
Một nguồn vốn đáng kể nếu áp dụng mô hình chính sách mới đối với Uông Bí đó là phí ô nhiễm môi trường do các nhà máy phải chi trả cho mỗi đơn vị phát thải của mình. Nguồn vốn này cũng phải được sử dụng để đầu tư lại vào công cuộc bảo vệ môi trường sinh thái của thị xã một cách hiệu quả nhất.
Ứng dụng khoa học kỹ thuật cao vào sản xuất.
Nhằm giảm thiểu, kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ môi trường, hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ môi trường trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và thị xã Uông Bí phải tập trung vào giải quyết những vấn đề kỹ thuật sau:
Xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường, đánh giá và dự báo diễn biến môi trường trên phạm vi toàn tỉnh và thị xã. Quan trắc môi trường phải thực hiện được 3 mục tiêu đó là: xác định nguồn gây ô nhiễm chính; giám sát phát thải và phân tích tác hại của chúng đến chất lượng môi trường.
Muốn đạt được các kết quả như trên hệ thống máy tính của các trạm quan trắc nên được ứng dụng thêm hệ thống thông tin địa lý. Hệ thống máy tình nối với hệ thống thông tin địa lý cho phép người sử dụng có các bảng và bản đồ báo cáo chất lượng không khí xung quanh ở mỗi điểm trên địa bàn cùng với thông tin về đặc điểm, tình hình phát thải và tuân thủ quy chế của các cơ sở gây ô nhiễm.
Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ kinh tế và quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên bảo vệ môi trường khoa học và tiết kiệm nhất. Cần có sự tham gia nghiên cứu xây dựng không chỉ của các chuyên gia đầu ngành mà còn cả sự đóng góp ý kiến của cộng đồng dân cư tại địa phương có quy hoạch.
Đối với các nhà máy, xí nghiệp đang hoạt động trên địa bàn thị xã cần yêu cầu lắp đặt không chỉ các hệ thống xử lý khói bụi mà cần lắp đặt thêm các hệ thống xử lý các chất, khí thải độc hại vào bầu không khí. Yêu cầu thường xuyên duy tu, bảo dưỡng đảm bảo việc vận hành thường xuyên để đạt hiệu quả cao đối với các hệ thống này.
Đối với các nhà máy, cơ sở sản xuất đang được thi công xây dựng mới trên địa bàn cần có một đội ngũ kỹ sư, các nhà khoa học nghiên cứu và thẩm định các dây truyền, thiết bị xử lý ô nhiễm trước khi đi vào hoạt động. Tránh tình trạng, việc lắp đặt các hệ thống này chỉ mang hình thức lắp đặt cho có để đối phó với các cơ quan chức năng. Kiến quyết không cho các nhà máy mới đi vào hoạt động nếu không có các dây truyền xử lý ô nhiễm đạt tiêu chuẩn.
Nghiên cứu công nghệ xử lý chất thải công nghiệp phù hợp và có hiệu quả cao, học tập tiếp thu các phương pháp tiên tiến, hiện đại trong và ngoài nước để áp dụng cho công tác phòng chống ô nhiễm bầu không khí thị xã. Tiến hành tư vấn, cung cấp các thông tin hữu ích cho các cơ sở sản xuất tham khảo và tiến hành các biện pháp bảo vệ môi trường.
Tăng cường sử dụng các giải pháp thay thế trong thi công, sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên như áp dụng công nghệ sạch, sản xuất sạch hơn và đặc biệt là thi công hệ thống băng tải ống vận chuyển than. Đưa các công nghệ này vào trong cuộc sống và sản xuất của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp khai thác, sản xuất chế biến các loại khoáng sản không thể phục hồi (than, đá vôi…) trên địa bàn.
Công nghệ sạch: là quy trình công nghệ hoặc giải pháp kỹ thuật không gây ô nhiễm môi trường, thải hoặc phát ra ở mức thấp nhất chất gây ô nhiễm môi trường. Có thể áp dụng công nghệ sạch đối với các quy trình sản xuất trong bất kỳ ngành công nghiệp nào và bất kỳ sản phẩm công nghiệp nào. Đối với các quá trình sản xuất, công nghệ sạch nhằm giảm thiểu các tác động môi trường và an toàn của các sản phẩm trong suốt chu trình sống của sản phẩm, bảo toàn nguyên liệu, nước, năng lượng, loại bỏ các nguyên liệu độc hại, nguy hiểm, giảm độc tính của các khí thải, chất thải ngay từ khâu đầu của quy trình sản xuất.
Sản xuất sạch hơn: là cải tiến liên tục quá trình sản xuất công nghiệp, sản phẩm và dịch vụ để giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, để phòng ngừa tại nguồn ô nhiễm không khí, nước và đất, và giảm phát sinh chất thải tại nguồn, giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường.
Đối với quá trình sản xuất: Sản xuất sạch hơn bao gồm tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc, giảm lượng và độ độc của các dòng thải trước khi đi ra khỏi quá trình sản xuất.
Đối với sản phẩm: Sản xuất sạch hơn làm giảm ảnh hưởng trong toàn bộ vòng đời của sản phẩm từ khâu chế biến nguyên liệu đến khâu thải bỏ cuối cùng.
Hệ thống băng tải ống vận chuyển than: Hệ thống băng tải ống được đưa vào sử dụng nhằm tăng cường năng lực vận tải chung của toàn ngành than, đảm bảo bảo vệ môi trường sinh thái thay thế cho việc vận tải bằng các loại hình khác như xe tải, băng tải thông thường hiệu quả thấp, ô nhiễm môi trường sinh thái, tai nạn giao thông… đặc biệt đối với các khu đông dân cư và các tuyến đường giao cắt với đường quốc lộ, đường dân sinh, khu vực các cảng tiêu thụ, các nhà máy nhiệt điện, xi măng, hoá chất và khu công nghiệp tập trung. Ngày 10/5/2008 hệ thống băng tải ống này đã được khởi công xây dựng tại Đông Triều - Quảng Ninh và dự kiến cuối năm nay sẽ đi vào hoạt động, khi tuyến băng tải này vào hoạt động sẽ:
Chấm dứt việc vận chuyển than bằng các loại xe tải; bảo vệ được việc thất thoát than; giảm thiểu được tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường: bụi, độ ồn… tại khu vực trước đây có xe hoạc tàu chở than đi qua.
Tái tạo lại cảnh quan môi trường khu vực.
Tăng cường được năng lực và đem lại hiệu quả trong vận chuyển than.
Đây là một hình ảnh trong thực tế của hệ thống băng tải ống vận chuyển than. Hệ thống này rất thích hợp áp dụng cho công nghệ vận chuyển than ở Quảng Ninh nói chung và Uông Bí nói riêng trong con đường hội nhập với công nghệ của các nước phát triển.
Hiện nay, các dây truyền công nghê, quy trình, phương tiện sản xuất của hầu hết các nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn thị xã Uông Bí còn lạc hậu và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao. Do đó, để có môi trường sống trong lành, đảm bảo yêu cầu các cơ sở sản xuất phải đầu tư lắp đặt quy trình sản xuất, công nghệ hiện đại, công nghệ xử lý các chất thải mới nhằm hạn chế thải lượng và nồng độ các chất thải gây ô nhiễm xuống dưới mức cho phép trước khi đưa vào môi trường.
3.3.5 Giải pháp về tổ chức quản lý ô nhiễm không khí:
3.3.5.1. Vấn đề về bộ máy quản lý môi trường.
Cấp thị xã: nên tăng thêm số cán bộ phụ trách về môi trường nên 5 người và không ngừng đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ này. Trong tình hình có nhiều đổi mới hiện nay cũng cần đào tạo những kiến thức về công tác quản lý môi trường với những hình thức, mô hình mới như đã nói ở trên.
Cấp phường, xã: Cán bộ làm công tác địa chính sẽ đảm nhiệm thêm vai trò về quản lý môi trường ở địa bàn do mình phụ trách.
Đối với tất cả các nhà máy cơ sở sản xuất trên địa bàn cần có ít nhất một cán bộ chuyên trách về công tác môi trường. Đối với các doanh nghiệp có hoạt động tác động lớn gây ô nhiễm môi trường (ngành than, điện đã có 1 cán bộ môi trường) nên bổ sung thêm 1 cán bộ phụ trách về vấn đề này.
Khi đã thiết lập được hệ thống cán bộ về quản lý môi trường thì cũng cần tổ chức lại phương thức hoạt động của bộ máy này sao cho hiệu quả nhất. Thực tế cho thấy tín nhiệm là một điều không thể thay thế được trong công tác quản lý nói chung và đặc biệt là quản lý trong lĩnh vực môi trường. Các nhà cải cách môi trường đã tìm ra 3 điều căn bản để duy trì sự tin tưởng và tín nhiệm của cộng đồng đối với công tác quản lý môi trường đó là: tập trung, rõ ràng và có sự tham gia của cộng đồng. Sự áp dụng triệt để 3 nguyên tắc này sẽ đem lại hiệu quả hoạt động rất cao cho hệ thống quản lý môi trường Uông Bí.
Đối với các cơ quan môi trường có nguồn lực hạn chế ở các nước đang phát triển như nước ta, sự tập trung sẽ tạo ra cách hoạt động và bảo vệ tốt nhất tránh mọi sai sót. Các cơ quan môi trường có thể tránh được những phiền toái đáng kể nếu tập trung vào một nhóm các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng, giới hạn quản lý đối với một số ít các chất gây ô nhiễm, theo dõi sát sao các chất ô nhiễm đó cùng với sự tuân thủ các quy định và báo cáo công khai về các hoạt động của họ. Đối với Uông Bí có thể dễ dàng xác định được nhóm đối tượng này đó là các doanh nghiệp vận chuyển than, các nhà máy nhiệt điện và cụm công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
Tính minh bạch và rõ ràng là yếu tố thứ 2 tạo nên sự tín nhiệm vì nó có thể làm cho các cơ quan môi trường tránh được nạn tham nhũng. Tham nhũng ở các cấp quản lý về môi trường và thậm chí là trong cả trường hợp người quản lý trung thực thì việc giữ bí mật thông tin có thể làm cho một số thanh tra bị lôi kéo nhận khoản hối lộ cao hơn lương của họ rất nhiều. Không có thông tin đại chúng người dân không có cách gì để biết nhà quản lý môi trường đang làm gì và giải pháp cho tình trạng này là: nhất quán, không thiên vị khi thông báo phát thải của các cơ sở gây ô nhiễm, những ảnh hưởng môi trường địa phương, kết quả thanh tra và các biện pháp cưỡng chế.
Sự tham gia diện rộng của người dân cũng xây dựng nên lòng tin của người dân đối với bất cứ một bộ máy quản lý nào. Một hệ thống quản lý hiệu quả luôn thúc đẩy sự giao tiếp 2 chiều với những người tham gia. Phản hồi từ phía quần chúng cũng mang tính quyết định, những người quản lý hiệu quả phải hiểu biết và hoạt động dựa trên mối quan tâm về môi trường của cộng đồng. Theo hướng này Uông Bí có thể thiết lập các trung tâm cộng đồng để tự động ghi nhân, phân loại và chuyển những kiến nghị của người dân về tình trạng ô nhiễm đến cơ quan chức năng thích hợp. Những hệ thống như vậy sẽ cho phép những người quản lý xác định được những khu vực có vấn đề nghiêm trọng và cũng cho phép người dân giám sát việc giải quyết các kiến nghị của họ.
3.3.5.2. Vấn đề theo dõi quan trắc phát hiện ô nhiễm
Để có thể gia tăng lượng thông tin đánh giá về hiện trạng môi trường và đánh giá sự hiệu quả của các dự án bảo vệ môi trường thì đầu tiên phải tính đến việc quy hoạch các điểm quan trắc môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng.
Quan trắc môi trường là việc theo dõi thường xuyên chất lượng môi trường với các trọng tâm, trọng điểm hợp lý nhằm phục vụ các hoạt động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Các mục tiêu cụ thể của quan trắc môi trường gồm:
Cung cấp các đánh giá về diễn biến chất lượng môi trường trên quy mô quốc gia, phục vụ việc xây dựng báo cáo hiện trạng môi trường.
Cung cấp các đánh giá về diễn biến chất lượng môi trường của từng vùng trọng điểm được quan trắc để phục vụ các yêu cầu tức thời của các cấp quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Cảnh báo kịp thời các diễn biến bất thường hay các nguy cơ ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Xây dựng cơ sở dữ liệu về chất lượng môi trường phục vụ việc lưu trữ, cung cấp và trao đổi thông tin trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Bộ Tài nguyên và Môi trường và nhiều thành phố lớn hiện đã và đang thiết lập các hệ thống quan trắc và phân tích môi trường để thu thập các thông tin môi trường nước, không khí, đất và chất thải rắn. Tuy nhiên, hiệu quả của hệ thống quan trắc hiện nay là điều đáng bàn. Với số tiền đầu tư cộng với số tiền bảo dưỡng hàng năm rất lớn mà các kết quả quan trắc mới chủ yếu để cung cấp thông tin nhằm lập báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm thì quả là một sự lãng phí lớn. Tuy nhiên, trong tình hình phát triển kinh tế như hiện nay và trong tương lai của thị xã thì việc xây dựng hệ thống các điểm quan trắc môi trường là thích hợp, đặc biệt là với môi trường không khí. Các kết quả quan trắc môi trường ở các trạm sẽ là nguồn cung cấp thông tin quan trọng để đánh giá chất lượng môi trường và cung cấp các dữ liệu để cơ bản để lập báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm, là cơ sở để áp dụng các công cụ kinh tế vào hoạt động quản lý môi trường (phí ô nhiễm). Đặc biệt là khi phân tích các kết quả đó sẽ thấy được sự hiệu quả của việc thực hiện các nhiệm vụ môi trường trong các dự án phát triển của các đơn vị.
Dựa vào kết quả phân tích hiện trạng các nguồn, khu vực có mức độ ô nhiễm không khí cao và dự báo môi trường không khí của thị xã đến 2020 QH BVMT thị xã đã thiết lập 5 vị trí xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường không khí Uông Bí như sau:
1. Điểm quan trắc môi trường không khí tại các khu vực khai thác than khoáng sản do các đơn vị khai khoáng trực tiếp thực hiện dưới sự giám sát của sở tài nguyên môi trường.
2. Điểm quan trắc môi trường không khí ở nhà máy nhiệt điện.
3. Điểm quan trắc môi trường không khí tại điểm nút giao thong Dốc Đỏ.
4. Điểm quan trắc môi trường không khí tại cảng Điền Công.
5. Điểm quan trắc môi trường không khí tại khu vực cụm sản xuất xi măng Lam Thạch, nhà máy gạch Dốc Đỏ.
Các khu vực đặt điểm quan trắc môi trường không khí như trên đều là những khu vực hiện tại và trong tương lai được dự báo có nồng độ ô nhiễm không khí cao. Vì vậy, việc đặt các điểm quan trắc môi trường không khí ở đây là một việc cần thiết và đúng đắn. Nó sẽ góp phần cung cấp một cách đầy đủ hơn về mức độ và tầm ảnh hưởng của các hoạt động KT-XH tới môi trường không khí.
3.3.5.3. Vấn đề xử lý vi phạm ô nhiễm không khí
Thực hiện công tác quản lý môi trường theo nguyên tắc: “người gây ô nhiễm môi trường phải là người chịu trách nhiệm cho việc giải quyết ô nhiễm”. Hiện nay ở nước ta nói chung cũng như ở Quảng Ninh nói riêng mới chỉ áp dụng được việc thu phí nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp, tuy nhiên trong quá trình này còn rất nhiều vấn đề phải bàn dẫn đến việc thu phí gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến thất thoát nguồn thu. Một trong những bức xúc của việc thu phí nước thải công nghiệp là không thể nào xác định lưu lượng nước thải và hàm lượng các chất gây ô nhiễm có trong nước thải, để tính ra khoản phí thu. Đối với việc thu phí khí thải có thể dễ dàng nhận thấy tình trạng tương tự sẽ xảy ra. Với việc thiết lập hệ thống các điểm quan trắc môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng ở Uông Bí thì có thể giảm bớt những yếu kém này. Kinh nghiệm tại các nước phát triển như Mỹ và châu Âu cho thấy dù nhà nước có đề ra những qui định chặt chẽ đến đâu, và giám sát thế nào cũng không thể kiểm soát nổi vấn đề ô nhiễm môi trường vì không thể giải quyết một vấn đề kinh tế bằng những biện pháp không phải là kinh tế.
Ô nhiễm môi trường cần phải qui thành những giá trị tính bằng tiền, và người gây ô nhiễm phải trả tiền cho sự ô nhiễm do họ gây ra là cách duy nhất có thể kiểm soát được. Bằng cách này người gây ô nhiễm phải cân nhắc có nên tiếp tục trả tiền cho sự gây ô nhiễm mỗi năm không, hay là đầu tư một phương tiện xử lý môi trường cho nhà máy của mình và từ đó không phải tốn tiền.
Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền được áp dụng đầy đủ và cụ thể là:
Người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Người được hưởng lợi về môi trường cũng phải đóng góp kinh tế.
Khuyến khích, khen thưởng các có sở sản xuất thực hiện tốt biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường.
Cũng có nhiều ý kiến cho rằng cần đổi khẩu hiệu quen thuộc hiện nay "Người gây ô nhiễm phải trả tiền", thành câu "Người gây ô nhiễm phải trả tiền trước", nghĩa là đơn vị nào muốn xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, phải xây dựng trước các khu xử lý chất, khí thải. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay ở nước ta thì đây sẽ là một điều rất khó áp dụng. Trong tương lai khi nền kinh tế và hệ thống chính sách phát triển và hoàn thiện hơn thì mới có hy vọng biến điều đó thành hiện thực.
3.3.6 Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường không khí
Xã hội hoá không còn là một khái niệm xa lạ như trong thời kỳ trước mà ngày nay nó đã trở thành một khái niệm được nói đến trong hầu hết các lĩnh vực. Do tính chất phức tạp và ảnh hưởng rộng rãi của công tác BVMT thì không thể không nói tới giải pháp quan trọng này.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp, kiểm soát ô nhiễm môi trường đã và đang trở thành một thách thức và mối quan tâm sâu sắc của nhiều quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển. Nhiều chính sách và cách tiếp cận khác nhau đã được nghiên cứu và áp dụng để nâng cao hiệu quả quản lý môi trường. Các cách tiếp cận “mệnh lệnh và kiểm soát”, tiếp đến là các biện pháp sử dụng công cụ kinh tế đã mang lại nhiều kết quả khả quan nhưng lại đòi hỏi các quốc gia phải có năng lực cao về giám sát và thi hành pháp luật. Một làn sóng áp dụng cách tiếp cận thứ 3 là sử dụng phương tiện thông tin và sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý môi trường đã xuất hiện và thực hiện thành công ở nhiều nước, trong đó có rất nhiều các nước đang phát triển như Phillipin, Ấn Độ, Trung Quốc …Với Việt Nam là một quốc gia đông dân và người dân vốn có truyền thống yêu thiên nhiên thì việc áp dụng phương pháp này bên cạnh việc từng bước đưa vào hiện thực các công cụ kinh tế sẽ đem lại hiệu quả cao nhất cho công tác quản lý và bảo vệ môi trường nói chung và môi trường khí bụi nói riêng.
3.3.6.1. Nhiệm vụ của công tác xã hội hoá HĐ bảo vệ môi trường.
Những nhiệm vụ cần được thực hiện tốt cho công tác xã hội bảo vệ môi trường:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục môi trường cho mọi đối tượng; biến nhận thức về bảo vệ môi trường thành ý thức tự giác thường trực và hành động của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp và mỗi người dân. Trong luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam có ghi rõ trong Điều 6: "Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường, thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường, có quyền và có trách nhiệm phát hiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường".
Quan tâm, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, đoàn thể, cộng đồng dân cư và từng người dân trong việc tham gia và giám sát công tác bảo vệ môi trường.
Bảo vệ môi trường được xác định là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người. Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường là biểu hiện của nếp sống hoá, đạo đức, là tiêu chí quan trọng đô thị hoá và là sự nối tiếp truyền thống yêu thiên nhiên, sống hài hoà với thiên nhiên của ông cha ta.
Xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường của địa phương trên quan điểm lấy phòng ngừa là chính, hạn chế tác động xấu đối với môi trường. Kết hợp linh hoạt giữa xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái môi trường và bảo tồn thiên nhiên và các công trình văn hoá lịch sử.
Kết hợp giữa đầu tư của nhà nước với đẩy mạnh huy động tối đa các nguồn lực xã hội và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống.
Xử lý triệt để các nguồn thải nằm các chất ô nhiễm, đặc biệt các cơ sở nằm trong các khu dân cư hoặc không gian nội thị. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng không có khả năng xử lý lượng chất thải ô nhiễm của mình.
Hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm của các phương tiện vận tải quá cũ nát hoặc hết hạn sử dụng. Ưu tiên việc tận dụng phế thải và tận thu khoáng chất đồng hành nhằm hạn chế tối đa việc mở rộng và xây mới các bãi chôn lấp.
Tăng lượng cây xanh dọc tuyến phố, tuyến đường chính đặc biệt là những tuyến đường có xe, tàu than chạy qua. Hình thành các thảm cây xanh công cộng trong nội thị và các vành đai cây xanh xung quanh đô thị. Bảo vệ phục hồi tài nguyên rừng, cải tạo phủ xanh đất trống, đồi trọc sau khai thác than.
Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ phức tạp, có tính liên ngành và liên vùng vì vậy cần thiết có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng địa phương, sự quản lý thống nhất của các cấp chính quyền, sự tham gia tích cực của các tổ chức đoàn thể xã hội.
3.3.6.2. Hình thức tham gia.
Đóng góp ý kiến xây dựng cho các dự án phát triển KT-XH nói chung và các dự án liên quan trực tiếp đến khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường của các địa phương và tham gia xây dựng các quy định, văn bản mang tính quy phạm về bảo vệ môi trường tại các địa phương cơ sở.
Việc lấy ý kiến của cộng đồng về khía cạnh môi trường trong các dự án phát triển của địa phương phải được coi là nhiệm vụ bắt buộc. Thực hiện nhiệm vụ này sẽ thu được những mặt tích cực sau:
Thu nhận được các kiến thức thực tế, bản địa của người dân địa phương về bảo vệ môi trường.
Giáo dục nâng cao ý thức về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường.
Tạo điều kiện thuận lợi và sự ủng hộ của quần chúng cho việc thực thi khi các dự án đi vào hoạt động.
Giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường ở địa phương cơ sở, trực tiếp tham gia giải quyết các xung đột môi trường. Vai trò của cộng đồng được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Phát hiện các sự cố môi trường.
Phát hiện và đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường xảy ra tai địa phương, cơ sở.
Phong trào bảo vệ môi trường: mỗi địa phương làng xã cũng cần có quy định riêng về bảo vệ môi trường phụ thuộc tình hình cụ thể và phong tục tập quán của dân cư.
Tuyên truyền và tổ chức bảo vệ môi trường trong các đoàn thể: phụ nữ, thanh niên, học sinh, học sinh ở các trường phổ thong cao đẳng đóng tại địa phương. Hàng năm tổ chức các đội tình nguyện xuống các địa phương, đến các nơi có các vấn đề môi trường nổi cộm để tuyên truyền và tham gia đẩy mạnh phong trào làm sạch quê hương.
Tổ chức những ngày lễ lớn về môi trường, thực hiện chiến dịch làm sạch môi trường với chủ đề: “đô thị xanh - cộng đồng xanh”, chiến dịch hướng tới khuyến khích những người tham gia, đặc biệt chú ý đến hiện trạng môi trường đô thị, nông thôn. Khuyến khích việc trồng và chăm sóc cây xanh, làm sạch đường phố, giảm thiểu tác động của rác thải trong cộng đồng nhằm tạo nên đô thị xanh.
3.3.6.3. Các giải pháp xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường.
Giải pháp tuyên truyền:
Đẩy mạnh các chiến dịch tuyên truyền về môi trường, đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền dễ hiểu, đơn giản, lấy nòng cốt là các đoàn thể, cán bộ công tác xã hội ở các phường xã, các doanh nghiệp.
Phổ biến chính sách, chủ trương, pháp luật và các thông tin về môi trường và phát triển bền vững đến từng cấp lãnh đạo chính quyền địa phương và các cơ quan xí nghiệp.
Giáo dục môi trường ở cấp cơ sở, chú trọng đến giáo dục môi trường cho các cấp học sinh trên địa bàn, đây là hình thức tuyên truyền phổ biến có tính chiến lược lâu dài thông qua hệ thống giáo dục, mang lại hiệu quả cụ thể cho hiện tại và các thế hệ tương lai.
Giải pháp đầu tư và chế tài hành chính:
Có một nguồn kinh phí nhất định lấy từ quỹ bảo vệ môi trường của tỉnh, thị xã để hỗ trợ cho các hoạt động xã hội về bảo vệ môi trường ở các địa phương.
Đầu tư xây dựng các công trình vệ sinh công cộng, các khu vệ sinh cho công nhân mỏ và khách tham quan du lịch. Cảnh cáo nghiêm khắc các hành vi gây mất vệ sinh môi trường công cộng, thị xã có thể chủ động xây dựng các chế tài xử phạt nghiêm, đúng mức mọi vi phạm.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp, nhà máy đóng trên địa bàn phải có một cơ quan chuyên trách thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các cam kết về bảo vệ môi trường. Xử phạt nghiêm minh đối với mọi hành vi vi phạm, trốn trách trách nhiệm đối với việc bảo vệ môi trường.
Xây dựng quy ước bảo vệ môi trường và phát huy truyền thống yêu thiên nhiên
Xây dựng và phát huy truyền thống yêu thiên nhiên, nếp sống gần gũi thân thiện với khu phố, thu nhặt rác thải ở các khu du lịch, danh thắng…
Xây dựng các quy ước, hương ước, cam kết về bảo vệ môi trường và các mô hình tự quản về môi trường của cộng đồng dân cư: thành lập các tổ thu gom dịch vụ của nhân dân hoặc các công ty tư nhân, thu gom rác đường phố, vệ sinh đô thị cuối tuần.
Phát động và duy trì các phong trào trồng cây gây rừng, làm sạch môi trường.
Xây dựng các mô hình điển hình về bảo vệ môi trường trong quần chúng
Phát hiện các mô hình điển hình, tiên tiến trong các hoạt động bảo vệ môi trường để phổ biến, nhân rộng, xây dựng các giải thưởng môi trường. Thiết lập các trung tâm cộng đồng để tự động ghi nhân, phân loại và chuyển những kiến nghị của người dân về tình trạng ô nhiễm đến cơ quan chức năng thích hợp. Những hệ thống như vậy sẽ cho phép những người quản lý xác định được những khu vực có vấn đề nghiêm trọng và cũng cho phép người dân giám sát việc giải quyết các kiến nghị của họ.
Các doanh nghiệp trên địa bàn có thể đưa nội dung bảo vệ môi trường vào cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng tập thể lao động giỏi và vào tiêu chuẩn xét khen thưởng.
Kết luận.
Năm 2008 là một năm đầy biến động đã chứng kiến sự biến động của giá dầu mỏ toàn cầu, các vấn đề nan giải về nguồn cung cấp lương thực, các thảm họa tự nhiên, sự suy thoái môi trường liên tục và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Các cuộc khủng hoảng đã gây ra những thách thức nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững và trở thành nội dung chủ yếu trong các chương trình nghị sự của gần như tất cả các hội nghị cấp cao trên thế giới. Sự thành lập và hoạt động thường niên của Hội đồng phát triển bền vững quốc gia kể từ đầu năm 2009 là một động thái tích cực của Việt Nam trong công cuộc hiện thực hoá mục tiêu phát triển của Việt Nam cũng như cả nhân loại: Phát triển bền vững.
Trong lộ trình phát triển của mình, Uông Bí _một đô thị trẻ phía tây của tỉnh Quảng Ninh đã sớm xác định cho mình con đường phát triển theo hướng bền vững. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp năng lượng than và nhiệt điện đã làm cho thành phần môi trường của PTBV trở nên yếu kém. Trong chuyên đề thực tập này em mong muốn tìm hiểu và qua đó đóng góp những kiến thức của mình để chống lại nạn ô nhiễm khói bụi đang ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người dân Uông Bí. Không có kiến thức của một nhà quản lý về môi trường tuy nhiên là một sinh viên kinh tế em cố gắng đưa lại sự tiếp cận trên góc nhìn kinh tế, mong muốn có thể giải quyết vấn đề trên giác độ kinh tế một cách hiệu quả nhất để hiện thực hoá mục tiêu PTBV của quê hương.
Danh mục tài liệu tham khảo.
Khoa địa lý, trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐHQGHN (2006) “Quy hoạch bảo vệ môi trường thị xã Uông Bí đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”.
Uỷ ban nhân dân thị xã Uông Bí (12/2007) “Báo cáo tổng hợp điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội thị xã Uông Bí đến năm 2010 và định hướng năm 2020”.
Ngân hàng thế giới (2006) “Xanh hoá công nghệ, vai trò của thị trường, cộng đồng và chính phủ”.
Nhà xuất bản ĐH Kinh Tế Quốc Dân (2009) giáo trình “Kế hoạch hoá phát triển”.
ĐH Kinh Tế Quốc Dân giáo trình “Kinh tế môi trường”. Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội -2003
ĐH Kinh Tế Quốc Dân giáo trình “Kinh tế phát triển”. Nhà xuất bản lao động xã hội, Hà Nội 2005
Mai Xuân Bình, vụ công tác lập pháp “Pháp luật môi trường ở Việt Nam trước yêu cầu phát triển bền vững”.
Bộ Công nghiệp: “Chiến lược phát triển ngành Than Việt Nam giai đoạn 2006-2015, định hướng đến năm 2025”.
Phụ lục
Phụ lục 1: Một số định nghĩa của Khoa học Môi trường bàn về phát triển bền vững:
- Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết phát triển bền vững; nghĩa là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo vệ Môi trường một cách khoa học đồng thời với sự phát triển kinh tế.
- Theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (World Commission and Environment and Development, WCED) thì “phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”.
- Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi ích tương tự trong tương lai (Gôdian và hecdue, 1988, GS. Grima Lino).
- Phát triển là mô hình phát triển mới trên cơ sở ứng dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con người thế hệ hiện nay mà không làm hại cho thế hệ mai sau (Nguyễn Mạnh Huấn, Hoàng Đình Phu- Những vấn đề kinh tế –xã hội và văn hoá trong phát triển bền vững, Hà Nội 3/1993, trang 17, 18).
- Phát triển bền vững là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế làm giảm sự khai thác tài nguyên cho phát triển kinh tế, sự suy thoái Môi trường trong tương lai và làm giảm sự đói nghèo.
- Phát triển bền vững bao gồm sự thay đổi Công nghệ hiện đại, Công nghệ sạch, Công nghệ có hiệu quả hơn nhằm tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên hoặc từ sản phẩm kinh tế –xã hội.
Phụ lục 2: Danh mục Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường bắt buộc áp dụng
Quyết định 35/2002/QĐ-BKHCNMT về việc công bố danh mục Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường bắt buộc áp dụng.
A. Các tiêu chuẩn liên quan đến chất lượng không khí
1. TCVN 5937:1995. Chất lượng không khí. Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh
2. TCVN 5938:1995. Chất lượng không khí. Nồng độ tối đa cho phép của một số chất độc hại trong không khí xung quanh
3. TCVN 5939:1995. Chất lượng không khí. Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ
4. TCVN 5940:1995. Chất lượng không khí. Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối với các chất hữu cơ
5. TCVN 6438:2001. Phương tiện giao thông đường bộ. Giới hạn lớn nhất cho phép của khí thải
6. TCVN 6560:1999. Chất lượng không khí. Khí thải đốt chất thải rắn y tế. Giới hạn cho phép
7. TCVN 6991:2001. Chất lượng không khí. Khí thải công nghiệp. Tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất vô cơ trong khu công nghiệp
8. TCVN 6992:2001. Chất lượng không khí. Khí thải công nghiệp. Tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất vô cơ trong vùng đô thị
9. TCVN 6993:2001. Chất lượng không khí. Khí thải công nghiệp. Tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất vô cơ trong vùng nông thôn và miền núi
10. TCVN 6994:2001. Chất lượng không khí. Khí thải công nghiệp. Tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất hữu cơ trong khu công nghiệp
11. TCVN 6995:2001. Chất lượng không khí. Khí thải công nghiệp. Tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất hữu cơ trong vùng đô thị
12. TCVN 6996:2001. Chất lượng không khí. Khí thải công nghiệp. Tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất hữu cơ trong vùng nông thôn và miền núi
B. Các tiêu chuẩn liên quan đến tiếng ồn
TCVN 5948:1999. Âm học. Tiếng ồn do phương tiện giao thông đường bộ phát ra khi tăng tốc độ. Mức ồn tối đa cho phép
TCVN 5949:1998#Âm học. Tiếng ồn khu vực công cộng và dân cư. Mức ồn tối đa cho phép
Phụ lục 3: Hệ thống băng tải ống vận chuyển than
Tác dụng: tăng cường năng lực vận tải chung của ngành than, đảm bảo bảo vệ môi trường sinh thái thay thế cho việc vận tải bằng các loại hình khác như xe tải, băng tải thông thường hiệu quả thấp, ô nhiễm môi trường sinh thái, tai nạn giao thông… đặc biệt đối với các khu đông dân cư và các tuyến đường giao cắt với đường quốc lộ, đường dân sinh, khu vực các cảng tiêu thụ, các nhà máy nhiệt điện, xi măng, hoá chất và khu công nghiệp tập trung.
Vận chuyển bằng băng tải ống có nhiều ưu điểm so với các loại hình vận tải khác và được nhiều nước phát triển trên thế giới sử dụng:
- Khối lượng vận chuyển lớn, có thể đạt đến 2.624 tấn/h;
- Cung độ vận chuyển dài, liên tục đến 35km (tại ấn Độ đang sử dụng tuyến băng tải ống dài liên tục 32km);
- So với băng tải thông thường, băng tải ống có các ưu điểm vượt trội sau:
+ Độ ồn thấp hơn 50%;
+ Mức độ phát tán bụi thấp hơn nhiều lần;
+ Góc dốc hiệu quả cao # 500 (góc dốc băng tải thường đến 180);
+ Vận tốc cao từ 2,0-3,0m/s;
+ Bán kính góc lượn thấp, có thể uốn lượn theo không gian 3 chiều; cho phép xây dựng tuyến trên các địa hình phức tạp, không gian chật hẹp…;
+ Đường kính ống từ 150-750mm;
+ Tuổi thọ cao;
+ Có thể cùng một lúc vận chuyển 2 loại vật liệu trên 2 nhánh đi và về;
+ Tuyến băng tải ống nhỏ, có thể uốn lượn theo địa hình, độ lên và xuống dốc lớn nên chi phí đầu tư giải phóng mặt bằng sẽ thấp và không gian bố trí sẽ gọn hơn.
- Chi phí đầu tư băng tải ống cao hơn băng tải thường khoảng 13% (phụ thuộc vào địa hình của toàn tuyến); song chi phí vận hành thấp do đó đơn giá vận chuyển tính theo tấn/km thấp hơn băng tải thường khoảng 7%.
Phụ lục 3: Vai trò của cây xanh đối với việc bảo vệ môi trường không khí
- Giảm nồng độ bụi: cây xanh đối với đô thị giống như lá phổi đối với con người, nó có tác dụng lọc bụi không khí, làm sạch môi trường. Khả năng giữ bụi của cành, lá của cây phụ thuộc vào đặc thù của lá cây như: độ nhám, lá to hay nhỏ, thưa hay dày, cấu tạo tán lá, cây xanh có thể giảm lượng bụi xuống từ 20 – 65% nồng độ bụi trong không khí.
- Hấp thụ các chất độc hại trong không khí: trên cơ sở quá trình hoạt động hoá sinh mà cây xanh có khả năng hấp thụ các chất độc hại, bụi chì, hơi chì trong không khí. Các chất này được hấp thụ và giữ chủ yếu ở phần mô bì của lá cây, một phần chứa trong cành cây, thân cây và rễ cây. Nói chung cây xanh có thể giảm chất khí độc hại trong môi trường từ 10 – 35%.
- Hấp phụ tiếng ồn: sóng âm thanh truyền qua các lùm cây, tán cây sẽ bụ phản xạ qua lại nhiều lần và lượng âm thanh đó sẽ bị giảm đi một cách rõ rệt. Do đó, cây xanh có khả năng hút âm, giảm nhỏ tiếng ồn đặc biệt là tiếng ồn do giao thông và công nghiệp nặng. Khả năng giảm tiếng ồn của cây xanh không những chỉ phụ thuộc vào loại cây mà còn phụ thuộc và cách bố trí phối hợp giữa các loại cây với nhau.
- Giảm nhiệt độ bề mặt không khí, giảm hàm lượng CO2, tăng hàm lượng O2, tăng độ ẩm: Trong quá trình quang hợp cây xanh sẽ hấp thụ khí CO2 do con người và các hoạt động công nghiệp thải ra đồng thời thải ra O2 làm trong lành hơn bầu không khí.
- Tác dụng cản gió: Gió là một nhân tố quan trọng góp phần phát tán bụi và các khí đọc hại gây ô nhiễm. Cây xanh có tác dụng làm giảm tốc độ gió thông thường từ 10 – 60%.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp chống ô nhiễm môi trường không khí nhằm mục tiêu Phát Triển Bền Vững thị xã Uông Bí tỉnh Quảng Ninh.doc