Đề tài: Gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế GTGT
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi ra đời và có hiệu lực thi hành ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999 cho đến nay, thuế giá trị gia tăng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh lớn và nhỏ, chứng tỏ nó là một sắc thuế quan trọng và chiếm tỷ trọng cao (khoảng 20% tổng thu nội địa) góp phần đáng kể trong việc giải quyết nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. Thuế giá trị gia tăng hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu do điều kiện ưu đãi về thuế suất tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu được hoàn thuế đầu vào giúp cho nhà xuất khẩu giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, khuyến khích xuất khẩu, điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh hội nhập về kinh tế của nước ta hiện nay
Do đặc thù của cơ chế khấu trừ của thuế giá trị gia tăng buộc các cơ sở kinh doanh phải sử dụng chứng từ hoá đơn khi bán và mua hàng hóa, từ đó giúp việc quản lý thuế được chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, cơ chế khấu trừ cũng là kẽ hở để các doanh nghiệp thực hiện việc hành vi gian lận bằng việc kê khai hóa đơn GTGT và chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước thông qua việc khấu trừ và hoàn thuế.
Hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT của các doanh nghiệp để bòn rút tiền từ ngân sách Nhà nước đã trở thành một vấn nạn của toàn xã hội, với số tiền gian lận bị phát hiện lên đến hàng trăm tỷ đồng và xảy ở khắp các tỉnh thành trong cả nước, các vụ gian lận bị phát hiện ngày càng lớn và càng tinh vi hơn.
Bài viết này nhằm làm rõ hơn hành vi gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế GTGT thông qua việc xem xét nguyên nhân của hành vi gian lận và đưa ra một số biện pháp để khắc phục hành vi gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế GTGT.
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3928 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế GTGT
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi ra đời và có hiệu lực thi hành ở Việt Nam từ ngày 1/1/1999 cho đến nay, thuế giá trị gia tăng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh lớn và nhỏ, chứng tỏ nó là một sắc thuế quan trọng và chiếm tỷ trọng cao (khoảng 20% tổng thu nội địa) góp phần đáng kể trong việc giải quyết nhu cầu chi tiêu của Chính phủ. Thuế giá trị gia tăng hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu do điều kiện ưu đãi về thuế suất tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu được hoàn thuế đầu vào giúp cho nhà xuất khẩu giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, khuyến khích xuất khẩu, điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh hội nhập về kinh tế của nước ta hiện nay
Do đặc thù của cơ chế khấu trừ của thuế giá trị gia tăng buộc các cơ sở kinh doanh phải sử dụng chứng từ hoá đơn khi bán và mua hàng hóa, từ đó giúp việc quản lý thuế được chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, cơ chế khấu trừ cũng là kẽ hở để các doanh nghiệp thực hiện việc hành vi gian lận bằng việc kê khai hóa đơn GTGT và chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước thông qua việc khấu trừ và hoàn thuế.
Hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT của các doanh nghiệp để bòn rút tiền từ ngân sách Nhà nước đã trở thành một vấn nạn của toàn xã hội, với số tiền gian lận bị phát hiện lên đến hàng trăm tỷ đồng và xảy ở khắp các tỉnh thành trong cả nước, các vụ gian lận bị phát hiện ngày càng lớn và càng tinh vi hơn.
Bài viết này nhằm làm rõ hơn hành vi gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế GTGT thông qua việc xem xét nguyên nhân của hành vi gian lận và đưa ra một số biện pháp để khắc phục hành vi gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế GTGT.
I. Nguồn gốc, cơ sở pháp lý của thuế GTGT
- Thuế giá trị gia tăng (GTGT) (chữ tiếng Anh là Value Added Tax - viết tắt là VAT) là thuế loại thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Maurice Lauré, nhà kinh tế người Pháp là người đầu tiên đưa ra khái niệm VAT vào năm 1954.
- Ở Việt Nam, Luật thuế GTGT được Quốc hội thông qua vào ngày 10/5/1997 có hiệu lực thi hành 01/01/1999. Luật sửa đổi, bổ sung: Lần I vào 3/9/1999; Lần II 27/10/2000; Lần III: 29/11/2001; Lần thứ IV: 28/11/2002; Lần thứ V: 17/6/2003; Lần thứ VI: 29/11/2005
- Ngày 03 tháng 6 năm 2008 Quốc hội thông qua Luật thuế giá trị gia tăng số: 13/2008/QH12 có hiệu lực thi hành 01/01/2009. Để hướng dẫn thực hiện Luật thuế này ngày 08/12/2008 Chính phủ đã ban hành Nghị Định 123/2008/NĐ-CP, và Bộ tài chính cũng đã ban hành Thông tư số 129 /2008/TT- BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 để hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành Nghị định trên.
II. Nội dung cơ bản của Luật thuế GTGT
1. Quy định chung
- Đối tượng chịu thuế GTGT : Là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài), trừ một số đối tượng không chịu thuế GTGT.- Người nộp thuế GTGT: Là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT (người nhập khẩu).
2. Căn cứ và phương pháp tính thuế
2.1. Giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ
- Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng (+) với thuế nhập khẩu (nếu có), cộng (+) với thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có).
- Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng cho, trả thay lương cho người lao động, là giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này.
- Đối với hoạt động cho thuê tài sản như cho thuê nhà, văn phòng, xưởng, kho tàng, bến, bãi, phương tiện vận chuyển, máy móc, thiết bị là số tiền cho thuê chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm là giá tính theo giá bán trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó, không bao gồm khoản lãi trả góp, trả chậm.
- Đối với gia công hàng hóa là giá gia công theo hợp đồng gia công chưa có thuế GTGT, bao gồm cả tiền công, chi phí về nhiên liệu, động lực, vật liệu phụ và chi phí khác phục vụ cho việc gia công hàng hoá.
- Đối với xây dựng, lắp đặt, là giá trị công trình, hạng mục công trình hay phần công việc thực hiện bàn giao chưa có thuế GTGT.
- Đối với hoạt động đại lý, môi giới mua bán hàng hoá và dịch vụ, ủy thác xuất nhập khẩu hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng, giá tính thuế là tiền công, tiền hoa hồng thu được từ các hoạt động này chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hóa, dịch vụ được sử dụng chứng từ thanh toán ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT như tem, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết... thì giá chưa có thuế được xác định như sau:
Giá thanh toán (tiền bán vé, bán tem...)
Giá chưa có thuế GTGT = -------------------------------------------------
1 + thuế suất của hàng hóa, dịch vụ (%)
- Đối với điện của các nhà máy thuỷ điện hạch toán phụ thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam, giá tính thuế GTGT để xác định số thuế GTGT nộp tại địa phương nơi có nhà máy được tính bằng 60% giá bán điện thương phẩm bình quân năm trước, chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.
- Đối với dịch vụ casino, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh giải trí có đặt cược, là số tiền thu từ hoạt động này đã bao gồm cả thuế tiêu thụ đặc biệt trừ số tiền đã trả thưởng cho khách.
Giá tính thuế được tính theo công thức sau:
Số tiền thu được
1+ thuế suất
Giá tính thuế =
- Đối với vận tải, bốc xếp là giá cước vận tải, bốc xếp chưa có thuế GTGT, không phân biệt cơ sở trực tiếp vận tải, bốc xếp hay thuê lại.
- Đối với dịch vụ du lịch theo hình thức lữ hành, hợp đồng ký với khách hàng theo giá trọn gói (ăn, ở, đi lại) thì giá trọn gói được xác định là giá đã có thuế GTGT.
- Đối với dịch vụ cầm đồ, giá tính thuế là tiền phải thu từ dịch vụ này bao gồm tiền lãi phải thu từ cho vay cầm đồ và khoản thu khác phát sinh từ việc bán hàng cầm đồ (nếu có).
- Đối với sách chịu thuế GTGT bán theo đúng giá phát hành (giá bìa) theo quy định của Luật Xuất bản thì giá bán đó được xác định là giá đã có thuế GTGT để tính thuế GTGT và doanh thu của cơ sở. Các trường hợp bán không theo giá bìa thì thuế GTGT tính trên giá bán ra.
- Đối với hoạt động in, giá tính thuế là tiền công in. Trường hợp cơ sở in thực hiện các hợp đồng in, giá thanh toán bao gồm cả tiền công in và tiền giấy in thì giá tính thuế bao gồm cả tiền giấy.
- Đối với dịch vụ đại lý giám định, đại lý xét bồi thường, đại lý đòi người thứ ba bồi hoàn, đại lý xử lý hàng bồi thường 100% hưởng tiền công hoặc tiền hoa hồng thì giá tính thuế GTGT là tiền công hoặc tiền hoa hồng được hưởng (chưa trừ một khoản phí tổn nào) mà doanh nghiệp bảo hiểm thu được, chưa có thuế GTGT.
2.2. Thời điểm xác định thuế GTGT
- Đối với bán hàng hoá là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
- Đối với cung ứng dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ hoặc thời điểm lập hoá đơn cung ứng dịch vụ, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
- Đối với hoạt động cung cấp điện, nước sạch là ngày ghi chỉ số điện, nước tiêu thụ trên đồng hồ để ghi trên hoá đơn tính tiền.
- Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, chuyển nhượng hoặc cho thuê là thời điểm thu tiền theo tiến độ thực hiện dự án hoặc tiến độ thu tiền ghi trong hợp đồng.
- Đối với xây dựng, lắp đặt là thời điểm nghiệm thu, bàn giao công trình, hạng mục công trình, khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu là thời điểm đăng ký tờ khai hải quan.
2.3. Thuế suất:
Áp dụng 3 mức thuế suất là 0%, 5% và 10%.
Thuế suất 0%: áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình của doanh nghiệp chế xuất; hàng bán cho cửa hàng bán hàng miễn thuế; vận tải quốc tế; hàng hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT khi xuất khẩu…
Thuế suất 5% gồm 15 nhóm hàng hóa, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp, thiết bị giảng dạy, dụng cụ phục vụ học tập, hoạt động văn hóa nghệ thuật, khoa học công nghệ…
- Thuế suất 10% áp dụng đối với các hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế 0% và 5%.
2.4. Phương pháp tính thuế:
- Phương pháp khấu trừ thuế: áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế GTGT phải nộp
=
Số thuế GTGT đầu ra
-
Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
- Phương pháp khấu trừ thuế tính trực tiếp: Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT bằng GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế bán ra nhân (x) với thuế suất áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ đó (giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ được xác định bằng giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra trừ (-) giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng).
3. Khấu trừ và hoàn thuế
3.1. Khấu trừ thuế GTGT
- Thời hạn tối đa được kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào là 6 tháng kể từ thời điểm phát sinh.
- Hàng hóa dịch vụ mua vào được khấu trừ thuế thì phải thanh toán qua ngân hàng nếu giá trị thanh toán từng lần từ 20 triệu đồng trở lên.
3.2. Quy định về hoàn thuế
- Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế GTGT nếu trong 3 tháng liên tục trở lên có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết.
Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế.
Ví dụ: Doanh nghiệp A kê khai thuế GTGT có số thuế GTGT đầu vào, đầu ra như sau:
(Đơn vị tính: triệu đồng)
Tháng kê khai thuế
Thuế đầu vào được khấu trừ trong tháng
Thuế đầu ra phát sinh trong tháng
Thuế phải nộp
Luỹ kế số thuế đầu vào chưa khấu trừ
Tháng 12/2008
200
100
- 100
- 100
Tháng 1/2009
300
350
+50
- 50
Tháng 2/2009
300
200
- 100
- 150
Theo ví dụ trên, doanh nghiệp A luỹ kế 3 tháng liên tục có số thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra. Doanh nghiệp A thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT với số thuế là 150 triệu đồng.
- Cơ sở kinh doanh mới thành lập từ dự án đầu tư đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, hoặc dự án tìm kiếm thăm dò và phát triển mỏ dầu khí đang trong giai đoạn đầu tư chưa đi vào hoạt động, nếu thời gian đầu tư từ 01 năm trở lên thì được hoàn thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho đầu tư theo từng năm. Trường hợp, nếu số thuế GTGT luỹ kế của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT.
- Cơ sở kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư thì cơ sở kinh doanh phải kê khai bù trừ số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử dụng cho dự án đầu tư mới cùng với việc kê khai thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh đang thực hiện. Sau khi bù trừ nếu có số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư.
- Trường hợp cơ sở kinh doanh đang hoạt động (trừ các doanh nghiệp hạch toán toàn ngành) thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư cơ sở sản xuất mới tại địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác với tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở chính, đang trong giai đoạn đầu tư chưa đi vào hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, chưa đăng ký thuế, nếu có số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư. Cơ sở kinh doanh phải kê khai, lập hồ sơ hoàn thuế riêng đối với trường hợp này.
- Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu thuế GTGT đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng. Cơ sở kinh doanh trong tháng vừa có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, vừa có hàng hoá, dịch vụ bán trong nước, có số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên, nhưng sau khi bù trừ với số thuế GTGT đầu ra của hàng hoá, dịch vụ bán trong nước, nếu số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì cơ sở kinh doanh không được xét hoàn thuế theo tháng, nếu số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì cơ sở kinh doanh được hoàn thuế GTGT theo tháng.
+ Đối tượng được hoàn thuế trong một số trường hợp xuất khẩu như sau: Đối với trường hợp uỷ thác xuất khẩu, là cơ sở có hàng hoá uỷ thác xuất khẩu; đối với uỷ thác gia công xuất khẩu, là cơ sở nhận gia công ký hợp đồng trực tiếp với phía nước ngoài; đối với gia công chuyển tiếp, là cơ sở ký hợp đồng gia công xuất khẩu với phía nước ngoài; đối với hàng hoá xuất khẩu để thực hiện công trình xây dựng ở nước ngoài, là doanh nghiệp có hàng hoá, vật tư xuất khẩu thực hiện công trình xây dựng ở nước ngoài.
- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi chia, tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu; giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước có số thuế GTGT đầu vào chưa đuợc khấu trừ hết hoặc có số thuế GTGT nộp thừa.
- Hoàn thuế GTGT đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) không hoàn lại hoặc viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo:
+ Đối với dự án sử dụng vốn ODA không hoàn lại: chủ chương trình, dự án hoặc nhà thầu chính, tổ chức do phía nhà tài trợ nước ngoài chỉ định việc quản lý chương trình, dự án được hoàn lại số thuế GTGT đã trả đối với hàng hoá, dịch vụ mua ở Việt Nam để sử dụng cho chương trình, dự án.
+ Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho chương trình, dự án viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo tại Việt Nam thì được hoàn thuế GTGT đã trả của hàng hoá, dịch vụ đó.
Ví dụ: Hội chữ thập đỏ được Tổ chức quốc tế viện trợ tiền để mua hàng viện trợ nhân đạo cho nhân dân các tỉnh bị thiên tai là 200 triệu đồng. Giá trị hàng mua chưa có thuế là 200 triệu đồng, thuế GTGT là 20 triệu đồng. Hội chữ thập đỏ sẽ được hoàn thuế theo quy định là 20 triệu đồng.
- Việc hoàn thuế GTGT đã trả đối với các chương trình, dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) không hoàn lại thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
- Đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao theo quy định của Pháp lệnh về Ưu đãi miền trừ ngoại giao mua hàng hoá, dịch vụ tại Việt Nam để sử dụng được hoàn thuế GTGT đã trả ghi trên hoá đơn GTGT hoặc trên chứng từ thanh toán ghi giá thanh toán đã có thuế GTGT.
- Cơ sở kinh doanh có quyết định xử lý hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3.3. Hồ sơ hoàn thuế:
Hồ sơ hoàn thuế GTGT được quy định chi tiết tại Điểm I, Phần G thông tư số 60/TT-BTC ngày 14/6/2007:
Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng đối với trường hợp trong ba tháng liên tục có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết, hoặc đối với trường hợp đang trong giai đoạn đầu tư chưa có thuế giá trị gia tăng đầu ra:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT.
- Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn theo theo mẫu số 01-1/HTBT.
Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng đối với trường hợp xuất khẩu:
Trường hợp xuất khẩu thanh toán bằng tiền, hồ sơ hoàn thuế bao gồm:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT.
- Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếucó), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn theo theo mẫu số 01-1/HTBT
- Bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở ghi rõ:
+ Số, ngày tờ khai xuất khẩu của hàng hóa xuất khẩu (trường hợp uỷ thác xuất khẩu phải ghi số, ngày tờ khai xuất khẩu của cơ sở nhận uỷ thác);
+ Số, ngày hợp đồng xuất khẩu hoặc số, ngày hợp đồng uỷ thác xuất khẩu, uỷ thác gia công đối với trường hợp uỷ thác xuất khẩu, uỷ thác gia công xuất khẩu;
+ Hình thức thanh toán, số, ngày, số tiền của chứng từ thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu;
- Biên bản thanh lý hợp đồng uỷ thác xuất khẩu hoặc uỷ thác gia công hàng xuất khẩu.
Trường hợp xuất khẩu thanh toán bằng hàng, hồ sơ hoàn thuế gồm:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế mẫu số 01/HTBT.
- Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn theo theo mẫu số 01-1/HTBT.
- Bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dầu của cơ sở, ghi rõ:
+ Số, ngày hợp đồng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ ký với nước ngoài;
+ Số, ngày hợp đồng mua hàng hoá, dịch vụ của nước ngoài thanh toán bù trừ với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu;
+ Số, ngày Tờ khai xuất khẩu của hàng hoá xuất khẩu;
+ Số, ngày Tờ khai nhập khẩu của hàng hoá nhập khẩu;
+ Số, ngày văn bản xác nhận với phía nước ngoài về số tiền thanh toán bù trừ;
+ Số, ngày chứng từ thanh toán qua ngân hàng, số tiền thanh toán bù trừ chênh lệch(nếu có).
Trường hợp xuất khẩu tại chỗ, hồ sơ hoàn thuế bao gồm:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT.
- Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn theo theo mẫu số 01-1/HTBT
- Bảng kê hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở, ghi rõ:
+ Số, ngày hợp đồng xuất khẩu ký với nước ngoài;
+ Số, ngày Tờ khai hải quan hàng hoá xuất nhập khẩu tại chỗ;
+ Số, ngày, số tiền của chứng từ thanh toán tiền hàng hoá xuất khẩu tại chỗ qua ngân hàng.
Trường hợp hàng hoá gia công chuyển tiếp, hồ sơ hoàn thuế bao gồm:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT.
- Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn theo theo mẫu số 01-1/HTBT
- Bảng kê hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở, ghi rõ:
+ Số, ngày hợp đồng gia công giao; số, ngày hợp đồng gia công nhận.
+ Số, ngày tờ khai hàng gia công chuyển tiếp;
+ Số, ngày, số tiền của chứng từ thanh toán tiền hàng hoá xuất khẩu tại chỗ qua ngân hàng.
Trường hợp hàng hoá xuất khẩu để thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài, hồ sơ hoàn thuế bao gồm:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT.
- Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp (nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn theo theo mẫu số 01-1/HTBT.
- Bảng kê hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở, ghi rõ:
+ Số, ngày giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài;
+ Số, ngày văn bản chấp thuận dự án đầu tư theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.
+ Danh mục hàng hoá xuất khẩu để thực hiện dự án đầu tư tại nước ngoài do Bộ Thương mại cấp.
Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng đối với dự án ODA:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT.
- Bảng kê khai tổng hợp thuế đầu vào được hoàn;
- Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá dịch vụ mua vào mẫu số 01-2/GTGT
- Quyết định của cấp có thẩm quyền về việc phê duyệt dự án sử dụng vốn ODA .
- Xác nhận của cơ quan chủ quản dự án ODA về hình thức cung cấp dự án.
Trường hợp nhà thầu chính lập hồ sơ hoàn thuế thì ngoài những tài liệu nêu tại điểm này, còn phải có xác nhận của chủ dự án về việc dự án không được Ngân sách Nhà nước bố trí vốn đối ứng để thanh toán cho nhà thầu theo giá có thuế giá trị gia tăng; giá thanh toán theo kết quả thầu không có thuế giá trị gia tăng và đề nghị hoàn thuế cho nhà thầu chính.
Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng đối với tổ chức Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của nước ngoài mua hàng hoá tại Việt Nam để viện trợ:
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT.
- Bảng kê khai tổng hợp số thuế đầu vào được hoàn.
- Bảng kê hoá đơn, chứng từ hàng hoá dịch vụ mua vào mẫu số 01-2/GTGT.
- Quyết định phê duyệt các khoản viện trợ của cấp có thẩm quyền .
- Văn bản xác nhận của Bộ Tài chính về khoản tiền viện trợ của tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
Hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng đối với đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao:
- Công hàm đề nghị hoàn thuế giá trị gia tăng của cơ quan đại diện;
- Văn bản đề nghị hoàn thuế theo mẫu số 01/HTBT có xác nhận của Vụ Lễ tân (Bộ Ngoại giao);
- Bản gốc kèm theo 2 bản sao có đóng dấu cơ quan đại diện của các hoá đơn giá trị gia tăng.
III.Thực trạng và nguyên nhân gian lận trong hoàn thuế GTGT
Thực trạng
Kể từ lúc Luật thuế GTGT bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 cho đến nay, thuế GTGT đã đạt nhiều mục tiêu quan trọng:
- Chiếm tỷ trọng lớn nhất - khoảng 20% tổng thu nội địa. Cùng với các sắc thuế khác thuế GTGT đã góp phần hoàn thành dự toán thu ngân sách Nhà nước đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên của đất nước.
- Hỗ trợ tốt cho hoạt động xuất khẩu do cơ chế hoàn thuế đầu vào tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài.
- Thuế giá trị gia tăng góp phần thay thế vai trò của thuế nhập khẩu trong bối cảnh phải cắt giảm khi hội nhập kinh tế thế giới, góp phần bảo hộ sản xuất trong nước.
- Cơ chế khấu trừ thuế buộc các cơ sở kinh doanh phải sử dụng chứng từ hoá đơn khi bán ra, mua vào, từ đó tạo điều kiện quản lý thuế chặt chẽ hơn, nhất là tạo hiệu quả nhất định đối với thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề phải giải quyết đó là vấn nạn gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng:
- Tính đến tháng 6/2002, số thuế thực hoàn hơn 13.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, một số đối tượng đã lợi dụng cơ chế hoàn trước - kiểm sau và việc khấu trừ theo tỷ lệ % nhất định đối với hàng nông sản để chiếm đoạt tiền thuế. Theo thống kê, tiến hành kiểm tra sau khi hoàn thuế với 3.311 đơn vị đã có 1.215 trường hợp vi phạm với số tiền 140 tỷ đồng, và 325 đơn vị vi phạm nghiêm trọng. Thực tế cho thấy, việc chiếm đoạt tiền thuế thông qua việc hoàn thuế và khấu trừ theo tỷ lệ % đã và đang diễn ra ngày một cách tinh vi.
- Theo Luật thuế GTGT, đối với hàng hoá xuất khẩu chịu thuế suất là 0% và được khấu trừ toàn bộ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đây là một chủ trương nhằm khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Để được hoàn thuế, doanh nghiệp phải có đầy đủ các hoá đơn hợp pháp. Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù của nền kinh tế nước ta, những trường hợp mua hàng là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất không có hoá đơn được khấu trừ theo tỷ lệ tính trên giá trị theo bảng kê. Ngoài ra, ta cũng ban hành cơ chế hoàn trước - kiểm sau, nhằm tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp. Căn cứ chủ yếu để được hoàn thế là hoá đơn hợp pháp. Thông qua hoá đơn hợp pháp, doanh nghiệp không chỉ khai man trốn thuế, mà còn lợi dụng chủ trương hoàn thuế để chiếm đoạt tiền thuế, gây thiệt hại cho những doanh nghiệp chân chính.
- Theo một hướng khác, đầu ra của hàng hoá gian lận không qua con đường xuất khẩu khống mà được thực hiện theo cách thông đồng với các đơn vị sử dụng “khống” tiền của NSNN. Với sự thông đồng này, hoá đơn đầu ra được DN xuất khống giúp cho các hành vi gian lận trong chi tiêu NSNN. Cũng từ các hoá đơn đầu ra này, các DN lại có thêm điều kiện lập các hoá đơn khống đầu vào để gian lận thuế hoặc bòn rút tiền từ NSNN. Trong quyết toán các công trình xây dựng cơ bản và trong chi tiêu hàng hoá từ NSNN, theo yêu cầu, phải có đầy đủ chứng từ, hoá đơn mới được chấp nhận. Tuy nhiên theo quy định, các khoản chi tiêu chỉ cần có đủ chứng từ, hoá đơn hợp lệ, thuộc danh mục dự toán được duyệt là có thể được thông qua. Việc kiểm tra, đối soát chứng từ, hoá đơn không kỹ như khi xét hoàn thuế GTGT (phần lớn không đối soát chứng từ với nơi xuất hoá đơn). Như vậy, sự tiêu cực “cộng hưởng” của 2 khâu thu và chi NSNN, của cả hoá đơn đầu ra và đầu vào của các doanh nghiệp sẽ làm số thiệt hại của NSNN tăng gấp bội.
- Thống kê qua các lần thanh tra, kiểm tra và quyết toán thuế, hoàn thuế cho thấy có rất nhiều hình thức gian lận thuế, chiếm đoạt tiền thuế thông qua hoá đơn như:
+ Sử dụng hoá đơn không do Bộ tài chính phát hành, thực chất là hoá đơn giả.
+ Hoá đơn do Bộ tài chính phát hành nhưng nội dung ghi không đúng qui định.
+ Các doanh nghiệp liên kết nhau hình thành đường dây “kinh doanh hoá đơn khống” như làm hồ sơ xuất khẩu khống...
+ Một doanh nghiệp cho ra đời nhiều công ty có đăng ký kinh doanh, có mã số thuế, nhưng không có địa chỉ, nhiều tháng không khai báo thuế, để đi mua hoá đơn.
+ Bán hàng không lập hoá đơn không kê khai doanh thu và tiền thuế giá trị gia tăng
+ Bán hàng ghi hoá đơn chênh lệch giữa các liên hoá đơn (giá trị hàng hoá, dịch vụ trên liên giao cho khách hàng cao hơn trị giá hàng hoá, dịch vụ trên các liên còn lại).
+ Bán hàng lập hoá đơn ghi giá trị thấp hơn thực tế thanh toán.
+ Sử dụng hoá đơn của đơn vị khác (xin, mua) hoặc đã báo mất.
+ Xuất hoá đơn theo bảng kê bán lẻ không lưu giữ liên 2 với lý do xé bỏ mất nhưng lại dùng để xuất hàng cho đơn vị khác hoặc đem bán.
+ Dùng hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành đã sử dụng sau đó tẩy xoá (dùng hoá chất hoặc tẩy cơ học) để dùng lại.
+ Viết hoá đơn bán hàng không đúng ngày thực tế bán hoặc có trường hợp trước cả ngày mua hoá đơn tại cơ quan thuế.
+ Bán hoá đơn trắng.
+ Hoá đơn đã sử dụng xuất hàng cho khách nhưng quay vòng lại để báo huỷ.
+ Khấu trừ thuế đầu vào không có hoá đơn, hoá đơn không hợp pháp, không đúng tỷ lệ.
+ Kê khai hoá đơn dịch vụ không được khấu trừ của hàng hoá không dùng cho hoạt động SXKD.
+ Kê khai thuế đầu vào trên bảng kê sai với thực tế.
+ Lập hồ sơ, hợp đồng kinh tế khống hoặc với đối tác không có thực để chiếm dụng tiền hoàn thuế.
+ Công ty mẹ thành lập nhiều công ty con để hoàn chỉnh hồ sơ rút tiền hoàn thuế của Nhà nước.
+ Xuất khẩu khống để được hoàn thuế, quay vòng hàng nông sản đã xuất khẩu bằng nhiều đường khác nhau để xuất được nhiều lần.
2. Nguyên nhân.
- Thuế GTGT là một loại thuế mới tiên tiến, nhưng công nghệ quản lý thu thuế chưa thể hiện đầy đủ tính tiên tiến, hiện đại. Tính mới của thuế GTGT thể hiện ở những điểm:
+ Cơ sở tính thuế là GTGT chứ không phải doanh thu hay lợi nhuận.+ Hai phương pháp tính áp dụng riêng cho hai đối tượng nộp.
+ Diện chịu thuế với thuế suất 0% khác cơ bản diện không chịu thuế
+ Giá tính thuế khác với giá mà người mua thanh toán
+ Khấu trừ thuế khác nhau giữa các mặt hàng chịu thuế GTGT và mặt hàng không chịu thuế GTGT.
+ Hoá đơn GTGT và hoá đơn thường.
+ Khái niệm thuế GTGT đầu vào, thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0 đồng còn quá mới mẻ đối với người kinh doanh.
Những điểm nói trên không chỉ mới đối với người nộp mà đối với cả cơ quan thu thuế. Tất nhiên, cái gì mới thoạt đầu sẽ được hiểu một cách lệch lạc, thậm chí bị một số cá nhân xấu lợi dụng để tư lợi.
Về trường hợp gian lận: có thể thấy còn nhiều bộ phận gian lận khác hiện nay còn nằm “ngoài tầm” chú ý của cơ quan thuế như:Ngoài số ít các DN được hoàn thuế GTGT, số rất lớn còn lại, chỉ thực hiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào, không thuộc diện hoàn thuế (tại TP.HCM, với khoảng 15.000 DN, nhưng trong vòng 3 năm qua chỉ có xấp xỉ 3000 trường hợp hoàn thuế. Chiếm tỷ lệ bình quân hàng năm dưới 7%). Ngay trong mỗi DN được hoàn thuế GTGT, số hoá đơn chứng từ đầu vào được xem xét để tính toán hoàn thuế chỉ giới hạn trong phạm vi có liên quan đến hoàn thuế, tức chỉ gắn liền với lô hàng xuất xuất được hoàn thuế hay trong thời hạn “3 tháng luỹ kế âm liên tục” theo quy định. Đa số hoá đơn, chứng từ còn lại cũng nằm ngoài tầm. Số “ngoài tầm” này rất lớn và thường không bị kiểm tra. Hoặc nếu có, thì việc kiểm tra cũng không nghiêm ngặt như trong các trường hợp hoàn thuế. Vì với phương pháp truy xuất, đối chiếu chứng từ, hoá đơn thủ công và số lượng cán bộ có hạn như hiện nay, thì khối lượng hoá đơn đã vượt quá xa khả năng kiểm soát của ngành thuế. Chẳng hạn ở TP.HCM, với khoảng 5 triệu hoá đơn giao dịch mỗi năm, nhưng chỉ có 3.300 biên chế ăn lương theo ngành thuế, trong đó cán bộ nghiệp vụ chỉ khoảng 50%, hiện nay theo quy định của pháp luật thời gian hoàn thuế là trong vòng 15 ngày, tối đa là 30 ngày là quá ngắn. Với thời gian này, cơ quan thuế không có đủ thời gian để kiểm tra, thẩm định hồ sơ chứng từ hoàn thuế nên không thể phát hiện được những sai phạm lợi dụng khai man của doanh nghiệp.
- Chính sách thuế GTGT hiện hành còn quá nhiều khe hở, quá nhiều bất cập, không phù hợp với thực tại và yêu cầu phát triển của nền kinh tế, chưa có sự phân tích đánh giá cẩn thận những tác động lan toả, bóp méo các hành vi kinh tế, sự mất trắng do cải cách thuế có khả năng gây nên.
- Trong tư tưởng cải cách thuế vẫn còn mang nặng dấu ấn cơ chế cũ – cơ chế kế hoạch hoá tập trung. không tôn trọng thuộc tính trung lập của hệ thống thuế hiện đại, tức là vẫn còn tồn tại các quy định miễn giảm, khấu trừ làm xói mòn những mục tiêu cốt lõi của thuế, dễ gây nên tình trạng trốn, lậu thuế. Đây là một vấn đề nhức nhối của hệ thống thuế trong nền kinh tế chuyển đổi.
- Quá trình cải cách thuế chỉ mới tập trung nhiều đến khía cạnh chính sách mà chưa có sự quan tâm thích đáng đến việc cải cách hành chính thuế ngay từ đầu. Điều này đã dẫn đến năng lực quản lý hành chính thuế thấp, hiệu quả chưa cao, làm xuất hiện nhiều tồn tại trong công tác hành thu.
- Chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện thuế GTGT có hiệu quả. Đặc biệt là chưa coi trọng việc cải cách thể chế trong những lĩnh vực hỗ trợ cho việc cải cách hệ thống thuế như: hệ thống kế toán, kiểm toán, hệ thống các luật lệ liên quan đến hệ thống thuế.
- Cơ sở kế toán quốc dân chưa hình thành hoặc chưa được chuẩn bị. Đại bộ phận cơ sở kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ,... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Điều này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống; đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời.
- Sự lúng túng của những cơ quan chức năng. Thể hiện rõ nét nhất là quá nhiều văn bản được ban hành. Chỉ trong một thời gian ngắn năm 1999 Chính phủ và Bộ Tài chính cho ra đời hàng trăm văn bản liên quan đến thuế GTGT. Điều này gây ra vấn đề “chỏi nhau” trong điều hành và thực hiện. Tiếp đến, cơ chế “xin – cho” xuất hiện: xin được hưởng thuế suất thấp hơn, xin được nộp thuế 0%, xin mở rộng diện khấu trừ theo tỷ lệ tính trên giá mua không có hoá đơn GTGT, v.v.... Ngoài ra, việc áp dụng đồng thời hai phương pháp tính cho hai loại đối tượng nộp thuế gây nhiều tốn kém và cản trở sự vận hành của thuế GTGT trên phạm vi toàn nền kinh tế - xã hội.
- Yếu kém trong dự báo và thiếu đánh giá tác động của chính sách. Điển hình là quy định cho phép các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ thuế đầu vào không căn cứ vào hoá đơn GTGT cho một số trường hợp. Tỷ lệ khấu trừ tính trên giá mua ban đầu là 5% và 3%, tiếp theo là 5%, 4% và 3%, rồi giảm còn 3% và 2%, đến tháng 10 năm 2002 là 1%. Diện được hưởng khấu trừ thoạt tiên không áp dụng cho xuất khẩu, sau đó, mở rộng cho xuất khẩu v.v... Quy định này nhằm khuyến khích doanh nghiệp tiêu thụ hàng của nông dân, góp phần thúc đẩy khu vực nông nghiệp phát triển. Đó là một chủ trương đúng. Nhưng khi thi hành thì không dự báo được tác động ngoại ý của nó. Vì vậy làm nảy sinh hiện tượng lập chứng từ không trung thực để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT và gây ra những hậu quả nặng nề: Chính phủ mất tiền, dân chúng mất niềm tin chính sách thuế mới, và doanh nghiệp lương thiện nghi ngờ cách thức và năng lực điều hành nền kinh tế của Chính phủ.
- Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt: Ở Trung Quốc đã xử tử 60 phạm nhân liên quan đến hoàn thuế. Thế nhưng ở nước ta chưa tử hình tội phạm nào cả, thậm chí xử tù 20 năm cũng chưa có. Mức phạt cao nhất là 100 triệu đồng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng hoá đơn như: lập hoá đơn chênh lệch giữa các liên; dùng hoá đơn khống, hoá đơn giả và hoá đơn không còn giá trị; tẩy xoá nội dung các chỉ tiêu của hoá đơn đã sử dụng. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hoá đơn không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá nhân chiếm đoạt nhiều tỉ đồng tiền thuế. Nếu không trị quyết liệt thì luật pháp không còn khiến người ta sợ. Do đó, tình hình phạm tội liên quan đến thuế GTGT, mặc dù đã được công luận cảnh báo cơ quan chức năng, vẫn tiến triển nhanh, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt. Mức phạt chưa đủ khả năng răng đe, Luật pháp Việt Nam chưa có những quy định thật cụ thể về nghĩa vụ lập hoá đơn GTGT khi bán hàng hoá, dịch vụ có giá trị thấp dưới mức quy định (100.000 đ). Hơn nữa, đối với người mua là người tiêu thụ cuối cùng những hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT thì hoàn toàn không có quyền lợi gì trong việc yêu cầu bên bán phải thực hiện nghĩa vụ lập hoá đơn. Khi bên bán không thực hiện nghĩa vụ lập hoá đơn thì quyền lợi của Nhà nước bị xâm hại. Vì vậy, Nhà nước cần phải bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách bắt buộc bên bán phải lập hoá đơn.Ngành thuế chưa thực hiện hết chức năng của mình trong trường hợp thực hiện trách nhiệm xử phạt hành chính đối với các trường hợp gian lận thuế GTGT. Nếu cơ quan thuế thực hiện nghiêm chỉnh việc phạt tiền từ 1 – 5 lần số tiền thuế gian lận, thì doanh nghiệp cũng đủ tán gia bại sản.
- Sự thoái hoá của một số cán bộ thuế: Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân gian lận tiền thuế. Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
- Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ. Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây ra những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điển tử,...
- Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành, có nhiều trường hợp được quy tội gian lận thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu không đúng các quy định của thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hoá đơn. Hơn nữa họ cũng không có động cơ giữ hoá đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hoá đơn để khỏi mất thêm 10% tiền thì họ đồng ý ngay.
IV-Biện pháp chống gian lận trong khấu trừ và hoàn thuế GTGT:
1. Biện pháp chống mua bán hóa đơn
- Khuyến khích sử dụng hoá đơn tự in
Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hoá đơn tự in, giúp giảm thời gian cho các doanh nghiệp đồng thời tăng cường trách nhiệm của đơn vị, nhằm tránh hiện tượng mua, bán, gian lận trong hóa đơn.
Chính phủ đã có Nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2002 về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn và Bộ Tài chính có thông tư số 120/2002/TT-BTC ngày 30/12/2005 hướng dẫn thi hành Nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 07/11/2002 trong đó Bộ tài chính qui định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sử dụng hoá đơn tự in phải đăng ký mẫu hoá đơn, ký hiệu, số lượng, nơi in với Cục thuế tỉnh, TP nơi đóng trụ sở và thông báo mẫu hoá đơn đến các cơ quan này để theo dõi, quản lý.
Tuy nhiên cần tránh cơ chế “xin - cho” trong việc “xin công văn” chấp thuận cho tự in hóa đơn và cần hỗ trợ cho doanh nghiệp vì chi phí in cao hơn khi mua hóa đơn in sẵn và khi thay đổi địa chỉ đã in trên hóa đơn.
- Tăng cường quản lý thông tin đăng ký kinh doanh:
Cần bổ sung thêm các yếu tố như giấy chứng nhận đăng ký thuế phải có dán ảnh chủ doanh nghiệp, chủ hộ kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, số đăng ký kinh doanh, địa điểm đã đăng ký kinh doanh, số lần đã đăng ký kinh doanh nhằm hỗ trợ công tác kiểm tra, kiểm soát việc cấp đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời hạn chế việc một cá nhân thành lập nhiều công ty ở các tỉnh khác nhau để kinh doanh hoá đơn hoặc hợp thức hoá chi phí và thuế GTGT đầu vào.
- Tăng cường công tác quản lý hóa đơn
Tăng cường quản lý hoá đơn từ khâu cấp phát nhằm đảm bảo bán hoá đơn đúng đối tượng, đúng địa chỉ bằng các nghiệp vụ cụ thể của ngành thuế
Hiện nay đã thực hiện đóng dấu tên và mã số thuế của doanh nghiệp tại cơ quan thuế đem về sử dụng, tăng cường tổ chức kiểm tra, đối chiếu chéo hoá đơn giữa doanh nghiệp mua và doanh nghiệp bán.
- Sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong việc in hoá đơn:
Nghiên cứu cải tiến công nghệ in hóa đơn để hạn chế tối đa hóa đơn giả
2. Biện pháp cải thiện quy trình hoàn thuế
- Phân loại đối tượng hoàn thuế GTGT:
Thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với các cơ sở SXKD thực hiện tốt các qui định của Luật thuế, thực hiện kiểm tra trước khi hoàn thuế đối với các cơ sở SXKD vi phạm các qui định của Luật thuế, chế độ hoá đơn chứng từ, có dấu hiệu bất thường trong SXKD, các cơ sở SXKD mới thành lập xin hoàn thuế lần đầu.
Đối với các hoá đơn hàng hoá, dịch vụ có số thuế được khấu trừ hay được hoàn chỉ thực hiện sau khi xác định số thuế đó đã được kê khai của đơn vị bán hàng thông qua việc đối chiếu.
- Bỏ khấu trừ khống:
Bãi bỏ qui định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo bảng kê hàng hoá mua vào đối với hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến.
Bỏ khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ % đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào không có hoá đơn
- Thanh toán qua ngân hàng
Doanh nghiệp muốn được khấu trừ thuế giá trị gia tăng phải thanh toán qua ngân hàng được quy định tại thông tư 129/TT-BTC ngày 26-12-2008 của Bộ Tài chính về thuế GTGT có hiệu lực thi hành từ 1-1-2009 và công văn số 3046/BTC-TCT ngày 20-3-2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn thêm về điều kiện chứng từ thanh toán qua NH để được khấu trừ hoàn thuế GTGT, hàng hóa dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn từ 20 triệu đồng (giá đã có thuế GTGT) nếu không có chứng từ thanh toán qua NH thì không được khấu trừ, hoàn thuế GTGT.
- Thu hẹp đối tượng hoàn thuế:
Các doanh nghiệp xuất khẩu muốn được hưởng thuế suất 0% và hoàn thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu phải có đủ thủ tục liên quan đến hàng xuất khẩu như hợp đồng xuất khẩu, tờ khai hải quan xác nhận hàng hoá thực xuất, chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu.
Thu hẹp diện không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, mở rộng diện thu thuế GTGT; áp dụng thuế suất 0% đối với sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản để vừa khắc phục được hiện tượng gian lận sinh ra từ khấu trừ khống theo tỷ lệ (%) quy định, vừa trợ giá cho nông dân nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển và nâng cao đời sống của nông dân.
- Thống nhất một phương pháp tính thuế GTGT:
Áp dụng thống nhất một phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ, từ đó tiến đến thống nhất một loại hoá đơn – hoá đơn GTGT, do đó nên chuyển các hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi diện chịu thuế GTGT để áp dụng một loại thuế tương tự thuế doanh thu trước đây. Khi đó nếu các đơn vị này chọn thuế GTGT thì phải tuân thủ đúng quy trình, chế độ hoá đơn chứng từ và chế độ kế toán.
- Hoàn chỉnh hệ thống mạng công nghệ thông tin:
Việc quản lý hoá đơn kê khai thuế cần phải thực hiện bằng hệ thống máy tính trên toàn quốc để truy cập, xác minh hoá đơn một cách thuận lợi và nhanh gọn. Ngành thuế cần phải phát triển hệ thống mạng giữa các tỉnh, thành phố nhằm xác định đúng số thuế GTGT kê khai khấu trừ, hoàn thuế; phát hiện kịp thời hoá đơn đã thông báo không còn giá trị sử dụng. Đây là một trong những biện pháp hết sức hiệu quả, cần thiết phải thực hiện mặc dù kinh phí cao
- Hoàn chỉnh qui trình hoàn thuế gắn với trách nhiệm nhân viên:
Hiện nay các cơ quan ban ngành đang xây dựng quy trình thủ tục hành chính theo đề án 30 về cải cách hành chính của Chính phủ. Quy trình cần chi tiết, cụ thể, có phân định nghĩa vụ, trách nhiệm rõ ràng của nhân viên cơ quan thuế trong công tác hoàn thuế (tương tự qui trình trách nhiệm của nhân viên ngân hàng khi kiểm tra chứng từ trong thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng)
3. Biện pháp chế tài:
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra về thuế:
Có phối hợp với cơ quan công an để phát hiện các tổ chức, cá nhân in và lưu hành hoá đơn giả. Trước mắt tập trung kiểm tra các doanh nghiệp có số thuế đề nghị khấu trừ hoặc hoàn thuế lớn hoặc có biểu hiện gian lận trong kê khai thuế, có vi phạm trong việc quản lý, sử dụng hoá đơn. Tăng cường kiểm tra việc sử dụng NSNN trong khu vực hành chính sự nghiệp để ngăn chặn, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm qui định về sử dụng hoá đơn trong thanh toán, quyết toán tài chính,.
- Bổ sung tội phạm gian lận thuế vào bộ luật hình sự:
Bổ sung vào bộ luật hình sự tội phạm về hành vi in ấn, mua bán hoá đơn để lập hồ sơ kê khai gian lận làm tăng thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn thuế.
Điều 108 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 có đề cập đến hành vi hành vi trốn thuế, gian lận thuế như sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán hàng hoá, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn và bị phạt từ 1 đến 3 lần số tiền thuế trốn.
Nghị định 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế. có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007, tại điều 41 quy định, khi có căn cứ về việc cất giấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế, thủ trưởng cơ quan quản lý thuế có quyền quyết định khám xét nơi cất giấu tài liệu, tang vật này
Nghị định 13/2009/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7-6-2007 về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế. Nội dung chính của nghị định lần này là tăng mức phạt đối với các hành vi vi phạm về thuế có hiệu lực từ ngày 1-4-2009.
4. Biện pháp khen thưởng, giáo dục
- Đưa vào chương trình giáo dục từ phổ thông về nghĩa vụ nộp thuế của công dân, giáo dục mọi người yêu cầu hóa đơn khi mua hàng để bảo đảm quyền lợi khi khiếu nại chất lượng sản phẩm
- Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ thuế.
- Chú trọng chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn chính sách thuế, các thủ tục kê khai nộp thuế, các nội dung cần kiểm tra, thanh tra đến các đối tượng nộp thuế và cán bộ thuế. Đồng thời, chỉ đạo cán bộ phải tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân, nắm bắt dư luận và căn cứ vào bản chất của các hoạt động kinh doanh để xác định được trường hợp nghi vấn.
- Ngành thuế tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền thường xuyên cập nhật thông tin về hoạt động của doanh nghiệp trên địa bàn phục vụ cho công tác quản lý đối tượng nộp thuế
- Khen thưởng thích đáng kỷ luật nghiêm minh trong công tác hành thu và chấp hành luật thuế.
5. Cải cách hệ thống thuế
- Quá trình cải cách hệ thống thuế phải gắn chặt với vấn đề cải cách quan hệ tài khoá giữa các cấp chính quyền, có như vậy thì mới tạo ra được sự quan tâm, trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương.
- Phải tôn trọng tính ổn định tương đối của hệ thống thuế, tránh sự thay đổi quá nhanh và nhiều làm cho đối với việc triển khai thực hiện hệ thống thuế mới
- Cải cách thể chế trong những lĩnh vực hỗ trợ cho việc cải cách hệ thống thuế như: hệ thống kế toán, kiểm toán, hệ thống các luật lệ liên quan đến hệ thống thuế.
Tài liệu tham khảo:
1. TS.Nguyễn Ngọc Hùng - Th.S.TRần Hải Hiệp - TS.Nguyễn Văn Vân - Th.S.Nguyễn Thị Thuỷ -"Kỷ yếu hội thảo khoa học “Gian lận trong khấu trừ thuế, hoàn thuế và hướng hoàn thiện thuế GTGT trong tiến trình hội nhập AFTA (CEPT)”.
2. Quế Ngân -" Từ ngày 1.4.2009 trốn thuế hoặc gian lận thuế sẽ bị phạt từ 1 đến 3 lần" - Báo Đời sống pháp luật 31/3/2009
3. Các văn bản quy phạm pháp luật:
+Nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2002 về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn và thông tư số 120/2002/TT-BTC ngày 3012/2005 hướng dẫn thi hành Nghị định số 89/2002/NĐ-CP ngày 07/11/2002
+Nghị định số 148/2004/NĐ – CP ngày 23/7/2004 và Nghị định số 156/2005/NĐ – CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế GTGT và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT hướng dẫn
+Thông tư số 32/2007/TT – BTC ngày 9/4/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ – CP ngày 10/12/2003
+Nghị định SỐ 85/2007/NĐ ngày 25 tháng 2007 quy đỊnh chi tiết thi hành một số điều của luật quản lý thuế
+Thông tư số 129 /2008/TT- BTC ngày 26/12/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng
+Nghị định 13/2009/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7-6-2007 về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
4. Một số trang web về thuế và kế toán.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Gian lan khau tru thue GTGTNhom 3.doc
- Gian lan khau tru thue GTGTNhom 3.ppt