Mục lục
Chương I: Doanh nghiệp nhỏ và vừa và sự cần thiết có chính sách, cơ chế hỗ trợ phát triển DNNVV.7
1. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế. 7
1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa.7
1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay.10
1.2.1 Ưu thế:10
1.2.2 Hạn chế:12
2. Sự cần thiết phải phát triển và quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.14
2.1. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế.14
2.2 Sự cần thiết phải phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.22
2.3. Vai trò quản lý nhà nước đối với sự phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.24
Chương II: Đánh giá tình hình phát triển và công tác quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.28
1.Quá trình hình thành phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ28
1.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty (21/12/1990)28
1.2. Từ khi ban hành Luật DNTN và Luật Công ty, đến khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực (1/1/2000)30
1.3 Từ khi áp dụng thực hiện Luật doanh nghiệp (01/1/2000 đến nay)32
2. Nguồn lực phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Tỉnh Phú Thọ.33
2.1 Vị trí địa lý.33
2.2Tiềm năng và khả năng khai thác tiềm năng để phát triển DNNVV trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ. 34
2.2.1 Đặc điểm địa hình:34
2.2.2 Đặc điểm khí hậu:35
2.2.3 Đất đai và nguồn nước.36
2.2.4 Tài nguyên khoáng sản:36
2.2.5 Tài nguyên rừng.36
2.3 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Phú Thọ trong những năm gần đây.37
3. Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.45
3.1 Số lượng và quy mô. 45
3.2. Kết cấu vốn doanh nghiệp theo mỗi loại hình doanh nghiệp.49
3.3 Kết cấu, ngành nghề kinh doanh.51
3.4 Tình hình sử dụng lao động và trả lương lao động.51
3.5 Về năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. 53
3.6 Những đóng góp của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Phú Thọ trong thời gian vừa qua.58
3.7 Những khó khăn tồn tại chủ yếu của các DNNVV trên địa bàn Tỉnh.62
4. Công tác quản lý Nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.67
4.1. Về tổ chức bộ máy, cán bộ quản lý nhà nước. 68
4.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn.68
4.2.1 Môi trường chính sách phát triển DNNVV trên địa bàn Tỉnh. 68
4.2.2 Thực trạng công tác quản lý của nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa72
Chương III: Các định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh76
1. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh.76
1.1 Mục tiêu định tính.76
1.2 Mục tiêu cụ thể.77
2. Một số giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.78
2.1 Hoàn thiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến kích các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.78
2.2 Đổi mới công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.83
thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới sô ***********
92 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2939 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y phát triển nhanh chóng về số lượng nhưng hiện nay quy mô các DNNVV nói chung còn rất nhỏ, thể hiện trên cả 3 tiêu thức: vốn, lao động và doanh thu. Quy mô nhỏ, kinh doanh mang tính tự phát cao nên khả năng mở rộng ra thị trường bên ngoài còn hạn chế, tích tụ tư bản thấp, điều kiện tài chính hạn hẹp làm cho khả năng hiệ đại hóa sản xuất, đổi mới công nghệ còn hạn chế.
- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý.
Ngành nghề ĐKKD chủ yếu là thương mại, dịch vụ thuần tuý (chiếm tỷ lệ trên 65%), mang tính tự phát cao, không có quy hoạch, chiến lược, DN chủ yếu tập trung kinh doanh vào khu vực thương mại, dịch vụ. Điều này phản ánh một thực trạng là đa số các nhà đầu tư tư nhân đầu tư với mục tiêu kiếm lợi nhuận nhất thời, chưa chú trọng đầu tư phát triển các ngành sản xuất công nghiệp hay dịch vụ hiện đại, là những ngành đảm bảo sự phát triển lâu dài của nền kinh tế Tỉnh và của bản thân DN.
- Thiếu vốn và mặt bằng sản xuất kinh doanh.
Thiếu vốn và mặt bằng sản xuất kinh doanh là hiện tượng phổ biến đối với DNDD. Ngay cả với một số DN sản xuất kinh doanh có hiệu quả cần mở rộng mặt bằng, đầu tư máy móc thiết bị, chuyển đổi cơ sở sản xuất đều thiếu vốn và mặt bằng. Các DN chỉ vay vốn ngắn hạn ở các ngân hàng thương mại với lãi suất cao để làm vốn lưu động, vốn đầu tư dài hạn rất khó tiếp cận vì không đủ điều kiện để vay (thế chấp tài sản..). Nhiều DN phải thuê lại mặt bằng của cơ quan, DNNN để sản xuất kinh doanh với giá cao và không ổn định, hạn chế khả năng đầu tư lâu dài của DN. Theo kết quả điều tra của chi cục thuế Tỉnh có tới 90% doanh nghiệp phải tổ chức sản xuất - kinh doanh trên đất thổ cư hoặc đi thuê laị của tổ chức, cá nhân khác; chỉ có 5% thuê được đất của nhà nước. Hiện tại nhiều doanh nghiệp sản xuất có nhu cầu thuê đất để tổ chức sản xuất - kinh doanh nhưng chưa thuê được, điều này có thể khẳng định những khó khăn cho các doanh nghiệp là thực tế gần như phổ biến; gây trở ngại nghiêm trọng đối với sự phát triển của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Số doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn chiếm 95% trên tổng số doanh nghiệp. Trong đó, tỷ lệ doanh nghiệp vay trung hạn, dài hạn chiếm 65-70%. Tỷ lệ vay vốn để đầu tư, mua thiết bị nhà xưởng chiếm 65-70%, vay kinh doanh thương mại chiếm 30%. Kết quả điều tra cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp tục đối mặt với những trở ngại lớn trong việc tiếp cận nguồn tài chính thương mại (vốn hoạt động và đặc biệt là vốn đầu tư) do có sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó có sự hạn chế về các hình thức khuyến khích để các ngân hàng thương mại cho khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa vay tiền (thế chấp tài sản)
- Công nghệ, máy móc thiết bị lạc hậu và yếu kém.
DNNVV nói chung hoạt động với những điều kiện yếu kém về trang thiết bị, công nghệ, sản xuất chủ yếu mang tính thủ công và bán cơ giới, bán tự động, máy móc thiết bị có trình độ công nghệ trung bình và lạc hậu, thiết bị hiện đại và tương đối hiện đại chiếm tỷ lệ rất thấp trong tài sản cố định của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị hiện đại của các DN DD chưa nhiều, giá trị không cao, bình quân thiết bị hiện đại và tương đối hiện đại chiếm tỷ lệ 5 rất thấp trong tài sản cố định của các DN công nghiệp. Năm 2005 hệ số đổi mới công nghệ ngành chế biến thuỷ sản 27,6%, cơ khí: 25,45%; tỷ trọng thiết bị hiện đại của 2 ngành trên tương ứng là 93,17%; 70,57%. Các mũi nhọn như công nghệ tin học, điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới chưa phát triển mạnh.
- Giảỉ pháp phát triển thị trường chưa đồng bộ và hoàn chỉnh.
Đa số các doanh nghiệp chưa quan tâm đến giải pháp xây dựng và phát triển thương hiệu, nghiên cứu thị trường. Những hiểu biết của doanh nghiệp về thông tin thị trường trong và ngoài nước, về yêu cầu cơ hội và thách thức từ hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực còn rất hạn chế. Việc xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế đối với DN tiến hành chậm (đến cuối năm 2007 mới có 20 DNDD được cấp chứng nhận ISO 9000; 230 cơ sở sản xuất đăng ký nhãn hiệu hàng hoá). Chưa thiết lập được mối quan hệ gắn kết với các DNNN, hợp tác với các thành phần kinh tế khác còn yếu.
- Chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước còn nhiều tồn tại.
Số DN vi phạm pháp luật như trốn thuế, làm hàng nhái, hàng giả chiếm tỷ lệ nhỏ. Đa số các DN chưa tuân thủ các quy định của luật về chế độ báo cáo thống kê, báo cáo quyết toán tài chính hằng năm cho Phòng Đăng ký kinh doanh (năm 2004 có 4,2% số doanh nghiệp nộp báo cáo quyết toán tài chính; năm 2005: 17,6%, 2006: 17,6%, 2007: 17,3%). Doanh nghiệp tự nghỉ kinh doanh không khai báo chiếm 5% số DNDD, nhiều DN không thực hiện chuyển quyền sở hữu tài sản cho Công ty khi góp vốn bằng tài sản (nhất là các DN vận tải) đã gây khó khăn cho công tác quản lý sau ĐKKD. Đối với một số DNTN và CTTNHH 2 thành viên trở lên (thường là người nhà) mang nặng tính gia đình, sổ sách kế toán, chứng từ kê khai nộp thuế chưa nghiêm túc. Chỉ có ít doanh nghiệp (10%) thực hiện nộp bảo hiểm xã hội và 17% doanh nghiệp có tổ chức công đoàn. Việc nắm bắt chế độ chính sách thông tin kinh tế chưa thường xuyên, thậm chí không biết, không được phổ biến. Thực trạng nói trên do nhiều nguyên nhân:
Một là, tập quán, thói quen kiểu sản xuất nhỏ, tiểu nông kết hợp với ảnh hưởng của cơ chế hành chính-kế hoạch hoá tập trung vẫn tác động mạnh đến phương thức quản lý của đa số chủ doanh nghiệp và người quản lý.
Hai là, trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, công tác đào tạo quản trị kinh doanh, trong đó có đào tạo về lập chiến lược và kế hoạch kinh doanh, còn nhỏ về quy mô với nội dung chưa hoàn toàn đổi mới phù hợp với yêu cầu. Đại đa số chủ doanh nghiệp và người quản lý vẫn quản lý điều hành kinh doanh dựa trên kinh nghiệm bản thân là chủ yếu.
Ba là, các loại dịch vụ hỗ trợ cho lập chiến lược và kế hoạch kinh doanh như công tác thống kê, lập dữ liệu, dự đoán và dự báo của cả nền kinh tế, công tác cung cấp thông tin, v.v... còn yếu và thiếu; đội ngũ cung ứng dịch vụ tư vấn lập dự án, chiến lược và kế hoạch kinh doanh còn quá nhỏ, năng lực chưa cao, giá cả cao chưa tương xứng với chất lượng và khả năng thanh toán của đại đa số doanh nghiệp. Thêm vào đó, với lối quản lý theo kinh nghiệm chủ nghĩa đang chi phối, nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn nói chung, tư vấn quản trị, tư vấn chiến lược và kế hoạch kinh doanh nói riêng chưa cao. Các quy định khắt khe, bất hợp lý về chi phí hợp lý, hợp lệ cũng là yếu tố hạn chế nhu cầu sử dụng dịch vụ phát triển kinh doanh của doanh nghiệp
- Trình độ quản lý của chủ DNNVV còn nhiều yếu kém.
Phần lớn các chủ DN dựa vào kinh nghiệm để quản lý (trừ các doanh nghiệp cổ phần hoá) nhưng số chủ DN thật sự có kinh nghiệm, hiểu biết nhiều trên thương trường không phải là nhiều. Đội ngũ doanh nhân có trình độ cao đẳng trở lên ở các Cty CP mới chiếm khoảng 10%; Cty TNHH 8%, DNTN 5%; Gần 60% chủ DN là không có bằng cấp, một số chủ DN có trình độ chuyên môn kỹ thuật nhưng lại thiếu về kiến thức quản lý.
Thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh là một điểm yếu của hầu hết các doanh nghiệp. Việc lập chiến lược và kế hoạch kinh doanh chưa phải là mối quan tâm hàng đầu của các chủ sở hữu và nhà quản lý. Đối với hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa, kế hoạch nhiều khi chỉ là dự đoán trong đầu, không thể hiện ra thành báo cáo, dự án; kế hoạch chỉ là mục tiêu tổng quát như sản xuất, tiêu thụ, lợi nhuận có thể được bao nhiêu; và nếu đạt được, thì thoả mãn với những gì đã có. Vì vậy, khi thị trường biến động, kế hoạch dự tính không hoàn thành, họ lúng túng, bị động, không biết rõ phải làm gì, ở khâu nào, bộ phận nào và như thế nào để đối phó với tình hình. Do kế hoạch chỉ là ước tính, tổng quát, không viết ra giấy, nên thường không có đánh giá hoặc không thể đánh giá được các điểm mạnh yếu; không biết rõ chỗ nào, công việc nào đang kém hiệu quả, hoặc có thể làm tốt hơn; vì vậy, không chủ động trong nỗ lực, cải tiến quản lý nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Khả năng cạnh tranh của các DNNVV còn kém.
Nhìn chung khả năng cạnh tranh của DNNVV còn nhiều hạn chế, thị phần sản phẩm công nghiệp trên địa bàn Tỉnh cũng như cả nước và xuất khẩu còn nhỏ. Giá thành sản phẩm, dịch vụ cung ứng cao, các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại còn nhiều yếu kém, do đó khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại nhập lậu cũng như sản phẩm của các DN ở thành phố Hà Nội, Vĩnh Phúc...
- Công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước và hỗ trợ DNNVV nhất là khối dân doanh tuy có chuyển biến nhưng vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao. Sự phối hợp của các sở, ban, ngành, quận, huyện còn chưa đồng bộ, nhịp nhàng, vừa chồng chéo, vừa bỏ ngõ.
- Thiếu thông tin và các dịch vụ hỗ trợ DNNVV còn thiếu.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường không có bộ phận chuyên trách về thu thập và xử lý thông tin. Nguồn vốn tài chính có hạn không cho phép mua sắm các thiết bị phục vụ công tác thông tin và chi phí cho các hoạt động thu thập, xử lý thông tin (như tìm kiếm thông tin thị trường, đối tác, bạn hàng). Do đó, đa số các doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu thông tin về thị trường đầu vào, thông tin về chế độ chính sách và các quy định của Nhà nước, dẫn tới việc các doanh nghiệp chưa thực sự nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng ít được trợ giúp từ các trung tâm thông tin, tư vấn, ngân hàng, dịch vụ hỗ trợ thương mại. Hiện nay các nguồn cung cấp thông tin chủ yếu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là từ điện thoại, Internet, báo chí, từ đối tác, bạn hàng…
4. Công tác quản lý Nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
Ngay sau khi tái lập Tỉnh, Phú Thọ đã xác định: Thách thức gay gắt nhất của Tỉnh là nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Do đó Phú Thọ đã xác định phải thực hiện CNH-HĐH để vượt qua khó khăn của nền kinh tế do cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, tích lũy nội bộ thấp, vốn đầu tư cho phát triển thiếu…Vì vậy, để thực hiện thành công CNH-HĐH, Phú Thọ phải khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, vượt qua thử thách, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH –HĐH. Năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên của WTO, nhiều cơ hội và thách thức đang đặt ra cho quá trình hội nhập. Phú Thọ phải phát huy mọi nguồn lực, vượt thách thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, phấn đấu tăng trưởng cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý. Muốn vậy nhiệm vụ đặt ra là phải tập trung phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển công nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả và phù hợp với nhu cầu của thị trường, phát triển các ngành dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của sản xuất kinh doanh và đời sống, khuyến kích các thành phần tham gia đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Công tác quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực đã không ngừng được đổi mới, thể hiện qua:
4.1. Về tổ chức bộ máy, cán bộ quản lý nhà nước
Trong công tác tổ chức bộ máy đã kiện toàn hệ thống đăng ký kinh doanh từ tỉnh đến huyện theo đúng quy định của Luật doanh nghiệp, Nghị định 02/2000/NĐ- CP của Chính phủ và Thông tư 05/TT- LB của Bộ nội vụ về thành lập Phòng ĐKKD cấp tỉnh và huyện. phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương (Tháng 7/2000 UBND tỉnh có quyết định thành lập Phòng Đăng ký kinh doanh trên cơ sở tổ chức lại phòng doanh nghiệp thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư, có nhiệm vụ tham mưu giúp ngành, đề suất với Uỷ ban nhân dân tỉnh cơ chế, chính sách quản lý, cho phép thành lập và chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng không theo dõi trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các sở ngành kinh tế- kỹ thuật, UBND cấp huyện đã tiến hành rà soát lại cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ của phòng Tài chính, kế hoạch, các phòng chuyển môn, đã tham mưu cho tỉnh thành lập Trung tâm xúc tiến thương mại, Trung tâm xúc tiến đầu tư, Trung tâm khuyến công, bố trí cán bộ theo dõi, quản lý hoạt động đối với doanh nghiệp tư nhân, phù hợp chức năng, nhiệm vụ nhà nước giao (Cục thuế có gần 30 cán bộ; các Sở Công nghiệp, Thương mại và Du lịch, có một phòng (2- 3 cán bộ), còn lại các sở Giao thông, Nông nghiệp và PTNN, xây dựng, bố trí từ 1- 2 cán bộ kiêm nhiệm, giúp sở theo dõi quản lý doanh nghiệp tư nhân hoạt động thuộc lĩnh vực ngành.
4.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn.
4.2.1 Môi trường chính sách phát triển DNNVV trên địa bàn Tỉnh.
Để cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển có hiệu quả cần phải có một hệ thống cơ chế, chính sách vĩ mô của Nhà nước nói chung và của Tỉnh Phú Thọ nói riêng phải thống nhất tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp phát triển. Các chính sách thường sử dụng là: Chính sách đầu tư, Chính sách thuế, chính sách tài chính tín dụng, chính sách thị trường, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đất đai, chính sách công nghệ…
Chính sách thuế: Thuế là một trong những công cụ quản lý điều tiết vĩ mô rất quan trọng, tạo nguồn thu ngân sách, đảm bảo công bằng bình đẳng giữa các hoạt động kinh tế xã hội nhằm khuyến khích các hoạt động nâng cao năng suất, tăng hiệu quả kinh tế…Riêng đối với Tỉnh Phú Thọ đã vận dụng khéo léo, linh hoạt chính sách thuế theo đúng đặc thù riêng của Tỉnh. Tỉnh có các chính sách vận dụng cho từng loại thuế, kèm theo chế độ miễn giảm cho từng đối tượng chịo thuế, vì vậy giai đoạn 2000-2007 chính sách thuế đã có tác động rất lớn đến sự phát triển nhanh chóng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, sự vận dụng chưa được triệt để theo từng lĩnh vực, từng địa bàn, đôi lúc bị chồng chéo giữa các loại thuế gây mất công bằng, mất bình đẳng giữa các doanh nghiệp và các thành phần sở hữu. Hiện nay, các doanh nghiệp trên địa bàn áp dụng hình thức thuế mới theo quy định của Nhà nước như: Thuế VAT, thuế thu nhập Doanh nghiệp. Qua khảo sát các doanh nghiệp trên địa bàn thì hầu hết các doanh nghiệp đều cho rằng biều mẫu báo cáo quyết toán thuế còn quá phức tạp và không thực tế,chưa phù hợp với trình độ của đại đa số DNNVV. Thủ tục miễn giảm thuế trong ưu đãi đầu tư còn nhiều khó khăn phức tạp, chưa minh bạch, trong khi triển khai thực hiện. Thủ tục hoàn thuế VAT còn quá phức tạp và kéo dài, đa số các DNNVV không có đủ cơ sở pháp lý, hoá đơn chứng từ để chứng minh mua bán thànhphẩm, nguyên liệu đầu vào là của hộ dân không có hoá đơn VAT.
Chính sách đất đai, phát triển cơ sở hạ tầng: Nhiều DNNVV thiếu mặt bằng sản xuất, nhất là ở Thành phố Việt Vrì, Thị xã Phú Thọ. Việc thực hiện chính sách đất đai cho phát triển DNNVV trong công nghiệp chưa thống nhất ở các huyện, thành phố nên có nơi vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất. Đối với chính sách đất đai của Tỉnh đã quy định rõ rang đối với từng loại đất nông nghiệp, phi nông nghiệp theo quy hoạch tổng thể của Tỉnh, nhưng khi đi vào vận dụng thực tế chính sách này chưa được triển khai đúng đắn hoặc triển khai rất chậm. Tình hình sử dụng đất đai sai mục đích còn diễn ra phổ biến. Theo thống kê thì năm 2006 có tới 20 vụ sử dụng và cấp giấy phép sai quy định. Trên thực tế các DNNVV hiện nay hoặc với mặt bằng cũ do lịch sử để lại, hoặc được cấp mới tùy thuộc từng địa phương không theo quy hoạch. Chỉ có một số DNNVV (chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước) được cấp quyền sử dụng đất, còn đa số phải thuê đất. Còn có sự phân biệt đối xử trong giao, cho thuê đất giữa DN NN với DN dân doanh; giữa DN lớn và DNNVV; thời gian, thủ tục còn rườm rà, kéo dài. Giá đất còn cao và tiêu chí để được thuê đất đối với DNNVV, nhất là DN dân doanh không đáp ứng được. Nguyên nhân là lượng đất ở các KCN còn ít, không đủ khả năng cung cấp cho các DNNVV có nhu cầu đất chỉ vài ngàn m2 cho một dự án
Đối với phát triển cơ sở hạ tầng để phục vụ như: mạng lưới giao thông mạng lưới điện, mạng lưới cấp và thoát nước…Phú Thọ đã có những đầu tư rất lớn để phát triển cơ sở hạ tầng nhưng so với mặt bằng chung của cả nước còn chậm, chưa đồng bộ và chưa có tác động lớn đến việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chính sách hỗ trợ vốn: Trong quá trình phát triển thì vấn đề bức xúc nhất của các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng là vốn. Vốn là yếu tố quan trọng để các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Hiện nay hầu hết các DNNVV đang gặp khó khăn về vốn, trong khi nhu cầu vốn của toàn xã hội đang ngày càng ra tăng. Hiện nay các doanh nghiệp trên địa bàn vốn chủ yếu là vốn tự có và vốn vay từ người than bạn bè…Trong điều kiện hiện nay, thị trường chứng khoán còn chưa phát triển đầy đủ, còn chứa đựng nhiều rủ ro thì chính sách hỗ trợ vốn của Nhà nước và của Tỉnh là một hướng quan trọng để giải quyết vấn đề vốn hiện nay của doanh nghiệp. Tỉnh đã mở rộng đối tượng vay, cải cách hoạt động cho vay của hệ thống ngân hàng, áp dụng các hình thức tín dụng…nhất là cho phép các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tạo nguồn vốn đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính sách công nghệ, đào tạo: Đây là chính sách tương đối mới được vận dụng tại Tỉnh Phú Thọ thông qua các cơ quan, tổ chức dưới hình thức tư vấn công nghệ và đào tạo. Các trung tâm tư vấn công nghệ, trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm đã góp phần rất lớn cho việc đầu tư công nghệ mới, nguồn nhân lực cả về số lượng lẫn chất lượng đảm bảo được nhu cầu của các doanh nghiệp. Hàng năm Tỉnh đã triển khai chương trình hỗ trợ về vốn cho DNNVV thuộc DN NN thay đổi và ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới, thiết kế mẫu mã, chế tạo sản phẩm mới, đưa vào sản xuất các nguyên vật liệu mới, các linh kiện thiết bị có hàm lượng kỹ thuật cao, có chính sách hỗ trợ kinh phí nhằm khuyến khích các DNNVV áp dụng hệ thống quản lý theo ISO,.....
4.2.2 Thực trạng công tác quản lý của nhà nước đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội hàng năm, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân trong tất cả các ngành và lĩnh vực như: Xây dựng cơ chế, chính sách và phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp; các chương trình phát triển du lịch, dịch vụ; các chương trình kinh tế nông nghiệp trọng điểm; các khu đô thị, khu cụm công nghiệp; chương trình tín dụng ngân hàng gắn với phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh.v.v....; Song song với việc triển khai ở cấp tỉnh, các huyện thành thị đều chỉ đạo xây dựng chương trình, đề án phát triển DNNVV trên địa bàn, trong đó xác định những lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương.
Bên cạnh việc xây dựng cơ chế chính sách đối với khu vực DNNVV, Tỉnh cũng đặc biệt quan tâm đến công tác cải cách thủ tục hành chính, và công tác Trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội hàng năm, Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã có nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân trong tất cả các ngành và lĩnh vực như: Xây dựng cơ chế, chính sách và phát triển công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp; các chương trình phát triển du lịch, dịch vụ; các chương trình kinh tế nông nghiệp trọng điểm; các khu đô thị, khu cụm công nghiệp; chương trình tín dụng ngân hàng gắn với phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh.v.v....; Song song với việc triển khai ở cấp tỉnh, các huyện thành thị đều chỉ đạo xây dựng chương trình, đề án phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn, trong đó xác định những lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương. Triển khai thực hiện có hiệu quả quyết định số 181/2003/QĐ- TTg ngày 04/9/2003 của Thủ tướng Chính Phủ về thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc công khai hoá các quy trình, thủ tục thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư, chứng nhận quyền sử dụng đất, các ngành nghề, lĩnh vực đầu tư.vv....liên quan đến giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp; nghiên cứu ban hành quy định về tăng cường công tác phối hợp quản lý Nhà nước giữa các cấp, các ngành đối với các doanh ngiệp sau đăng ký kinh doanh; tiến hành rà soát, xem xét lại tất cả các thủ tục, quy định, văn bản có liên quan của tỉnh, của Nhà nước đã ban hành, kịp thời kiến nghị với Chính Phủ xoá bỏ các thủ tục, giấy phép không cần thiết; đổi mới quy trình cấp đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, đăng ký sử dụng con dấu và hỗ trợ doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh theo đúng tinh thần đổi mới của Luật doanh nghiệp.
Trong công tác tổ chức bộ máy đã kiện toàn hệ thống đăng ký kinh doanh từ tỉnh đến huyện theo đúng quy định của Luật, phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương và thành lập Trung tâm xúc tiến thương mại, Trung tâm xúc tiến đầu tư, Trung tâm khuyến công,...; Ngoài ra, cấp các ngành đã tổ chức hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, nhằm kịp thời tháo gỡ, khó khăn vướng mắc và động viên, khen thưởng cho các tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương. Trong thời gian qua, nhờ làm tốt công tác hỗ trợ, phối hợp và tạo điều kiện của các cấp, các ngành và thực hiện cải cách thủ tục hành chính, việc cấP giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế, đăng ký mẫu dấu đã giảm khoảng 1/3 thời gian so quy định. Sau đăng ký kinh doanh các cấp, các ngành đã hỗ trợ cho doanh nghiệp, nhà đầu tư trong việc tìm kiếm mặt bằng (đã được các huyện, thành, thị thực hiện), tư vấn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, tư vấn hỗ trợ các dịch vụ có liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; thông tin kịp thời về danh sách các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, giúp cho việc quản lý doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh có hiệu quả.
Trong những năm qua, ngoài các văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp của nhà nước ban hành còn có các nghị định, nghị quyết của UBND Tỉnh Phú Thọ ban hành nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Các văn bản quy phạm và các quyết định này đã điều chỉnh các hoạt động của các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, khung khổ pháp lý đối với phát triển doanh nghiệp còn tồn tại một số vấn đề như cơ chế chính sách Nhà nước, các quyết định của UBND Tỉnh đối với phát triển doanh nghiệp còn tồn tại một số vấn đề như cơ chế chính sách của Nhà nước liên quan đến sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa đồng bộ, còn nhiều vướng mắc chưa được bổ sung kịp thời, nhiều thủ tục hành chính chưa sửa đổi, chưa theo kịp tiến trình phát triển doanh nghiệp, các thủ tục mang nặng tính chất hành chính chưa gắn với cơ chế điều chỉnh của thị trường, chưa quan tâm đầy đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và khả năng hội nhập nên kết quả còn nhiều hạn chế. Được thể hiện qua:
Đối với Trung ương.
- Ngoài những tồn tại cụ thể đã nêu ở các phần trên, nhìn chung các cơ chế, chính sách, các quy định pháp lý cho phát triển DNNVV còn nhiều tồn tại, bất cập. Các văn bản, quy định hỗ trợ DNNVV chưa đi vào cuộc sống, chỉ mới bắt đầu khởi động ở một số khâu nhưng lại có tính chất chung cho tất cả DN như như thủ tục hành chính đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ tín dụng,..
- Các chương trình hỗ trợ DNNVV từ các bộ, ngành TW, ở các địa phương hầu như chưa có.
- Nguồn lực hỗ trợ cho DNNVV còn nhiều hạn chế nhất là về vốn, công nghệ, thị trường, quản trị DN,...
Đối với địa phương.
- Nhìn chung Tỉnh chưa có chương trình riêng để hỗ trợ cho các DNNVV. Việc triển khai hỗ trợ DN còn nhiều lúng túng, thiếu nguồn lực.
- Chính sách huy động các nguồn lực cho đầu tư phát riển của các thành phần kinh tế chưa đạt hiệu quả cao.
- Môi trường đầu tư được cải thiện một bước, tuy vậy vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư, thủ tục hành chính chưa được đơn giản, còn rườm rà, phức tạp.
- Công tác quy hoạch chi tiết quy hoạch khu vực đầu tư dịch vụ còn thiếu, nhất là quy hoạch các cụm công nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng nhu cầu mặt bằng sản xuất kinh doanh là sự đòi hỏi chính đáng, cấp bách của các doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư và mở rộng sản xuất. Các khu công nghiệp ở Phú Thọ diện tích đất cho thuê không còn nhiều; giá, tiêu chí để được vào khu công nghiệp vượt tầm tay nhiều DNDD. Khó khăn lớn đối với các doanh nghiệp là làm sao để “an cư”, chuyện bức xúc về vốn nhiều khi không thể sánh bằng sự trở ngại trong việc tìm cho ra một diện tích mặt bằng để họ an tâm sản xuất (do vốn ít, trình độ công nghệ cũ kỹ, không đồng bộ nên không đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của các khu công nghiệp).
- Việc rà soát đánh giá khả năng cạnh tranh của DNNVV và các yêu cầu, điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng chiến lược sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm nội bộ doanh nghiệp chưa được triển khai.
Chương III: Các định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh
1. Mục tiêu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh.
1.1 Mục tiêu định tính.
Các hoạt động sản xuất kinh doanh dưới các loại hình doanh nghiệp mà luật Doanh nghiệp quy định sẽ ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả bề rộng lẫn bề sâu, trong đó loại hình công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn một thành viên sẽ phát triển nhanh hơn. Bước đầu hình thành mô hình công ty hợp danh, giảm dần doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ ngày càng mang yếu tố quốc tế đậm nét về định hướng sản xuất kinh doanh, về thị trường, về công nghệ và các yếu tố cần thiết khác cho quá trình tái sản xuất mở rộng.
Phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp sẽ ngày càng đa dạng, xét theo cả từng doanh nghiệp, cũng như toàn bộ khu vực doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh sang kinh doanh dịch vụ và sản xuất công nghiệp có hàm lượng vốn và khoa học cao.
Các doanh nghiệp dân doanh phát triển đến quy mô nhất định có thể tổ chức thành lập tổng công ty hoặc tập đoàn. Mô hình tổng công ty sẽ được tổ chức dưới dạng công ty TNHH một thành viên hoặc công ty cổ phần…trong đó mối quan hệ giữa tổng công ty và các doanh nghiệp thành viên phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn điều lệ. Doanh nghiệp trong nước mua lại doanh nghiệp liên doanh cũng là một xu thế tất yếu trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ. Bên cạnh đó sẽ xuất hiện phổ biến các hiện tượng phá sản, giải thể, chia nhỏ, mua bán chuyển nhượng lại các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước nằm trong khối doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ chuyển đổi theo hướng cổ phần hóa, chuyển thành công ty TNHH một thành viên và thành lập những công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con.
Hộ kinh doanh cá thể trong những năm tới sẽ vẫn phát triển bởi mô hình tổ chức đơn giản, thủ tục thành lập nhanh, lao động chủ yếu là lao động gia đình giản đơn
1.2 Mục tiêu cụ thể.
Phấn đấu đến 2008 trên địa bàn tỉnh có 2200 doanh nghiệp, chi nhánh và VPĐD, bình quân tăng 330 DN/năm, tăng 20% so với giai đoạn 2000 - 2005. Thu hút vốn đầu đến 2008 đạt 6.950 tỷ đồng, bình quân 4 tỷ đồng/DN, tăng khoảng 59% so với giai đoạn 2000 - 2005. Đến 2008 số DN có quy mô lớn, trình độ công nghệ cao chiếm 8-10 % tổng số doanh nghiệp đang hoạt động; Tổng số thu nộp ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ước đạt 415 tỷ đồng, chiếm khoảng 19,7% tổng thu ngân sách trên địa bàn.
Đến hết năm 2008 ước tạo ra khoảng 210 ngàn chỗ làm mới và lao động thời vụ cho người lao động, chiếm khoảng 28% tổng nguồn lao động xã hội, trong đó lao động làm việc trong các doanh nghiệp 175 ngàn lao động, chiếm 23%, tăng 5,7 lần so năm 2000, bình quân 01 doanh nghiệp sử dụng khoảng 28- 32 lao động; hộ kinh doanh cá thể 4-6 lao động.
Tiếp tục thực hiện việc chuyển đổi, sắp xếp lại mô hình quản lý phù hợp như công ty cổ phần, mô hình công ty mẹ- công ty con, công ty vệ tinh ... để huy động thêm nguồn lực cho sản xuất kinh doanh; hình thành một hệ thống liên kết từ khâu sản xuất- chế biến- xuất khẩu đối với từng khu vực như CN chế biến thuỷ sản, CN sản xuất vật liệu xây dựng, CN khai khoáng... hướng đến hình thành tập đoàn kinh tế CN đa ngành nghề.
Tập trung đẩy mạnh thực hiện trong năm 2008 định hướng cho doanh nghiệp, doanh nhân hợp tác, liên doanh, liên kết, ưu tiên khuyến khích vào các lĩnh vực sản xuất có lợi thế về nguồn nguyên liệu và lao động như công nghiệp chế biến nông, lâm sản, liên kết phát triển công nghiệp dệt may, công nghiệp khai khoáng, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, vật liệu xây dựng...
Tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất, đào tạo tay nghề kỹ thuật cho công nhân, chon hướng đi phù hợp trong xây dựng chiến lược sản phẩm, tận dụng lợi thế những đơn hàng nhỏ kết hợp đầu tư mặt hàng phục vụ thị trường nội địa để quảng bá, khẳng định thương hiệu.
2. Một số giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, những kết luận và những quan điểm, định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở trên, có thể nêu một số giải pháp chủ yếu sau:
2.1 Hoàn thiện các chính sách, cơ chế hỗ trợ khuyến kích các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển.
Chính sách tài chính- tín dụng:
Giống như mọi doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có vốn để tồn tại và phát triển. Bên cạnh vốn tự có, có hai nguồn vốn hiện nay rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa đó là vốn và tín dụng.
Tình hình phổ biến của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ hiện nay là gặp khó khăn về tài chính, nhất là thiếu vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Việc huy động vốn cho đầu tư phát triển trên thực tế diễn ra chậm và không đáng kể. Để khai thông tài chính, tín dụng cho đầu tư phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cần có những giải pháp ở tầm vĩ mô của nhà nước, của ngân hàng và sự năng động sáng tạo của bản thân doanh nghiệp. Cụ thể:
- Đối với Nhà nước:
Cần thực hiện 2 loại chính sách vốn đó là chính sách vốn chung và chính sách vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sách vốn chung liên quan tới chính sách tài chính tiền tệ, lãi suất hoạt động của các tổ chức tín dụng, các chế tài về tài chính đối với vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán...Còn đối với chính sách cụ thể với các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần nhấn mạnh: Ưu tiên lãi suất cho từng đối tượng, thành lập quỹ hỗ trợ có thể trích từ ngân sách Nhà nước hoặc ngân sách Tỉnh.
Thành lập hệ thống tín dụng từ trung ương đến địa phương có sự hỗ trợ của Nhà nước như: Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa & quỹ tín dụng để doanh nghiệp có khả năng tiếp cận với nguồn vốn với mức lãi suất ưu đãi.
Tạo ra một sân chơi bình đẳng về tín dụng trung và dài hạn cho các doanh nghiệp để tất cả người đi vay tuân thủ những thủ tục giống nhau.
- Đối với bản thân các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cần xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh có khả thi để vay vốn trên cơ sở làm rõ hiệu quả sản xuất kinh doanh hoặc hợp đồng kinh tế ký kết, khả năng và thời gian hoàn vốn, mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp, có phương án bảo toàn vốn vay...
Chính sách đất đai.
Hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có mặt bằng sản xuất rất hạn hẹp, phân tán, khả năng mở rộng sản xuất là rất khó khăn, đôi lúc phải tận dụng cả nhà ở để kinh doanh. Như vậy, Tỉnh phải có các ưu đãi nhất định về đất đai cho các doanh nghiệp có khả năng sản xuất theo đúng hướng của Tỉnh. Phải nghiên cứu hoàn thiện các quy hoạch sử dụng đất, tránh tình trạng đầu tư không đúng quy hoạch...Tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật đất đai.
Có chính sách ưu đãi, miễn giảm giá thuê đất đối với một số ngành, lĩnh vực Tỉnh khuyến kích đầu tư, có cơ chế ưu đãi riêng về giá thuê đất đối với từng khu, cụm công nghiệp và các vùng khác trong Tỉnh để các nhà đầu tư nghiên cứu quyết đinh đầu tư.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, kiểm kê sử dụng đất. Đảm bảo những cam kết về đảm bảo cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện về quỹ đất để hình thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa...
Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đối tượng, đơn giản hóa các thủ tục cấp đất cho các doanh nghiệp thành lập mới hoặc đang hoạt động để họ có điều kiện thế chấp, vay vốn ngân hàng để phát triển SXKD.
Chính sách về đào tạo nguồn nhân lực hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Những vấn đề nổi cộm trong đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ chủ doanh nghiệp trong thời gian qua đã ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thị trường lao động đang mở ra nhiều hình thức và theo hướng công nghiệp hóa đang đòi hỏi nguồn nhân lực phải đào tạo để có trình độ tay nghề chuyên môn cao, đáp ứng các yêu cầu của sản xuất. Song nguồn nhân lực của Tỉnh hiện nay chất lượng còn thấp, cơ cấu trình độ ngành nghề chưa hợp lý, năng lực đào tạo, giảng dạy hạn chế. Do đó sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không kịp thời nâng cao về chất lượng, đổi mới cơ cấu ngành nghề đào tạo, gắn đào tạo với thị trường lao động. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang phải đào tạo nguồn nhân lực cho chính mình. Điều đáng chú ý là hiện nay các sinh viên tốt nghiệp có tay nghề cao, có kỹ năng giỏi thường làm cho các doanh nghiệp lớn. Nguyên nhân là hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ khả năng để đầu tư cũng như không có đủ điều kiện cho nguồn nhân lực nghiên cứu và phát triển chuyên môn theo đòi hỏi công việc.
Do đó trong thời gian tới, việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và đội ngũ chủ doanh nghiệp cần tập trung một số nhiệm vụ sau:
Tạo ra các cơ chế, chính sách thu hút nhân tài, tạo môi trường tốt cho các nhân tài phát triển.
Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo các công nhân có tay nghề cao.
Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa cần phải đa dạng hóa các loại hình đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều phương pháp khác nhau để phù hợp với yêu cầu đa dạng của chủ doanh nghiệp.
Tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý, kỹ thuật giao lưu với nước ngoài để kịp thời nắm bắt được các thông tin, cập nhật thị trường và các đối tác kinh doanh lẫn các đối thủ cạnh tranh.
Tổ chức các lớp học nâng cao tay nghề, mở các trường đào tạo cấp chứng chỉ …
Chính sách trợ giúp phát triển công nghệ.
Sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ và nhu cầu thị trường cũng như các đòi hỏi về trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ lao động đã gây áp lực lớn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có công nghiệp thay đổi nhanh chóng. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì sự chuyển dịch từ lao dông thủ công sang bán thủ công và tự động hóa là xu thế khách quan. Do đó, nhu cầu thay thế và trang bị công nghệ mới cũng như các yêu cầu về quản lý là hết sức cần thiết để doanh nghiệp đối phó và thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng về cong nghệ như hiện nay.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Phú Thọ hiện nay đang gặp khó khăn về đổi mới công nghệ- thiết bị, khó khăn về thông tin như không nắm rõ đối tác, không biết tìm nguồn công nghệ phù hợp và tính cạnh tranh của công nghệ như thế nào, khó khăn về tài chính. Phần lớn các công nghệ và kỹ thuật do các doanh nghiệp nhỏ và vừa tự tìm kiếm, trong khi đó chính sách công nghệ của Phú Thọ mới chỉ dừng ở phương hướng, mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc chuyển giao công nghệ mới chỉ xuất hiện ở bước đầu. Do vậy để tránh lãng phí, rủi ro trong đầu tư công nghệ thì Phú Thọ việc đầu tiên cần xác định là đổi mới công nghệ chỉ khi có thị trường và dựa vào thị trường để đổi mới công nghệ. Phải dự báo được khả năng phát triển của công nghệ, thị trường sản phẩm công nghệ mang lại. Đầu tư đổi mới công nghệ ở những ngành lĩnh vực Phú Thọ có lợi thế như giấy, hóa chất, dệt may, phân bón, chế biến nông sản thực phẩm. Tuy nhiên, nội dung và bước đi trong việc đổi mới công nghệ, thiết bị cần phải có các lộ trình, có các phương án tính toán phù hợp với điều kiện kinh tế và khả năng tiếp cận thị trường của doanh nghiệp. Có thể nêu ra một số giải pháp như:
Chuyển giao công nghệ- thiết bị giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa có cùng ngành sản xuất để tận dụng khả năng nắm bắt công nghệ của các doanh nghiệp lớn đi trước
Cải tiến máy móc thiết bị- công nghệ cũ để tận dụng tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có.
Không nên đổi mới công nghệ- thiết bị ở những khâu mà lao động thủ công có thể đảm nhiệm được và đảm nhiệm tốt để tận dụng lao động dôi dư tại địa phương và cũng giảm chi phí giá thành sản phẩm.
Chú trọng nâng cao trình độ tiếp thu công nghệ và khả năng vận hành máy móc thiết bị cho người lao động, tiết kiệm, giảm giá thành, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Có các chính sách trợ giúp doanh nghiệp đổi mới công nghệ như chính sách về thuế, mặt bằng sản xuất..
Tạo các áp lực và môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. UBND Tỉnh nên tạo ra các áp lực ở mức cần thiết để doanh nghiệp phải nhanh chóng thay đổi công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại bằng cách ra các văn bản quy định thời gian sử dụng công nghệ cho mỗi ngành , loại bỏ các ngành tạo được sự cạnh tranh mới trong những ngành sản xuất có ưu thế của Tỉnh.
Chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cần phải thực hiện chính sách này theo hai nội dung cơ bản là hệ thống thuế chung đã được đổi mới và chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. trong hệ thống thuế chung cần thay đổi theo hướng: Đơn giản hóa thuế suất, cụ thể hóa miễn giảm thuế, tránh đánh thuế chồng chéo…Riêng đối với chính sách thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tỉnh có thể đưa ra các đối tượng ưu đãi, tăng thời gian ưu đãi, miễn giảm thuế đối với doanh nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ sạch, sử dụng nhiều lao động.
2.2 Đổi mới công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Vị trí, vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Tỉnh Phú Thọ đã và đang được khẳng định. Vì vậy đã đến lúc Tỉnh Phú Thọ cần có các biện pháp thiết thực trong quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trên các lĩnh vực sau:
Nhanh chóng tạo lập khung khổ pháp lý rõ rang và chuẩn xác làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ.
Xây dựng định hướng chiến lược phát triển các loại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Phú Thọ trong từng thời kỳ, gắn chặt với quy hoạch tổng thể và phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh, của từng ngành, lĩnh vực và từng vùng kinh tế. Đổi mới quản lý của Nhà nước đối với DNNVV được thể hiện:
Hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước
Tăng cường hiệu lực hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước đối với DN, một mặt vừa phải hoàn thiện tổ chức bộ máy, đảm bảo thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, mặt khác cần từng bước tách dần các chức năng hiện nay đang lẫn lộn giữa quản lý Nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh, chức năng hành chính với dịch vụ công; phân định và làm rõ quy chế pháp lý đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp, nhằm xây dựng nền hành chính lành mạnh, minh bạch và trong sạch.
Đẩy mạnh hoạt động và hoàn thiện các tổ chức phục vụ phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế như: Trung tâm Xúc tiến đầu tư, Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Trung tâm Xúc tiến du lịch, cơ quan dự báo kinh tế.
Bổ sung cán bộ đủ năng lực và trình độ, thạo việc và am hiểu công việc, cũng như có chế tài xử lý cụ thể đối với các hành vi sách nhiễu đối với cán bộ công chức trực tiếp làm việc với các doanh nghiệp.
• Đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ cho phát triển DNNVV:
Việt Nam đã ra nhập WTO, do đó đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của nền hành chính quốc gia nhằm tạo môi trường thể chế thông thoáng hơn và thu hút tốt hơn các nguồn lực nước ngoài phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Đây là thách thức lớn vì nó liên quan tới các vấn đề nhạy cảm của nền kinh tế. Tỉnh Phú Thọ cũng không nằm ngoài quy luật đó vì vậy cần phải thay đổi nhận thức về mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà Nước và các doanh nghiệp. Để thực hiện được cải cách hành chính có hiệu quả Tỉnh Phú Thọ cần:
Thực hiện có hiệu quả mô hình “một cửa" trong các lĩnh vực ĐKKD, xét cấp ưu đãi đầu tư, cấp mã số thuế, mã số hải quan, chứng chỉ quy hoạch, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,...
Rà soát chức năng nhiệm vụ những cơ quan có liên quan đến tiếp xúc, phục vụ DN. Tiếp tục cải tiến và phân cấp quản lý cho các sở, ngành, địa phương.
• Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh - đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Các chủ trương, cơ chế chính sách, giải pháp của thành phố phải đáp ứng yêu cầu: đảm bảo các DN được đối xử bình đẳng trong đầu tư, tín dụng, thuê đất, định giá tài sản, đánh giá tín nhiệm.
Định kỳ tổ chức, đối thoại giữa DN với các cơ quan chức năng theo các chủ đề có vướng mắc. Các cơ chế chính sách của Tỉnh trước khi ban hành cần tham khảo ý kiến của cộng đồng DN thông qua các Hiệp hội, Câu lạc bộ...khi đó ban hành cần phải tổ chức phổ biến rộng rãi và hướng dẫn thi hành đến các cấp, các ngành, các hiệp hội và DN.
Sửa đổi bổ sung các cơ chế chính sách ưu đãi giữa DN trong nước và đầu tư nước ngoài theo hướng: các DN đều bình đẳng và nếu DN đầu tư vào lĩnh vực, ngành nghề, khu vực khuyến khích đều được hưởng quyền lợi như nhau, đảm bảo cho DN được đối xử bình đẳng, cạnh tranh công bằng, lành mạnh.
Cơ quan quản lý nhà nước không can thiệp sâu vào quá trình sản xuất kinh doanh của DN, mọi tranh chấp phát sinh phải được đưa ra trọng tài kinh tế hoặc được toà án kinh tế giải quyết theo luật pháp.
Tăng cường hiệu quả và tính minh bạch đối với các dịch vụ hành chính, giảm chi phí các dịch vụ công ích, thực thi pháp luật công bằng và nghiêm minh trên địa bàn Tỉnh, bãi bỏ các quy định không bình đẳng, hạn chế gây khó khăn cho hoạt động của DNNVV.
Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất kinh doanh.
Tỉnh tiếp tục đầu tư nhiều hơn cho cơ sở hạ tầng trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh như: Đầu tư xây dựng khu - cụm công nghiệp nhỏ, cấp điện, cấp nước cho sản xuất, xử lý nước thải, chất thải trong các khu công nghiệp, kho tàng, bến bãi...ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật, vườn ươm DN, khu công nghệ cao, trong đó chú trọng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học...
Khuyến khích DNNVV đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (theo hình thức BOT) nhằm chuyển dịch đẩy mạnh cơ cấu vốn đầu tư của DNNVV khối dân doanh.
Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ dịch vụ phát triển doanh nghiệp.
Trong định hướng phát triển kinh tế xã hội và xây dựng các chính sách cụ thể để thúc đẩy DNNVV phát triển tập trung giải quyết 3 vấn đề sau:
Tạo ra lợi thế cạnh tranh bằng các chính sách toàn diện, xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ cho các ngành, các DN sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Tiến hành đánh giá lại năng lực sản xuất công nghiệp, dịch vụ của các DN để có định hướng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ hỗ trợ, xây dựng các mối liên kết ngành có hiệu quả, tận dụng tối đa năng lực hợp tác với các doanh nghiệp FDI, DN lớn ngay từ khâu thiết lập dự án cơ hội, kêu gọi đầu tư, không những chỉ rõ địa điểm dự kiến đầu tư, những ưu đãi cụ thể, mà còn tính đến công nghiệp hỗ trợ của Phú Thọ có thể đáp ứng được những yêu cầu cụ thể cho dự án.
Xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của DNNVV, tập trung vào một số vấn đề:
+ Về phía DN cần xác định rő chiến lược thương hiệu của DN để có sự đầu tư thích đáng.
+ Nhà nước hỗ trợ DN bằng cách tổ chức các đơn vị tư vấn miễn phí hoặc thu một phần phí nhỏ để giúp DN tiếp cận vấn đề thương hiệu với một chiến lược tổng thể, xây dựng kế hoạch và có đầu tư thích đáng để xây dựng thương hiệu riêng cho Tỉnh cũng như kế hoạch và lộ trình cụ thể của các DNNVV tham gia chương trình thương hiệu quốc gia.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế phát triển DNNVV.
Tỉnh có cơ chế hợp tác với Trung tâm hỗ trợ DNNVV của các bộ, ngành trung ương để các DNNVV được tiếp nhận hỗ trợ tư vấn về thị trường, tài chính, công nghệ và kỹ thuật, cải tiến trang thiết bị, hướng dẫn quản lý kỹ thuật và bảo dưỡng trang thiết bị, tiếp cận công nghệ mới và bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý cho các DN.
Xây dựng các chính sách ưu đãi để tuyên truyền, vận động người Việt Nam định cư ở nước ngoài có tài lực về hợp tác đầu tư với DNNVV Phú Thọ
Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để DNNVV liên doanh liên kết đầu tư với các DN nước ngoài.
Hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện cho các DNNVV đặt chi nhánh văn phòng đại diện ở nước ngoài hoặc đầu tư ra nước ngoài.
Kêu gọi các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ để thành lập Quỹ tín dụng, Bảo lãnh tín dụng, Hỗ trợ hoạt động của Hiệp hội phát triển DNNVV Tỉnh.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Phát triển mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nhỏ. Mối liên kết này là một yếu tố khách quan xuất phát từ sự phân công lao động xã hội. Quá trình chuyên môn hóa ngày càng phát triển, càng đòi hỏi sự hợp tác lien kết kinh tế. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp cũng chính là hình thức tổ chức SXKD nhằm khai thác sức mạnh của các thành phần kinh tế. Kinh nghiệm ở nhiều nơi cho thấy, nhờ sự liên kết giữa các loại doanh nghiệp mà hình thành cơ cấu kinh tế nhiều tầng, thực hiện phân công lao động có hiệu quả. Chẳng hạn tầng một là các ngành công nghệ cao, giải quyết các vấn đề kỹ thuật phức tạp và tầng 2 là các công nghiệp vệ tinh và tiểu thủ công nghiệp thực hiện gia công chế biến, cung cấp và tìm kiếm nguyên liệu sản xuất theo đơn đặt hàng. Sự liên kết này giúp cho cả 2 loại doanh nghiệp có điều kiện giải quyết những khó khăn về thị trường, kỹ thuật trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Phú Thọ có lợi thế là một Tỉnh có công nghiệp phát triển sớm ở Việt Nam, hiện nay trên địa bàn Tỉnh có các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước trung ương và một số doanh nghiệp cổ phần như: Giấy Bãi Bằng, Phân bón SUPER hóa chất Lâm Thao, Xi măng Hữu Nghị…Do yêu cầu kỹ thuật và hạn chế về vốn, lao động có tay nghề nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay chỉ cần đảm nhận những khâu sản xuất phụ, đảm nhận nguyên liệu đầu vào…giúp các doanh nghiệp lớn tập trung vào sản xuất, nhiệm vụ trọng tâm có hiệu quả hơn. Trên thực tế, trên địa bàn Tỉnh đã xuất hiện một số quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ khá hiệu quả. Tuy nhiên so với tiềm năng, mối quan hệ này còn rất hạn chế. Nguyên nhân là do nhiều doanh nghiệp lớn vẫn phải tiếp nhận khá lớn nguyên liệu đầu vào, bao bì đựng sản phẩm…của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nơi khác mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn có khả năng cung cấp cho các doanh nghiệp lớn này. Chính vì vậy cần thúc đẩy mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn. Tỉnh cần có các chính sách, cơ chế, biện pháp khai thông mối quan hệ này, trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc về quản lý kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường
Cơ chế chính sách tác động hỗ trợ các thành phần kinh tế.
Cải cách DNNN là một yêu cầu tất yếu khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tỉnh đẩy nhanh tiến độ sắp xếp DNNN, đặc biệt là cổ phần hoá DNNN. Khi sắp xếp DNNN, mạnh dạn chuyển đổi hình thức sở hữu, tạo tâm lý yên tâm cho người có vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Có các biện pháp kích lệ các phong trào để người dân mạnh dạn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, không cất trữ, không đầu tư vào đất đai nhà cửa. Có các chính sách khuyến kích phát triển các loại hình HTX, DN tư nhân, CT.THHH, CTCP…
Xây dựng cơ chế, chính sách về hợp tác khởi xướng từ cơ quan quản lý Nhà nước nhằm giúp các DN trên địa bàn cùng phân chia thứ hạng, lợi thế đầu tư, không trùng lắp công nghệ,... hợp tác để nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và quốc tế. Tỉnh tạo thuận lợi cho DN mở rộng hợp tác đầu tư ra các tỉnh, thành phố khác nhằm khẳng định vai trò của Tỉnh. Cùng với cơ chế hợp tác phân công, cần có cơ chế ưu đãi các DN cùng hợp tác chung lo xúc tiến thương mại. Hình thành một tổ chức hỗ trợ và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; tiến hành điều tra khảo sát nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện phụ trợ của những mặt hàng chủ lực của Tỉnh để có chính sách, giải pháp phát triển cụ thể.
Tăng cường và đẩy mạnh hoạt động cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh.
Củng cố hoạt động của các hiệp hội đã có như: Hội doanh nghiệp trẻ, Hội làm vườn, Câu lạc bộ xuất khẩu, Hiệp hội ngành gỗ, du lịch,... cần hỗ trợ thành lập các Hiệp hội ngành nghề khác như: Hiệp hội ngành may mặc, đặc biệt cần triển khai vận động thành lập Hiệp hội DNNVV Tỉnh.
Kết Luận
Doanh nghiệp nhỏ và vừa Phú Thọ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng và có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh (đóng góp bình quân khoảng 30% tổng GDP và khoảng 8,2% tổng giá trị xuất khẩu trên địa bàn Tỉnh)
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư thích đáng, Doanh nghiệp nhỏ và vừa Phú Thọ đã đạt được những thành quả quan trọng, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp không ngừng gia tăng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý nên chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của Tỉnh. Trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì công nghệ sản xuất vẫn còn thô sơ, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ quản lý và trình độ tay nghề của các lao động trong các doanh nghiệp còn hạn chế. Sản phẩm hàng hóa còn kém chưa đáp ứng được yêu cầu, khả năng cạnh tranh kém…Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp còn thiếu và chưa đạt hiệu quả.
Trên cơ sở phân tích và đánh giá những tồn tại yếu kém của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh, cùng với việc đề xuất một số giải pháp cơ bản hy vọng phần nào có thể khắc phục một phần những hạn chế, đảm bảo doanh nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh phát triển trở thành một trong những Tỉnh có nền công nghiệp hiện đại với các doanh nghiệp lớn mạnh.
Tài liệu tham khảo
Vai trò của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phát triển kinh tế Nhật Bản- khả năng hợp tác với Việt Nam. Tg. Lê Văn Sang.
Quản lý điều hành doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tg. Quốc Cường
Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam- 1999 (Dự án MPI-UNIDO)
Quy hoạch tổng thể kinh tế- xã hội Tỉnh Phú Thọ Thời kỳ 2005-2020.
Niên giám thống kê Tỉnh các năm 2005-2007
Các tạp chí kinh tế và phát triển
Các báo cáo doanh nghiệp hàng năm của Tỉnh Phú Thọ ở cục thống kê, Chi cục thuế Tỉnh, Sở Kế Hoạch và đầu tư Tỉnh Phú Thọ
Số liệu từ các trang
www.phutho.gov.vn/ (UBND Tỉnh Phú Thọ)
WWW.moi.org.vn
www.business.com.vn
Danh mục chữ viết tắt:
DNNVV: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
DN: Doanh nghiệp
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
CTTHHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
UBND: Ủy ban Nhân Dân Tỉnh
CNH-HĐH: Công nghiệp hóa hiện đại hóa
HTX: Hợp tác xã
CTCP: Công ty cổ phần.
ĐKKD: Đăng ký kinh doanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.DOC