Ngành chè có một vị trí và tiềm năng to lớn trong chiến lược phát triể n
kinh tế – xã hội của nước ta. Trong nhiều năm tới, ngành sẽ được phát triển để
trở thành một mũi nhọn kinh tế có tầm quan trọng của đất nước. Thực tế
những năm qua cho thấy, mặc dù còn nhiều hạn chế và vướng mắc nhưng
ngành chè đã có những bước phát triển đáng kể, góp phần không nhỏ vào các
mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Tuy nhiên những kết quả đó
còn chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của nó do ngành chè còn nhiều khó
khăn, cả về chủ quan lẫn khách quan như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, tình
trạng cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, trình độ cán bộ còn thấp, cơ chế quả n
lý, chính sách quản lý còn nhiều vướng mắc v.v. Để tháo gỡ những khó khă n
trên, hoàn thành được các mục tiêu phát triển bức thiết mà ngành chè đã đề ra,
việc hoàn thiện quản lý ngành chè có tầm quan trọng đặc biệt.
112 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2584 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quản lý ngành chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một thế mạnh. Dưới đây là mô hình cơ cấu tổ
chức ngành chè của Kênya mà các nước sản xuất chè trên thế giới có thể tham
khảo và áp dụng: (xem hình 1.3).[1]
Hình 3.1: Cơ cấu tổ chức ngành chè Kênya
Nguồn:[1]
Hội đồng chè Kênya: Hội đồng chè Kênya là tổ chức chuyên ngành cao
nhất của Kênya được thành lập năm 1950 với chức năng điều tiết hài hoà lợi
ích của tất cả các thành phần tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh chè
tại Kênya. Nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan này là:
BỘ NÔNG NGHIỆP KÊNYA
Hội đồng chè Kênya
(The tea board of Kenya)
Uỷ ban phát triển
chè Kênya
(KTDA)
Hiệp hội các
nhà trồng chè
Kênya (KTGA)
Hiệp hội
thương mại
chè Đông Phi
Viện nghiên
cứu chè Kênya
Thị trường đấu giá chè Mombasa
11 công ty môi giới
Các công ty kho
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
80
Cấp phép cho các chủ nông trại và hộ nông dân trồng chè.
Cấp giấy phép cho các nhà máy.
Điều tiết, quản lý phát triển nông nghiệp và công nghiệp.
Xúc tiến thương mại chè Kênya.
Tiến hành các công trình nghiên cứu thông qua viện nghiên cứu chè.
Tư vấn cho Chính phủ trong công tác phát triển chè.
Một nét khác biệt ở đây là vai trò của Bộ nông nghiệp chủ yếu là quán
xuyến chung toàn ngành nông nghiệp và ra chính sách. Vai trò của các chính
quyền địa phương chỉ thuần tuý quản lý hành chính, không tham gia vào lĩnh
vực phát triển, sản xuất, kinh doanh chè. Các hộ nông dân, các chủ nông trại
khi trồng chè phải được cấp giấy phép và được đăng ký kinh doanh tại nhà
máy chè gần nhất. Nếu trồng không có giấy phép sẽ bị phạt (đối với các chủ
trang trại) và sẽ không bán được cho ai (với các hộ nông dân). Do vậy, toàn
bộ quá trình phát triển, mở rộng, diện tích, tăng công suất chế biến, cải thiện
chất lượng toàn ngành được tính toán và quản lý rất chặt, không gây ra hiện
tượng trồng ồ ạt, vô tổ chức. Hội đồng có vai trò như người “nhạc trưởng của
một dàn nhạc”. Vai trò điều tiết giữa nông nghiệp và công nghiệp do Hội
đồng điều hành rất hài hoà, không gây ra hiện tượng cạnh tranh nguyên liệu
giữa các nhà mày, giữa vùng này với vùng kia vì Hội đồng không cho phép
xây dựng nhà máy nếu nhà máy đó không có vùng nguyên liệu đủ đáp ứng
công suất chế biến.
Uỷ ban chè Kênya (KTDA): KTDA được thành lập năm 1964 với
mục tiêu phát triển diện tích chè thông qua các hộ gia đình nông dân. Hiện
nay KTDA quản lý 354.289 hộ gia đình trồng chè. Các hộ này đều phải
đăng ký với KTDA.
Với 45 nhà máy hoạt động trên tổng diện tích chè là 90.000 ha, KTDA
là công ty chè lớn nhất thế giới. Năm 2000, KTDA đã được tư nhân hoá. Các
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
81
nhà máy được bán cho các hộ nông dân với giá ưu đãi và trở thành các công
ty cổ phần dưới một tổ chức chung là KTDA để tạo sức mạnh tổng hợp (Nhà
nước không giữ cổ phần và không bán cổ phiếu ra ngoài các hộ nông dân).
Giám đốc nhà máy được các hộ nông dân thuê hàng năm. Nhà máy trả tiền
búp tươi do các hộ nông dân giao khoản 1.700 đồng/kg (một tôm 2 lá). Chất
lượng búp rất cao do các hộ nông dân có tinh thần trách nhiệm và nếu nhà
máy không nhập búp do chất lượng kém thì không thể bán được cho ai. Trung
bình 1500ha chè thì KTDA xây dựng một nhà máy. Vận chuyển chè búp tươi
do Công ty đảm nhận bằng xe tải chuyên dụng. Chất lượng chè của KTDA
hiện nay có thể nói là tốt nhất thế giới, vượt chất lượng của các nông trường
chè tư nhân như Jame Finlay, Brook Bond. Cuối năm, giám đốc công ty công
bố tình hình tài chính của công ty với các cổ đông và chia lãi theo số lượng
búp tươi do các hộ giao. Nếu tính cả lãi được chia sau khi đã trừ đi các quỹ
của công ty thì giá bình quân một kg búp tươi khoảng 5.000 VNĐ. Do KTDA
chỉ mua chè của các hộ nông dân là cổ đông và quản lý được chương trình
trồng mới nên không gây ra hiện tượng tranh mua, tranh bán, dư thừa hoặc
thiếu nguyên liệu chế biến.
Hiệp hội các nhà trồng chè Kênya (KTGA): Có thể nói KTDA là tổ
chức của các hộ nông dân thì KTGA là tổ chức của các Công ty chè tư nhân
có diện tích chè từ 10ha trở lên. Tuy nhiên, thành viên chủ yếu là các công ty
chè lớn như Lipton, Broke Bond, Jame Finlay, Gorge Williamson. Các công
ty đều có vườn chè và nhà máy riêng. Công nhân được thuê canh tác, thu hái.
Công ty cung cấp các dịch vụ cơ bản như nhà ở, nước cho công nhân... Do
các công ty lớn đều được thành lập khoảng 30 – 40 năm nay, do vậy chí phí
giá thành trên 1 kg sản phẩm của các công ty rất thấp. Cơ sở hạ tầng, đường
sá, cầu cống trong các nông trường tư nhân rất tốt.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
82
Hiệp hội thƣơng mại chè Đông Phi (EATTA): Đây là Hiệp hội cả các
nhà chế biến chè, các nhà môi giới, các công ty thương mại chè ở 9 nước
Đông Phi có sản xuất chè. Chức năng chính của Hiệp hội là điều hành Trung
tâm đấu giá chè Mombasa, khoảng 85% chè của toàn vùng Đông phi được bán
qua trung tâm đấu giá. Về cơ bản, Hiệp hội chè Đông Phi chỉ là người đứng ra
tổ chức Trung tâm đấu giá Mombasa, việc hoạt động và điều hành của Trung
tâm hoàn toàn do các công ty môi giới đảm nhiệm. Hiện nay có 11 công ty môi
giới hoạt động tại thị trường Mombasa do Hiệp hội chè Đông phi cấp giấy
phép. Điều này có nghĩa là 11 công ty môi giới tiêu thụ toàn bộ gần 500 ngàn
tấn chè của Đông Phi. Các công ty môi giới đều là các công ty rất kinh nghiệm,
hoạt động trên phạm vi toàn cầu. Trên thế giới số lượng các công ty môi giới
không nhiều vì ngành này đòi hỏi chuyên môn cao, có vốn lớn, phải có uy tín
và giữa các công ty môi giới có sự cạnh tranh cao...
Từ mô hình tổ chức ngành chè của Kênya như trên, ta có thể thấy đây
là một ngành có tính chuyên môn hoá cao và rất hiệu quả ở Kênya. Các doanh
nghiệp chè Kênya từ sản xuất đến nhà kho, hoặc nhà môi giới đều có vị trí
riêng và có sự phối hợp rất chặt chẽ.
2. Các chính sách tác động đến phát triển ngành chè
2.1. Các chính sách tác động trực tiếp
Chính sách đất đai:
Mục tiêu của chính sách đất đai nhằm tạo nên sự công bằng giữa những
người sản xuất nông nghiệp, quản lý tốt đất nông nghiệp và trong dài hạn tập
trung đất nông nghiệp về tay những người sản xuất giỏi để làm ra ngày càng
nhiều sản phẩm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp. [1]
Thành công về chính sách cải cách ruộng đất ở Trung Quốc đã duy trì
mức phát triển ngành chè ở mức cao và ổn định trong nhiều năm. Trong khi
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
83
đó, một số nước chưa đạt mục tiêu cải cách ruộng đất như Ấn Độ thì gặp một
số khó khăn trong phát triển sản xuất chè.
Ở Trung Quốc, chính sách đất đai thể hiện trong Luật đất đai ban hành
năm 1987 và Luật quản lý Nhà đất thành thị ban hành năm 1999. Văn kiện số 1
(năm 1984) quy định: “Kéo dài thời gian giao khoán để khuyến khích người nông
dân tăng đầu tư, bồi bổ sức đất, thực hiện thâm canh”. Chính sách này tạo cho
người làm chè Trung Quốc tâm lý an tâm sản xuất và tăng cường đầu tư.
Chính sách hỗ trợ đầu vào cho sản xuất:
Mục tiêu của chính sách hỗ trợ đầu vào cho sản xuất là tăng cường sức
sản xuất cho nông nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng, giúp người sản
xuất chè tiếp cận tốt với các yếu tố sản xuất mới để phát huy tiềm năng sản
xuất vốn có của mình. Lý do của việc đưa ra chính sách này là do sự non yếu
khá toàn diện của các cơ sở sản xuất chè (về kỹ thuật sản xuất, khả năng tài
chính và tổ chức huy động nguồn nhân lực).[1]
- Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng hướng vào việc huy động tối đa các nguồn vốn,
thoả mãn nhu cầu về vốn đối với những người sản xuất kinh doanh và nâng
cao hiệu quả kinh tế trong sử dụng vốn.
Chính sách tín dụng bao gồm chính sách huy động vốn; chính sách cho
vay dài hạn, ngắn hạn và trung hạn; chính sách quy định về cho vay thế chấp,
tín chấp, ưu đãi; chính sách kiểm soát các tổ chức tín dụng chính thống và
không chính thống...
Ở Trung Quốc, toàn bộ tín dụng cho nông nghiệp nông thôn được đáp
ứng thông qua các hợp tác xã nông nghiệp. Hoạt động tín dụng của Chính phủ
thông qua các tổ hợp tài chính nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản và các
chương trình cho vay đối với nông nghiệp của Chính phủ. Những việc này
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
84
giúp người dân trồng chè Trung Quốc giải quyết được phần lớn khó khăn về
vốn trong sản xuất và đầu tư cho chè.
- Chính sách khuyến nông:
Chính sách khuyến nông trong ngành chè hướng vào mục tiêu truyền
bá kiến thức cho nông dân trồng chè tại địa bàn sản xuất của họ để họ tự ra
các quyết định mà không cần đào tạo chính quy tập trung. Các hình thức
khuyến nông có thể là: a) phổ biến kiến thức thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng như sách, báo, đài, ti vi...;b) tập huấn cho nông dân tại cơ sở sản
xuất của họ (theo kiểu “cầm tay chỉ việc”); c) hội thảo, triển lãm, tham quan;
d) xây dựng mô hình trình diễn...
Chính sách khuyến nông đặc biệt được quan tâm ở các nước đang phát
triển với mô hình V&T (Visit & Training), tăng cường đào tạo và hoạt động
của đội ngũ cán bộ khuyến nông cơ sở. Điều này Srilanca thực hiện khá tốt
trong ngành chè của mình.
- Chính sách cung ứng vật tư kỹ thuật nông nghiệp
Chính sách cung ứng vật tư kỹ thuật nông nghiệp nhằm tăng cường khả
năng tiếp cận của người sản xuất nông nghiệp với các loại vật tư kỹ thuật mới,
từ đó sẽ áp dụng tốt hơn các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, góp phần nâng
cao năng suất sản phẩm nông nghiệp.
Ở Trung Quốc, Chính phủ đã tăng cường ổn định giá đối với các yếu
tố đầu vào của sản xuất nông nghiệp. Mạng lưới cung ứng phân đạm hoá học
đặc biệt phát huy có hiệu quả ở Inđônêxia. Tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rất
bài bản ở Srilanca thông qua hợp đồng giữa hợp tác xã và nông dân...
Chính sách tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp:
Mục đích của chính sách này là tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu thụ, bảo
đảm cho sản phẩm nông nghiệp cũng như nguyên liệu chè được tiêu thụ
nhanh chóng, vừa thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng và nhà chế biến, vừa
giảm hao hụt, tránh thất thoát.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
85
Hợp phần của chính sách tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp bao gồm a)
Chính sách tạo lập và mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản và b) chính sách
trợ giá sản phẩm nông nghiệp:
- Chính sách tạo lập và mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản
Để mở rộng thị trường cần tăng lượng cầu của các thị trường, làm tăng
sức mua của dân chúng... Sự chiếm lĩnh thị trường, tạo lập thị trường ổn định
với hệ thống sản phẩm cao cấp là lợi thế trong tiêu thụ sản phẩm của các nước
phát triển. Tại các nước này, các cơ sở vật chất cho bảo quản và chế biến sản
phẩm rất hiện đại, hệ thống chợ bán buôn, bán lẻ đã được hùnh thành ổn định.
Trong khi đó, việc tiêu thụ sản phẩm ở các nước đang phát triển gặp nhiều
khó khăn, hiện tượng dư cung cục bộ thường xuyên xảy ra. Chợ nông thôn
với khối lượng tiêu thụ nhỏ không thể đáp ứng yêu cầu tiêu thụ sản phẩm và
chất lượng sản phẩm thấp, không đồng đều là một trở ngại lớn, nhất là đối với
sản phẩm xuất khẩu. Trong bối cảnh kinh tế hội nhập sức cạnh tranh non yếu
đang là một thách thức lớn đối với tiêu thụ nông sản phẩm của các nước đang
phát triển cũng như nguyên liệu chè ở một vài nước sản xuất chè.
- Chính sách trợ giá sản phẩm nông nghiệp
Tại các nước phát triển với tiềm lực kinh tế to lớn, Chính phủ thường
trợ giá bán nông sản nên giá nông sản thường cao, thu nhập của nông dân
được đảm bảo, trong khi đó giá nông sản ở các nước đang phát triển thường
rất thấp, đặc biệt khi được mùa, làm cho đời sống nông dân gặp nhiều khó
khăn trong mọi hoàn cảnh. Ở Trung Quốc, Chính phủ đã thực hiện chính sách
“giá sàn” để tăng giá sản phẩm và tăng lượng hàng tiêu thụ.
Chính sách phát triển kinh tế trang trại:
Kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển triển trên thế giới hơn 2
thế kỷ nay và giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
86
Các chính phủ đều khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, đặc biệt là
trang trại gia đình, nhằm tổ chức áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất
và giải quyết tốt việc chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Trong thời gian gần đây, số lượng trang trại của Inđônêxia tăng lên
nhanh chóng (năm 1963 có 12.273 nghìn trang trại, năm 1983 tăng lên 18.560
nghìn trang trại (2,1%/năm). Riêng đối với ngành chè, số lượng trang trại năm
1963 là 783 nghìn, năm 1983 là 1120 nghìn (2,2 %/năm).
2.2. Các chính sách tác động gián tiếp
Chính sách đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng:
Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng góp phần tạo điều kiện thuận
lợi cho sản xuất nông nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng (chống tác hại
của thiên tai, giảm nhẹ cường độ và tăng năng suất lao động nông nghiệp).
Mục tiêu quan trọng của chính sách này là tạo nên cơ sở vật chất vững
mạnh trong nông nghiệp cũng như trong ngành chè như thuỷ lợi, giao thông,
chế biến, bảo quản và tiêu thụ nông sản phẩm.
Các nước phát triển thường có đầu tư rất lớn về cơ sở hạ tầng, đô thị
hoá nông thôn và mọi khâu (sản xuất, chế biến, tiêu thụ) đều có đầu tư lớn.
Trung Quốc với sự khá hoàn thiện về hệ thống tưới tiêu là minh chứng về sự
đầu tư lớn cho nông nghiệp, ngành chè. ở các nước đang phát triển, cơ sở hạ
tầng còn yếu kém, thiên tai chậm được khắc phục...[1]
Chính sách khuyến khích xuất khẩu nông sản:
Mục tiêu của chính sách này là khuyến khích và nâng đỡ xuất khẩu
nông sản, nhất là những sản phẩm có lợi thế so sánh. Đặc biệt với sản phẩm
chè, từ việc tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu, thu nhập của các doanh
nghiệp, những người sản xuất sẽ được tăng thêm.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
87
Chính phủ Inđônêxia quy định công nghiệp nông thôn phải kết hợp
với nông nghiệp nhằm tạo việc làm, tăng lương thực, tăng thu nhập và tăng
sản phẩm xuất khẩu. Chương trình giảm thuế cho phép các công ty sản xuất
hàng hoá xuất khẩu được trực tiếp nhận nguồn nguyên liệu rẻ nhất mà
không phải nộp bất cứ một loại thuế nào và được hoạt động trong điều kiện
như trong một khu chế xuất.
Chính phủ Trung Quốc có chính sách quản lý xuất nhập khẩu rất chặt
chẽ, hạ thấp thuế xuất khẩu, đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu, kể cả hình
thức xuất khẩu phi mậu dịch.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NGÀNH
CHÈ VIỆT NAM
1. Về phía Nhà nƣớc
1.1. Hoàn thiện bộ máy quản lý Nhà nƣớc trong việc quản lý ngành chè
Nghĩa vụ, quyền hạn quản lý Nhà nước của các cấp đối với ngành chè
cần được phân định rõ ràng, hợp lý thông qua các văn bản pháp luật. Điều này
giúp tránh được tình trạng chồng chéo, không rõ ràng trong việc quản lý
ngành chè trong cả nước, đồng thời giúp cho Bộ chuyên ngành có thể bao
quát được hết việc quản lý Nhà nước đối với ngành chè. Bên cạnh việc phân
chia quyền hạn, nghĩa vụ cho các cấp quản lý đối với ngành, bản thân bộ máy
quản lý của các bộ phận này cũng cần phải được tinh giản hợp lý.
Trong tương lai nên thành lập ban tư vấn phát triển chè Việt Nam. Ban
có nhiệm vụ nghiên cứu và tư vấn cho Chính phủ, cho các Bộ, Ngành, cho Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thu hút và sử dụng nguồn vốn tài trợ, đầu tư của nước
ngoài, xúc tiến thương mại, hợp tác quốc tế, mở rộng thị trường tiêu thụ, tìm
kiếm bạn hạng, thực hiện các phương thức buôn bán hiện đại (sàn giao dịch,
siêu thị, cửa hàng tự chọn qua mạng...), chống bán phá giá, chốn trốn thuế
nhập khẩu, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, giám sát chất
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
88
lượng... Chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng tiểu ban được phân công dựa
trên quy trình: Nghiên cứu, ứng dụng (giống, công nghệ, thâm canh, sản
xuất, chế biến) – Sản xuất nông công nghiệp – Bảo quản – Xúc tiến thương
mại – Tiêu thụ (nội địa và xuất khẩu) – Chính sách tác động. Như vậy, Ban
tư vấn cũng sẽ có chức năng của một tổ chức quản lý, giúp ngành chè hoàn
thiện hơn trong tương lai.
Thành lập ngay một tổ chức quản lý và hệ thống kiểm tra, giám sát chất
lượng do Hiệp hội Chè Việt Nam đề xuất từ Trung ương đến địa phương, có
đủ thẩm quyền thay mặt nhà sản xuất, chịu trách nhiệm cuối cùng về chất
lượng sản phẩm đối với người tiêu dùng. Chức năng chủ yếu của nó là đóng
dấu chất lượng trước khi sản phẩm được đưa vào thị trường. Đồng thời, được
phép thực hiện những chế tài nhằm đình chỉ, ngăn ngừa, chấm dứt các hiện
tượng, hành vi làm thương tổn đến chất lượng và uy tín sản phẩm chè ở trong
và ngoài nước, với sự đồng thuận và hỗ trợ đắc lực của các cơ quan bảo vệ
pháp luật và quản lý thị trường.
1.2. Hoàn thiện công cụ quản lý Nhà nƣớc đối với ngành chè
1.2.1. Khung pháp lý
Việc nhà Nước bảo đảm ổn định về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, duy
trì luật pháp, trật tự an toàn xã hội, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khống
chế lạm phát, điều tiết thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, hệ
thống tài chính tiền tệ, hệ thống pháp chế cơ sở hạ tầng văn hoá - xã hội.... đã
tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất của toàn bộ nền
kinh tế nói chung cũng như của ngành chè nói riêng.
1.2.2. Chính sách tín dụng, đầu tƣ
Nhà nước cần ban hành chính sách bảo hộ sản xuất cây chè, ưu tiên
vốn đầu tư dài hạn lãi suất thấp cho các hộ nông dân và ông trường trồng chè;
Nhà nước tiến hành cho dân vay không lãi, dưới dạng tín chấp để tái sản xuất
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
89
sức lao động trong chương trình đổi mới giống chè và vườn chè trong giai
đoạn 2005 – 2010. Khi vườn chè đã hình thành, người dân được sử dụng như
một tài sản thế chấp để vay vốn đầu tư thâm canh.
1.2.3. Chính sách thuế
Hiện nay chính sách thuế đã có nhiều cải tiến đáng kể, như việc kéo dài
thời gian sử dụng đất nông nghiệp, miễn thuế giá trị gia tăng cho các sản phẩm
nông sản, thực phẩm khi xuất khẩu hàng đã qua chế biến, mức thuế giảm đáng
kể tạo ra sự khuyến khích tích cực với những người sản xuất các mặt hàng
nông sản thực phẩm nói chung và người làm chè nói riêng.
1.2.4. Chính sách đất đai và mặt bằng sản xuất
Đối với chè cũng như các nông sản thực phẩm khác, đất đai là tư liệu
sản xuất cơ bản không thể thay thế được. Do đó Nhà nước phải hoàn thiện
hơn nữa chính sách đất đai và mặt bằng sản xuất.
Việc giao khoán vườn chè lâu dài cho người lao động đang làm như
hiện nay là không thích hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của cây chè. Chè
là loại cây công nghiệp dài ngày, đã sản xuất công nghiệp thì phải có vùng
chè tập trung, quy mô lớn để có thể tạo ra khối lượng hàng hoá lớn, chất
lượng đồng đều, đồng thời cho phép áp dụng đồng bộ các quy trình kỹ thuật
chăm sóc, cải tạo giống mới có năng suất cao, ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, thực hiện sự nghiệp Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn như chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Như
vậy, mô hình mỗi hộ sản xuất có vài nghìn mét vuông vườn chè được giao
khoán trở nên không thích hợp trong nền kinh tế thị trường. Mô hình thích
hợp phải là sản xuất tập trung kiểu trang trại hoặc đồn điền có quy mô lớn, tối
thiểu phải là 300ha chè có mật độ đông đặc trở lên.
Như vậy, các giải pháp về đất đai thời gian tới đối với ngành chè là:
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
90
1. Tập trung lại vùng nguyên liệu của nông lâm trường trước đây, bằng
cách thu hồi lại vườn chè đã giao khoán, thực hiện chế độ người lao động
nông nghiệp là công nhân của đồn điền.
2. Với vùng chè dân, tổ chức lại theo hình thức hợp tác xã kiểu mới hoặc
mô hình công ty cổ phần.
1.3. Các giải pháp khác về phía Nhà nƣớc
Đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới phương thức kinh doanh là một vấn đề
phức tạp, ngành chè lại chưa có nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, phải vừa làm, vừa
rút kinh nghiệm để hoàn thiện dần. Trong quá trình đó, ngành chè luôn luôn
phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng. Bởi sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố cơ
bản cho sự nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh của ngành theo đúng đường
lối, chính sách, pháp luật của nhà nước theo định hướng XHCN. Do đó, cần
tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các Đảng bộ cho sự phát triển toàn diện
của ngành chè, nhất là công tác tổ chức lại sản xuất và đổi mới quản lý.
Giao cho Hiệp hội chè Việt Nam phối hợp với các Bộ làm lại quy
hoạch ngành chè trong cả nước.
Có chủ trương đặc cách để có thể hỗ trợ một phần vốn ban đầu hình
thành quỹ bảo hiểm xuất khẩu chè: để đảm bảo cho sản xuất ổn định và bền
vững, phải thiết lập và đưa vào hoạt động quỹ bảo hiểm xuất khẩu chè. Các
thành viên tham gia đóng góp và có sự hỗ trợ của Chính phủ, các tổ chức, cá
nhân trong và ngoại nước để góp phần hạn chế, đỡ đần các rủi ro, giữ được
giá ổn định, đảm bảo được sản xuất và đời sống người làm chè.
Hỗ trợ về thông tin, dự báo: Cây chè cũng như các nông sản thực phẩm
khác, là loại nông sản phát triển theo quy luật riêng và chịu ảnh hưởng của
những yếu tố tự nhiên như thời tiết, khí hậu, đất đai... những yếu tố này có tác
động mạnh mẽ đến sản lượng thu hoạch cũng như chất lượng và giá cả đặc
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
91
biệt là khi xuất khẩu. Do vậy yêu cầu là phải có công tác dự báo tốt, càng dự
báo tốt càng tránh được rủi ro.
Nhà nước cần đầu tư đủ cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm cho
các vùng chè, có chế độ ưu tiên phát triển trong hiện tại và tương lai. Cơ sở hạ
tầng được đầu tư đầy đủ, đồng bộ còn tạo cơ sở thu hút khuyến khích đầu tư
nước ngoài vào ngành chè.
Hỗ trợ xúc tiến thương mại: tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tham
gia các hội thảo, hội chợ ở nước ngoài, hỗ trợ tổ chức các buổi hội chợ, hội
thảo, hội nghị trong nước, đầu tư cho Hiệp hội chè Việt Nam cơ sở vật chất ban
đầu để thành lập 1 sàn giao dịch chè, tiến tới có thể là Trung tâm đấu giá chè…
Ban hành và điều chỉnh các chính sách vĩ mô nhằm làm cho các mô hình
đơn vị sản xuất và kinh doanh mới trong Tổng công ty chè Việt Nam – trong
tương lai hoạt động theo mô hình công ty mẹ, công ty con - hoạt động hiệu quả.
Tiến hành kiểm tra, rà soát toàn bộ các vùng nguyên liệu chè; toàn bộ
hệ thống các cơ sở chế biến về tiêu chuẩn chất lượng. Thực hiện nghiêm
chỉnh Quyết định 4747/QĐ - BNN-KHCN của Bộ nông nghiệp và phát triển
nông thôn ngày 31/12/2004 về tiêu chuẩn ngành chè. Những vùng nguyên
liệu và nhà máy nào chưa đủ tiêu chuẩn cần được chấn chỉnh phù hợp với
Quyết định nói trên và Quy chế sử dụng biểu tượng thương hiệu quốc gia Chè
Việt Nam do Hiệp hội chè Việt Nam ban hành. Những nhà máy được xây
dựng, vận hành đơn độc, không gắn với việc quy hoạch vùng nguyên liệu
hoặc không có vùng nguyên liệu phải ngừng hoạt động. Đối với các nhà máy
đã có vùng nguyên liệu nhưng chưa đủ tiêu chuẩn, phải tập trung nâng cấp,
hiện đại hoá, chậm nhất là 6 tháng kể từ thời điểm các kết luận về kiểm tra, rà
soát của các tổ chức hữu quan có hiệu lực pháp luật. Các doanh nghiệp chè có
đăng ký kinh doanh, hoạt động dưới luật trước khi bước vào sản xuất, phải
được một tổ chức có thẩm quyền cấp giấy chững nhận về tiêu chuẩn thiết bị,
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
92
nhà xưởng, vệ sinh công nghiệp và phải có vùng nguyên liệu ổn định, ít nhất
cũng phải đáp ứng 70% năng lực sản xuất. Đây là điều kiện tiên quyết để cấp
giấy phép kinh doanh. Đối với cơ sở sản xuất chắp vá, không đủ tiêu chuẩn về
thiết bị, nhà xưởng, vệ sinh công nghiệp.... dứt khoát phải đình chỉ sản xuất.
Về kế hoạch, cần định hướng mục tiêu phát triển dài hạn (10 năm, 15
năm, 20 năm) để làm căn cứ hoạch định các kế hoạch phát triển 5 năm và
hàng năm. Đơn vị đầu ngành sẽ chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc lập
kế hoạch đó và trực tiếp bảo vệ kế hoạch đó trước Chính phủ. Nhà nước sẽ
giao kế hoạch cho địa phương có chè khi đã đạt được 2 điều kiện: một là,
những cơ sở thông tin về kế hoạch đã được đảm bảo tương đối chính xác và
đã được khảo sát, cân đối từ cơ sở lên, và hai là, đơn vị quản lý ngành đảm
bảo mức độ chính xác của những tư liệu đó. Về đại thể, nội dung cơ chế kế
hoạch hoá có thể thực hiện trong Quyết định 76 – HĐBT của Hội đồng Bộ
trưởng, nhưng cần phải được làm thử và có những quy định thống nhất, đồng
bộ để thực hiện trong thực tế.
Thông qua luật để tăng cường quản lý nhập khẩu và sử dụng thuốc bảo
vệ thực vật. Công bố rộng rãi các danh mục tiêu chuẩn ngành, các loại thuốc
trừ sâu được phép sử dụng với dư lượng tới hạn; các loại tiêu chuẩn nhà máy
chế biến có quy mô tương ứng và kiến nghị các cơ quan hữu quan áp dụng
các tiêu chuẩn này trên phạm vi cả nước.
2. Về phía Hiệp hội chè Việt Nam (VITAS)
Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của Hiệp hội với
những nội dung chủ yếu sau:
Một là, kiện toàn Ban chấp hành theo hướng chuyên trách kết hợp với
đảm bảo đại diện các thành phần kinh tế, đại diện vùng trọng điểm, coi trọng
năng lực và điều kiện thực tế để hoạt động đạt hiệu quả cao.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
93
Hai là, tích cực tuyên truyền, tăng cường kết nạp hội viên mới với tinh
thần “thêm một hội viên là thêm sức mạnh”
Ba là, củng cố các ban chuyên môn theo hướng chuyên trách là chủ
yếu, ít kiêm nghiệm để có hoạt động thực sự và tích cực.
Bốn là, xây dựng và ban hành quy chế hoạt động, cải tiến lề lối tác
phong làm việc, đồng thời đào tạo, nâng cao năng lực công tác hiệp hội và
công tác chuyên môn cho các uỷ viên Ban chấp hành, trưởng phó các ban
chuyên đề các hội và các bộ cơ quan thường trực Hiệp hội chè Việt Nam,
nhằm đáp ứng nhiệm vụ với hiệu quả cao.
Năm là, duy trì và cải tiến chế độ báo cáo các cấp của Hiệp hội và hội
viên. Nêu cao ý thức và trách nhiệm hội viên trong hoạt động của Hiệp hội.
Khuyến khích các hội viên tài trợ cho các hoạt động chuyên đề, hoạt động
thời điểm, vì lợi ích chung của cộng đồng những người làm chè.
Bản thân Hiệp hội cần bám sát lợi ích của doanh nghiệp và của cộng
đồng, xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp lớn và doanh
nghiệp doanh nghiệp nhỏ, giữa doanh nghiệp có liên kết liên doanh với nước
ngoài và doanh nghiệp trong nước; để làm tăng sự đoàn kết tương hỗ lẫn nhau
giữa các thành viên.
Về tổ chức, hiệp hội phải tiến tới xây dựng một đội ngũ cán bộ
chuyên trách, giỏi chuyên môn, dành toàn bộ thời gian và tâm huyết cho
hiệp hội giảm thiểu việc quá nhiều cán bộ lãnh đạo hiệp hội kiêm nhiệm vị
trí lãnh đạo cơ quan Nhà nước dẫn đến thiên vị, mất bình đẳng giữa các
thành viên trong Hiệp hội.
Điều quan trọng nữa là Hiệp hội phải cân đối hài hoà giữa lợi ích cộng
đồng và lợi ích doanh nghiệp, tránh vì lợi ích trước mắt mà làm thiệt hại tới
sức khoẻ người tiêu dùng và lâu dài cũng tổn hại đến lợi ích doanh nghiệp;
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
94
hiệp hội cùng với chính quyền và các tổ chức khác cần tăng cường công tác
giáo dục tuyên truyền với người sản xuất, người tiêu dùng về vấn đề bảo đảm
vệ sinh an toàn thực phẩm, loại bỏ những chất phụ gia, chất bảo quản bị cấm
trong sản phẩm chè, sản phẩm phải ghi đúng nguồn gốc, xuất xứ, hạn sử dụng
để bảo đảm sức khỏe nhân dân.
Hiệp hội phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật với tư cách là Tổ
chức phi Chính phủ, tránh sự biến tướng trở thành công ty tư vấn dịch vụ,
phân chia quyền lợi dẫn đến vi phạm điều lệ và quy chế tổ chức Hiệp hội.
Trong hoạt động, hiệp hội cần chú ý tới điều lệ hiệp hội, chương trình
kế hoạch hành động đã được đại hội nhiệm kỳ đề ra, cần quan tâm nhiều hơn
đến vai trò, chức năng đóng góp ý kiến, tư vấn cho các cơ quan Đảng và Nhà
nước trong quản lý và hỗ trợ doanh nghiệp trong ngành.
Đối với vấn đề chất lượng sản phẩm, Hiệp hội cần phối hợp với các cơ
quan chức năng thống nhất các tiêu chuẩn sản phẩm, tăng năng lực kiểm tra
đối với thành viên để giữ uy tín cho sản phẩm chè Việt Nam, nhất là trong thế
giới bùng nổ thông tin như hiện nay, chỉ cần 1 lô hàng kém chất lượng gây
ngộ độc có thể gây ảnh hưởng dến hoạt động kinh doanh của cả cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam. Đi đôi với nâng cao và kiểm soát chất lượng cần chú
ý tới chiến lược tạo lập, quảng bá “thương hiệu” chè Việt Nam.
3. Về phía Tổng công ty chè Việt Nam (VINATEA)
3.1. Bộ máy tổ chức
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (Khoá IX) đã viết: “DNNN... giữ vị
trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà
nƣớc định hƣớng và điều tiết vĩ mô, làm chủ lực nòng cốt, góp phần chủ yếu
để kinh tế nhà nƣớc thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng XHCN”. Do đó việc tăng cường hiệu quả của DNNN nói chung
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
95
và Tổng công ty chè Việt Nam nói riêng không chỉ nhằm mục đích làm cho
kinh tế Nhà nước vững mạnh mà còn góp phần tăng tính định hướng XHCN
của nền kinh tế. Vì thế, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước để nâng cao
hiệu quả hoạt động của nó là vấn đề rất bức xúc hiện nay. Nhưng muốn sự
sắp xếp có hiệu quả phải áp dụng nhiều biện pháp, nhưng quan trọng nhất là
phải tìm được mô hình tổ chức doanh nghiệp mà với mô hình này chúng ta
sẽ tác động trực tiếp vào vấn đề sở hữu, và do đó sẽ làm tăng tính minh bạch
của DNNN, của Tổng công ty chè Việt Nam. Mô hình công ty mẹ – Công ty
con là mô hình đáp ứng được yêu cầu này, giúp TCT trở thành một tập đoàn
kinh tế năng động, hiệu quả và góp phần vào tính định hướng XHCN của nền
kinh tế nước ta. Khẳng định như vậy vì các lý do:[5]
1. Đây là mô hình ưu việt xuất phát từ các nước TBCN: là một tổ hợp
sản xuất kinh doanh đa dạng, đa sở hữu; là một tổ hợp lấy liên doanh góp vốn,
hoặc sở hữu chung vốn làm nhân tố quyết định sự liên kết dưới hình thức công
ty cổ phần; là một tổ chức kinh doanh bao gồm nhiều doanh nghiệp nhưng có
một doanh nghiệp giữ vai trò chi phối, chỉ huy thống nhất - đó là công ty mẹ; là
một tổ chức kinh tế năng động: từ tổ chức ban đầu, liên kết có thể mở rộng ra
với quy mô đa sở hữu ngày càng lớn, với sự hoạt động đa ngành, đa phương,
thậm chí đa quốc gia; là tổ chức kinh tế mang tính xã hội hoá ngày càng cao,
thu lợi nhuận ngày càng nhiều, một tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả và tiết
kiệm kinh tế cao, một tổ chức phát triển bền vững.
2. Mô hình công ty mẹ – công ty con cho phép kết hợp các loại hình
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế vào một tổ chức kinh doanh một
cách tự nhiên xuất phát từ lợi ích kinh tế, không khiên cưỡng, mang tính hành
chính như mô hình trước đây. Trong mô hình này có thể kết hợp DNNN với
doanh nghiệp tư nhân, trong đó hoặc DNNN là công ty mẹ còn doanh nghiệp tư
nhân là công ty con, hoặc doanh nghiệp tư nhân là công ty mẹ mà DNNN chỉ là
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
96
đơn vị góp vốn ở mức độ nào đó cả ở công ty lẫn công ty con. Như vậy, mô
hình cho phép mở rộng quy mô sản xuất có thể ở mức rất cao bằng việc huy
động nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế trên cơ sở lợi ích kinh tế. Nhưng
quan trọng hơn, công ty mẹ – công ty con liên kết với nhau bằng cơ chế góp
vốn linh hoạt, bằng lợi ích kinh tế trên cơ sở hợp đồng kinh tế giữa công ty mẹ
với công ty con và giữa các công ty con với nhau.
3. Sử dụng mô hình công ty mẹ – công ty con là phương thức tốt nhất
đảm bảo tính định hướng XHCH của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH thông qua ba mặt (một là, tác động trên mặt sở hữu, làm cho sở hữu
nhà nước dù chỉ ở mức nhất định vẫn chi phối được nguồn vốn lớn của xã hội,
trong đó phần lớn là sở hữu tư nhân, hai là, khắc phục được nhược điểm cố
hữu của DNNN là sự khó minh bạch về mặt kinh tế để từ đó góp phần hạn chế
sự thất thoát do tham nhũng gắn liền với sự khó minh bạch của DNNN, ba là,
tác động vào sự phân chia thu nhập của người lao động tham gia vào hoạt động
trong tổ hợp công ty này theo định hướng XHCN).
4. Mô hình công ty mẹ – công ty con sẽ phát huy được tính tự chủ sáng
tạo của từng thành viên trong tập đoàn từ công ty mẹ đến các công ty con, hạn
chế được sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty trong tập đoàn, do
đó tạo ra sức mạnh của tập đoàn. Công ty mẹ, một mặt, tự chủ xây dựng chiến
lược phát triển của mình và của toàn bộ hệ thống, lựa chọn các hình thức đầu
tư, trực tiếp tác nghiệp kinh doanh, mặt khác, đầu tư vốn vào các công ty con
và thông qua đó chỉ đạo hoạt động của công ty con qua HĐQT theo định hướng
phát triển của công ty mẹ. Các công ty con đều là các công ty có tư cách pháp
nhân, tự chủ kinh doanh theo định hướng chiến lược của công ty mẹ, thu hút
vốn từ bên ngoài, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh tế của mình. Như
vậy, công ty mẹ và các công ty con đều được tự chủ, sáng tạo trong hoạt động.
Tuy công ty mẹ không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của công ty con nhưng
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
97
vẫn hỗ trợ các công ty con về thị trường, về công nghệ, về uy tín thương hiệu, về
tín dụng, về cán bộ... do đó, tạo nên sức mạnh của cả tập đoàn. Như vậy so với
mô hình tổng công ty, mô hình công ty mẹ – công ty con mạnh hơn và hiệu quả
hơn.
5. Mô hình công ty mẹ – công ty con, về bản chất, là một tập đoàn kinh
tế mà trong đó cốt lõi là sự liên kết của các doanh nghiệp thuộc nhiều ngành,
nhiều thành phần kinh tế bằng cổ phần hoá. Do đó, việc phát triển công
thành công ty mẹ – công ty con xuất phát từ DNNN cùng một lúc giải quyết
được hai yêu cầu: đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN và làm tăng được vai trò
của DNNN trong việc hỗ trợ, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế quá độ lên CNXH.
Tổng công ty Chè Việt Nam chuyển sang hoạt động theo mô hình công
ty mẹ - công ty con, chuyển từ hoạt động chủ yếu là tập trung quản lý toàn
ngành sang kinh doanh đa dạng, lấy sản phẩm chè là chính, phát triển kinh
doanh thêm các mặt hàng khác nhằm phát huy hết các tiềm năng sẵn có của
công ty mẹ, lấy việc đầu tư tài chính và quản lý vốn là một trọng tâm trong tổ
chức quản lý công ty mẹ. (xem hình 3.2).
Hình 3.2: Mô hình Công ty mẹ và Công ty con [40]
Lãnh đạo Công ty
mẹ
Các công ty liên doanh
(công ty liên kết)
Các công ty cổ phần
(Công ty liên kết)
Các phòng
kinh doanh
Văn
phòng
Các phòng
nghiệp vụ
Các công
ty TNHH
một thành
viên
Các công
ty, XN cổ
phần
Công ty
liên doanh
(Công ty
con)
Các công ty cổ
phần thương
mại
(Công ty con)
Viện điều dưỡng
phục hồi chức
năng và điều trị
bệnh nghề nghiệp
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
98
Chuyển cơ chế quản lý hành chính mang tính mệnh lệnh cấp trên, cấp
dưới sang quan hệ đầu tƣ tài chính, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, chủ động trong sản xuất kinh doanh của các công ty con và công ty
liên kết, gắn với sự điều hành quản lý tập trung của công ty mẹ tạo ra mối
quan hệ chặt chẽ bền vững về tài chính, về công nghệ sản xuất và đặc biệt là
về thị trường, nâng cao sức mạnh và khả năng cạnh tranh của Tổng công ty
trên thị trường quốc tế.
Gắn việc chuyển đổi mô hình với việc thay đổi tổ chức, nhân sự để tạo
nên xung lực mới cho doanh nghiệp (thí dụ cho phép Hội đồng quản trị thuê
giám đốc điều hành giỏi, đại hội cổ đông sẽ đề nghị phía chủ sở hữu nhà nước
đề cử những cán bộ quản lý mới cho đại hội lựa chọn...)
3.2. Đổi mới cơ chế hoạt động
Thực hiện nghiêm chỉnh quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ, coi
đó là động lực căn bản để chuẩn hoá chất lượng sản phẩm, gắn kết công –
nông nghiệp và liên minh chặt chẽ giữa nông dân – nhà máy – nhà khoa học –
nhà quản lý các cấp. Mục đích đã được nêu rõ ngay ở điều 1: “Nhà nước
khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ký kết hợp đồng
tiêu thụ nông sản hàng hoá nhằm gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông
sản hàng hoá đêt phát triển sản xuất ổn định và bền vững”. Hợp đồng sau khi
đã ký kết là cơ sở pháp lý để gắn trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên được
thực hiện theo 4 hình thức: ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ;
bán vật tư; ký trực tiếp thu mua nông sản; liên kết sản xuất. Đây là giải pháp
giúp Tổng công ty chè cũng như toàn ngành chè giải quyết được tình trạng
cạnh tranh nguyên liệu cũng như kiểu làm ăn manh mún, riêng rẽ của các đơn
vị sản xuất, kinh doanh chè trên cả nước.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
99
4. Kiến nghị hoàn thiện quản lý ngành chè Việt Nam
4.1. Đối với Nhà nƣớc
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển trồng và sản xuất
chè là một chủ trương đúng, nhưng Chính phủ cần ban hành những tiêu chuẩn
kỹ thuật của một nhà máy chế biến chè, chế độ và thuốc bảo vệ thực vật cho
chè vì đây là hàng thực phẩm đang được các nước nhập khẩu kiểm tra gắt gao
về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nhà nước cần có chính sách và thể chế pháp lý để nâng cao vị trí của
Hiệp hội chè Việt Nam, tạo điều kiện để tổ chức này gắn kết lợi ích kinh tế của
những người làm chè thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đồng thời cũng
giàng buộc người làm chè về chất lượng, giá cả mua bán nguyên liệu và xuất
khẩu tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh hiện nay gây thiệt hại chung
cho người làm chè và thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân nói chung.
Đề nghị Nhà nước có những chính sách ưu đãi đặc biệt (tiền lương, phụ
cấp khu vức, điều kiện làm việc...) để khuyến khích cán bộ giỏi đến công tác
tại các vùng khó khăn (đặc biệt đối với lao động nữ - hiện đang chiếm tới
70% lao động ngành chè).
Đề nghị Nhà nước ban hành các chính sách thuận lợi hơn nữa để thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất và chế biến chè (đặc biệt là
chính sách về đất đai để trồng chè). Thông qua hợp tác đầu tư (kể cả đầu tư
100% vốn nước ngoài) ngành chè Việt Nam sẽ thêm giống mới chất lượng
cao, công nghệ cao, công nghệ mới, đồng thời có thêm thị trường đầu ra do
các nhà đầu tư đảm nhiệm. Sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào
sản xuất và chế biến chè ở Việt Nam là cơ sở góp phần vào sự phát triển
chung toàn ngành chè Việt Nam.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
100
Đề nghị Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được vay vốn ưu
đãi (về thời gian hoàn trả) để nhập khẩu các thiết bị chế biến chè có công
nghệ cao để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đề nghị Nhà nước, thông qua việc tổng kết thí điểm việc chuyển đổi
mô hình công ty nhà nước sang mô hình công ty mẹ – công ty con, tiếp tục hoàn
thiện cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển mô hình công ty mẹ – công
ty con từ công ty nhà nước (các vấn đề như: những nội dung chỉ đạo chuyển đổi
mô hình, quy chế tài chính cho các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi, các chính
sách khác...), điều này giúp Tổng công ty chè Việt Nam nhanh chóng và dễ dàng
tiếp cận với mô hình công ty mẹ – công ty con trong thời gian tới.
Đề nghị Nhà nước nghiên cứu và thí điểm mô hình cổ phần hoá các doanh
nghiệp ngành chè dạng đặc biệt: nông dân góp cổ phần bằng quyền sử dụng đất.
Điều này sẽ giúp người nông dân tăng quy mô sản xuất, đồng thời tăng thu nhập
(từ hoạt động sản xuất kinh doanh và từ cổ phần của mình), bên cạnh đó giúp
phần nào thực hiện được mục tiêu gắn kết “4 nhà” theo Quyết định 80.
4.2. Đối với Tổng công ty chè Việt Nam
Về cơ cấu tổ chức, Tổng công ty phải không ngừng cải tiến và hoàn
thiện cơ cấu tổ chức của mình để đảm bảo hoạt động quản lý ngày càng hiệu
quả hơn. Cụ thể là phải luôn đảm bảo bốn yêu cầu sau:
Tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực, phải vì việc đặt người”, “vì công
việc mà sinh ra tổ chức”, chứ không phải “vì người xếp việc”, “vì người
sinh ra tổ chức”.
Luôn nhạy cảm với các biến cố của thị trường, do đó, để quản lý có hiệu
quả, các nhà quản lý cần phải có thông tin về những thay đổi có thể xảy ra
của môi trường bên ngoài và những phương án sản xuất có thể thực hiện
được để đối phó với những thay đổi đó.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
101
Đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty có lợi nhuận.
Về công tác cán bộ, phải lựa chọn, bố trí, sắp xếp, phân công công việc
phù hợp với từng người để mọi người đều có thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
mà Tổng công ty giao cho. Đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo, đào tạo
lại, đào tạo nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và phát triển cán bộ cũng như
vấn đề đãi ngộ cán bộ. Trong công tác đánh giá cán bộ, cần hết sức công tâm,
khách quan và khoa học để đảm bảo sự công bằng cho từng người. Đây là vấn
đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, nhưng nếu làm tốt sẽ đem lại hiệu quả cao.
Trong thời gian này, khi chuẩn bị chuyển đổi Tổng công ty thành tập
đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con, đề nghị tăng
cường công tác tuyên truyền về mô hình công ty mẹ – công ty con và sự cần
thiết phải chuyển đổi mô hình tổng công ty thành công ty mẹ – công ty con
cho các cán bộ, công nhân trong Tổng công ty. Khắc phục tình trạng phổ biến
ở một số Tổng công ty sau khi đã áp dụng mô hình này, đó là tình trạng
những cán bộ cũ tuy có kinh nghiệm nhưng đã định hình quá lâu lối suy nghĩ
và điều hành của cơ chế cũ nên vừa bảo thủ vừa kém năng động, hiện đang là
một lực cản cho mô hình kinh tế mới.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
102
KẾT LUẬN
Ngành chè có một vị trí và tiềm năng to lớn trong chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội của nước ta. Trong nhiều năm tới, ngành sẽ được phát triển để
trở thành một mũi nhọn kinh tế có tầm quan trọng của đất nước. Thực tế
những năm qua cho thấy, mặc dù còn nhiều hạn chế và vướng mắc nhưng
ngành chè đã có những bước phát triển đáng kể, góp phần không nhỏ vào các
mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Tuy nhiên những kết quả đó
còn chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của nó do ngành chè còn nhiều khó
khăn, cả về chủ quan lẫn khách quan như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, tình
trạng cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, trình độ cán bộ còn thấp, cơ chế quản
lý, chính sách quản lý còn nhiều vướng mắc v.v... Để tháo gỡ những khó khăn
trên, hoàn thành được các mục tiêu phát triển bức thiết mà ngành chè đã đề ra,
việc hoàn thiện quản lý ngành chè có tầm quan trọng đặc biệt.
Với đề tài: “Hoàn thiện quản lý ngành chè Việt Nam”, tác giả đã giải
quyết được một số vấn đề sau:
- Đã hệ thống hoá lý luận về quản lý, tổ chức quản lý ngành.
- Tìm hiểu thực trạng quản lý ngành chè từ khi mới thành lập ngành cho
đến nay ở các khía cạnh: bộ máy quản lý, phương pháp quản lý như hệ thống
pháp luật, các chính sách tác động...
- Nêu định hướng và mục tiêu dài, ngắn hạn cho phát triển ngành chè đến
năm 2010. Tìm hiểu kinh nghiệm phát triển ngành chè của các nước sản xuất
chè lớn trên thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Xrilanca, Inđônêxia, Kênia. Từ
đó tổng kết các giải pháp và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý
ngành chè với các hướng lớn cần tập trung giải quyết: Phân định rõ chức
năng, quyền hạn quản lý của Nhà nước, Bộ và địa phương trong ngành chè
nhằm tạo môi trường cho các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
103
một cách mạnh mẽ trong khuôn khổ bình đẳng trước pháp luật và kế hoạch
chung; Đẩy nhanh công tác sửa đổi và xây dựng hệ thống pháp luật quản lý,
trong đó đáng lưu ý là việc quy định về quyền thừa kế đất đai làm chè; Tập trung
sức lực để đổi mới Tổng công ty chè Việt Nam thành tập đoàn kinh tế hoạt động
theo mô hình công ty mẹ – công ty con; Hiệp hội chè Việt Nam tích cực tuyên
truyền, tăng cường kết nạp hội viên mới với tinh thần “thêm một hội viên là
thêm sức mạnh”...
Với bài khoá luận này, tác giả hy vọng có thể đóng góp một phần
công sức của mình vào sự phát triển của ngành chè thành ngành kinh tế
mũi nhọn của đất nước.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
104
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Báo cáo thị trường chè. Phòng xúc tiến thương mại. Tổng công ty chè
Việt Nam – 2002.
[2]. Đỗ Ngọc Quỹ- Nguyễn Kim Phong. Cây chè Việt Nam. NXB Nông
nghiệp Hà Nội – 1997.
[3]. Đỗ Ngọc Quỹ. Cây chè * Sản xuất * Chế biến * Tiêu thụ. NXB Nghệ
An - 2003.
[4]. Điểm mới trong điều lệ mới (Điều lệ của Hiệp hội chè Việt Nam). Thế
giới chè. Số tháng 8 năm 2006.
[5]. Báo cáo Tình hình thực hiện nghị quyết trung ƣơng 4 (Khoá IX) về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN ở Tổng
công ty chè Việt Nam. TCT chè Việt Nam – Bộ NN&PTNT. Tháng 12/2002.
[6]. Cải thiện môi trƣờng kinh doanh, cần thay đổi tƣ duy quản lý. Thế
giới chè. Số tháng 8 năm 2006.
[7]. Cần có bƣớc đi xác thực cho ngành chè thời hội nhập. Tạp chí Thế
giới chè. Số tháng 8 năm 2006.
[8]. Chƣơng trình tổng thể cho ngành chè Ấn Độ. Thế giới chè. Số 4/ 2005.
[9]. Chính sách và các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI. Kỷ yếu hội thảo khoa học.
Trường đại học kinh tế quốc dân – Tháng 8 năm 2000.
[10]. Con đƣờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam. Ban tư tưởng – văn hoá trung ương. Bộ NN&PTNT. NXB Chính
trị Quốc Gia Hà Nội – 2002.
[11]. Doanh nghiệp với việc tiếp cận vốn. Thế giới chè. Số tháng 3/2006.
[12]. Giáo trình Khoa học quản lý. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh. Khoa Quản lý kinh tế. NXB Chính trị quốc gia 2003.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
105
[13]. GS. TSKH Lương Xuân Quỳ (chủ biên). Quản lý kinh tế Nhà nƣớc
trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
NXB lý luận chính trị Hà Nội – 2006.
[14]. Lê Văn Bằng – Nguyễn Duy Oánh. Mô hình công ty mẹ, công ty con –
một giải pháp lớn để tăng tính minh bạch của DNNN và góp phần quan
trọng định hƣớng XHCN của nền kinh tế nƣớc ta. Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế, số 334 – tháng 3/2006.
[15]. Lê Xuân Bá, Trần Kim Hào, Nguyễn Hữu Thắng (đồng chủ biên).
Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
Quốc tế. NXB Chính trị quốc gia.
[16]. Một số vấn đề về quản trị kinh doanh. Khoa quản lý kinh tế–Phân viện
Hà Nội – Học viện chính trị quốc gia HCM. NXB Chính trị quốc gia – 1996.
[17]. Nông nghiệp Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO. Tạp chí Người làm
chè. Số tháng 7 năm 2004.
[18]. Ngô Trần Ánh. Kinh tế và quản lý doanh nghiệp. Tủ sách KHKT ĐH
Bách Khoa Hà Nội. NXB Thống kê – 2000.
[19]. Ngành chè trên đƣờng phát triển. Thế giới chè. Số tháng 8/2006.
[20]. Ngành chè Việt Nam năm 2003. Người làm chè. Số tháng 3/2004.
[21]. Nguyễn Hải Sản. Quản trị học. NXB Thống kê – 2005.
[22]. Nguyễn Hải Thanh. Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành chè và
sản phẩm chè Việt Nam. Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học trường đại
học Ngoại Thương năm 2005.
[23]. Nguyễn Kim Phong. Đổi mới cơ chế quản lý ngành chè. NXB Chính
trị quốc gia Hà Nội – 1993.
[24]. Nguyễn Thắng. Chuyên đề: “Phƣơng án sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ
máy quản lý của Tổng công ty chè Việt Nam”. Khoa sau đại học – Trường
đại học Kinh tế quốc dân.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
106
[25]. Nguyễn Văn Thụ. Kinh tế chè trên đƣờng phát triển. Tạp chí Thế giới
chè - Số Xuân 2005.
[26]. Nguyễn Xuân Trình – Chu Tiến Quang – Nguyễn Hữu Thọ. Chính
sách nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
dƣới giác độ phát triển bền vững. Tạp chí Quản lý kinh tế. Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương. Bộ kế hoạch đầu tư. Số 6 – tháng 1-2/2006.
[27]. Những kết quả và tồn tại sau 5 năm thực hiện QĐ 43 TTG (1999-
2004). Thế giới chè. Số tháng 3 năm 2005.
[28]. Những thách thức của ngành chè Việt Nam. Thế giới chè. Số 3/2005.
[29]. Quyết định 80/2002/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách
khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng.
[30]. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 43/1999/ QĐ -TTg ngày 10
tháng 3 năm 1999 về kế hoạch sản xuất chè năm 1999 – 2000 và định
hƣớng phát triển chè đến năm 2005 – 2010.
[31]. Số liệu về diện tích, năng suất, sản lƣợng, xuất khẩu của Tổng công
ty chè Việt Nam trong giai đoạn 2000 – 2006.
[32]. Tài liệu chương trình Thực hiện Quyết định 1870 ngày 26/6/2006 của
Bộ NN&PTNT về “Phát triển cơ giới hoá và nâng cao chất lƣợng chè giai
đoạn 2006 – 2010. Hiệp hội chè Việt Nam”. Tháng 9/2006.
[33]. Tài liệu Hội thảo “chuẩn hoá chất lƣợng sản phẩm bảo đảm uy tín
thƣơng hiệu chè Việt Nam”. HHC Việt Nam – Bộ NN&PTNT – 6/2005.
[34]. Thực trạng và giải pháp phát triển chè Việt Nam định hƣớng chất
lƣợng và giá trị. Trích bài báo cáo tại hội thảo “Thực trạng và giải pháp phát
triển chè Việt Nam - định hướng chất lượng và giá trị” ngày 5 – 9 -2005. Thế
giới chè. Số tháng 9 năm 2005.
[35]. ThS. Đặng Thị Lan. Hoàn thiện tổ chức quản lý doanh nghiệp nhỏ và
vừa ở Việt Nam (áp dụng cho các doanh nghiệp chế biến nông sản thực
phẩm). Luận án tiến sĩ kinh tế. Trường đại học Bách Khoa – Năm 2003.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT
107
[36]. Tiến tới đại hội toàn thể lần thứ 3 Hiệp hội chè Việt Nam. Thế giới
chè. Số tháng 6 năm 2005.
[37]. Trần Đức Vui. Định hƣớng xuất khẩu chè của Việt Nam đến 2010.
Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. Số 5(46) – tháng 10 năm 2003.
[38]. TS Nguyễn Kim Phong (Chủ tịch HHCVN). Hoạt động của Hiệp hội
chè Việt Nam – Hiện trạng, triển vọng và định hƣớng phát triển. Tạp chí
Kinh tế & khoa học kỹ thuật chè. Hiệp hội chè Việt Nam. Số 2+3/000.
[39]. TS Trần Văn Giá (Phó chủ tịch HHCVN). “ Những ngày ở Srilanca”.
Tạp chí Thế giới chè- Cơ quan của Hiệp hội chè Việt Nam. Tháng 6- 2005.
[40]. Vũ Hữu Hào. Chuyên đề tốt nghiệp lớp trung cấp lý luận chính trị khoá
II: “Thách thức hội nhập kinh tế và đổi mới sắp xếp lại Tổng công ty chè
Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế
thị trƣờng”. Trường quản lý cán bộ NN&PTNT I. Bộ NN&PTNT. Năm
2003.
[41]. Xây dựng vùng sản xuất hàng hoá, quy hoạch hợp lý & sự liên kết
của các “nhà”. Thế giới chè. Số tháng 1 năm 2005.
CÁC WEBSITE THAM KHẢO
1. : website của trung tâm thông tin & dự báo
kinh tế xã hội quốc gia (NCEIF) – Bộ kế hoạch và đầu tư.
2. website của Bộ NN&PTNT.
3. website của Viện chính sách và chiến lược
phát triển nông nghiệp nông thôn – Bộ NN&PTNT.
4. website của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương (CIEM) – Bộ Kế hoạch và đầu tư.
5. website của Hiệp hội chè Việt Nam.
6. website của Tổng công ty chè Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3588_8024.pdf