Hoạt động đầu tư tài chính trong những năm qua đã có những phát triển vượt
bậc góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia. Nhiều
công ty đã thu lại được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ hoạt động này so với
hoạt động sản xuất kinh doanh chính của mình, góp phần đưa công ty phát triển
mạnh mẽ hơn nữa khẳng định thương hiệu cũng như tiềm lực kinh tế của mình, và
đặc biệt hoạt động này góp phần lớn cho nhiều công ty trong con đường tiến lên
thành tập đoàn kinh tế đa ngành của Việt Nam. Tuy nhiên thị trường đầu tư tài
chính của nước ta còn khá non trẻ là một sân chới mới đối với các công ty vì thế cơ
hội và nguy cơ đều rất lớn. Để góp phần cho họat động này trở nên sôi động và phát
triển hớn nữa thì đòi hỏi các công ty phải không ngừng đổi mới, học tập tiếp thu
kinh nghiệm từ những quốc gia đi trước trên thế giới. Hoạt động đầu tư tài chính
không chỉ như là một lĩnh vực hoạt động mới của công ty mà đang dần trở thành
hoạt động chính có tính chất quyết định đối với toàn công ty vì thế phát triển hoạt
động đầu tư tài chính là cần thiết đối với các công ty.
99 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2201 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa VNM
a) Đầu tư tài chính ngắn hạn
Đầu tư tài chính ngắn hạn của VNM là tập trung vào đầu tư chứng khoán
ngắn hạn, tiền gửi ngắn hạn và cho các công ty liên doanh vay ngắn hạn. Ngoài ra
công ty còn đâu tư vào trái phiếu ngắn hạn. Hoạt động đầu tư ngắn hạn của công ty
không hoàn toàn bị coi nhẹ hơn so với đầu tư dài hạn như các công ty khác mà hoạt
động này cũng được công ty theo đuổi với một mức mong chờ như đầu tư dài hạn.
Trong 3 năm từ năm 2006 đến 2008 khoản tiền đầu tư cho đầu tư tài chính ngắn hạn
của công ty chủ yếu tập trung vào đầu tư chứng khoán ngắn hạn và cho các công ty
liên doanh vay. Khoản tiền đầu tư chứng khoán ngắn hạn của công ty năm 2007 đạt
436,453 tỷ đồng tương ứng tăng 127,36% so với năm 2006. Và cũng trong năm này
số tiền đầu tư của công ty cho loại hình này chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng vốn
đầu tư tài chính ngắn hạn đạt 66,68%. Do trong năm này thị trường chứng khoán
nước ta khá khởi sắc, hoạt động kinh doanh và đầu tư cổ phiếu phát triển mạnh mẽ
đã đem lại không ít lợi nhuận cho các nhà đầu tư, không nằm ngoài vòng quay đó,
lại là một công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất sữa và thực phẩm đồ uống nên
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 69
việc hiểu rõ thị trường của công ty cũng chưa đạt đến mức cao vì vậy công ty chủ
yếu tập trung cho đầu tư chứng khoán ngắn hạn vừa giảm thiểu rủi ro vừa có thể thu
lợi nhanh chóng và tăng khả năng thanh khoản của khoản tiền mình đầu tư. Do tình
hình của thị trường rất khả quan vào năm 2007 nên công ty đã hy vọng có thể thu
được khoản lợi nhuận nhiều hơn nếu đầu tư vào chứng khoán dài hạn trong năm
2008 nên trong năm này khoản tiền đầu tư chứng khoán ngắn hạn của cônty ty giảm
xuống. Và 2009 thị trường đang trong tình trạng xa sút và dần khôi phục nên nguồn
tiền đầu tư chứng khoán ngắn hạn của công ty cũng giảm nhiều so với năm 2007 và
quay về gần mức cân bằng như năm 2006.
Biểu đồ 2.10: Lượng tiền đầu tư ngắn hạn của VNM năm 2006 -2009
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn: Báo cáo tài chính công ty Vinamilk năm 2006 - 2009
Khoản tiền của công ty cho các công ty liên doanh vay cũng chiếm một phần
lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư tài chính ngắn hạn. Chiếm lần lượt 37,97%,
30,16% và 55,6% cho các năm 2006 – 2008. Tuy nhiên khoản đầu tư này lại không
mang lại nhiêu lợi nhuận cho công ty trong những năm qua vì công ty cho công ty
SAB Miller vay là chủ yếu với năm 2006 và 2008 là toàn bộ và năm 2007 là 80,926
tỷ đồng trong khi công ty không tính lãi. Sang năm 2009 khi mà SAB Miller dần đi
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 70
vào hoạt động ổn định nguồn tiền tạo ra đã có thể tự trang chải và mức độ đầu tư
cũng không cần nhiều như lúc đầu vì vậy mà khoản đầu tư của công ty cho liên
doanh này vay không còn nữa vừa để chuẩn bị cho đầu tư vào loại hình khác có khả
năng sinh lợi.
Khoản tiền gửi ngắn hạn của công ty năm 2006 là không có nhưng sang năm
2007 bắt đầu công ty quan tâm và đầu tư nhưng cũng chỉ ở con số rất khiêm tốn là
5,4 tỷ đồng. Mãi sang năm 2009 hậu khủng hoảng kinh tế của năm 2008 để hạn chế
rủi ro trong đầu tư công ty đã dùng hầu như toàn bộ số tiền nhàn rỗi của mình đầu
tư vào loại hình này, đạt tới 2.227,7 tỷ đồng chiếm tới 96,26% trong tổng nguồn
vốn đầu tư ngắn hạn và chiếm 73,93% tổng nguồn vốn đầu tư tài chính. Loại hình
này góp phần làm ổn định lợi nhuận của công ty trong thời gian kinh tế còn khó
khăn, dễ dàng thu hồi khi cần thiết để đầu tư cho loại hình có khoản lợi nhuận cao
hơn kịp thời khi kinh tế bắt đầu đi vào phục hồi và ổn định.
Cùng với các công ty khác theo tình hình chung của thị trường và theo quy
định của nhà nước khoản dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ngắn hạn của công
ty cũng được lập và cũng cao nhất vào năm 2008 với mức là 122,996 tỷ đồng sang
năm 2009 vẫn phòng ngừa nguy cơ từ thị trường con số trích lập dự phòng vẫn ở
mức cao là 86,507 tỷ đồng đã làm giảm đáng kể khoản lợi nhuận của công ty trong
hai năm này.
b) Đầu tư tài chính dài hạn
Hoạt động đầu tư tài chính dài hạn của VNM chủ yếu tập trung vào các hoạt
động đầu tư chứng khoán dài hạn, đầu tư vào các công ty liên doanh liên kết và các
công ty con. Đầu tư dài hạn của VNM chỉ lớn hơn đầu tư ngắn hạn vào năm 2006
và 2008 là do nhìn từ tình hình thị trường và sự mong chờ của công ty.
Hoạt động mua bán chứng khoán dài hạn của công ty là hoạt động chiếm
nhiều nguồn vốn nhất của vốn đầu tư tài chính dài hạn của công ty. Từ năm 2006 –
2008 là tăng lên nhưng đến năm 2009 thì giảm xuống so với năm 2008 nhưng vẫn
cao hơn các năm trước. Năm 2006 danh mục này chỉ chiếm 26% trong tổng đầu tư
tai chính ngắn hạn và chiếm 15,09% tổng đầu tư tài chính. Sang năm 2007 và 2008
thì con số này đã tăng lên là 53,98% và 77,78% trong tổng vốn đầu tư dài hạn,
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 71
23,34% và 50,67% trong tổng vốn đầu tư tài chính. Điều này cho thấy công ty ngày
càng để ý và quan tâm tới khoản mục đầu tư này trong hoạt động đầu tư tài chính
nói riêng và trong hoạt động của công ty thì hoạt động tài chính đang dần được xem
trọng và dần trở thành một hoạt động chính trong công ty. Tuy nhiên loại cổ phiếu
mà công ty đầu tư vào chủ yếu là loại cổ phiếu chưa niêm yết trên sàn điều này cho
thấy sự kỳ vọng lợi nhuận của công ty rất nhiều và cũng có sự tin tưởng cao bởi khi
các công ty có mã cổ phiếu mà VNM đầu tư vào làm ăn tốt lên thì VNM sẽ là nhà
đầu tư thu lợi đầu tiên. Một số ít là công ty đầu tư vào các cổ phiếu đã niêm yết và
các quỹ đầu tư mà đặc biệt là quỹ đầu tư chứng khoán VF1 của Công ty liên doanh
Quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (VietFund)
Danh mục đầu tư vào tiền gửi dài hạn của công ty chỉ được chú trọng năm
2006 khi mà trong thời gian này đây dường như đang là kênh đầu tư truyền thống
mang lại nhiều lợi nhuận nhất trong nhiều năm qua. Con số đầu tư lên đên 170 tỷ
đồng chiếm 40,21% tổng vốn đầu tư dài hạn lớn nhất trong tổng nguồn vốn này.
Sang các năm sau khi mà thị trường biến đổi các loại hình đầu tư mới phát triển hơn
thì loại hình đâu tư này bắt đầu bị bỏ lại chỉ còn chiêm 50 tỷ trong năm 2007 và các
năm sau thì không còn nữa.
Khoản đầu tư trái phiếu của công ty nhìn chung là chiếm số lượng không
nhiều tuy nhiên đặc biệt năm 2009 nó lại đặc biệt được công ty xem trọng hơn con
số đầu tư chiếm tới 200 tỷ đồng vì năm này theo như ảnh hưởng từ năm 2008 thì
cùng với gửi tiền ngắn hạn thì khoản đầu tư trái phiếu dài hạn là an toàn hơn cả mà
vẫn có lợi nhuận tương đối.
Bên cạnh các khoản đầu tư dài hạn trên thì khoản đầu tư vào các công ty, dự
án liên doanh liên kết của công ty cũng được công ty xem xét. Tuy nhiên vẫn chưa
phát triển quá chuyên về đầu tư tài chính nên dường như khoản đầu tư này của công
ty không lớn lắm và cũng giảm dần qua các năm khi mà năm 2006 khoản đầu tư là
131,571 tỷ đồng thì đến các năm sau giảm chỉ còn 78,189 tỷ đồng năm 2007;
23,702 tỷ đồng năm 2008 và 26,152 tỷ đồng năm 2009. Nguyên nhân thứ nhất là
do các khoản đầu tư này của công ty không mang lại lợi nhuận nhiều cho công ty
thậm chí còn bị lỗ khi đầu tư vào công ty liên doanh Campina khi mà công ty đầu tư
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 72
vào liên doanh này tổng cộng là 31,798 tỷ đồng từ năm 2005 nhưng đến tháng 1
năm 2007 công ty đã bán lại phần vốn góp của công ty vào Campina cho bên đối tác
nước ngoài với gía 18,624 tỷ đồng tương ứng với ghi nhận lỗ 13,174 tỷ đồng cho
khoản đầu tư này năm 2006. Ngoài ra trong khi các công ty khác đầu tư liên doanh
liên kết với mục đích đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh thì VNM vẫn tập trung
vào ngành nghề liên quan bổ trợ cho nhau nên dự án mà VNM tìm kiếm được
không nhiều và những dự án này cũng không cần phải đầu tư vốn lớn.
Không nằm ngoài mục đích mở rộng thị trường cho ngành sản xuất chính
của mình Công ty tích cực đẩy mạnh đầu tư vào các công ty con như công ty TNHH
một thành viên bò sữa Việt Nam và Công ty Cổ phần sữa Lam Sơn. Các công ty
con này vừa giúp cung cấp nguồn nguyên liệu sữa đầu vào cho công ty đảm bảo
nguồn cung, giảm bớt chi phí khi phải nhập ngoại nguồn nguyên liệu và cũng giúp
công ty ngày càng mở rộng mạng lưới của mình góp phần làm lớn mạnh hơn nữa
thương hiệu của mình.
Đi qua việc phân tích tình hình đầu tư tài chính của VNM ta có những nhận
xét đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của công ty.
Bảng 2.17: Các chỉ tiêu hoạt động đầu tư tài chính của VNM
Tổng vốn đầu tư tài chính (Tỷ đồng) 729,501 1.153,244 1.073,05 3.013,137
Doanh thu đầu tư tài chính (Tỷ đồng) 74,253 257,865 264,81 439,936
Chi phí đầu tư tài chính (Tỷ đồng) 40,002 25,862 197,621 184,828
Lợi nhuận (Tỷ đồng) 34,251 232,003 67,189 255,108
Hiệu quả đầu tư tài chính tính theo
- Doanh thu (lần) 1,85 9,97 1,34 2,38
- Lợi nhuận (lần) 0,85 8,97 0,34 1,38
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tài chính (lần) 0,1 0,22 0,24 0,14
Tỷ suất lợi nhuận/Vốn đầu tư tài chính (lần) 0,04 0,2 0,06 0,08
Nguồn: Kết quả tính toán từ Báo cáo tài chính Vinamilk năm 2006 – 2009
Từ bảng ta nhận thấy đầu tư tài chính đem lại cho VNM khoản lợi nhuận
tương đối cao nhưng biến động không đều. Năm 2006 là 34,251 tỷ đồng chiếm
khoảng 5,16% tổng lợi nhuận của công ty. Nhưng đến năm 2007 thì con số này tăng
lên gấp nhiều lần đạt 232,003 tỷ đồng chiếm khoảng 24,3% tổng lợi nhuận của công
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 73
ty, cho thấy khoản lợi nhuận từ đầu tư tài chính của công ty là rất có tiến triển trong
hai năm này con số tăng lên quá nhanh chứng tỏ đầu tư tài chính đang dần là nguồn
thu quan trọng cho công ty. Tuy nhiên có được kết quả đó cũng do tình hình thị
trường có thuận lợi. Năm 2008 kinh tế không thuận lợi nên công ty đã không thể
duy trì được tiếp đà tăng trưởng lợi nhuận từ hoạt động đầu tư tài chính, năm này
lợi nhuận mà hoạt động đầu tư tài chính mang lại chỉ đạt 67,189 tỷ đồng giảm 71%
so với năm 2007 chiếm 4,8% trong tổng lợi nhuận của công ty. Và năm 2009 được
đánh giá là năm mà lợi nhuận cao nhất từ trước đến nay thì lợi nhuận từ đầu tư tài
chính cũng nằm trong tình hình đó khi đạt 255,108 tỷ đồng cao hơn năm 2007
(được đánh giá là năm nền kinh tế cực thịnh).
Bên cạnh đó chỉ tiêu hiệu quả đầu tư tài chính tính theo doanh thu và lợi nhuận
của công ty đạt mức trung bình không cao ngoại trừ năm 2007 là đạt 9,97 lần và 8,97
lần cho thấy cứ một đồng chi phí bỏ ra trong năm này công ty thu về 9,97 đồng doanh
thu và 8,97 đồng lợi nhuận. Các năm còn lại chỉ giao động từ 1 đến 2 lần.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tài chính tăng dần trong giai đoạn 2006 – 2008,
sang năm 2009 thì lại giảm do vốn đầu tư tài chính của công ty tăng quá nhiều đối
với khoản tiền gửi ngắn hạn trong năm này cứ 100 đồng vốn bỏ ra thì công ty thu về
14 đồng lợi nhuận, so với năm 2006 – 2008 thì lần lượt là 10 đồng, 22 đồng và 24
đồng lợi nhuận, những chỉ số này không cao. Tỷ suất lợi nhuận/ vốn đầu tư tài chính
của công ty cũng không cao năm 2006 thì cứ 100 đồng vốn bỏ ra công ty chỉ thu về
4 đồng lợi nhuận nguyên nhân do năm này chi phí tài chính của công ty tăng nhiều
vì khoản lỗ trong liên doanh Campina. Năm 2007 hoạt động đầu tư tốt nên mức chi
phí cũng không cao công ty vẫn thu về khoản lợi nhuận lớn và 100 đồng vốn bỏ ra
công ty vẫn thu về 20 đồng lợi nhuận. Sang năm 2008 và 2009 do khoản trích lập
dự phòng cao nên góp phần làm tăng chi phí mà đầu tư cho các năm này lại tăng vì
hi vọng từ chiều hướng tích cực của năm 2007 vì thế với 100 đồng vốn bỏ ra công
ty thu về 6 đồng lợi nhuận năm 2008 và 8 đồng lợi nhuận năm 2009.
Cùng với các chỉ tiêu hiệu quả đầu tư tài chính thì chỉ tiêu hiệu quả chung
của công ty là với 1 đồng vốn bỏ ra công ty thu về năm 2006 là 2,28 đồng doanh thu
năm 2007 là 1,53 đồng , năm 2008 là 1,72 đồng và năm 2009 là 1,6 đồng. Và 100
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 74
đồng vốn bỏ ra thì công ty thu về trong giai đoạn này lân lượt 24 đồng, 22 đồng, 28
đồng và 40 đồng lợi nhuận. Nhận thấy tất cả các chỉ số này đều cao hơn so với chỉ
số của đầu tư tài chính điều này cho thấy hiệu quả trong hoạt động chính của công
ty là cao hơn hiệu quả đầu tư tài chính vì vậy đầu tư tài chính chỉ là tận dụng nguồn
tiền nhàn rỗi của công ty khi đầu tư cho hoạt động chính còn dư thừa.
3.4. Đánh giá hoạt động đầu tư tài chính của Công ty Cổ phần VNM
Hoạt động đầu tư tài chính của công ty dù không chú trọng chuyên sâu
nhưng ở giai đoạn đầu và hình thức đầu tư linh động đã giúp đem lại cho công ty
những khoản lợi nhuận từ nguồn tiền nhàn rỗi trong sản xuất kinh doanh, góp phần
nâng cao nguồn lợi cho công ty nói chung và các cổ đông nói riêng. Hoạt động đầu
tư của công ty không chú trọng hoàn toàn vào một hướng đầu tư nào mà dựa vào
quan sát thị trường công ty có những hình thức đầu tư rất nhạy bén với từng giai
đoạn vừa đem lại lợi nhuận, vốn đầu tư lại linh hoạt thanh khoản nhanh. Mặc dù mở
rộng hoạt động, kinh doanh của mình góp phần nhanh chóng trở thành tập đoàn đa
ngành nhưng công ty cũng đang thực hiện việc mở rộng một cách dần dần không
đột ngột chính vì thế giúp công ty không quá bỡ ngỡ khi mới bước chân vào một
lĩnh vực mới. Bên cạnh đó công ty vẫn đặt hoạt động sản xuất chính của mình lên
hàng đầu vẫn xem trọng nó chính vì thế vẫn tạo được niềm tin cho các cổ đông.
Hoạt động đẩu tư tài chính của công ty không hoàn toàn là sự thành công mà
còn có những mặt hạn chế của nó. Với định hướng đầu tư của mình dù có thể an
toàn cho công ty khi mới chân ướt chân giáo bước vào lĩnh vực này trong khi trong
ngành đã có nhiều ông lớn đang hoạt động rất tốt trong nhiều năm qua nhưng lại
mang lại lợi nhuận không cao, công ty đầu tư nhưng không tìm hiểu kỹ nên trong
lĩnh vực đầu tư vào các liên doanh liên kết hầu như không mang lại lợi nhuận cho
công ty thậm chí còn phải chịu lỗ. Các khoản dự phòng đầu tư tài chính cũng làm
giảm lợi nhuận chung của công ty.
4. Đánh giá hoạt động đầu tư tài chính tại các Công ty sản xuất của Việt Nam
4.1. Thành công
So với giai đoạn trước năm 2005 thì hoạt động đầu tư tài chính đã sôi động
hơn.Các công ty huy động vốn từ các cổ đông các công ty liên kết để đầu tư tài chính.
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 75
Trong giai đoạn này đã không còn xảy ra tình trạng thiếu vốn cho hoạt động sản xuất
chính của công ty nữa mà thậm chí nguồn vốn nhàn rỗi của công ty cũng bắt đầu tăng lên
nên công ty có thể dành nguồn vốn này cho hoạt động đầu tư tài chính.
Nhờ hoạt động đầu tư tài chính mà nguồn vốn trên thị trường được tận dụng
một cách triệt để, tạo ra lợi nhuận cho các công ty nói riêng và cả nền kinh tế nói
chung. Hoạt động đầu tư tài chính vào các loại trái phiếu chính phủ đã giúp chính
phủ giải quyết được tình trạng thiếu hụt vốn cho các dự án phát triển của toàn đất
nước. Hoạt động đầu tư tài chính vào các công ty khác giúp công ty đầu tư giải
quyết được hướng đầu tư cho dòng tiền nhàn rỗi, không để tiền chết mà luôn tạo ra
lợi nhuận, đối với những công ty nhận đầu tư thì giải quyết được tình trạng thiếu
vốn cho hoạt động của mình. Nhờ đó mà kéo theo sự phát triển của cả nền kinh tế.
Nhận thức của các công ty khác với thời kỳ trước, hiện nay đã rất năng động, nhạy
bén, phát triển, mở rộng các hoạt động đầu tư tài chính trên nhiều phương diện cả
quy mô, chất lượng và loại hình. Điều này góp phần tạo cho thị trường tiền tệ trong
nước trở nên sôi động và trưởng thành hơn.
Ngồn vốn đầu tư tài chính của các công ty đã mở rộng ra ngoài phạm vi quốc
gia điều này giúp củng cố hơn nữa vị thế của các công ty ngoài lãnh thổ đất nước,
tìm kiếm được nguồn lợi nhuận phong phú đa dạng hơn, nhiều hơn. Và đặc biệt
mang về nguồn thu cho quốc gia.
Nhiều công ty đã chú trọng hơn tới hoạt động đầu tư tài chính và để góp
phần tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư của mình công ty đã lập các phòng ban
chuyên phân tích đánh giá và đưa ra chiến lược cho công ty trong hoạt động đầu tư
tài chính. Một số công ty lớn và tập đoàn thì thành lập hẳn các công ty con.
4.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành công đã và đang đạt được thì đầu tư tài chính của các
công ty cũng đang vấp phải những mặt hạn chế. Chạy theo thị trường dồn tiền vào
hoạt động đầu tư tài chính lơ là hoạt động sản xuất kinh doanh chính của mình đang
làm cho nhiều công ty phải gánh chịu những khoản lỗ. Đầu tư tài chính năm 2008
dơi vào tình trạng đen tối nhiều doanh nghiệp như REE, KDC, SAM lợi nhuận âm
dù tổng doanh thu của công ty vẫn tăng so với năm 2007. Hoạt động chính bị lơ là
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 76
bỏ quên khiến công ty đang dần đánh mất đi lợi thế cạnh tranh của mình.
Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty quá dàn trài, danh mục đầu tư
phong phú trong khi nguồn vốn có hạn, không chuyên môn, còn non nớt trong
ngành chính vì thế không thể tập trung được sức lực và trí tuệ để tìm được cách đầu
tư đúng đắn.
Danh mục đầu tư chưa thực sự hợp lý, chưa đa dạng hóa đầu tư một cách
toàn diện, vẫn còn chú trọng đến những kênh đầu tư đem lại lợi nhuận ít, chưa thực
sự đầu tư vào những kênh có lợi nhuận cao như cho vay và đầu tư ủy thác.
Hoạt động phân tích dự báo đầu tư thì còn quá non nớt cùng với sự phát triển
của đầu tư của công ty, thậm chí hoạt động này còn không được xây dựng thành
một bộ phận chuyên nghiệp chính vì thế mà việc đầu tư chưa thực sự có khoa học
phân lớn là cảm tính chạy theo số đông nên điều này càng dễ gặp rủi ro và khi sụp
đổ thì sẽ ảnh hưởng mạnh đến cả thị trường thậm chí sụp đổ cả thị trường.
4.3. Nguyên nhân
Nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính ở công ty có thể
chia thành hai loại nguyên nhân là : nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan.
4.3.1. Nguyên nhân khách quan
Công tác kế toán, kiểm toán ở Việt Nam còn yếu, các quy định trong việc
quy định công bố thông tin còn chưa chặt chẽ nên độ chính xác trong các thông tin
công bố chưa cao, gây khó khăn cho đánh giá cổ phiếu của các nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều biến động. Giai đoạn từ cuối tháng 4
năm 2006 đến tháng 3 năm 2007 chỉ số Vn – index của cả hai sàn Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh cũng như giá cổ phiếu trên thị trường OTC đều tăng mạnh với đỉnh điểm
HaSTC – index đạt 459,36 điểm tăng 90% so với cuối năm 2006 và HoSTC – index
(VN – index) đạt 1170,67 điểm tăng 56%.
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 77
Biểu đồ 2.11: Thay đổi giá chứng khoán Vn – index và HNX – index giai đoạn 2006
– 4/2010
Nguồn: www.cafef.vn
Giai đoạn điều chỉnh bắt đầu từ giữa tháng 3 năm 2007. Do giá các cổ phiếu
đã trở nên quá cao và các biện pháp kiềm chế tăng nóng của thị trường như kiểm
soát nguồn vốn, thông tin về việc thuế đánh vào lợi nhuận đầu tư. Trong giai đoạn
này, chỉ số chứng khoán của cả hai sàn giao dịch tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và
ngay cả trên thị trường OTC đều giảm mạnh vào cuối tháng 3 đầu tháng 4, sau đó
giao động quanh mức 1000 điểm của Vn – index và 300 điểm của HaSTC – index.
Tổng giá trị vốn hóa của thị trường vào khoảng 13 tỷ USD, giảm 23% so với quý
I/2007. Nguyên nhân chính dẫn đến thị trường điều chỉnh trong giai đoạn này là:
Chỉ thị 03/2007/CT – NHNN về việc khống chế dư nợ tín dụng cho vay cầm
cố chứng khoán ở mức 3% tổng mức dư nợ tín dụng Ngân hàng.
Có hơn 90% các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán phát
hành thêm cổ phiếu
Những thông tin bất lợi như tỷ lệ lạm phát trong nước cao, giá vàng tăng cao
và biến động mạnh, thị trường chứng khoán thế giới sụt giảm, đánh thuế thu nhập
đối với những người đầu tư chứng khoán (20%) đều tác động đên tâm lý nhà đầu tư.
Sau tháng 10 năm 2007 thị trường chứng khoán lại tiếp tục sụt giảm nghiêm
trọng sau giai đoạn tăng điểm trở lại giữa năm 2007. Nguyên nhân là do các ngân
hàng thắt chặt cho vay tiền mua cổ phiếu, lượng cổ phiếu mới tung ra thị trường quá
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 78
nhiều trước đó, đặc biệt là chứng khoán cầm cố, và do ảnh hưởng suy giảm kinh tế
thế giới năm 2008. Một số chuyên gia lại cho rằng, việc thị trường rơi tự do như
hiện nay có một phần nguyên nhân từ việc NHNN rút 20.000 tỷ đồng ra khỏi hệ
thống tài chính thông qua việc phát hành tín phiếu bắt buộc cho các Ngân hàng
Thương mại Cổ phần. Chỉ số cả hai sàn liên tục lập đáy mới kỷ lục vào cuối tháng 2
Vn – index đạt 242,53 điểm và HNX – index dạt 80,26 điểm. Sau đó cuối quý I
trước những tín hiệu tích cực của nền kinh tế thế giới cũng như những nỗ lực phục
hồi nền kinh tế của Việt Nam (ban hành gói kích cầu trị giá 8 tỷ USD, nới lỏng
chính sách tiền tệ thông qua điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản) Và tình hình nền kinh
tế đang trên đà khôi phục giúp cho thị trường chứng khoán lại tăng trưởng nhẹ trong
năm này và đầu năm 2010.
Thị trường bất động sản sụt giảm và tăng trưởng không chắc chắn
Năm 2006 thị trường bất động sản dường như vẫn đóng băng vì giá vàng liên
tục leo thang trong khi việc thanh toán mua nhà của người dân đều tính bằng vàng
làm cho người mua và nhà đầu tư có phần chùn bước.
Năm 2007 sau khi chúng ta ra nhập WTO thì dòng chảy của vốn đầu tư từ
các tập đoàn nước ngoài (FDI) đã “cuồn cuộn chảy vào” thị trường Bất động sản
Đơn cử như tại thị trường BĐS tại TP.HCM. Số liệu thống kê cuối năm 2007 cho
thấy, thị trường BĐS chiếm đến 50% vốn đầu tư nước ngoài, cả về số dự án lẫn
tổng vốn đầu tư. Cụ thể, năm 2007, đã có 24 dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
BĐS, với tổng vốn đầu tư hơn 1.530 triệu USD, gấp gần 2 lần tổng vốn đầu tư từ
năm 2000 đến năm 2006 cộng lại. Con số này tiếp tục tăng lên sang năm 2008, khi
có 45 dự án đầu tư vào lĩnh vực BĐS với tổng vốn đầu tư lên gần 3 tỷ USD. Thêm
vào đó là sự sụt giảm của thị trường chứng khoán sau khi đạt đỉnh vào tháng 3/
2007 đã khiến nhà đầu tư quay sang đầu tư vào bất động sản, mức giá các bất động
sản ngày càng cao. Không chỉ trong giới đầu tư, đầu cơ kinh doanh bất động sản,
mà tất cả các cơ quan cung cấp tài chính như quỹ đầu tư, ngân hàng thương mại và
các doanh nghiệp đầu tư vốn cổ phần. Quý I/2007 ghi nhận mức cầu bất động sản
tăng vọt của những nhà đầu tư thắng lợi trên hoạt động chứng khoán. Gía nhà đất
trong quý II/ 2007 tăng chóng mặt tác động đến tâm lý thể hiện rõ trong hành vi vội
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 79
vã tham ra thị trường bất động sản. Những người có nhu cầu sử dụng thực sự cố
gắng tìm và sở hữu một món bất động sản phù hợpvới nguyện vọng và tài chính
trước khi giá leo thang. Một nhóm khác, chiếm từ 50 – 60% người mua bất động
sản nhanh chân thực hiện các giao dich đầu cơ để chờ giá lên. Cũng chính hiện
tượng này khi mà nhiều công ty lớn cũng chuyển vốn đầu tư sang bất động sản đã
gây nên cơn sốt ảo và tiềm ẩn nhiều rủi ro thị trường. Sang quý III thì giá bất động
sản bắt đầu sụt giảm và bình ổn hơn so với quý II.
Năm 2008 kinh tế khủng hoảng, chỉ số giá tiêu dùng tăng mạnh ước tính trên
20% so với năm 2007 trong khi đó chi phí xây dựng lại tăng tới 15% đã làm một số
dự án không đúng tiến độ và hoạt động bất động sản chững lại, giá đất giảm.
Năm 2009 nền kinh tế bắt đầu di vào giai đoạn hồi phục, lạm phát được kiềm chế,
chỉ số giá tiêu dùng giảm so với cùng kỳ năm 2008.
Biểu đồ 2.12: Tăng trưởng CPI của Việt Nam năm 2009 so với 2008
Nguồn: Báo cáo thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2009 của Công ty Cổ phần
chứng khoán FPT.
Chỉ tiêu kiểm soát lạm phát dưới 2 con số của chính phủ hoàn thành khá ấn
tượng với mức tăng 6,88%. Bên cạnh đó tổng vốn FDI đầu tư vào thị trường bất
động sản đạt khoảng 5,67 tỷ USD đứng thứ hai trọng hạng mục đầu tư vào Việt
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 80
Nam nên góp phần làm cho thị trường bất động sản tăng trưởng tốt hơn.
Các chính sách mới để kiểm soát thị trường tài chính tiền tệ còn nhiều bất ổn.
Trước những dấu hiệu gia tăng lạm phát cuối năm 2007, ngay từ đầu năm 2008
NHNN đã theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt. Những động thái đầu tiên như quy
định tỷ lệ dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng
khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, tăng lãi suất cơ bản
lên mức 8,75% (+ 0,5%) và phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Những
liệu pháp này đã gây cú sốc với nền kinh tế. Canh đó sự sụp đổ của nhiều ngân hàng
trên thế giới sau cuộc khủng hoảng như Bear Stearns, một ngân hàng danh tiếng
cũng đã ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường tín dụng Việt Nam. Trước tiên là khan
hiếm tín dụng. Dù NHNN có “bơm” trở lại lưu thông 33.000 tỷ đồng ngay trong
tháng 3/2008, nhưng trong quá trình tái cơ cấu lại các khoản tín dụng và đáp ứng
yêu cầu tham ra mua tín phiếu bắt buộc. Thêm vào đó lạm phát gia tăng cũng đẩy
mặt bằng lãi suất lên cao theo nguyên lý “lãi suất dương”. Liên tiếp trong tháng
5,tháng 6 năm 2008 lãi suất cơ bản được nâng lên 12% rồi 14%. Với biên độ giao
động cho phép là 150% có thời điểm lãi suất huy động vượt trên 20%/ năm. Tăng
trưởng tín dụng sau khi tăng cao 54% năm 2007 đã giảm xuống còn 24% trong năm
2008. Để kích thích nền kinh tế phát triển trở lại NHNN cùng với những gói kích
thích hỗ trợ lãi suất ngắn hạn 4% và những biện pháp điều hành lãi suất thấp trong
suốt 10 tháng đầu năm 2009. Do chính sách của ngân hàng trung ương khống chế
lãi suất cho vay bằng lãi suất cơ bản thì việc áp dụng tăng lãi suất huy động để đáp
ứng nhu cầu vay vốn của xã hội là điều dễ hiểu. Đến cuối năm 2009 lãi suất huy
động của các ngân hàng mới bắt đầu tăng lên, việc tăng lãi suất cơ bản lên 8% vào
đầu tháng 12/2009 đã làm giảm áp lực huy động vốn cho ngân hàng.
4.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Trong giai đoạn này nhiều công ty sản xuất kinh doanh đều xác định mục
tiêu cho mình là trở thành những tập đoàn đa ngành nghề, do vậy trong một thời
gian ngắn các doanh nghiệp đã mạnh dạn chuyển hướng đầu tư vào những lĩnh vực
mới, như bất động sản, đầu tư tài chính, thương mại dịch vụ, trong khi năng lực có
hạn nguồn lực chưa được chuẩn bị tốt.
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 81
Hệ thống quy trình, số liệu chưa được chuần hóa, chưa có sự gắn kết giữa
các bộ phận tham ra đầu tư. Việc khớp số liệu giữa các ngành bộ phận trong công ty
còn khó khăn do chưa quen với những số liệu mới, chưa cập nhập được quy chế đầu
tư mới.
Cũng mới tham ra và không chuyên nên việc cập nhật tình hình thị trường,
phân tích đánh giá biến động của thị trường còn chưa có tổ chức nên khó quản lý tốt
danh mục đầu tư, hiệu quả đầu tư chưa cao.
Mặc dù có mở rộng hoạt động đầu tư nhưng chưa chủ động tìm kiếm hướng
đầu tư mà chủ yếu vẫn tìm đến những kênh đầu tư chuyền thống để giảm bớt rủi ro
nhưng lợi nhuận lại không cao.
Quy trình nghiệp vụ đầu tư chưa thực hiện theo chuẩn nào nên hoạt động
thiếu nhanh nhạy, không kịp phản ứng với sự thay đổi của thị trường.
Kết luận chƣơng II
Chương II đã phân tích đánh giá thực trạng đầu tư tài chính tại một số công
ty sản xuất điển hình như (REE, KDC, VNM) nói riêng và các công ty sản xuất nói
chung tại thị trường nước ta. Trong chương này chúng ta đã nhìn thấy kết quả đạt
được to lớn cũng như những vấn đề cần phải giải quyết trong từng khâu từng mảng
đầu tư nói riêng cũng như toàn bộ hoạt động đầu tư tài chính nói chung. Trên cơ sở
đó ta sẽ có thể đưa ra những giải pháp cụ thể, phù hợp ch khắc phục những vấn đề
còn tồn đọng trong hoạt động đầu tư tài chính tại các công ty sản xuất ở nước ta để
góp phần nâng hơn nữa hiệu quả cuả hoạt động này cũng như hoạt động chung của
công ty. Những giải pháp này sẽ được đề cập ở chương III của khóa luận.
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 82
CHƢƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƢ TÀI CHÍNH TẠI CÁC
CÔNG TY SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM.
Từ những nguyên nhân làm cho hoạt động đầu tư tài chính kém hiệu quả ở
các công ty sản xuất ở Việt Nam đã được trình bày trong chương II, chương III sẽ
đề ra những giải pháp phù hợp theo nguyên nhân đó và được đề cập trong hai nhóm
giải pháp chính là giải pháp dành cho nhà nước và giải pháp dành cho chính công ty.
I. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC
1. Nâng cao hiệu quả chính sách tiền tệ
Trước hết cần xác định rõ ràng các mục tiêu chính sách tiền tệ phù hợp với từng giai
đoạn phát triển kinh tế; kế tiếp đó là lựa chọn, xây dựng và điều hành có hiệu quả hệ
thống các công cụ chính sách tiền tệ nhằm góp phần đạt được các mục tiêu cuối
cùng đã đề ra. Để hỗ trợ việc nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ còn có
thêm một số điều kiện như : điều hành chính sách tiền tệ của NHTW cần có tính
độc lập, xác định rõ trách nhiệm và thể hiện tính minh bạch; sự phát triển của các
trung gian tài chính và thị trường tiền tệ; sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ với
chính sách tài chính và các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Bên cạnh những công cụ điều tiết tiền tệ trực tiếp (hạn mức tín dụng), điều
tiết gián tiếp (tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, thị trường mở) thì cũng cần có những
biện pháp hành chính như thay đổi các điều kiện niêm yết, quy định giới hạn tham
gia thị trường, xiết chặt các điều kiện chuyển đổi tiền tệ, cấm chuyển vốn ra nước
ngoài trong giai đoạn cần thiết…
Duy trì việc tự do hoá công cụ lãi suất. Để NHNN thực sự là người cho vay cuối
cùng trên thị trường liên ngân hàng, cần tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất theo
hướng : sử dụng lãi suất tái chiết khấu như lãi suất sàn; lãi suất cho vay qua đêm và lãi
suất tái cấp vốn làm lãi suất trần trên thị trường liên ngân hàng nhằm tác động đến việc
huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại trên thị trường.
Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường ,
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 83
trong mối quan hệ với lãi xuất có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các
cân đối vĩ mô của nền kinh tế.
Cần thiết lập hệ thống giám sát có hiệu quả để tránh tình trạng đầu cơ và
lũng đoạn thị trường.
Các cơ quan quản lý cần có quyền lực pháp lý phù hợp để phản ứng đối với
các cuộc khủng hoảng tài chính nhằm tạo môi trường đầu tư an toàn kích thích đầu
tư tài chính tại các công ty và nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính.
NHNN cần phải xây dựng được đội ngũ nhân viên có khả năng nhanh nhạy thu
thập được thông tin từ thị trường nhanh nhất chính xác nhất để có thể dự đoán tình hình
biến động thị trường từ đó đưa ra những kịch bản ứng phó phù hợp, kịp thời.
Thực hiện tự do hóa tài chính theo một lộ trình thích hợp tránh nóng vội gây
nên phản tác dụng. Ta có thể tham khảo mô hình tự do hóa tài chính cho các nước
đang phát triển do World Bank đề xuất.
Giai đoạn 1: Khởi động tự do hóa tài chính
Kiềm chế thâm hụt ngân sách và ổn định kinh tế vĩ mô.
Chính phủ cần thu hẹp các chương trình tín dụng có chỉ đạo, đồng thời điều
chỉnh mô hình và mức lãi suất phù hợp với tỷ lệ lạm phát và các lực lượng thị
trường khác.
Hoàn thiện hệ thống kế toán và luật pháp tài chính, thủ tục thực hiện hợp
đồng, yêu cầu công khai hóa tài chính, cơ cấu quy định thận trọng và giám sát,
khuyến khích tự chủ trong các tổ chức tài chính.
Cải cách một số tổ chức tài chính có tỷ lệ nợ quá hạn cao.
Nâng cao hiệu quả của khu vực kinh doanh thông qua tự do hóa thương mại
và công nghiệp.
Giai đoạn 2: Đẩy mạnh tự do hóa tài chính
Đưa ra nhiều mức lãi xuất tiền gửi và cho vay để thúc đẩy sự phát triển của
thị trường và định chế tài chính, khuyến khích cạnh tranh.
Khuyến khích sự tham gia của nước ngoài vào thị trường tài chính trong
nước để tăng cường cạnh tranh và hiệu quả, song duy trì hạn chế nhất định cho đến
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 84
khi các tổ chức tài chính trong nước có đầy đủ khả năng cạnh tranh và duy trì kiểm
soát vốn.
Giai đoạn 3: Hoàn tất tự do hóa tài chính
Tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
Xóa bỏ hoàn toàn các chương trình tín dụng theo quy định.
Nới lỏng kiểm soát vốn.
Xóa bỏ mọi hạn chế với các tổ chức nước ngoài.
2.Thúc đẩy sự phát triển của thị trƣờng chứng khoán
Cần xây dựng được hành lang pháp lý có hiệu lực và hiệu quả với các văn
bản luật, quy phạm, quy chế chặt chẽ để có thể làm công cụ quản lý thị trường một
cách tốt nhất.
TTCK Việt Nam cần có sự giám sát và quản lý tính minh bạch của các báo
cáo tài chính. Các Công ty niêm yết đều phải thông báo tình hình tài chính vào mỗi
quý, cần có diễn giải hoặc số liệu chi tiết hơn.
Cần phải thanh tra, giám sát các hoạt động thị trường một cách thường xuyên
liên tục để có thể phát hiện những hoạt động sai phạm trái phép gây nên bất ổn cho
thị trường như đầu cơ, mua bán nội gián, thâu tóm, lũng đoạn thị trường. Để nâng
cao hiệu quả thanh tra giám sát thì UBCK cần kiểm tra, kiểm soát nhằm đảm bảo
Doanh nghiệp thực hiện chào bán theo đúng luật định, đảm bảo vốn thu được từ
phát hành cổ phiếu được sử dụng đúng mục đích đã đề ra. Trong thời gian qua có
nhiều doanh nghiệp đã tận dụng sự phát triển nóng của thị trường mà phát hành một
lượng lớn cổ phiếu huy động vốn để đầu tư tài chính hoặc sử dụng cho các phương
án chưa rõ ràng chính vì thế luật phải quy định rõ hơn điều kiện được phát hành vốn
như thời gian giữa các đợt phát hành, số lượng phát hành, mục đích phát hành có
hợp lý không.
Nâng cao tính cưỡng chế thực thi trong việc xử lý các vi phạm về chứng
khoán và TTCK. Hiện nay mức phạt đối với nhiều hành vi còn thấp chưa đủ sức răn
đe. Mức tiền phạt tối đa trong lĩnh vực chứng khóan trước đây là 70 triệu đồng, năm
2008 đã sửa đổi nâng mức phạt lên 500 triệu đồng. Cần phải có mức phạt phù hợp
thỏa đáng cho mỗi loại hành vi và tính chất nghiêm trọng mà hành vi đó gây ra.
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 85
Hoàn thiện hệ thống giám sát thị trường, xác định rõ tiêu chí phân định giám
sát đối với các mảng hoạt động của thị trường.
Đội ngũ thanh tra giám sát cần phải được nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ
để có thể phát hiện dễ dàng và nhanh chóng các sai phạm trên thị trương để từ đó có
thể hạn chế thiệt hại sử lý nhanh chóng sia phạm. Ngoài ra cần phải nâng cao thẩm
quyền vị trí , vai trò của thanh tra đặc biệt là tính độc lập để có thể sử lý vấn đề một
cách khách quan nhất.
Phát triển thị trường trái phiếu chính phủ cũng cần minh bạch rõ ràng hơn.
Công khai kế hoạch phát hành, tránh phát hành riêng lẻ, tổ chức phát hành lô lớn,
xây dựng đường cong lợi tức chuẩn đối với trái phiếu chính phủ.
3. Phát triển thị trƣờng bất động sản
Nhìn chung thị trương bất động sản nước ta còn thiếu khung pháp lý, hoạt
động bất ổn định, tính công khai của thị trường rất không minh bạch chính vì thế
hoạt động tham ra vào thị trường còn rất rụt rè và số lượng không nhiều. Vì thế để
cải thiện tình hình này thì cần xây dựng được các thể chế quy định việc cung cấp
thông tin thị trường một cách chính xác nhất. Các dự án quy hoạch của nhà nước thì
cũng cần có lộ trình và thời gian phù hợp để thông tin được đưa đến cho nhà đầu tư
một cách kịp thời và đáng tin cậy nhất.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI CÔNG TY
Những hạn chế còn tồn đọng trong hoạt động đầu tư tài chính tại các công ty sản
xuất trong giai đoạn này chủ yếu vẫn là do xem trọng đến quy mô đầu tư mà không
qua tâm đánh giá đến chất lượng chính vì vậy mà hiệu quả đầu tư không cao dù
lượng đầu tư bỏ ra không hề nhỏ. Vì thế trong thời gian tới các Công ty cần phải có
những biện pháp nâng cao chất lượng đầu tư. Sau đây là một số giải pháp cụ thể cho
công ty.
1. Xác định hƣớng đầu tƣ phù hợp
Sự phát triển quá nóng của thị trường tài chính năm 2006 – 2007 với nhiều
lợi nhuận đem lại cho các công ty đang hoạt động trong lĩnh vực tài chính khiến cho
các công ty trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng ham muốn thu được lợi nhuận
cao ở lĩnh vực này thay cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh của mình với lợi nhuận có
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 86
thể không cao bằng lại lâu đạt được. Chính vì thế nhiều công ty sản xuất kinh doanh
đã ngay lập tức tận dụng nguồn vốn dư thừa trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình hoặc nguồn vốn đang đầu tư vào lĩnh vực không hiệu quả chuyển sang
hoạt động đầu tư tài chính tạo được sự lưu chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế và
đem lại lợi nhuận cho các công ty đầu tư. Tuy nhiên để có thể chắc chắn thu được
lợi nhuận và lợi nhuận phải cao thì công ty cần phải xác định rõ hướng đầu tư của
mình, đầu tư vào đâu là có lợi nhất? Điều này đang được rất ít các doanh nghiệp
xem xét, đa phần họ vẫn giữ suy nghĩ như khi mới bắt đầu đầu tư thấy có lợi là lao
vào theo xu thế đám đông, một hiện tượng rất phổ biến ở Việt Nam. Chính vì thế
định hướng đầu tư là một việc rất quan trọng nó gần như quyết định sự thành bại
của việc đầu tư. Nhiều công ty đầu tư vào danh mục thu được lợi nhuận cao nhưng
cũng có nhiều công ty đầu tư vào danh mục gây nên thua lỗ. Điều này chưa hăn
khẳng định đâu là đầu tư có lợi, đâu là đầu tư không có lợi. Những biến động này
tùy thuộc vào tình hình biến động nền kinh tế trong từng thời kỳ, từng giai đoạn.
Chính vì thế công ty muốn luôn luôn thu lợi nhuận thì phải xác định được định
hướng đầu tư chuyên nghiệp. Trước tiên để có thể xác định được định hướng đầu tư
cho mình công ty cần xem xét phân tích hoạt động kinh doanh chính của mình, cân
đối nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chính của mình và nguồn vốn cho
đầu tư tài chính một cách hợp lý, khả năng chấp nhận rủi ro, các quy chế pháp luật
liên quan. Sau đó từ tình hình tài chính tổng thể nhìn nhận nhu cầu hiện tại và
tương lai của mình cũng như năng lực của bản thân Công ty làm cơ sở cho việc xác
định một cách có hệ thống những mục đích cũng như định hướng đầu tư. Có thể là
đầu tư dài hạn hay ngắn hạn, nên đầu tư vào kênh đầu tư nào, đầu tư vào ngành
nào…
2. Hoàn thiện công tác tổ chức hoạt động đầu tƣ tài chính
Về mặt cơ cấu tổ chức: Để hoạt động đầu tư tài chính có thể được thực hiện
một cách chuyên nghiệp và độc lập thì cần xây dựng dựng được một bộ phận
chuyên về hoạt động đầu tư tài chính như phòng đầu tư tài chính hoặc công ty con.
Có như thế hoạt động này mới xác định được mục tiêu cụ thể cho mình có phương
hướng hoạt động phù hợp cũng như có thể đánh giá được hiệu quả hoạt động một
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 87
cách nhanh chóng chính xác và có phương hướng điều chỉnh phù hợp. Tuy nhiên
vẫn phải có sự liên kết điều hành quản lý từ tổng công ty hoặc công ty mẹ để bộ
phận đầu tư tài chính vẫn hoạt động trên cơ sở vì mục tiêu chung của toàn công ty.
Về mặt nhân sự: Hoạt động đầu tư tài chính là một hoạt động tương đối khó
nhất là khi nó mới chỉ phát triển mạnh mẽ ở nước ta trong một vài năm trở lại đây,
bên cạnh đó thị trường Việt Nam lại có nhiều biến động không theo quy luật, có
những cái khác biệt so với thị trường thế giới, chính vì thế để hoạt động đầu tư tài
chính có thể đạt được hiệu quả cao cần phải xây dựng được đội ngũ cán bộ đầu tư
tài chính có chuyên môn cao, năng nổ, nhiệt tình, giỏi ngoại ngữ am hiểu về luật lệ
và tập quán quốc tế về hoạt động đầu tư, nhạy bén với thị trường, nhìn nhận và bắt
kịp xu thế của thị trường thì mới có thể đề ra được những phương án hoạt động tốt
nhất. Không chỉ xây dựng đội ngũ đầu vào tốt mà còn phải thường xuyên trau dồi
kiến thức cho đội ngũ nhân viên bằng việc tổ chức cho họ học lên cao hơn các
nghiệp vụ, mở các buổi tiếp xúc trao đổi kinh nghiệm giữa các nhân viên trong công
ty cũng như mời các chuyên gia bên ngoài. Bên cạnh nâng cao trình độ cán bộ thì
cũng cần phải đánh giá chất lượng mà họ thực hiện được trong công việc của mình.
Đánh giá chất lượng không đơn giản chỉ nhìn vào kết quả mà cần phải có sự nhìn
nhận một cách tổng thể có tương quan với các mối quan hệ khác như thành tích
chung của toàn Công ty hay của thị trường đầu tư tài chính trong nước và quốc tế.
3. Xây dựng quy trình đầu tƣ phù hợp
Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư cần xây dựng được quy
trình đầu tư hợp lý và khoa học, có như thế mới giúp công ty có những bước đầu tư
đúng đắn. Quy trình hoạt động động đầu tư có thể được thực hiện như sau
(1) Tiến hành điều tra tình hình thị trường, xu hướng vận động của thị trường
họat động đầu tư vào kênh nào là có lợi, nên đầu tư vào khách hàng nào từ
đó tìm hiểu kỹ về tình hình hoạt động của khách hàng cũng như tài chính và
các mối quan hệ làm ăn liên quan của khách hàng đó để từ đó có cái nhìn
tổng thể nhất về nơi mình sẽ có thể đầu tư vào đó.
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 88
(2) Phân tích cơ cấu nguồn vốn của mình để xác định được nguồn vốn đầu tư, có
thể là nguồn vốn đang dư thừa hay nguồn vốn trong hoạt động khác đang
không có lợi và sẽ cần bao nhiêu.
(3) Xây dựng danh mục đầu tư, dự định đầu tư vào đấy bao nhiêu và trong bao
lâu
( 4) Đánh giá và đưa ra quyết định đầu tư chính thức.
(5) Thực hiện đầu tư và lập bộ phận giám sát hoạt động đầu tư để điều hành hoạt
động theo đúng kế hoạc đề ra.
(6) Thẩm định lại hoạt động đầu tư.
Tuy nhiên đây chỉ là một quy trình hoạt động đầu tư cho những hoạt động
mang tính dài hạn và là những dự án lớn. Trong trường hợp hoạt động đầu tư ngắn
hạn mang tính chớp nhoáng thì cần phải có những cán bộ quản lý đầu tư giỏi có tính
quyết đoán để có thế đưa ra quyết định ngay theo biến đổi thị trường nhằm thu lợi
và tránh thiệt hại một cách tối đa.
4. Tăng cƣờng công tác đánh giá hiệu quả các hoạt động đầu tƣ tài chính
Bất kỳ hoạt động nào cũng thế hiệu quả hoạt động vẫn luôn là thước đo
chính xác nhất và dễ nhận thấy chính vì thế mà việc tăng cường công tác đáng giá
hiệu quả đầu tư sẽ cho công ty thấy được kết quả mình làm được từ đó nhận ra được
những mặt xấu, mặt tốt của hoạt động giúp kinh nghiệm cho những hoạt động đầu
tư sau này. Tuy nhiên để đánh giá hiệu quả thì cũng cần phải tuân theo những tiêu
chí nào vì thế cần phải lập được hệ thống tiêu chí đánh giá để có thể đối chiếu kết
quả vào hệ thống tiêu chí đó. Bên cạnh đó không chỉ kiểm tra đánh giá để giải quyết
hậu quả mà cũng cần có những kiểm tra đánh giá ngay từ khâu thẩm định cũng như
thực hiện, nói chung là hầu hết tất cả các khâu đều phải có bộ phận kiểm tra để đảm
bảo cho hoạt động đúng cũng như phát hiện kịp thời sai phạm và sử lý tại chỗ tránh
gây ảnh hưởng cho những khâu tiếp theo dẫn đến kết quả xấu hơn.
5. Tích cự ứng dụng khoa học công nghệ cao
Để hệ thống tiêu chí đánh giá hoạt động một cách hiệu quả thì những số liệu phải
chính xác và đầy đủ chính vì thế cũng cần hoàn thiện công tác hạch toán kế toán có độ
chính xác cao và nhanh nhẹn. Để dễ dàng thực hiện điều này thì nên ứng dụng công nghệ
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 89
thông tin vào việc tính toán số liệu và ứng dụng các phân mềm khoa học mới như phần
mềm quản lý và dự báo dòng tiền, phâm mềm quản lý ngân quỹ.
Bên cạnh đó ứng dụng khoa học công nghệ cao để thu thập được đầy đủ
thông tin hơn, kịp thời và chính xác từ đó có thể đưa ra những phương án hoạt động
cũng như điều chỉnh nhanh nhất có thể.
6. Đa dạng hóa danh mục đầu tƣ
Hoạt động đầu tư là một hoạt động lợi nhuận mang lại là rất lớn xong cũng
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao chính vì thế để hạn chế rủi ro công ty nên đa dạng hóa
danh mục đầu tư. Đa dạng hóa danh mục đầu tư nhưng vẫn phải có sự nhìn nhận
đánh giá đa dạng có trọng tâm, phù hợp với tình hình của công ty, tránh tình trạng
đa dạng hóa một cách quá dàn trải sẽ không đem lại lợi nhuận do khả năng quản lý
lớn của công ty không tốt nhất là công ty chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực
đầu tư tài chính, ngoài ra công ty cũng sẽ bị phân tán lực lượng nhân sự nhất là khi
bộ phận này chưa tổ chức lớn và công ty cũng sẽ không hiểu rõ hết mọi hoạt động
không nhìn nhận được tình hình hoạt động dẫn đến hoạt động đi lệch hướng kém
hiệu quả mà vẫn không phát hiện ra kịp thời. Ngoài ra đa dạng hóa dàn trải cũng có
thể đánh mất lợi nhuận từ việc hoạt động không hiệu quả cũng như lấy mất vốn từ
hoạt động đầu tư hiệu quả
Kết luận chƣơng III
Từ việc tìm hiểu những khái quát chung liên quan đến hoạt động đầu tư tài
chính trong chương I và phân tích chi tiết rõ ràng hoạt động đầu tư tài chính tại một
số công ty cụ thể có hoạt động đầu tư tài chính rất lớn trong những năm qua tại
nước ta cùng với những thành quả mà các công ty này đạt được và hạn chế mà hoạt
động đầu tư tài chính gây ra cũng như một số nguyên nhân chính gây nên tình trạng
này. Chương III đã dựa vào những điều đó để đưa ra những giải pháp cụ thể góp
phần nào có thể khắc phục triệt để những hạn chế đang còn tồn đọng trong hoạt
động đầu tư tài chính tại các công ty sản xuất của nước ta hiện nay, giúp cho các
công ty có thể đưa hoạt động này phát triển tốt hơn nữa, góp phân thúc đẩy hoạt
động của công ty tốt một cách toàn diện cũng như tạo ra một nền kinh tế khỏe mạnh
của Quốc gia, đưa đất nước phát triển cùng thế giới.
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 90
KẾT LUẬN.
Hoạt động đầu tư tài chính trong những năm qua đã có những phát triển vượt
bậc góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia. Nhiều
công ty đã thu lại được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ hoạt động này so với
hoạt động sản xuất kinh doanh chính của mình, góp phần đưa công ty phát triển
mạnh mẽ hơn nữa khẳng định thương hiệu cũng như tiềm lực kinh tế của mình, và
đặc biệt hoạt động này góp phần lớn cho nhiều công ty trong con đường tiến lên
thành tập đoàn kinh tế đa ngành của Việt Nam. Tuy nhiên thị trường đầu tư tài
chính của nước ta còn khá non trẻ là một sân chới mới đối với các công ty vì thế cơ
hội và nguy cơ đều rất lớn. Để góp phần cho họat động này trở nên sôi động và phát
triển hớn nữa thì đòi hỏi các công ty phải không ngừng đổi mới, học tập tiếp thu
kinh nghiệm từ những quốc gia đi trước trên thế giới. Hoạt động đầu tư tài chính
không chỉ như là một lĩnh vực hoạt động mới của công ty mà đang dần trở thành
hoạt động chính có tính chất quyết định đối với toàn công ty vì thế phát triển hoạt
động đầu tư tài chính là cần thiết đối với các công ty.
Hoạt động đầu tư tài chính tại các công ty sản xuất trong những năm vừa qua
là khá khả quan song thị trường còn nhiều biến động cũng như mới ra nhập vào lĩnh
vực này nên trong hoạt động đầu tư tài chính của các công ty vẫn còn bộc lộ nhiều
khuyết điểm. Mong rằng với việc phân tích và đưa ra những ý kiến phát triển hoạt
động đầu tư tài chính của khóa luận này sẽ góp phần nào vào việc cải thiện tốt hơn
nữa hoạt động đầu tư tài chính tại các công ty sản xuất của nước ta, để hoạt động
này có thể phát triển hơn nữa, tăng tính hiệu quả.
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài chính, (2002), Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam – Chuẩn mực số
01
2. Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, (2006), Luật chứng
khoán Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp.
3. Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam , (2005), Luật doanh
nghiệp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia.
4. Tổng cục thống kê, (2010), Niên giám thống kê tóm tắt năm 2009, Nhà xuất
bản Thống kê.
5. Trần Thị Thái Hà, (2005), Đầu tư tài chính, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
6. TS. Nguyễn Minh Kiều, (2008), Tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản thống
kê Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Luân (chủ biên), Trần Việt Hoàng, Cung Trần Việt, (2007), Các
nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Đại học
Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh.
8. PGS, TS Nguyễn Năng Phúc, (2005), Phân tích hoạt động đầu tư tài chính
của doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài chính.
9. PGS Đinh Xuân Trình, (2002), Giáo trình thanh toán Quốc tế trong ngoại
thương, Nhà xuất bản Giáo dục.
10. Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp (NSCERD) và BTC (2008) dựa trên
76 tập đoàn kinh tế và tổng công ty
11. Báo cáo tài chính của BBC
12. Báo cáo thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2009 của Công ty Cổ phần
chứng khoán FPT
13. Báo cáo tài chính của HAP
14. Báo cáo tài chính của HHC
15. Báo cáo tài chính của HNM
16. Báo cáo tài chính của KDC
17. Báo cáo phân tích Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam của công ty cổ phần
chứng khoán MHB
18. Báo cáo tài chính của MPC
Hoạt động đầu tư tài chính tại một số công ty sản xuất của Việt Nam
Trương Thị Lương – N2 – QTKD – K45 92
19. Báo cáo tài chính của NKD
20. Báo cáo tài chính của MPC
21. Báo cáo tài chính của REE
22. Báo cáo tài chính của SAM
23. Báo cáo phân tích KDC của công ty cổ phần chứng khoán Tràng An
24. Báo cáo tài chính của VNM
Một số trang Web:
www.gso.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5065_8073.pdf