Mục lục
1. Nguyên nhân khủng hoảng
1.1. Những nguyên nhân chủ quan .
1.1.1. Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém, nền kinh tế phát triển mất cân đối .
1.1.2. Thâm hụt tài khoản vãng lai(THTKVL) .
1.1.3. Các dòng vốn nước ngoài kéo vào
1.1.4. Tỷ giá hối đoái dồn nén một cách khiên cưỡng. .
1.1.5. Hệ thống tài chính yếu kém và vấn đề niềm tin bị tổn thương .
1.2. Những nguyên nhân khách quan .
1.2.1. Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút, những thay đổi bất lợi của
kinh tế thế giới. .
1.2.2. Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
2. Diễn biến cuộc khủng hoảng ở một số quốc gia .
2.1. Thái Lan .
2.2. Hàn Quốc .
2.3. Malaysia
2.4. Indonesia
2.5. Philippines .
2.6. Hong Kong
3. Những tác động của cuộc khủng hoảng .
3.1. Tiêu cực .
3.2. Tích cực .
4. Giải pháp thoát khỏi khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á
4.1. Ở cấp độ quốc tế: .
4.1.1. Hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế
4.1.2. Hỗ trợ quốc tế .
4.2. Ở cấp độ khu vực:
4.2.1. Tăng cường hợp tác khu vực: .
4.2.2. Thành lập cơ chế giám sát tài chính ASEAN .
4.2.3. Nới lỏng dần chính sách tài chính - tiền tệ
4.2.4. Vấn đề tỷ giá
4.2.5. Tăng cường các nguyên tắc thị trường trong kinh doanh
4.2.6. Phát huy nội lực trong nước và giảm bớt thái độ vọng ngoại .
4.2.7. Nhận thức về thái độ tự do hóa thị trường .
4.2.8. Cải tiến và nâng cấp môi trường đầu tư .
4.2.9. Vai trò của các chính phủ
5. Những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á
5.1. Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
5.2. Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp. .
5.3. Nguy cơ dư thừa vốn. .
6. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ Châu Á.
TÀI LIỆU THAM KHẢO .
25 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8876 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính – Tiền tệ Đông Á 1997-1999, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các
ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết
quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization
policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn
chảy vào nền kinh tế.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt
ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời
kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì
giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong
hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và
chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù
đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là
vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
1.1.5. Hệ thống tài chính yếu kém và vấn đề niềm tin bị tổn thương
Bài học đắt giá nhất cho kinh tế mỗi nước là nếu chỉ quan tâm đến tăng
trưởng nóng mà không chú ý kiện toàn hệ thống tài chính, hệ ủa tất yếu là ngân
sách nhà nước bị thâm hụt, lạm phát tăng, nền kinh tế sớm muộn gì củng lâm vào
khủng hoảng. Hệ thống ngân hàng tài chính là một lĩnh vực hết sức nhậy cảm và
chứa đựng nhiều rủi ro, chỉ cần một tổn thương cũng gây nên những xáo trộn lớn
trong quá trình điieù tiết kinh tế. Việc duy trì quá lâu tỷ gia hối đoái cố định đã tạo
nên kẻ hở trong hệ thống ngân hàng của các nước này. Hệ thống ngân hàng hoạt
động yếu kém dấn đến kẻ hở cho nhà đấu cơ tiền tệ vay vốn để mua ngoại tệ kiếm
lời. Sự tăng giá của đồng Yên Nhật so với USD khiến cho các ngân hàng đổ xô
mua nhau mua sau đó bán lại để mua USD hưởng chênh lệch giá.
Hiện tượng thất thoát vốn do đầu cơ tiền tệ ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Để duy trì tốc độ tăng trưởng và tỷ giá hối đoái cố định ngân hàng tiếp tục vay
nóng ngân hàng nước ngoài dẫn đến giới hạn nguy hiểm khi tỷ lệ nợ vượt xa dự trữ
ngoại tệ trong nước. Các chuyên gia IMF cho biết tỷ lệ nợ /dự trữ ngoại hối ở Thái
Lan, Indonêsia xấp xỉ 3 lần, Philippin gấp 4 lần, hấp nhất là Malaysia là 10 tỷ
USD. Nguy hiểm hơn khi nhà đầu tư nước ngoài khẩn trương rút vốn khi thấy có
sự bất ổn.
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
6
Do thất thoát và khê đọng vốn ở thị trường bất động sản dấn đến hàng loạt
ngân hàng trong khu vực tuyên bố vỡ nợ. Điển hình như ở Thái Lan, 10 ngân hàng
lớn nhất đứng trước nguy cơ phá sản. Các Nhà đầu tư trong và ngoài nước bắt đầu
có hội chứng mất dần niềm tin, hàng loạt khách hàng rút vốn ra khỏi ngân hàng-tài
chính đã làm suy giảm thị trường chứng khoán ở các nước này.
Sau lời tuyên bố từ chức của Bộ trưởng Tài chính A. Vinavan vào cuối
tháng 6/1997 khi khủng hoảng xảy ra, giới kinh doanh đầu tư mất niềm tin làm thị
trường chứng khoán Băngkok giảm xuống ở mức thấp nhất với chỉ số 482,97
điểm, giảm 14,75 điểm so với giữa tháng 6/1997. Các nhà đầu cơ bán hạ giá các cổ
phiếu và chuyển tiền ra nước ngoài để mua USD.
1.2. Những nguyên nhân khách quan
1.2.1. Thị trường thương mại toàn cầu giảm sút, những thay đổi bất lợi của kinh tế
thế giới.
Từ năm 1995 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước công
nghiệp phát triển giảm sút dẫn đến lượng cầu cũng suy giảm. Đặc biệt, những nước
này là bạn hàng chủ yếu, là đối tác kích thích quá trình tăng trưởng nóng hướng về
xuất khẩu của các nước Đông Nam Á. Những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của khu
vực (điện tử, sợi, dệt) đang đứng trước nguy cơ bảo hòa của thị trường thế giới.
Năm 1996, thị trường bán dẫn quốc tế suy thoái mạnh, giá vi mạch giảm hơn 80%.
Các mặt hàng điện tử dân dụng của Nhật, các nước NICs Đông Nam Á giảm lượng
bán hơn 40% trên thị trường thế giới. Mặt khác tính hấp dẫn của thị trường Đông
Nam Á trước các đối tác Mỹ và Tây Âu đã giảm sút trước thị trường Trung Quốc,
SNG-Đông Âu và Mỹ Litinh. Nhật Bản củng đang lúng túng về những đồng vốn
cho vay quá lớn trước những biến động xấu của thị trường tài chính khu vực. Theo
báo cáo của ngân hàng D. M. Green Fell thì hơn một nửa số 70 tỷ USD Thái Lan
nợ ngân hàng là của Nhật Bản và chủ yếu là do vay nóng. Do vậy, khi lãi suất tăng
thì không chỉ chi phí vay nợ tăng mà đồng vốn vào Thái Lan cũng sẻ giảm đi hoặc
đổi chiều và dẫn đến khủng hoảng về thanh khoản của Thái Lan đồng thời gây áp
lực với đồng Peso và Rupiah.
Nhật Bản, một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của các nước châu
Á bị trì trệ từ đầu thập niên 1990. Nhân dân tệ được định giá thấp so với Dollar
Mỹ từ năm 1994 cùng nhiều nhân tố khác làm cho hàng xuất khẩu của Trung Quốc
rẻ hơn so với hàng xuất khẩu cùng loại của Đông Nam Á. Trong khi đó, nền kinh
tế của Mỹ đang được khôi phục lại sau tình trạng suy thoái đầu những năm 1990,
Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan bắt đầu nâng
lãi suất của Mỹ lên để ngăn chặn lạm phát. Việc này làm cho Mỹ trở thành một thị
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
7
trường hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước ở Đông Á, và do đó hấp dẫn những
luồng vốn đầu tư ngắn hạn thông qua lãi suất ngắn hạn cao và làm tăng giá đồng
Đô La Mỹ. Và do đồng tiền của các nước Đông Nam Á được neo vào Dollar Mỹ,
nên xuất khẩu của các nước này trở nên kém cạnh tranh. Từ mùa Xuân năm 1996,
tăng trưởng trong xuất khẩu của Đông Nam Á giảm xuống một cách nhanh chóng,
làm suy yếu tài khoản vãng lai của họ.
1.2.2. Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là
những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Khi
phát hiện những dấu hiệu suy thoái của hệ thống ngân hàng- tài chính khu vực,
nhiều nhà đầu cơ nước ngoài đã tăng cường hợt động đầu cơ tiền tệ. Theo nguồn
tin nước ngoài thì rất nhiều nhà đầu cơ trong tổng số 2300 quỹ tín dụng tư nhân ở
Mỹ, với tài sản trên 100 tỷ USD đã nhảy vào thị trường khu vực này trong 2 tháng
7-8/1997. Ngoài các quỹ do Soros kiểm soát còn có các quỹ tín dụng lớn như
Tiger, Orbis, Pumar, Panther và Jaguar. Họ mua đồng Baht sau đó Peso, Ringgit,
Rupiah kể cả SGD ước tính 10-15 tỷ USD để đầu cơ, cả dự trữ ngoại hối nhà nước
cạn kiệt càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản
của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin
rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy
những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế
đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á.. Các nhà đầu tư nước ngoài
đồng loạt rút vốn ra.
Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống
tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế
ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya,
Malaysia đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu
rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn
nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này. Ngẫu nhiên là
trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác
động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông
Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp
cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã
tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chính APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào
ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể
nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
8
Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể xem như
một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất bại trong việc
ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp
dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.
2. Diễn biến cuộc khủng hoảng ở một số quốc gia
2.1. Thái Lan
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình
quân hàng năm là 9%. Trong suốt các năm 1991- 1996, cán cân thương mại của
Thái Lan luôn bị thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai
năm 1996 tới 14,7 tỉ USD. Để bù đắp khoản thâm hụt thương mại và để có vốn đầu
tư, Thái Lan đã vay nợ nước ngoài và đến năm 1996 khoản nợ tăng lên 89 tỉ USD.
Số nợ này được dùng cả để tăng tưng dự trữ quốc gia, từ 18,4 tỉ USD năm 1991
lên 38,7 tỉ USD năm 1996, song do đầu tư tài chính và tín dụng ngắn hạn chiếm tới
90% tổng vốn đầu tư nước ngoài hàng năm. Nợ ngắn hạn năm 1995 gấp gần 1,18
lần dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là thực tế Thái Lan đã mất khả năng thanh
toán thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995.
Từ đầu năm 1997 đến tháng 3/1997, người dân các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn
của mình ở dạng tiền ra khỏi ngân hàng và các công ty tài chính, buộc Chính phủ
phải đóng cửa thị trường chứng khoán một ngày 3/3/1997 và yêu cầu mọi tổ chức
tài chính phải tăng thêm dự trữ tiền mặt và công bố 10 công ty tài chính đang hoạt
động ở trạng tháo không bình thường ( Unico Housing Co.Ltd, Thai- Fuji, Royal
International, Sri Dhana…)
Ngày 4 và 5/3/1997, hơn 21,4 tỉ baht đã được rút khỏi các ngân hàng và công
ty tài chính. Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng baht Thái bị tấn
công đầu cơ quy mô lớn. Trong 13 năm, đồng baht Thái được neo tỉ giá với 1
USD/25 Baht. Ngày 25/6/1997, Chính phủ ra lệnh đóng cửa 16 công ty tài chính,
nâng cao tổng số công ty tài chính bị đóng cửa lên 58/91 (64%) toàn quốc. Chính
phủ Thái phải bán ngoại tệ, làm dự trữ ngoại tệ giảm mạnh từ 38,78 tỉ USD tháng
6/1996 còn 31,4 tỉ USD vào 30/6/1997. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan
Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá baht, song rốt cục lại thả nổi
baht vào ngày 2 tháng 7. Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm
1998, nó đã xuống đến mức 56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường
chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối
năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống
còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
9
Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ
cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ
dollar với yêu cầu chính phủ Thái Lan tăng thuế, cắt giảm chi tiêu công cộng, tư
nhân hóa một số doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và tăng lãi suất. Trong tháng
12 năm 1997, chính phủ đã đóng cửa 56 tổ chức tài chính, sa thải 16,000 người.
Hậu quả trực tiếp của khủng hoảng kinh tế- tài chính ở Thái Lan là:
- Các ngân hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp phá sản hàng loạt, kinh tế quốc
gia suy thoái. Tăng trưởng kinh tế từ 6,7% năm 1996 giảm còn -0,4% năm
1997, -8,3% năm 1998 và 1% năm 1999.
- Gần 2 triệu người lao động mất việc lamg, mất thu nhập.
- Các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin, rút vốn ra khỏi đất nước, làm xấu đi
môi trường đầu tư. Năm 1995, 1996, mỗi năm có khoảng 20 tỉ USD vốn được
rót vào Thái Lan nhưng năm 1997, 15,8 tỉ USD được rút ra khỏi quốc gia, năm
1998, thêm 9,5 tỉ USD vốn chạy ra nước ngoài.
Sự rối loạn về kinh tế, mất niềm tin của dân chúng tất yếu làm rung động hệ
thống chính trị. Bốn tháng sau khi thả nổi đồng Baht, thủ tướng Thái Lan từ chức.
Trong tiến trình khủng hoảng, sau khi thả nổi đồng Baht, tỉ giá hối đoái đã
không ngừng tăng lên, từ tháng 7/1997 tới tháng 1/1998 đã đạt mức 53 baht/USD,
bằng 212% mức tháng 6/1997. Chỉ lúc này, 1/1998, khi chính phủ cam kết chính
thức sẽ trả tất cả các khoản nợ của ngân hàng thương mại, kể cả nước ngoài, thì tỉ
giá hối đoái mới giảm.
Bảng 2: Tỉ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997
Thái Lan
Baht/USD
Philiippines
Peso/USD
Malaysia
Ringgit/USD
Indonesia
Rupiah/USD
Hàn quốc
Won/USD
1996 25,61 26,29 2,52 2308 844.2
1997 47,25 39,50 3,88 5400 1695,8
2.2. Hàn Quốc
Đầu năm 1996, tập đoàn Woosing phá sản. Ngày 23/1/1997, tập đoàn thép
Hanbo phá sản, để lại món nợ 5,9 tỉ USD cho 61 ngân hàng và công ty tài chính.
Ngày 19/3/1997, tập đoàn thép Sammi- Chaebeol đứng thứ 26 của Hàn Quốc phá
sản, kéo theo 27 công ty thành viên phá sản, để lại món nợ 2,2 tỉ USD. Từ 1/1997
đến 2/1998 có 8 Chaeboel phá sản, trong đó có công ty ô tô KIA, đứng thứ 3 trong
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
10
công nghiệp ô tô. Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors . Quỹ đầu tư mạo
hiểm trị giá 5 tỉ USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc
khủng hoảng, tiếp đó Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors. Từ
13/7/1997, hàng loạt ngân hàng được các công ty đánh giá cho xuống hạng “không
tin cậy”. Ngày 30/9, tỉ giá hối đoái đạt 914,8 won/ USD, tăng 8% so với mức
833,2% ngày 31/12/1996. Ngày 28 và 29/10/1997, tỉ gái hối đoái đạt mức giao
động cho phép, không ai bán ngoại tệ cho ngân hàng. Ngày 19/11/1997, giới hạn
giao động tỉ giá được mở rộng tới 10%.
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh
nặng nợ nước ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân
hàng trong nước lại nợ ngân hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị
trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng
khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997, tổ chức đánh giá
tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó vào ngày
11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của
Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán
Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc
phải áp dụng các chính sách khắc khổ. Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống
còn khoảng 1700 Won/USD từ mức 1000 Won/USD. Từ tháng 6 đến 12/1997,
Chính phủ đã phải bán ra 14 tỉ USD để kìm giữ tỉ giá, song đã phải từ bỏ nỗ lực
này khi dự trữ ngoại tệ giảm từ 34,1 tỉ USD xuống còn 20,4 tỉ USD. Ngày
14/12/1997, đồng Won được thả nổi. Ngày 23/12, tỉ giá tăng vọt tới 2000 Won/
USD, bằng 237% so với 31/12/1996. Việc đồng Won cuối cùng phải thả nổi chính
là do việc giảm sút nguồn vốn vay ngoại tệ từ nước ngoài và sự rút vốn đầu tư
nước ngoài ở Hàn Quốc ra khỏi quốc gia này trong năm 1997.
Ngày 29/12/1997, 10 trong số 14 ngân hàng thương mại có vấn đề bị đóng
cửa. Hai ngân hàng thương mại lớn bị Chính phủ quản lý. Cuối tháng 4/1998, kế
hoạch lành mạnh hóa bốn Ngân hàng thương mại bị bác bỏ, nhiều ngân hàng
thương mại bị đóng cửa. Ngày 29/6/1997, Chính phủ yêu cầu đóng cửa 5 ngân
hàng thương mại nhỏ và 2 ngân hàng khác được sát nhập. Ngày 24/8/1998, 2 ngân
hàng lớn nhất Hàn Quốc là ngân hàng thương mại Hàn Quốc và ngân hàng Hanil
tuyên bố sẽ sát nhập. Ngày 25/9/1998, Chính phủ công bố một đợt tái cấu trúc các
ngân hàng. Tổng cộng Chính phủ tài trợ 64 nghing tỉ Won cho các ngân hàng.
Trong năm 1997, có 14.000 doanh nghiệp phá sản và trong năm 1998, có tới
53.000 doanh nghiệp phá sản.
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
11
Sự phá sản của hơn 70.000 doanh nghiệp và ngân hàng trong năm 1997 và
1998 đã làm cho số người thất nghiệp tăng từ 426.000 năm 1996 lên 1.461.000
năm 1998. Thất nghiệp, mất thu nhập với quy mô lớn làm nảy sinh hàng loạt vấn
đề xã hội. Số người nghiện ma túy tăng từ 6.819 người năm 1996 lên 10.589 người
năm 1998. Số vụ ly hôn tăng từ 80.000 năm 1996 lên 123.700 năm 1998. Nhằm
khắc phục hậu quả của thất nghiệp, Chính phủ đã mở rộng hệ thống bảo hiểm cho
các doanh nghiệp có từ 5 lao động trở lên, so với trước khủng hoảng chỉ dành cho
doanh nghiệp có 30 lao động trở lên. Thời gian tối thiểu được hưởng bảo hiểm
được tăng từ 1 thành 2 tháng, và tiền lương tối thiểu được bảo hiểm trả tăng từ
mức 50% lương trước khi thất nghiệp lên mức 70%. Một chương trình cho vay với
lãi suất thấp đối với người thất nghiệp được triển khai từ tháng 4/1998 để giúp họ
đảm bảo cuộc sống, việc hoạc hành của con cái, chuyển đổi nghề nghiệp và thuê
nhà. Chính phủ cũng triển khai các chương trình đào tạo nghề để giúp người thất
nghiệp chuyển đổi nghề và người không có học được việc làm. Trong vòng 2 năm
1998-1999, tổng cộng Chính phủ đã chi 10.000 tỉ Won để triển khai các biện pháp
chống thất nghiệp.
Sự thất nghiệp gia tăng và đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả sự dụng lao động
để tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn đã dẫn tới sự biến đổi có tính đột
phá trong hệ thống tuyển dụng và trả lương của Hàn Quốc. trong đó lương được trả
theo thời gian làm với công ty, thời gian được đào tạo và tuổi của người lao
động.Từ năm 1997, các doanh nghiệp bắt đầu chuyển dang hệ thống trả lương theo
hiệu quả đóng góp của người lao động. Tháng 1/1999, 15% số doanh nghiệp có
trên 100 lao động đã áo dụng hệ thống trả lương mới này, và đến cuối năm 1999
hơn 50% doanh nghiệp đã áp dụng. Chính phủ có nhiều ưu đãi về thuế cho các
doanh nghiệp này.
Bảng 3: Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng
Tăng trưởng kinh tế (%) Tỉ lệ thất nghiệp (%)
1996 1997 1998 1996 1997 7/1998
Thái Lan 6,7 -0,4 -8,3 3,3 3,7
Malaysia 8,2 7,0 2,0 2,6 2,7 5,0
Indonesia 7,8 4,6 -13,7 2,2 3,0
Philippines 5,8 5,2 -0,5 9,5 10,4 13,3
Hàn Quốc 7,1 5,5 -5,8 2,3 2,5 8
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
12
2.3. Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng
Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép
giảm giá mạnh. Chỉ trong 12 ngày đầu tháng 7/1997, ngân hàng nhà nước phải bán
700 triệu USD để kìm giữ tỉ giá. Ngày 14/8/1997, Indonesia tuyên bố thả nổi tỉ giá.
Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar.
Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị
trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài khoản
bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm
giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia
giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới
mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997.
Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia
là quốc gia nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua
việc KLSE (sàn giao dịch chứng khoán chính thức của Malaysia) được coi là sàn
giao dịch có hoạt động mạnh nhất trên thế giới (tổng giá trị giao dịch thậm chí
vượt qua cả NYSE mặc dù có mức vốn hóa thị trường thấp hơn rất nhiều). Ở thời
điểm đó, mọi người đều kỳ vọng quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng
và trở thành nước phát triển vào năm 2020.
Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLSE Index đang ở mức 1.200,
đồng ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi suất qua đêm dưới 7%.
Lãi suất qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín dụng tụt
xuống và xảy ra làn sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt.
Cuối năm 1997, mức đánh giá tín dụng tụt xuống dưới mức bình quân cho
các khoản đầu tư không đảm bảo, KLSE mất 50% điểm, tụt xuống dưới 600, đồng
ringgit cũng mất 50% giá trị, còn 3.8 đồng đổi 1 USD. Năm 1998, GDP giảm
6,2%, đồng ringgit mất thêm 4,7% giá trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.
Khủng hoảng đã làm cho tăng trưởng kinh tế giảm sút, từ mức tăng 8,2% năm
1996, còn 7% năm 1997 và -7,5% năm 1998. Tỉ lệ thất nghiệp tăng từ mức 2,5%
năm 1997 lên 3,2% năm 1998.
Ngày 7/1/1998, Chính phủ Malaysia thành lập Ủy ban hành động kinh tế
quốc gia (NEAC) là cơ quan tư vấn để giải quyết các vấn đề khủng hoảng. Cuối
tháng 7/1998, Ủy ban này đã đưa ra kế hoạch phục hồi kinh tế gồm 6 giải pháp
chính:
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
13
- Ổn định giá trị đồng Ringgit (kiến nghị tỉ giá hối đoái linh hoạt nhưng hạn chế
giao động mạnh, chính sách lãi suất trong nước hợp lí hơn).
- Khôi phục niềm tin vào cơ chế thị trường ( công khai, minh bạch hơn, tăng
cường thông tin kinh tế cho công chúng).
- Duy trì ổn định thị trường tài chính (thành lập Công ty quản lý nợ Ngân hàng
Danahata, công ty tái cấp vốn Danamodal và Ủy ban tái cấu trúc nợ doanh
nghiệp).
- Tăng cường nền tàng kinh tế quốc gia (nâng cao tính cạnh tranh, thúc đẩy tăng
trưởng).
- Tiếp tục trương trình công bằng và kinh tế xã hội (giảm đói nghèo, nâng cao
chất lượng cuộc sống, giảm tác hại do khủng hoảng đem lại cho nhân dân).
- Khôi phục 12 ngành kinh tế bị ảnh hưởng mạnh nhất bởi khủng hoảng .
Từ tháng 2/1999, kinh tế Malaysia đã tăng trưởng 1,4%, quý 2 tăng trưởng
4,1%, quý 3/1999 là 8,8%.
Bảng 4: Chỉ số lạm phát, dòng vốn vào
Lạm phát (%) Dòng vốn thuần (tỷ USD)
1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan 4,8 5,6 8,1 19,5 -9,1 -9,5
Malaysia 3,8 2,8 7,0 9,5 2,7
Indonesia 6,6 11,6 47,0 10,8 -0,6
Philippines 7,1 7,3 10,3 43 45 47
Hàn Quốc 5,0 9,5 6,7 23,9 -9,2
2.4. Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar
Mỹ từ 8% lên 12% vào ngày 11/7/1997 song cuối cùng, khi dự trữ ngoại tệ ngày
một giảm sút, ngày 14/8/1997, Chính phủ Indonesia phải thuyên bố thả nổi đồng
Pupiah , thay thế cho chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý. Tỉ giá hối đoái lập
tức tăng lên 2,87 Rupiah/USD so với mức 2,431 Rupiah/USD vào ngày 30/6. Ngày
12/12/1997 tỉ giá đạt 5.115 Rupiah/USD, 22/1/1998 là 17 Rupiah/USD. Dự trữ
ngoại tệ giảm từ 20,3 tỉ USD ngày 30/9/1997 xuống còn 15,8 tỉ USD ngày
31/3/1998.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia,
đặc biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
14
tình hình đó, nhiều công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra)
khiến cho nội tệ thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt. Tháng 9/1997, 16 ngân
hàng mất khả năng thanh toán bị đóng cửa. Giữa tháng 12/1997, một nửa tài sản
của hệ thống Ngân hàng bị mất do người dân và doanh nghiệp rút tiền giửi. Ngày
31/12/1997, Chính phủ tuyên bố sát nhập 4 ngân hàng lớn và tư nhân hóa các ngân
hàng thương mại nhà nước. Ngày 13/1/1998, 54 ngân hàng yếu kém được đặt dưới
quyền điều khiển của Ủy ban quốc gia tái cấu trúc các ngân hàng (IBRA). Đến
giữa năm 1998, khoảng 80% doanh nghiệp của Indonesia phải ngừng hoạt động
hoặc phá sản do thiếu vốn hoạt động, giá vật tư cao, giá thành sản phẩm cao không
tiêu thụ được. Năm 1998, công nghiệp suy giảm -39,7%.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của
IMF khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng
này tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở
Jakarta đã có tới 500 người bị chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng
hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, khoảng 80%
doanh nghiệp ở doanh nghiệp ở Indonesia phải ngưng hoạt động hoặc phá sản.
Năm 1996, tăng trưởng công nghiệp là 10,4%, năm 1997 giảm còn 5,6%, nhưng
sang 1998 đã suy giảm -15,6%. Ngành nông nghiệp năm 1996 tăng trưởng 12,8%,
năm 1997 còn 6,4%, và qua 1998 suy giảm -39,7%.
Cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính Indonesia đã làm tỉ lệ thất nghiệp ở đô
thị tăng từ 5% năm 1997 lên 11% đầu năm 1998, và trong cả nước từ 5% lên 7%.
Tỉ lệ nghèo đói tăng từ 11% năm 1996 lên 18- 20% dân số năm 1998, bằng 40
triệu người. Để giảm bớt khó khăn cho người dân, Chính phủ đã tiến hành một số
giải pháp cấp bách, tạm thời như bán gạo cho người nghèo với giá bù lỗ, khuyến
khích thành lập các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đảm bảo ngân sách cho đào tạo
không bị cắt giảm, cung ứng dịch vụ y tế miễn phí cho người nghèo ở các trung
tâm y tế nhà nước, bổ sung thức ăn cho trẻ em và phụ nữ có thai….
Bảng 5: Nợ nước ngoài, lãi suất cho vay
Nợ nước ngoài (tỷ USD) Lãi suất cho vay (%)
1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan 89 97 15 18 11,5
Malaysia 33,9 31,0 33,2 9,2 8,4 11,05
Indonesia 115 129 140 19,2 21,8 34
Philippines 14,4 15,4 14,8 16,2 13,5
Hàn Quốc 112 137 154 8,8 9,0
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
15
2.5. Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung
ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng
peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%.
Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào
năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng
thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph
Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị
trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn khoảng 1000 điểm từ mức cao
khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso thêm mất giá. Giá
trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm tổng
thống.
2.6. Hong Kong
Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng tiền này
vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở
Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho giới đầu cơ tấn công. Nhờ có
dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700%
lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong
Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường
chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 tháng 10 đến 23 tháng 10,
Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%. Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi
suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%.
Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu thành
phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này và ông
Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành
chính Hong Kong, đã công khai tuyên chiến với giới đầu cơ.
Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15
tỷ Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán
ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ
Dollar Mỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng
khoán của nước này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ
bị thiệt hại bởi chính sách điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia
và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar
Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở mức 7,8 : 1.
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
16
3. Những tác động của cuộc khủng hoảng
3.1. Tiêu cực
Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất
giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á.
Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới
ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất
là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan. Nó đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn tăng
trưởng nhanh, kéo dài và chủ yếu dựa vào nguồn vốn nước ngoài của các nước
trong khu vực, giờ đây sẻ chuyển sang giai đoạn ôn hòa, thận trọng và dựa cvào
sức mình là chính. Cuộc khủng hoảng gây thiệt hại cho các nước Châu Á ít nhất
300 tỷ USD, bằng khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và làm thiệt hại
chung cho toàn thế giới 500tỷ USD.
Khủng hoảng kinh tế làm giảm mức sống của người lao động (do lạm phát
gia tăng) còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và
Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với
sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng
trào Hồi giáo và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương
của nước này suy yếu. Các nhà đầu tư nước ngoài giảm sút niềm tin, vốn FDI đổ
vào Châu Á giảm dần, họ đầu tư rụt rè và thận trọng hơn khi đầu tư ở nơi khác. Sự
phá giá bản tệ đã làm tăng chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần của
các công ty dẫn đến phá sản hàng loạt. tình hình bong bóng bất đọng sản vở tung,
các ngân hàng rơi vào tình trạng gánh chịu một đống nợ khó đòi phải giữ một
lượng tài sản lớn mất giá và khó bán.
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng, đó là GDP và GNP bình quân đầu
người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương đương giảm đi. Nội tệ mất giá là
nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết
thu nhập bình quân đầu người của Thái Lan đã giảm từ mức 8.800 USD năm 1997
xuống còn 8.300 USD vào năm 2005, của Indonesia giảm từ 4.600 USD xuống
3.700 USD, của Malaysia giảm từ 11.100 USD xuống 10.400 USD. Khủng hoảng
không chỉ làm gia tăng lượng người thất nghiệp ở các nước khu vực (tăng gấp đôi
vào năm1998 ở Thái Lan, Hàn Quốc và Indonesia…) mà còn ở các nước bạn hàng
của họ do thu hẹp quy mô nhập khẩu vì khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng không chỉ lây lan ở khu vực Đông Á mà nó góp phần dẫn
tới khủng hoảng tài chính Nga và khủng hoảng tài chính Brasil. Một số nước
không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu giảm
và do FDI vào giảm.
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
17
3.2. Tích cực
Cuộc khủng hoảng Châu Á 1997 không chỉ hoàn toàn gây tác hại mà ở một
chừng mực nào đó, nó là điểm dừng để mở đầu giai đoạn mới đầy triển vọng.
Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẻ giúp các chính phủ
giảm thiểu được lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó,
giúp tăng dự trữ quốc gia và về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẻ khuyến khích và tăng
khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện những cân đối tài chính của đất
nước.
Thứ hai, nhiều nước như Thái lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippin…sẻ nhận
được lượng tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn để phục vụ các mục
tiêu cải cách và phát triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng giúp định hướng lại và cải
thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hóa hơn nền tài chính quốc gia, tạo sức ép buộc các
chủ đầu tư kinh doanh phải thay đổi thích ứng với tình hình mới, thúc đẩy sản xuất
những sản phẩm mới có sức cạnh tranh xuất khẩu cao hơn. Các khoản chi kém
hiệu quả sẻ bị cắt giảm, các dự án cá nhân được khuyến khích, quá trình tư nhân
hóa, giảm thiểu khu vực Nhà nước, giảm bớt sự độc quyền và bao cấp của chính
phủ được xúc tiến rộng rãi, tích cực hơn.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều gáp phần và là dịp để xhính phủ và nhân
dân cũng như các tổ chức tài chính-tiền tệ bổ khuyết những thiếu sót về chính sách
thể chế lẫn những yếu tố thuộc con người…từ đó tạo ra những xung lực tích cực
mới cho sự phát triển kinh tế-xã hội bền vững ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế
với tư cách là một chỉnh thể hữu cơ. Quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa sẻ được
đẩy lên một nấc mới, một phần nhờ các chương trình điều chỉnh kinh tế rộng rải
theo hướng này ở các nước khu vực sau khi đã “uống thuốc của IMF”; phần nhờ
sự chuẩn bị chu đáo thận trọng hơn và thích hợp hơn của mởi nước; phần nữa nhờ
sự xuất hiện những cơ chế thúc đẩy và giám sát mới mang tính khu vực, sự bổ
sung ccủa IMF và các tổ chức tài chính khu vực, đồng thời cũng là kết quả của sự
hợp tác giữa các nước khu vực trong nổ lực vượt qua khủng hoảng.
Ngoài ra, tác động của cuộc khủng hoảng còn thể hiện trong cả việc làm dịch
chuyển nhất định vai trò và vị thế kinh tế-chính trị truyền thống của các cường
quốc tại khu vực như Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu cũng như bản thân các nước
ASEAN với tư cách là một cộng đồng.
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
18
4. Giải pháp thoát khỏi khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á
4.1. Ở cấp độ quốc tế:
4.1.1. Hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế
Sự hỗ trợ tài chính khẩn cấp và to lớn của cộng đồng quốc tế thông qua vai
trò tổ chức, điều phối và giám sát của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là vô cùng quan
trọng và có hiệu lực nhanh chóng, mạnh mẽ nhất để chế ngự cuộc khủng hoảng,
tránh sự đổ vỡ lan rộng và hậu quả kéo dài ở cả trong và ngoài mỗi nước. Cụ thể là
những “Chương trình cứu trợ khẩn cấp trọn gói” mà IMF đã liên tiếp triển khai cho
Thái Lan, Phillippines, Indonesia và Hàn Quốc đã có tổng giá trị hàng trăm tỷ
USD.
Các tổ chức quốc tế như IMF, OECD còn kêu gọi và triển khai các kế hoạch
tăng cường hỗ trợ kỹ thuật, thông tin, tư vấn nhằm nâng cao năng lực thể chế của
các nước trong khu vực khủng hoảng. Ngoài ra, IMF còn bổ sung thêm chức năng
của mình thông qua việc hình thành trong nó một cơ cấu giám sát khu vực mới,
thích hợp hơn dành cho châu Á.
4.1.2. Hỗ trợ quốc tế
Sự hỗ trợ quốc tế còn được thể hiện ở những thỏa thuận giữa những con nợ
và chủ nợ trong việc hoãn nợ, đảo nợ, bảo đảm nợ nhằm cải thiện tình trạng nợ nần
của các nước đang lâm vào khủng hoảng. Sự hỗ trợ quốc tế còn là lời kêu gọi các
thị trường lớn như Mỹ, EU… mở rộng cửa cho hàng xuất khẩu của các nước đang
trong khu vực khủng hoảng để giúp làm tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán
cân thương mại và thu nhập ngoại hối của họ.
4.2. Ở cấp độ khu vực:
4.2.1. Tăng cường hợp tác khu vực:
Ngay từ những tháng đầu xảy ra khủng hoảng, các nước trong khu vực đã
đề xuất những ý tưởng phối hợp những cố gắng với nhau để tạo ra sức mạnh tổng
hợp vượt qua cuộc khủng hoảng. Những ý tưởng này đã được cụ thể hóa bằng việc
thành lập những thể chế tài chính - tiền tệ cho khu vực như “Quỹ tín dụng châu
Á”, “Ngân hàng thanh toán bù trừ đa biên ASEAN”, hay các thỏa thuận giữa các
Bộ trưởng Tài chính ASEAN về việc khuyến khích sử dụng đồng bản tệ trong
thanh toán các giao dịch thương mại nội bộ ASEAN trên cơ sở các thỏa thuận song
phương nhung vẫn lấy giá trị USD để tham khảo tỷ giá chuyển đổi giữa các đồng
tiền với nhau. Ngoài ra, còn có những cố gắng khác nhằm đẩy mạnh hợp tác kinh
tế nội khối để giảm bớt các khó khăn do khủng hoảng gây ra như: trao đổi trực tiếp
hàng lấy hàng, hoàn thiện nhanh khu vực đầu tư ASEAN…
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
19
4.2.2. Thành lập cơ chế giám sát tài chính ASEAN
Một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng là sự yếu kém của hệ
thống tài chính – ngân hàng và việc điều hành quản lý nền kinh tế chưa theo kịp
tốc độ tự do hóa, toàn cầu hóa. Do đó, để khắc phục khủng hoảng, các nước
ASEAN cần phải phối hợp hành động mới đạt được hiệu quả cao và nhanh chóng
đưa kinh tế khu vực phục hồi trở lại. Vì vậy, cơ chế giám sát ASEAN đã được hình
thành với mục tiêu trao đổi thông tin và thảo luận tình hình kinh tế - tài chính của
các nước thành viên , từ đó đưa ra một hệ thống cảnh báo sớm nhằm tăng cường
ổn định kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính khu vực. Ngoài ra, cơ chế giám sát
ASEAN còn giúp đề xuất các chính sách và khuyến khích các hành động đơn
phương hoặc tập thể để ngăn ngừa khủng hoảng, giám sát và thảo luận về tình hình
kinh tế - tài chính toàn cầu có thể ảnh hưởng tới khu vực và các biện pháp đối phó
của từng nước, khu vực.
4.2.3. Nới lỏng dần chính sách tài chính - tiền tệ
Vào những ngày đầu khủng hoảng bùng phát, các nước khu vực đã khẩn
trương áp dụng các giải pháp tình thế để chống đầu cơ và giữ ổn định tiền tệ, giảm
bớt sức ép đáo hạn nợ nước ngoài và sự rút vốn nước ngoài bằng các biện pháp
chủ yếu như: tăng lãi suất, xiết chặt tín dụng, xiết chặt kỷ kuật tài chính, kiểm soát
ngoại hối, đóng cửa hàng loạt các tổ chức tín dụng hoạt động không có hiệu
quả…Thế nhưng, các giải pháp này lại làm phản tác dụng, khiến các doanh nghiệp
khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, càng làm tăng “cơn khát vốn” của họ, ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì hoạt động, khả năng cạnh tranh và khả năng
trả nợ của họ. Trong khi đó, làn sóng giảm lãi suất, chống giảm phát, kích thích
tăng trưởng chung do Mỹ phát động đã được các nước G7 hỗ trợ và hưỡng ứng
rộng rãi trên toàn cầu đã khiách lệ các nước trong khu vực chuyển mạnh sang các
giải pháp khuyến khích phục hồi và tăng trưởng. Lãi suất đã được giảm, tín dụng
đã được nới lỏng, thuế cũng được cắt giảm và trợ giúp tài chính từ Nhà nước cho
các doanh nghiệp được gia tăng một cách thích đáng.
4.2.4. Vấn đề tỷ giá
Hầu hết các nước đang từ bỏ dần thái độ cực đoan trong đối xử với vấn đề
tỷ giá.Việc cố định cứng nhắc cũng như thả nổi hoàn toàn bản tệ đều không thể
đưa đến mục tiêu mong muốn là ổn định vững chắc cơ sở tiền tệ của mỗi nước.
Ngoài ra, hành động phá giá cạnh tranh tiền tệ không thể không gây tổn thương
đến các khu vực khác và tạo vòng xoáy phá giá đồng tiền cực kỳ nguy hiểm giữa
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
20
các nước. Do đó, vấn đề này cũng đang được xem xét lại một cách nghiêm túc ở
cấp độ toàn khu vực.
4.2.5. Tăng cường các nguyên tắc thị trường trong kinh doanh
Những nguyên tắc thị trường ngày càng được các nước ASEAN quán triệt
và thực thi đầy đủ hơn cho sự vận hành nền kinh tế. Bởi vì chính phủ các nước
ngày càng nhận thấy rõ sự rủi ro của việc can thiệp quá sâu vào khu vực kinh
doanh gây ra tình trang nguồn tín dụng được đem cấp thiếu cơ sở kinh tế cho các
công ty tham nhũng và được chính phủ che chở cũng như tình trạng phát triển quá
khích một lĩnh vực ngành nghề nào đó gây tổn hại đến thị trường nội địa.
4.2.6. Phát huy nội lực trong nước và giảm bớt thái độ vọng ngoại
Các nước ASEAN ngày càng giảm bớt thái độ đổ lỗi cho bên ngoài, để bình
tĩnh và khách quan trong việc nhìn nhận, sữa chữa những bất cập “nội sinh” trong
chính sách và thể chế của bản thân trước sự biến đổi mau lẹ của hoàn cảnh quốc tế.
Hơn nữa, thái độ trông chờ vào vốn nước ngoài cũng dịu bớt để đánh giá đúng
mức hơn vai trò của các nguồn nội lực.
4.2.7. Nhận thức về thái độ tự do hóa thị trường
Các nước ASEAN đang điều chỉnh lại nhận thức về tự do hóa thị trường và
tài chính, đặc biệt là việc tách vấn đề thương mại hàng hóa và dịch vụ ra khỏi lưu
thông vốn quốc tế có thể coi là một bước phát triển mới về nhận thức lẫn thực tiễn.
Các nước trong khu vực một mặt đang tiếp tục đẩy mạnh tự do hóa thương mại,
mặt khác chú ý đúng mức hơn về tốc độ tự do hóa tài chính sao cho phù hợp với sự
phát triển của thị trường trong nước và khả năng kiểm soát của chính phủ.
4.2.8. Cải tiến và nâng cấp môi trường đầu tư
Việc tìm lại và củng cố lòng tin của giới doanh nhân trong và ngoài nước
vào thị trường khu vực là chiếc chìa khóa cho sự phục hồi và tiếp tục tăng trưởng
của mổi nước ASEAN cung như toàn khu vực.Vì vậy, các nước này đang tập trung
tăng chế độ khuyến khích tài chính dành cho vốn đầu tư trực tiếp; cải cách các thủ
tục đầu tư; bãi bỏ, giảm thiểu các giới hạn sở hữu hoặc các lĩnh vực độc quyền
giành cho đầu tư chính phủ hay đầu tư trong nước; tăng cường đào tạo nhân lực;
phối hợp tạo môi trường đầu tư hấp dẫn chung cho khu vực.
4.2.9. Vai trò của các chính phủ
- Nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý vĩ mô: Đặt toàn bộ các hoạt động quản
lý vĩ mô Nhà nước trên cơ sở nguyên tắc thị trường và Nhà nước pháp quyền,
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
21
dẩy mạnh chống tham nhũng, tăng cường dân chủ hóa đời sống kinh tế xã hội
đất nước.
- Dàn xếp các bất đồng vì ổn định và thịnh vượng chung: Cố gắng dàn xếp các
bất đồng song phương và đa phương, vượt lên trên những lợi ích cá nhân, gắn
lợi ích quốc gia với lợi ích khu vực, bảo vệ hình ảnh một cộng đồng ASEAN
đoàn kết, ổn định và thịnh vượng chung.
- Tăng cường giải quyết các vấn đề xã hội: Trong bối cảnh khủng hoảng, bên
cạnh việc giải quyết các vấn đề kinh tế, các vấn đề xã hội cũng đã được các
nước ASEAN quan tâm đúng mức hơn.Các nước ASEAN đã nhận ra rằng sự
tồn tại đông đảo tầng lớp người lao động với đồng lương thấp và sự gia tăng đội
quân thất nghiệp trong điều kiện hệ thống an toàn xã hội chưa phát triển sẽ là
hiểm họa cho sự ổn định cơ sở kinh tế xã hội. Do đó, các khoản chi ngân sách
cho mục tiêu xã hội đã được cải thiện hơn.
5. Những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á
5.1. Phải có công cụ điều tiết luồng vốn.
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng
hoảng tài chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước không tự do
hóa thị trường vốn. Và trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn, cũng
không phải ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất những tác động của cuộc
khủng hoảng, Singapore, chính là nước có hệ thống luật pháp tốt nhất.
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình
trạng quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là các
khoản vay ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân hàng châu
Âu 318 tỷ USD, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa
số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới 1 năm.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các
khoản nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP. Khi xảy ra khủng hoảng, các
nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện, vì không hề có
các công cụ điều tiết.
5.2. Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp.
Cũng giống như việc nối các thị trấn nhỏ với đường cao tốc mà trước đó không
trang bị cho chúng hệ thống đường xá và cảnh sát giao thông phù hợp để giám sát
việc tuân thủ luật lệ, sẽ thật liều lĩnh khi mở cửa nền kinh tế của các nước đang
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
22
phát triển với thị trường vốn quốc tế mà chưa xây dựng hệ thống luật pháp phù hợp
và đào tạo được đội ngũ cán bộ liêm khiết.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm
1997 đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu
Á, như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu
tư dư thừa vào một số ngành kinh tế. Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình
trạng lãng phí, với cuộc chạy đua sở hữu tòa nhà cao nhất thế giới ở các nước châu
Á là một ví dụ. Tệ hơn, việc “thừa tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong
bóng của thị trường bất động sản, từ đó lại quay lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì
các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực của tài sản thế chấp. Kết quả là khi
“bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có tỷ
lệ vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế (BIS), ở Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và Singapore (19%), tỷ lệ
này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
5.3. Nguy cơ dư thừa vốn.
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ”
vì nguồn cơn của sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm
trong tầm kiểm soát trực tiếp của họ. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không
phải chỉ do sự “tắc trách” của người châu Á gây ra. Ngân khố của hầu hết các nền
kinh tế châu Á đều ở mức cân bằng hoặc thặng dư, và không hề có lạm phát. Cuộc
khủng hoảng xảy ra phần nhiều là do những thay đổi về mô hình của hoạt động
trung gian tài chính quốc tế.
Thứ nhất, sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập
niên 90 đã làm gia tăng sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn thế
giới. Vì thế, các giám đốc tài chính buộc phải tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao
hơn, thông qua các dự án đầu tư mạo hiểm.
Thứ hai là chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò
quan trọng trong sự mở rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở Mỹ,
việc thâm hụt ngân sách giảm xuống trong khi khả năng sản suất tăng lên đã dẫn
đến tốc độ lạm phạt giảm và do đó lãi suất giảm. Không có gì đáng ngạc nhiên khi
luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi suất ở châu Á cao hơn, còn các nước châu
Á nhận thấy việc vay mượn quy đổi bằng đồng đôla Mỹ hoặc yên Nhật có lợi hơn
là bằng đồng nội tệ.
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
23
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn
vốn đã gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng thêm
tình hình thâm hụt thương mại. Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá đồng tiền,
tình hình càng trở nên xấu đi do sự rút vốn đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài.
Thị trường tài chính châu Á chao đảo.
6. Những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ Châu Á.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực (bắt đầu từ Thái Lan, lan sang
Indonesia, Hàn Quốc…), Việt Nam không bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc
khủng hoảng này do độ mở cửa chưa rộng và sự chủ động ứng phó "vượt trước
ngăn chặn". Nhưng tác động của cuộc khủng hoảng này cũng không nhỏ về một số
mặt. Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký giảm mạnh (năm 1997, 5.591
triệu USD, năm 1998, 5.100 triệu USD, năm 1999 còn 2.565 triệu USD); lượng
vốn thực hiện năm 1998 - 1999 cũng bị giảm nhưng ít hơn. Tốc độ tăng kim ngạch
xuất khẩu, nhập khẩu bị giảm mạnh. Tốc độ tăng giá GDP cũng bị sút giảm: năm
1997 còn tăng 8,15%, đến năm 1998 GDP chỉ còn tăng 5,76%, đến năm 1999 chỉ
còn tăng 4,77%. Trong thời gian tương ứng, tăng trưởng công nghiệp - xây dựng
và dịch vụ cũng bị giảm (công nghiệp - xây dựng từ 12,62% xuống 8,33% và
7,68%; dịch vụ từ 7,14% xuống 5,08% và 2,25%). Tốc độ tăng giá tiêu dùng cũng
cao lên (năm 1997 là 3,6%, thì năm 1998 cũng vọt lên 9,2%). Lượng khách quốc tế
cũng bị sút giảm, lượng kiều hối năm 1997 cũng thấp hơn 1996.Từ thực tế cuộc
khủng hoảng, ta rút ra được những bài học đối với nền kinh tế Việt Nam:
- Thực chất cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á là khủng hoảng nợ nước ngoài, đặc
biệt là vốn vay tư nhân và ngắn hạn, dẫn tới cầu về USD tăng cao, vượt quá
cung và đồng nội tệ mất giá nhanh chóng dẫn đến mất khả năng trả nợ. Vì vậy,
bài học đầu tiên là Việt Nam phải có chiến lược, qui hoạch và biện pháp để
quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài( ODA, vốn vay ngắn hạn và dài hạn)
một cách hiệu quả nhất, cũng đảm bảo hoàn trả vốn vay đúng thời hạn. Việt
Nam cần có khung luật pháp nghiêm minh và hệ thống quản lý của Nhà nước
chặt chẽ nhằm kiểm soát những khoản vay nước ngoài ngày càng gia tăng.
Chính sách vay vốn nước ngoài cần khuyến khích hướng vào vay vốn dài hạn,
hạn chế và quản lý chặt chẽ vốn ngắn hạn; cần phải thận trọng với những luồng
chu chuyển vốn ngắn hạn ồ ạt.
- Trong chiến lược phát triển kinh tế cũng như điều hành vĩ mô, cần duy trì một
thế cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: lạm phát, tăng
trưởng , tỷ giá hối đoái, lãi suất, ngân sách, cán cân thương mại và cán cân
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
24
thanh toán. Các chính sách kinh tế vĩ mô cần được điều hành một cách linh
hoạt, đồng bộ và phói hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau.
- Lựa chọn một cách tập trung và phù hợp với các mục tiêu ưu tiên trong quá
trình phát triển ( lựa chọn vùng, ngành, sản phẩm, thị trường, qui mô các dự án
và nhịp độ tăng trưởng). Nhà nước phải có định hướng đầu tư của toàn xã hội
theo một cơ cấu hợp lý.
- Tiếp tục đổi mới và mở cửa nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường hiện
đại, quốc tế hoá nền kinh tế và phát huy cao độ nội lực để tăng trưởng nhanh và
phá triển bền vững, đối phó tốt với các “cú sốc” từ bên ngoài.
- Sự thâm hụt của cán cân vãng lai là một vấn đề cần được quan tâm thường
xuyên và có biện pháp điều chỉnh thích hợp.Kinh nghiệm của các nước:
Malaysia, Indonesia cho thấy, mặc dù tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai so với
GDP thấp hơn của Thái Lan; mặc dù có dự trữ ngoại tệ tương đối lớn, song
cũng không ngăn cản được phản ứng dây chuyề của khủng hoảng tài chính ở
Thái Lan.
- Sự phát triển của kinh tế thị trường phải đi liền với xây dựng một hệ thống ngân
hang đủ mạnh, có kinh nghiệm trong việc điều chỉnh chính sách tiền tệ trong
nền kinh tế thị trường.
- Trong nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hòa nhập với thị trường tài chính
quốc tế, việc mở rộng thị trường vốn của mỗi nước là điều hết sức cần thiết.
Song, việc mở rộng cánh cửa thị trường vốn không có nghĩa là hoàn toàn buông
lỏng. Mỗi một quốc gia phải duy trì một tỷ lệ hợp lí:
Quan hệ tỷ lệ giữa vốn trong nước và vốn vay nước ngoài.
Quan hệ tỷ lệ giữa vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong khi gọi
vốn từ nước ngoài. Nếu tỷ lệ vốn ngắn hạn lớn không ổn định và
mong manh sẽ là một vấn đề có tác động rất nhạy cảm khi thị trường
tiền tệ trong nước có diễn biến xấu. Sự rút vốn đồng loạt và ồ ạt sẽ là
yếu tố gây rối loạn thị trường vốn trong nước.
Quan hệ giữa thời hạn vay và đối tượng được đầu tư. Nếu thời hạn
vay ngắn, nhưng lại dược đầu tư vào bất động sản, một khi thị trường
bất động sản bế tắc thì khả năng trả nợ sẽ khó và nợ quá hạn sẽ lớn,
gấy mất ổn định trong hệ thống tài chính.
Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thiện Nhân, Khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á 1997-1999
nguyên nhân, hậu quả và bài học với Việt Nam, NXB ĐH Quốc Gia Tp Hồ
Chí Minh, 2002.
2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, được lấy về từ
ủng_hoảng_tài_chính_châu_Á_1997
3. Lưu Quý Phương (6/2007), Khủng hoảng Kinh tế Châu Á 1997 - Một
góc nhìn, được lấy về từ
4. Martin Khor, the economic crisis in east asia: causes, effects, lessons,
được lấy về từ
5. Charles WLHill, The Asian Financial Crisis, được lấy về từ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khủng hoảng tài chính –tiền tệ Đông Á 1997-1999.pdf