Internet là cuộc cách mạng thứ ba trong ngành bán lẻ. Cuộc cách mạ ng
đầu tiên (xây dựng nhãn hiệu) đã loại bỏ những nỗ lực bán hàng không cần
thiết. Cuộc cách mạng thứ hai (phương thức tự phục vụ) đã loại bỏ nhân viên
bán hàng không cần thiết. Cuộc cách mạng thứ ba (mạng Internet) sẽ loại bỏ
giai đoạn phân phối trung gian không cần thiết. Mỗi cuộc cách mạng đều làm
giảm chi phí bán hàng. Với việc áp dụng chiến lược Marketing trên mạng
Internet, nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã rất thành công trong việc thu hút
khách hàng, tăng doanh thu cũng như lợi nhuận và tạo được uy tín tốt không
chỉ ở thị trường trong nước mà còn vươn xa ra toàn thế giới.
Với việc trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới, Việt
Nam đã và đang khẳng định vị trí của mình trong quá trình hội nhập sâu rộng
vào nên kinh tế thế giới. Việt Nam đang đứng trước nhưng cơ hội và thách
thức to lớn. Để có thể hội nhập thành công, V iệt Nam cần có những chiến
lược phát triển lâu dài, bền vững, hiệu quả và đi kịp thời đại. Trong kỉ nguyên
của nền kinh tế trí thức, hơn bao giờ hết, ứng dụng công nghệ thô ng tin vào
hoạt động kinh doanh là một điều kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát
triển.
105 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2462 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm marketing điện tử trong ngành bán lẻ trên thế giới và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc
nhiều khách hàng đến với sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Ví
dụ ở bestbuy.com, cửa hàng thực và cửa hàng ảo được kết hợp rất tuyệt vời,
một số mặt hàng khách hàng không tìm thấy ở cửa hàng ảo thì có thể tìm mua
trên thông qua các kios truy cập internet đặt tại cửa hàng thật. Hoặc công ty
này cũng có rất nhiều thông tin khuyến mãi, giảm giá mùa lễ hội hoặc mùa
mua sắm trên website, khách hàng truy cập website có thể dễ dàng tiếp cận
thông tin về những chương trình này và đưa ra quyết định đến với cửa hàng
thực để có cơ hội mua hàng giá rẻ. Chính nhờ những chiêu thức như vậy, các
doanh nghiệp ngày càng thu hút được đông khách hàng đến với cửa hàng hơn.
Điều này có tính ứng dụng rất cao đối với các doanh nghiệp bán lẻ
Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam, có rất ít doanh nghiệp buôn bán thuần túy
trên mạng nhưng lại có rất nhiều doanh nghiệp có website. Vì vậy vấn đề đặt
ra là làm sao website của doanh nghiệp có thể thu hút khách hàng đến với
những cửa hàng thực - nơi mà ở đó hoạt động trao đổi mua bán có thể diễn ra.
Nếu website hấp dẫn, phong phú thông tin và được cập nhật thường xuyên thì
sẽ tạo tâm lí yên tâm, tin tưởng vào doanh nghiệp, từ đó thu hút khách hàng
đến với những cửa hàng thật ngoài đời của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu
website chậm cập nhật, nội dung sơ sài, hình thức kém thì sẽ khiến khách
hàng không thiện cảm và khó có thể thu hút được khách hàng.
75
3.1.1.3. Cạnh tranh về giá
Giá là một trong bốn yếu tố cấu thành nên marketing mix. Giá chiếm
vai trò quan trọng trong sự thành công của một chiến lược marketing, quyết
định cuối cùng của người tiêu dùng cũng phụ thuộc nhiều vào giá cả. Vì thế,
các nhà marketing của các tập đoàn trên thế giới đã sử dụng rất nhiều biện
pháp định giá để thu hút khách hàng.
Bestbuy, một trang web bán đồ điện tử trên mạng đã đưa ra chính sách
giao hàng miễn phí với tất cả các đơn hàng, dù lớn hay nhỏ. Chính vì vậy,
doanh thu của công ty này tăng lên đáng kể. Một ví dụ khác cần phải kể đến
là việc công ty bán đồ trang sức Ice.com thành công nhờ việc đưa ra những
lựa chọn thanh toán phong phú cho khách hàng. Đó là việc công ty cho phép
người mua hàng trả tiền kéo dài trong thời gian vài tháng. Theo nghiên cứu,
lựa chọn này có thể làm tăng đột biến lượng hàng hóa bán ra. Phó giám đốc
marketing của công ty cho rằng: “người ta rất thích chính sách cho phép dùng
thử 30 ngày và sau đó có thể hoàn trả tiền nếu không thích. Tuy nhiên khi họ
phải mua hàng với giá 300USD, thậm chí ngay cả khi họ thích vật đó và biết
rằng họ có thể hoàn trả hàng thì họ vẫn rất ngại khi trả lại món hàng giá trị lớn
như vậy. Nếu họ chỉ phải trả ngay 75USD hay 50USD và vẫn có thể hoàn trả
sau 30 ngày thì họ sẵn sàng mua mặt hàng đó”.
Dell cũng cho chúng ta một bài học tuyệt vời về việc cạnh tranh bằng
giá. Nhờ bán hàng trực tiếp tới khách hàng mà Dell không phải trả tiền cho
các nhà phân phối trung gian. Điều đó giúp Dell đưa ra mức giá cạnh tranh
hơn hẳn so với các đối thủ khác trên thị trường. Thực tế cho thấy, giá của Dell
thấp hơn mức bình quân tới 12% so với những đối thủ cạnh tranh hàng đầu.
Đồng thời, tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho nhanh dẫn đến chi phí lưu kho
thấp và đồng thời giảm thiểu rủi ro giảm giá hàng tồn kho. Nhờ việc áp dụng
mô hình bán hàng trực tiếp, với việc linh kiện luôn sang sang trong vòng vài
76
ngày, Dell đã tăng tốc độ lưu chuyển hàng tồn kho lên đến 107 lần mỗi năm –
một lợi thế vô cùng lớn so với HP và IBM, những công ty chỉ có tốc độ theo thứ
tự vào mức 8,5 và 17,5 lần một năm.
Amazon luôn cung cấp cho khách hàng mức giá thấp nhất có thể thông
qua việc hạ giá sản phẩm thường xuyên và miễn phí vận chuyển đồng thời
nâng cao hiệu quả hoạt động. Nhờ việc áp dụng các ứng dụng công nghệ
thông tin do chính hãng phát triển, hệ thống kho hàng của Amazon hoạt động
với mức chi phí thấp hơn bất cứ hệ thống nào trên thế giới. Jeff Bezos giải
thích: Amazon xoay vòng hàng tồn kho 150 vòng trong năm (điều này giống
như việc người ta bán bánh mì trong siêu thị), trong khi một kho hàng thông
thường chỉ có thể xoay vòng 3 hoặc 4 lần trong 1 năm, do đó Amazon có thể giảm
giá bán trên từng mặt hàng.
3.1.1.4. Đa dạng hóa ngành hàng cung cấp
Đối với việc kinh doanh trên mạng, việc doanh nghiệp có khả năng
cung cấp cho khách hàng nhiều sự lựa chọn là một lợi thế đáng kể.
Có thể nói Amazon là một ví dụ điển hình trong việc thành công khi
khai thác thị trường ở những lĩnh vực mới. Ra đời vào năm 1995 trong bối
cảnh thương mại điện tử Mỹ đang ở giai đoạn ban đầu khi mà nền tảng cơ sở
vật chất chưa đủ mạnh cũng như các phương tiện thanh toán và tính bảo mật
thông tin chưa thực sự tạo long tin với khách hàng, Amazon đã cẩn thận lựa
chọn mặt hàng kinh doanh là Sách – một mặt hàng thuộc nhóm văn phòng
phẩm có giá trị và rủi ro thấp. Mặt hàng này có thêm ưu điểm là dễ dàng xác
nhận được định tính cũng như định lượng. Tuy nhiên một vài năm về sau
Amazon quyết định mở rộng kinh doanh. Năm 1998, Amazon bổ sung thêm
dịch vụ mua bán nhạc và DVD. Một năm sau đó, họ mở rộng thêm hàng điện
tử, đồ chơi, game, hàng trang trí nội thất, phần mềm tin học. Cho đến nay, số
lượng mặt hàng được bán trên Amazon đã được đa dạng hóa rất nhiều: băng
77
đĩa nhạc, phần mềm, đồ điện tử, dụng cụ nhà bếp, đồ chơi, đồ dùng cho trẻ
em, sản phẩm làm đẹp, thực phẩm v.v… Amazon có được sự thành công như
ngày hôm nay phần lớn chính là nhờ sự đa dạng về hàng hóa. Nó đã giúp
Amazon xây dựng được một nền tảng khách hàng trung thành, đem lại nguồn
lợi nhuận khổng lồ và trở thành mô hình kinh doanh qua Internet phổ biến
trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, vatgia.com và chodientu.vn là hai trong số ít các
website cho phép người mua lựa chọn một cách đa dạng các mặt hàng.
Chodientu hiện có 20 danh mục cấp 1 và 105 danh mục cấp 2 với tổng số
435.819 sản phẩm và Vatgia cho phép người mua có thể tìm được giá cả của
hầu hết các sản phẩm, đặc biệt là đồ điện tử. Các sản phẩm tại chodientu cũng
như Vatgia đều rất đa dạng, mỗi sản phẩm thường được cung cấp bởi nhiều
cửa hàng khác nhau với nhiều mức giá và phần nào đáp ứng được nhu cầu
mua sắm của mọi người. Tuy nhiên, vatgia và chodientu không trực tiếp các
hàng hóa dịch vụ này, mà chỉ là nơi gặp gỡ giữa khách hàng với các cửa hàng
và khách hàng với nhau và chất lượng hàng hóa, dịch vụ còn chưa được đảm
bảo.
3.1.1.5. Củng cố mối quan hệ giữa khách hàng và doanh nghiệp
Như đã biết, mối quan hệ giữa khách hàng và doanh nghiệp chính là
chiếc “chìa khóa vàng” cho thành công của một doanh nghiệp kinh doanh
trong mọi lĩnh vực. Để có được sức hút với khách hàng, doanh nghiệp phải
củng cố, duy trì và phát triển mối quan hệ này.
Công ty bán lẻ quà tặng 1-800-flowers.com đã khéo léo vận dụng các
phương pháp marketing điện tử, khiến cho trang web của họ không chỉ là một
công cụ marketing tiết kiệm hay mang lại nhiều đơn hàng mà còn giúp công
ty gắn kết hơn nữa với khách hàng. Lấy ví dụ, một dịch vụ nhắc nhở khách
mua hàng trên mạng giúp công ty đối thoại với khách hàng không chỉ vào
78
những ngày lễ mà vào quanh năm. Ông McCann- giám độc công ty cho biết
“Chúng tôi thường làm điều này nhưng nhờ có website, chúng tôi đã nhận
được nhiều phản hồi từ phía khách hàng hơn và thực sự mối quan hệ của
chúng tôi và khách hàng đã có được tính tương tác rất cao”. Nhờ có sự duy trì
tốt mối quan hệ với khách hàng cũng như nắm bắt được thông tin về nhu cầu
khách hàng một cách kịp thời và nhanh chóng, 1-800-flowers.com đã có ưu
thế hơn những công ty khác trong việc thực thi đơn hàng. Họ mạnh trong việc
dự đoán số lượng đơn hàng và giao hàng trong ngày nghỉ, một thách thức cho
tất cả các nhà bán lẻ nhưng lại là yếu tố tất yếu trong ngành kinh doanh quà
tặng.
Ice.com cũng chứng minh mình là một công ty “lão luyện” trong việc
nghiên cứu tâm lí khách hàng và mang lại lòng tin đối với khách hàng. Ice
luôn để xuất hiện thông điệp “tại sao bạn chọn Ice.com” trong suốt quá trình
đặt mua hàng trên mạng cũng như trên trang chủ của Ice.com. Thông điệp này
cùng chính sách giao hàng miễn phí, hộp đựng quà miễn phí và chính sách có
thể hoàn trả tiền trong vòng 30 ngày, là những yếu tố giúp khách hàng luôn
nhớ tới Ice.com. Nếu khách hàng tỏ ra lưỡng lự khi mua hàng, những yếu tố
này sẽ giúp thúc đẩy quá trình mua hàng diễn ra dễ dàng hơn. Sự kết hợp của
các yếu tố này chứng tỏ Ice.com đã thấu hiểu rất kĩ tâm lí khách hàng trong
quá trình bán hàng.
Đối với Amazon: từ năm 2002, khi khách hàng vào trang web của
Amazon từ lần thứ hai trở đi, một file cookie được sử dụng để xác định khách
hàng và hiển thị dòng chào hỏi: “Welcome back” và đưa ra những gợi ý mua
sắm dựa trên các hoạt động mua sắm trước đó của khách hàng. Amazon cũng
phân tích quá trình mua sắm của khách hàng thường xuyên và gửi những
email gợi ý về các sản phẩm mới cho khách hàng. Thống kê ý kiến, đánh giá
của khách hàng đối với các sản phẩm cho phép khách hàng đưa ra các lựa
79
chọn chính xác và nâng cao lòng tin của khách hàng trong quá trình mua sắm
tại Amazon.com hơn hẳn so với mua sắm truyền thống. Nhờ đó, Amazon đã
thu hút được nhiều khách hàng chọn lựa sản phẩm của mình.
3.1.2. Bài học từ những thất bại
3.1.2.1.Đặt tên website – Vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp
Quyết định quan trọng nhất trong marketing là đặt tên sản phẩm.
Trong kỉ nguyên của định vị, cái tên có vai trò vô cùng quan trọng. Trong kỉ
nguyên internet, cái tên đóng vai trò sống còn. Một số công ty đã thất bại trên
thị trường kinh doanh trên mạng vì đã chọn nhưng tên quá chung chung để
gây dựng thương hiệu của mình. Ví dụ, chúng ta có thể thấy địa chỉ bán sách
chạy nhất trên mạng không phải là Books.com mà là Amazon.com; trang web
đấu giá hàng đầu trên mạng không phải là auction.com mà là Ebay.com;
trang web tìm việc hàng đầu trên mạng không phải là Jobs.com mà là
Monster.com. Một số công ty chọn tên cho thương hiệu của mình là một danh
từ chung đã thành công ban đầu, khi việc kinh doanh trên mạng chưa phổ
biến. Ví dụ trong lần phát hành cổ phiếu đầu tiên, Pets.com đã thu được 50
triệu USD, eToys thu được 166 triệu USD. Nhưng tất cả các công ty này hiện
nay đều đã phá sản do hoạt động không hiệu quả. Có hai lí do chính, đó là: 1.
Khi internet còn khá mới mẻ, có rất ít các trang web được lập ra và hoạt động,
khi đó rất ít người biết đến tên của bất kì trang web nào. Vì vậy đặt tên bằng
một danh từ chung là một lợi thế. Khách hàng muốn mua giày chỉ cần gõ
Shoes.com. Tuy nhiên ngày nay có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh cùng
một mặt hàng trên mạng, nếu không có tên riêng cho sản phẩm của mình thì
rất khó có thể thu hút khách hàng và lưu lại thương hiệu trong tâm trí khách
hàng. 2. Việc đặt tên chung chung dễ gây nhầm lẫn cho khách hàng, từ đó tạo
điều kiện cho các công ty khác nhái sản phẩm của mình. Ví dụ công ty eToys
đã thua lỗ 73 triệu trong những năm cuối cùng hoạt động chỉ vì có những
80
công ty với tên tương tự được thành lập như iToy.com, Toys.com,
Toystore.com, eToystore.com, v.v… Vậy chẳng có gì bất ngờ khi eToys bị
phá sản và đóng cửa website ngày 7 tháng 3 năm 2001.
Điều này củng cố cho bài học marketing: The customer own the
brand” (tạm dịch: Khách hàng sở hữu nhãn hiệu). Điều này có nghĩa là: doanh
nghiệp sở hữu dấu hiệu thương mại (hay nhãn hiệu đăng kí), cơ sở sản xuất,
và các kênh phân phối của mình, nhưng không sở hữu nhãn hiệu của mình.
Giá trị của nhãn hiệu phụ thuộc vào khái niệm về nhãn hiệu đó trong tâm trí
khách hàng. Vì vậy, hãy đặt cho nhãn hiệu một cái tên thật đặc biệt (unique)
chứ đừng hòa tan nó trong muôn vàn cái tên của những doanh nghiệp khác
hoạt động trong cùng lĩnh vực kinh doanh.
3.1.2.2. Tập trung vào lĩnh vực chuyên môn
Thế giới trực tuyến có gì khác so với thế giới thực không? Câu trả lời
là Không. Để thành công trên Internet bạn cũng phải đánh vào tâm lí khách
hàng. Một khi đã đại diện cho một mặt hàng hay dịch vụ nào đó trong suy
nghĩ của khách hàng, thật khó mà thay đổi được hình ảnh đó. Hãng máy tính
Apple đã phải gánh chịu hậu quả vì tình trạng kinh doanh không tập trung. Đó
là công ty máy tính lớn duy nhất muốn sản xuất và kinh doanh cả phần mềm
và phần cứng máy tính, gồm cả hệ điều hành của riêng mình. Như đã biết,
Apple khởi nghiệp là một công ty chuyên sản xuất phần cứng máy tính cá
nhân, sau đó chuyển sang sản xuất các hệ điều hành, các chương trình phần
mềm và các thiết bị hỗ trợ kĩ thuật số (PDA). Apple đã mất phương hướng,
mất vị Tổng giám đốc điều hành và gần như tất cả những gì đang có của mình
cho tới khi Steve Jobs kiểm soát được tình hình, hướng Apple tập trung trở lại
vào mặt hàng kinh doanh chính, đó là máy tính cá nhân. Cần phải lưu ý rằng
hãng máy tính hàng đầu về phần cứng Dell Computer khong bán phần mềm
và hang máy tính chuyên về phần mềm là Microsoft không bán máy tính.
81
Khi đã sở hữu một thị phần lớn, thì hãy cố gắng nắm giữ nó và bảo vệ
vị trí thống lĩnh thị trường. Microsoft là một nhãn hiệu mạnh không chỉ vì
công ty này sản xuất phần mềm tốt hơn, mà bởi vì công ty này có 95% thị
phần hệ điều hành máy tính và 92% thị phần phần mềm tin học văn phòng.
Một số công ty biện hộ rằng: “chúng tôi có thể tham gia vào các thị
trường khác vì chúng tôi có sản phẩm, có con người, có hệ thống, có đà phát
triển và có tinh thần đồng đội. Vậy tại sao lại không thể chứ?”. Tuy nhiên,
mấu chốt của vấn đề là: Có thể anh có mọi thứ, sản phẩm, con người, hệ
thống, nhưng anh vẫn thiếu một thứ: đó là “quan niệm” của khách hàng.
Điều này áp dụng đúng đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Hiện nay ở Việt Nam, hầu như có rất ít các doanh nghiệp là “vua” của một
lĩnh vực nào đó. Ví dụ, nhắc đến cà phê chúng ta có cà phê Trung Nguyên,
nhắc đến sữa có Vinamilk, phần mềm có FPT… còn rất nhiều lĩnh vực khác
chưa có “vua”, nếu các doanh nghiệp biết tận dụng lợi thế và phát triển kinh
doanh trên lĩnh vực có lợi thế so sánh của mình thì sẽ thành công. Các doanh
nghiệp đã thành công mà muốn mở rộng, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh
thì cần hết sức cân nhắc vì việc đa dạng hóa thực sự là con dao hai lưỡi đối
với mỗi doanh nghiệp.
Áp dụng vào lĩnh vực bán lẻ: Các doanh nghiệp nên lựa chọn một lĩnh
vực kinh doanh nhất định và chiếm ưu thế trong lĩnh vực đó thì tốt hơn nhiều
so với việc cùng một lúc kinh doanh quá nhiều mặt hàng khác nhau. Hiện nay,
Picoplaza là một thương hiệu mạnh trong việc bán lẻ các thiết bị điện tử gia
dụng, thegioididong.com nổi tiếng trong việc kinh doanh điện thoại di động,
tienphongvdc mạnh về bán sách. Đó là một hướng đi đúng đắn bởi một khi
các trang web bán lẻ trên mạng mọc lên ngày một nhiều và nhanh thì các
thương hiệu trên đã có chỗ đứng trong mắt người tiêu dùng và từ đó có thể dễ
dàng xúc tiến các chiến lược marketing thành công, hiệu quả.
82
3.2. Định hƣớng chung về phát triển thƣơng mại điện tử và
marketing điện tử tại Việt Nam
Với sự bùng nổ của Internet và các ứng dụng thương mại điện tử trên
thế giới, phát triển thương mại điện tử mà marketing điện tử đã trở thành một
nhiệm vụ tất yếu đối với Việt Nam nếu không muốn bị tụt hậu xa hơn nữa so
với các nước phát triển đi trước. Nhận thức được điều này, chính phủ Việt
Nam đã và đang có những bước đi và hành động đúng đắn nhằm triển khai
thương mại điện tử nói chung và marketing điện tử nới riêng. Chính phủ đã
chỉ đạo các bộ ngành có liên quan đến thương mại điện tử (như Bộ thương
mại, Bộ bưu chính viễn thông, Bộ Khoa học công nghệ và thông tin…) thực
hiện một số chương trình nghiên cứu hoàn thiện chính sách về thương mại
điện tử và đều khẳng định quan điểm ủng hộ của Đảng, Nhà nước và Chính
phủ đối với thương mại điện tử và coi đây như một điều kiện cần thiết để nền
kinh tế Việt Nam có thể đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, đạt mục tiêu đã đề ra
đến năm 2020.
Thương mại điện tử và marketing điện tử chỉ có thể phát triển khi và
chỉ khi các yếu tố cần thiết như hạ tầng pháp lí, hạ tầng công nghệ thông tin,
hệ thống thanh toán, nguồn nhân lực… phát triển. Để thúc đẩy sự phát triển
của lĩnh vực này, năm 2008-2009 Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật có liên quan để tạo dựng cơ sở hạ tầng pháp lí (xem bảng 2.3 dưới đây).
Điều này đã giúp đánh dấu bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung
pháp lí để cá doanh nghiệp yên tâm tiến hành giao dịch thương mại điện tử,
khuyến khích thương mại điện tử phát triển, bảo vệ quyền lợi và lợi ích các
bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ pháp lí để xét xử khi có tranh chấp xảy
ra.
83
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg
ngày 7/2/2006 về việc Qui hoạch phát triển Viễn thông và Internet Việt Nam
đến năm 2010 với một số chỉ tiêu phát triển Internet:
Thực hiện phổ cập Internet đến tất cả các vùng, miền trong cả nước
với chất lượng và dịch vụ ngày càng cao. Đến năm 2010:
- Mật độ thuê bao Internet đạt từ 8 đến 12 thuê bao/110 dân (trong đó
có 30% là thuê bao băng rộng).
- Tỉ lệ số người sử dụng Internet đạt 25% đến 35% dân số.
- Đảm bảo đa số cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên, bác sĩ, sinh
viên đại học và cao đẳng, học sinh trung học chuyên nghiệp và học sinh phổ
thông trung học có điều kiện sử dụng Internet.
- Đẩy mạnh việc phổ cập Internet đến tất cả các xã trong cả nước.
Đến năm 2010 đảm bảo 70% số xã có điểm truy nhập Internet công cộng,
100% số huyện và hầu hết các xã trong các vùng kinh tế trọng điểm được
cung cấp dịch vụ Internet băng rộng.
- Đảm bảo tất cả các Bộ, ngành, cơ quan hành chính Nhà nước, chính
quyền cấp tỉnh và huyện được kết nối Internet băng rộng và kết nối với mạng
diện rộng của Chính phủ;
- 100% viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và trung học phổ thông có kết nối để truy nhập Internet băng rộng;
trên 90 % các trường trung học cơ sở, bệnh viện được kết nối Internet.
Năm 2010 là năm cuối cùng, là năm quyết định Kế hoạch có được
thực hiện đúng như mục tiêu ban đầu đặt ra hay không. Vì thế, trong suốt hai
năm 2008-2009, Nhà nước đã ban hành nhiều Quyết định, chỉ thị, định hướng
để tạo một tiền đề vững chắc cho Thương mại điện tử và marketing điện tử
phát triển đúng hướng và đạt được mục tiêu [22].
84
Bảng 3.1: Các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động
thƣơng mại điện tử (2008-2009)
Tên viết tắt
Đơn vị ban
hành văn
bản
Dạng
văn
bản
Nội dung văn bản
Ngày ban
hành văn
bản
37/2009/TT-
BTTTT
Bộ Thông
tin và
Truyền
thông
Thông
tư
Quy định về hồ sơ và thủ tục
liên quan đến cấp phép, đăng
ký, công nhận các tổ chức
cung cấp dịch vụ chứng thực
chữ ký số
14/12/2009
28/2009/NÐ-
CP
Chính phủ
Nghị
định
Quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong quản lý, cung
cấp, sử dụng dịch vụ Internet
và thông tin điện tử trên
Internet
20/03/2009
59/2008/QÐ-
BTTTT
Bộ Thông
tin và
Truyền
thông
Quyết
định
Ban hành Danh mục tiêu
chuẩn bắt buộc áp dụng về chữ
ký số và dịch vụ chứng thực
chữ ký số
31/12/2008
58/2008/QÐ-
BTTTT
Bộ Thông
tin và
Truyền
thông
Quyết
định
Ban hành Quy chế báo cáo
thông tin về các hoạt động
chứng thực chữ ký số của các
tổ chức cung cấp dịch vụ
chứng thực chữ ký số
30/12/2008
12/2008/TT-
BTTTT
Bộ Thông
tin và
Truyền
thông
Thông
tư
Hướng dẫn thực hiện một số
nội dung của Nghị định số
90/2008/NĐ-CP ngày 13
tháng 08 năm 2008 của Chính
phủ về chống thư rác
30/12/2008
40/2008/QÐ-
BCT
Liên bộ,
Ngành
Quyết
định
Ban hành Quy chế quản lý, sử
dụng chữ ký số, chứng thư số
và dịch vụ chứng thực chữ ký
số của Bộ Công Thương
31/10/2008
85
78/2008/TT-
BTC
Liên bộ,
Ngành
Thông
tư
Hướng dẫn thi hành một số nội
dung của Nghị định số
27/2007/NĐ-CP ngày 23
tháng 2 năm 2007 về giao dịch
điện tử trong hoạt động tài
chính
15/09/2008
97/2008/NÐ-
CP
Chính phủ
Nghị
định
Về quản lý, cung cấp, sử dụng
dịch vụ Internet và thông tin
điện tử trên Internet
28/08/2008
90/2008/NÐ-
CP
Chính phủ
Nghị
định
Về chống thư rác 13/08/2008
05/2008/CT-
BTTTT
Bộ Thông
tin và
Truyền
thông
Chỉ thị
Về đẩy mạnh phát triển công
nghiệp công nghệ thông tin
Việt Nam
Nguồn:
Theo ước tính, năm 2010, tỷ trọng đầu tư vào Internet Marketing trong
tổng ngân sách tiếp thị tiếp tục được dự báo tăng mạnh tại nhiều quốc gia phát
triển. Riêng các doanh nghiệp Việt Nam có thể đầu tư 7 – 10% ngân sách
marketing cho tiếp thị trên internet. Mặt khác, do internet đang có tốc độ tăng
trưởng cao, nên các doanh nghiệp tiêu dùng nhanh cũng đẩy mạnh các hình
thức tiếp thị qua internet với nhóm khách hàng tiềm năng là giới trẻ, nhân
viên văn phòng. Một ưu điểm khác là marketing trên internet không phụ thuộc
vào quy mô của doanh nghiệp, dù lớn hay nhỏ thì bất cứ doanh nghiệp nào
cũng có thể tiến hành hoạt động marketing và trao đổi với khách hàng trên
toàn thế giới”.
86
3.3. Các giải pháp chủ yếu để phát triển hoạt động marketing điện
tử trong ngành bán lẻ tại Việt Nam
3.3.1. Các giải pháp từ phía Nhà nƣớc
3.3.1.1. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng pháp lí
Với việc ý thức rõ những chính sách pháp lí cụ thể, phù hợp là nhân tố
cốt lõi nhằm tạo dựng một môi trường ổn định nhằm đảm bảo cho marketing
điện tử nói chung marketing điện tử trong ngành bán lẻ nói riêng hoạt động
một cách hiệu quả. Trong những năm gần đây chính phủ và Nhà nước đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật liên quan tới thương mại điện tử như : Luật
Giao dịch điện tử, Luật Thương mại sửa đổi… Đến cuối năm 2009, các nghị
định hướng dẫn luật giao dịch điện tử và nhiều nghị định hướng dẫn luật công
nghệ thông tin đã được ban hành. Hệ thống các luật định này đã tạo khung
pháp lý cơ bản cho sự phát triển của thương mại điện tử và marketing điện tử.
Do marketing điện tử là phương thức kinh doanh dựa trên nền tảng công nghệ
tiên tiến và liên quan mật thiết đến nhiều lĩnh vực, nên Nhà nước phải nhanh
chóng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác đặc biệt là thông tư
về giao kết hợp đồng trên các website thương mại điện tử.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, sự phát triển đa dạng của
thương mại điện tử và marketing điện tử luôn đặt ra những vấn đề mới cho hệ
thống pháp luật liên quan đến những vấn đề này. Nhà nước cũng phải nghiên
cứu tiến tới ban hàn hoặc sửa đổi nhiều văn bản pháp luật liên quan tới những
chứng từ điện tử, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo
mật thông tin… Cần phải nhìn nhận các hoạt động về internet có liên quan tới
hầu hết các mặt của đời sống kinh tế xã hội, trong đó có sự phát triển của
marketing điện tử, đặc biệt là trong lĩnh vực bán lẻ. Trong số các chính sách
đã ban hành, chính sách về quản lí thông tin điện tử, thiết lập trang tin điện tử,
quản lí tên miền internet và an ninh mạng tại Nghị định số 55/2001/NĐ-CP
87
vào ngày 23 tháng 8 năm 2001 đòi hỏi sự nghiên cứu, điều chỉnh càng sớm
càng tốt. Điều này thực sự cần thiết trong bối cảnh nước ta đã là thành viên
chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO và đang nỗ lực hoà nhập
vào xu thế phát triển chung của thương mại thế giới.
Mặt khác, Nhà nước cũng cần xây dựng các chính sách an ninh mạng
tốt hơn nhằm bảo vệ những nguồn thông tin liên quan tới bí mật riêng tư của
khách hàng, chống tin tặc xâm nhập trái phép. Để có thể thực hiện được điều
trên, Nhà nước pháp thiết lập một hệ thống mã nguồn cho tất cả các thông tin
số, phải hoạch định một chiến lược chung về hình thành và phát triển nền
kinh tế số hoá, xây dựng các chính sách, các đạo luật, các quy định cụ thể
nhằm thiết lập một chỉnh thể của hệ thống luật quốc gia.
Như vậy, để có được những chính sách phù hợp và mang tính dài hạn,
các cơ quan lập pháp cần thường xuyên nghiên cứu xu hướng thị trường mới
của công nghệ, tiếp thu qua những kinh nghiệm của các quốc gia phát triển
trong việc xây dựng những chính sách, nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu của
các tầng lớp trong xã hội để từ đó hình thành những chính sách có thể áp dụng
lâu dài và điều chỉnh tốt các hoạt động xã hội.
3.3.1.2. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin:
Hiện nay, một trong số những nguyên nhân cản trở sự phát triển của
marketing điện tử là sự hạn chế về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Việt
Nam. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều biện pháp để cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc
biệt cơ cấu đầu tư vào cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của doanh nghiệp đã
giảm từ 76,8% xuống còn 50% trong năm 2007 đã chứng tỏ hạ tầng công
nghệ tại các doanh nghiệp đã cơ bản được ổn định, tuy nhiên lĩnh vực này vẫn
bị coi là kém phát triển so với nhiều quốc gia trong khu vực. Phí truy cập, lắp
đặt và hoà mạng internet còn cao so với một số quốc gia trong khu vực, tốc độ
đường truyền còn thấp và không ổn định, số lượng nhà cung cấp dịch vụ còn
88
hạn chế so với nhu cầu của thị trường, kể cả đô thị, chất lượng dịch vụ viễn
thông, dịch vụ internet còn thấp, hệ thống máy chủ của các nhà cung cấp chưa
thực sự đủ mạnh.
Mặt khác, nguồn năng lượng điện hiện nay vẫn còn thiếu, do đó yêu
cầu cung cấp một nguồn điện ổn định cho mạng lưới điện viễn thông vẫn là
một thách thức đối với ngành năng lượng Việt Nam. Bởi vậy, điều cần thiết
đặt ra lúc này là phải cải thiện hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin.
Trước hết, Nhà nước cần tăng nguồn vốn đầu tư và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn này cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Nhà nước
cần có những chính sách đầu tư lâu dài và liên tục, bởi công nghệ thông tin là
lĩnh vực liên tục thay đổi, Nhà nước cũng cần phải xây dựng huy động các
nguồn lực, xây dựng các giải pháp thu hút vốn đầu tư và viện trợ từ các tổ chức,
các tập đoàn, các công ty tư nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, Nhà nước cũng
nên có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển
công nghiệp phần mềm, bởi đây là một lĩnh vực còn mới nhưng hứa hẹn đem lại
nhiều lợi nhuận trong tương lại và góp phần tạo dựng một nền tảng cơ sở hạ tầng
vững chắc cho sự phát triển của lĩnh vực công nghệ thông tin.
Bên cạnh việc đầu tư, Nhà nước cần tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh trong lĩnh vực viễn thông và kinh doanh internet, mở rộng thị trường
cung cấp dịch vụ internet, cho phép các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài
nước tham gia vào lĩnh vực này nhằm từng bước giảm mức cước viễn thông,
cải thiện chất lượng dịch vụ và qua đó tăng số lượng người sử dụng internet.
Hơn nữa, Nhà nước cần sớm cho ra đời Luật cạnh tranh nhằm kiểm soát giá
dịch vụ Bưu chính viễn thông. Mặc dù ngành bưu chính viễn thông đã cấp
phép cho nhiều đơn vị tham gia cung cấp dịch vụ internet nhưng tập đoàn bưu
chính viễn thông với cơ sở hạ tầng kĩ thuật sẵn có, rộng khắp với nhiều ưu đãi
khác của ngành chủ quản vẫn là đơn vị có thị phần lớn, chi phối giá dịch vụ,
89
làm hạn chế sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Bởi vậy, xoá bỏ độc quyền,
mở cửa thị trường là hướng đi tất yếu của ngành viễn thông Việt Nam cho
mục tiêu phát triển thương mại điện tử và đẩy mạnh việc ứng dụng marketing
điện tử.
3.3.1.3. Đẩy mạnh và xây dựng nguồn nhân lực trong lĩnh vực công
nghệ cao:
Phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tới sự thành công của
hoạt động marketing điện tử nói chung và marketing điện tử trong lĩnh vực
bán lẻ nói riêng. Tuy nhiên trên thực tế, Việt Nam đang phải đối mặt với sự
thiếu hụt nhân lực trình độ cao. Để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ tham
gia hoạt động marketing điện tử, cũng như nâng cao nhận thức của người tiêu
dùng về các hoạt động này thì Nhà nước cần xem xét những biện pháp sau:
Trước hết, Nhà nước phải đa dạng hoá các loại hình đào tạo. Hiện nay,
hầu như các trường về kinh tế của Việt Nam đều có giảng dạy môn marketing
nhưng chưa có trường nào đi sâu vào marketing điện tử. Như vậy, việc đẩy
mạnh hoạt động marketing điện tử đã dẫn đến nhu cầu tất yếu là sự phát triển
những môn học có liên quan đến ngành này. Tăng cường đội ngũ giáo viên
được đào tạo bài bản là điều vô cùng cần thiết. Thêm vào đó, sinh viên cũng
cần phải được bổ sung những kiến thức về công nghệ thông tin cũng như
thương mại điện tử bởi nền tảng của marketing điện tử chính là hạ tầng công
nghệ thông tin. Ngoài ra, Nhà nước cần phải chú trọng nâng cao trình độ
ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên mọi cấp độ bởi marketing điện tử được ứng
dụng trên phạm vi toàn cầu, do đó dòi hỏi những người tham gia voà hoạt
động trong lĩnh vực này phải có trình độ nhất định về ngoại ngữ.
Bên cạnh việc đẩy mạnh hình thức đào tạo chính quy tại các trường đại
học, cao đẳng nhằm xây dựng nguồn nhân lực trung và dài hạn, cần đẩy mạnh
các hình thức tuyên truyền, phổ biến và đào tạo khác như sử dụng các phương
90
tiện thông tin đại chúng. Nhà nước, thông qua các cơ quan bộ ngành có liên
quan cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các lớp chuyên đề để phổ
biến kiến thức cho mọi tầng lớp, nhất là đội ngũ doanh nghiệp, giúp họ hiểu
sâu hơn về thương mại điện tử và marketing điện tử, cũng như cách thức ứng
dụng chúng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chuyên gia về thương
mại điện tử, marketing điện tử của Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động tư vấn,
hướng dẫn các doanh nghiệp tham gia vào thị trường trực tuyến, giúp doanh
nghiệp giải quyết mọi khó khăn vướng mắc về thương mại điện tử và
marketing điện tử. Phát triển nguồn nhân lực là việc làm của toàn xã hội, Nhà
nước chỉ đóng vai trò đưa ra các quy định nhằm định hướng, hoõ trợ mạnh
trong giai đoạn đầu. Bên cạnh đó, chính các doanh nghiệp là lực lượng chủ
yếu trong việc phát triển nguồn nhân lực lâu dài cho đất nước. Do đó, Nhà
nước cần có những chính sách khuyến khích doanh nghiệp xây dựng đội ngũ
cán bộ marketing điện tử cho riêng mình. Đây là hình thức đầu tư có hiệu quả
đối với mỗi doanh nghiệp, bởi mỗi doanh nghiệp có thể chủ động về nguồn
lực của mình và có thẻ kiểm soát được chất lượng nguồn lực.
3.3.1.4. Phát triển hệ thống thanh toán điện tử.
Theo báo cáo thương mại điện tử Việt Nam trong liên tiếp 3 năm trở lại
đây, hệ thống thanh toán điện tử yếu kém luôn được doanh nghiệp đánh giá là
trở ngại lớn thứ hai đối với phát triển marketing điện tử ở Việt Nam. Thực
tiễn cho thấy, thanh toán điện tử là một điều kiện cần của thương mại điện tử
cũng như marketing điện tử. Thương mại điện tử và marketing điện tử khó có
thể phát huy hết ưu điểm của mình khi chưa có hệ thống thanh toán điện tử
với năng lực đủ mạnh. Đặc biệt là đối với lĩnh vực bán lẻ, số lượng người
mua là rất lớn thì việc áp dụng phổ biến thanh toán điện tử là vô cùng quan
trọng .
91
Ngoải ra để đảm bảo cho hệ thống thanh toán hoạt động hiệu quả thì rất
cần sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và các tổ chức tin dụng nhằm xây
dựng các chính sách, các biện pháp bảo mật thông tin hiệu quả và tạo dựng
một hệ thống thanh toán an toàn, tin cậy và chính xác để người tiêu dùng có
thể yên tâm mua bán trên mạng.
3.3.1.5. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ cập kiến thức.
Trong bản chỉ thị về việc triển khai Kế hoạch tổng thể về phát triển
thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010, Bộ thương mại đã yêu cầu Vụ
thương mại điện tử, vụ tổ chức cán bộ, các sở thương mại tổ chức tập huấn
đào tạo về lợi ích, kĩ năng kinh doanh thương mại điện tử cho các cán bộ quản
lí kinh tế cao cấp và phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới
thương mại điện tử và các doanh nghiệp. Ngoài ra, Bộ cũng yêu cầu trường
cán bộ thương mại trung ương và các trường cao đẳng, trung học trực thuộc
Bộ thương mại bổ sung nội dung đào tạo về thương mại điện tử vào chương
trình đào tạo, chú trọng biên soạn các tài liệu, giáo trình và xây dựng đội ngũ
giảng viên có trình độ lí luận và thực tiễn về thương mại điện tử. Đây là một
nỗ lực rất lớn của Bộ thương mại và Marketing điện tử tới mọi người dân,
nhằm phổ cập hoá và thu hút sự chú ý của mọi người tới các vấn đề này. Tuy
nhiên, các bộ ngành có liên quan cũng nên đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên
truyền kiến thức về marketing điện tử trên các báo đài, trung tâm thông tin,
các trang thông tin tra cứu. Chúng ta nên đẩy mạnh việc đưa dịch vụ cung cấp
thông tin thương mại lên mạng internet đẻ lôi kéo các doanh nghiệp kết nối
internet, tìm hiểu về các thông tin này, và dựa vào nguồn thông tin đó để tiến
hành các hoạt động thương mại. Các nội dung thông tin này muốn hấp dẫn
được nhiều người cần phải nhanh nhạy, chính xác và bao trùm trên cả nước.
Các nội dung thông tin về giá cả, thị trường trên thế giới cần được cập nhật
thường xuyên để đáp ứng nhu cầu trong nước.
92
3.3.1.6. Tích cực tham gia hợp tác quốc tế về xây dựng các chiến
lƣợc phát triển thƣơng mại điện tử và marketing điện tử.
Việt Nam đang trên con được hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới với vai trò ngày càng cao và đang dần khẳng định vị thế trong nền kinh tế
toàn cầu. Việt Nam đã tham gia hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế nhằm phát
triển các chiến lược, thực hiện các dự án phát triển thương mại điện tử ở cả
cấp độ khu vực (ASEAN, APEC) và thế giới (UNCTAD, ICC, WIPO,
UNDP). Việc hợp tác quốc tế này sẽ là rất cần thiết bởi chúng ta có thể tranh
thủ sự giúp đỡ bên ngoài về công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho việc
phát triển thương mại điện tử và marketing điện tử bởi so với các nước trên
thế giới, việc ứng dụng thương mại điện tử và marketing điện tử tại Việt Nam
mới chỉ ở giai đoạn ban đầu.
Hợp tác quốc tế, một mặt sẽ giúp Việt Nam hoàn thiện các chính sách
phù hợp với tình hình trong nước và tiêu chuẩn quốc tế về cả công nghệ, thuế,
hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, giải quyết tranh
chấp, an toàn trong các giao dịch thương mại dịch vụ, mặt khác chúng ta có
thể học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước đi trước
về đào tạo nguồn nhân lực, cộng nghệ, chính sách pháp luật…
Trong hợp tác đa phương, càn ưu tiên hợp tác với các tổ chức kinh tế
thương mại quốc tế và khu vực như WTO, APEC, ASEAN, ASEM và các tổ
chức chuyên trách về thương mại của liên hợp quốc như UNCTAD,
UNCITRAL, UNCEFACT…, ưu tiên hợp tác song phương với các nước tiên
tiến về thương mại điện tử và các nước có kim ngạch thương mại lớn với Việt
Nam, tích cực tham gia hiệp định song phương và đa phương liên quan đến
thương mại điện tử như : Luật chữ kí điện tử của UNCITRAL, Incoterm
2000, công ước Hamburg 1978… nhằm từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ
93
thuật và môi trường pháp lí thuận lợi để phát triển thương mại điện tử cũng
như marketing điện tử tại Việt Nam.
Tóm lại Nhà nước cần đóng vai trò không thể thiếu trong việc tạo nền
tảng cho sự phát triển thương mại điện tử cũng như marketing điện tử. Yêu
cầu đặt ra là Nhà nước cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình mới có thể
đưa các hoạt động này ở Việt Nam tiến kịp thời với sự phát triển chung của
thế giới.
3.3.2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp bán lẻ:
Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đang trên
con đường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Để có thể hội nhập
thành công thì các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao uy tín
chất lượng sản phẩm, đồng thời đẩy mạnh đổi mới công nghệ, áp dụng những
kĩ thuật tiên tiến của thế giới, thay đổi cách thức tiến hành kinh doanh. Thị
trường toàn cầu đang rất coi trọng áp dụng thương mại điện tử và marketing
điện tử, coi đây là một công cụ hữu hiệu để tăng cường khả năng cạnh tranh
và thúc đẩy hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp Việt Nam trong thời
gian qua cũng tích cực tham gia vào thị trường trực tuyến, nhưng sô lượng
công ty làm ăn hiệu quả vẫn còn khá khiêm tốn và việc áp dụng marketing
điện tử còn ở giai đoạn sơ khai. Tuy nhiên với sự gia tăng của các công ty
nước ngoài trên thị trường thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với
sự cạnh tranh khắc nghiệt ngay chính tại sân nhà. Do vậy, bên cạnh việc hỗ
trợ chính sách của Nhà nước thì các doanh nghiệp cũng cần có sự thay đổi về
cơ cấu tổ chức, đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ mới và thay đổi cách thức
kinh doanh cũng như xây dựng các chiến lược phát triển lâu dài để tránh bị tụt
hậu xa hơn nữa so với các quốc gia khác.
94
3.3.2.1. Xây dựng cơ cấu quản lí tổ chức phù hợp với hoạt động
marketing điện tử
Việc áp dụng marketing điện tử không chỉ dừng ở việc sử dụng những
phương tiện điện tử để tiến hành hoạt động marketing mà điều quan trọng là
phải hiểu và nắm bắt được tầm quan trọng của hoạt động này, đồng thời phải
xây dựng được đội ngũ cán bộ am hiểu về công nghệ thông tin nói chung và
marketing điện tử nói riêng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải tái cơ cấu tổ
chức cho phù hợp với nhu cầu thực tế.
3.3.2.2. Nâng cao chất lƣợng thiết kế, xây dựng và phát triển
website
Tham gia vào thương mại điện tử và xây dựng chiến lược marketing
điện tử, đầu tiên các doanh nghiệp cần xây dựng một website hoàn thiện.
“Ngay cả khi bạn không định bán hàng trực tuyến thì một trang web được
thiết kế tốt vẫn hết sức quan trọng” – Trích lời Tim W. Knox, người sang lập,
chủ tịch và giám đốc điều hành của 4 công ty công nghệ thành công, trong đó
có B2Secire Inc. ông đã khuyên các doanh nghiệp nên xây dựng một website
để giới thiệu về công ty và sản phẩm, cho dù công ty đó chỉ có hai nhân viên
hay mười nghìn nhân viên. Xây dựng một website là cần thiết với các doanh
nghiệp Việt Nam, khi mà website là công cụ phổ biến nhất trong chiến lược
marketing điện tử
Đối với 1 doanh nghiệp Việt Nam, xây dựng một website có sức thu
hút cao cần chú ý tới một số vấn đề sau:
Doanh nghiệp cần phải xác định mục tiêu cụ thể cho website của mình,
mục tiêu này phải được xây dựng dựa trên các yếu tố như: doanh nghiệp kinh
doanh ngành nghề gì, đối tượng khách hàng doanh nghiệp nhắm tới là ai, đối
thủ cạnh tranh của doanh nghiệp như thế nào. Mục tiêu đặt ra càng rõ rang thì
kết quả do website mang lại càng cao.
95
Doanh nghiệp cũng nên lưu ý tới việc đặt tên miền và đăng kí tên miền
cho website. Tên miền riêng khẳng định vị trí giúp khách hàng dễ dàng tìm
đến với website của doanh nghiệp. Đặt tên miền đặc biệt quan trọng, vì nó
thường gắn liền với tên doanh nghiệp hay nhãn hiệu sản phẩm nổi tiếng mà
doanh nghiệp cung cấp. Tên miền phải đảm bảo yêu cầu ngắn gọn, dễ nhớ,
bởi thực tế tên miền càng dài, càng phức tạp thì càng gây nhầm lẫn và dễ viết
sai chính tả. Ngoài việc chú trọng đến việc đặt tên miền, doanh nghiệp cũng
cần quan tâm tới vấn đề đăng kí tên miền vì hiện nay trên thực tế đã có không
ít những trường hợp tranh chấp về tên miền, gây tổn thất cho doanh nghiệp.
Một việc đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng website của doanh
nghiệp là đầu tư thiết kế trang chủ. Có thể nói trang chủ chính là bộ mặt của
doanh nghiệp trước cả thế giới, do đó việc thiết kế trang chủ cũng phải được
quan tâm hàng đầu khi các doanh nghiệp bắt tay vào xây dựng website riêng.
Trang chủ phải đáp ứng các nhu cầu: làm cho mục đích của trang web được rõ
rang, dễ hiểu bằng cách đưa ra những nội dung chính yếu để giới thiệu về
doanh nghiệp và sản phẩm, giúp người tiêu dùng tìm được thứ mà họ cần tìm
một cách nhanh nhất và thể hiện rõ nội dung của trang web; trang chủ của
website được tải xuống nhanh và có sự kết hợp màu sắc, âm thanh hợp lí.
Trang chủ không cần phải quá màu mè phức tạp hay đòi hỏi những hình minh
hoạ tinh vi bởi người truy cập thường bỏ qua những đồ hoạ như quảng cáo và
tập trung vào những phần của trang chủ trông có vẻ có ích hơn và thực tế cho
thấy các trang chủ của amazon, Ebay hay Google đều không hề màu mè hay
phức tạp mà vẫn thu hút được một lượng khách hàng khổng lồ trên mạng.
Ngoài ra, nội dung của website nói chung và trang chủ nói riêng cần
phải thú vị, có ích và không ngừng thay đổi phù hợp với hoàn cảnh, thời điểm
bởi nội dung cố định của website có thể thu hút khách hàng ở những lần đầu
đến thăm nhưng cũng làm họ cảm thấy nhàm chán ở những lần truy cập tiếp
theo. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đảm bảo rằng trang web của họ
96
được đăng kí trên các hệ thống thông tin tìm kiếm như Google, Yahoo, MSN,
vinaseek…
3.3.2.3. Đẩy mạnh ứng dụng phƣơng thức thanh toán điện tử trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bán lẻ
Trong xu thế nói chung của hiện đại hoá và tự động hoá các khâu trong
nền kinh tế thì việc hiện đại hoá lĩnh vực thanh toán là một tất yếu khách
quan. Hiện nay, với sự phát triển của cntt và internet thì phương thức thanh
toán truyền thống đã bộc lộ nhiều hạn chế như: tốc độ chậm, chi phí giao dịch
cao và không đáp ứng được xu thế điện tử hoá nền kinh tế. Các doanh nghiệp
chỉ thực hiện hiệu quả các hoạt dodọng marketing điện tử khi có một hệ thống
thanh toán điện tử đủ mạnh. Nếu chưa có hệ thống thanh toán điện tử thì các
hoạt động vẫn chỉ thực hiện qua thanh toán trực tiếp. Như vậy, các cửa hàng
ảo thiết lập trên mạng cũng chỉ là nơi cung cấp thông tin, quang cáo về sản
phẩm, chứ chưa thực sự diễn ra hoạt động trao đổi buôn bán được. Do đó,
marketing điện tử chưa thực sự phát triển và chưa đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng.
Khi tham gia vào thương mại điện tử, doanh nghiệp phải biết lựa chọn
hình thức thanh toán và dự kiến các phương án thanh toán có thể như thanh
toán bằng thẻ tín dụng hay thanh toán bằng tiền điện tử, thanh toán chuyển
tiền… Trên cơ sở xác định các hình thức thanh toán, doanh nghiệp phải thống
nhất với ngân hàng của mình về quy trình thanh toán. Việc này đòi hỏi ngân
hàng phải là ngân hàng có khả năng đầu tư công nghệ, thanh toán tiên tiến,
đáp ứng được nhu cầu giao dịch và thanh toán điện tử không chỉ trong phạm
vi quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu.
Việc thanh toán bằng tiền điện tử, thẻ tín dụng, thẻ mua hàng, thẻ ghi
nợ đã trở nên phổ biến trên thế giới. Nhưng tại Việt Nam, các hình thức thanh
toán này còn khá mới mẻ và ít được các doanh nghiệp áp dụng. Tuy nhiên, để
đảm báo thành công khi tham gia vào kinh doanh trực tuyến thì các doanh
nghiệp phải tìm hiểu và ứng dụng các hình thức thanh toán này. Ngoài ra, bên
97
cạnh việc ứng dụng các hình thức thanh toán điện tử, doanh nghiệp cũng cần
phải chú ý tới vấn đề bảo mật và an toàn thông tin nhằm đem lại cho khách
hàng một sự tin cậy khi thực hiện giao dịch với doanh nghiệp.
3.3.2.4. Từng bƣớc xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của
hoạt động marketing điện tử trong ngành bán lẻ
Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển mình, hối hả cho hội nhập kinh
tế quốc tế thì nguồn nhân lực chất lượng cao, hơn bao giờ hết là mối quan tâm
hàng đầu của nhiều doanh nghiệp hiện nay. Một doanh nghiệp thành công là
một doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên giỏi về chuyên môn, có trách nhiệm,
và thành thạo các nghiệp vụ có liên quản. Hoạt động marketing điện tử được
tiến hành trong môi trường điện tử toàn cầu nên nhân lực cho hoạt động này
phải có cả hiểu biết về tin học, thành thạo về ngoại ngữ lẫn nghiệp vụ
marketing. Doanh nghiệp phải chú trọng trang bị cho nhân viên một vốn kiến
thức ngoại ngữ, chủ yếu là tiếng Anh do môi trường hoạt động của marketing
điện tử phần nhiều dưới dạng ngôn ngữ này. Nếu đội ngũ nhân viên của
doanh nghiệp không làm chủ được tiếng Anh thì hiệu quả sẽ rất thấp vì tiếng
Việt trong internet rất hạn chế. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải tạo điều kiện
cho nhân viên nhanh chóng lamg quen và sử dụng các dịch vụ internet trong
hoạt động kinh doanh của mình. Với điều kiện giáo dục của Việt Nam hiện
nay thì việc có được những nhân viên hiểu về công nghệ thông tin và có nền
tảng kiến thức tốt về marketing điện tử là chưa nhiều, do vậy doanh nghiệp
cần phải thực hiện đào tạo bổ trợ thêm kiến thức cho nhân viên, đặc biệt là
những nhân viên hoạt động trong lĩnh vực marketing. Các nhà quản trị nhân
sự cũng nên lưu ý tới vấn đề này từ khâu tuyển dụng mới để đáp ứng nhu cầu
phát triển sau này, đồng thời áp dụng các chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với
đội ngũ chuyên gia quản lí, kinh tế, kĩ thuật giỏi đáp ứng yếu cầu hội nhập
quốc tế và canh tranh ngày càng cao trong lĩnh vực viễn thông và internet.
98
KẾT LUẬN
Internet là cuộc cách mạng thứ ba trong ngành bán lẻ. Cuộc cách mạng
đầu tiên (xây dựng nhãn hiệu) đã loại bỏ những nỗ lực bán hàng không cần
thiết. Cuộc cách mạng thứ hai (phương thức tự phục vụ) đã loại bỏ nhân viên
bán hàng không cần thiết. Cuộc cách mạng thứ ba (mạng Internet) sẽ loại bỏ
giai đoạn phân phối trung gian không cần thiết. Mỗi cuộc cách mạng đều làm
giảm chi phí bán hàng. Với việc áp dụng chiến lược Marketing trên mạng
Internet, nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã rất thành công trong việc thu hút
khách hàng, tăng doanh thu cũng như lợi nhuận và tạo được uy tín tốt không
chỉ ở thị trường trong nước mà còn vươn xa ra toàn thế giới.
Với việc trở thành thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới, Việt
Nam đã và đang khẳng định vị trí của mình trong quá trình hội nhập sâu rộng
vào nên kinh tế thế giới. Việt Nam đang đứng trước nhưng cơ hội và thách
thức to lớn. Để có thể hội nhập thành công, Việt Nam cần có những chiến
lược phát triển lâu dài, bền vững, hiệu quả và đi kịp thời đại. Trong kỉ nguyên
của nền kinh tế trí thức, hơn bao giờ hết, ứng dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động kinh doanh là một điều kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát
triển.
Hiện nay trên thế giới, các quốc gia đều đẩy mạnh những ứng dụng của
khoa học công nghệ vào phục vụ phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là những
ứng dụng của Internet vào thương mại, trong đó có lĩnh vực bán lẻ. Mạng
Internet ngày nay không chỉ là kho thông tin khổng lồ mà còn là một công cụ
marketing đầy quyền lực và sức mạnh. Ứng dụng marketing điện tử vào lĩnh
vực bán lẻ - một lĩnh vực năng động của nền kinh tế là một điều vô cùng cần
thiết và trở thành một xu thế tất yếu trong kỉ nguyên thông tin. Học hỏi từ
những thành công và thất bại của việc áp dụng chiến lược marketing điện tử
99
của các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ trên thế giới sẽ giúp Việt Nam có
thêm kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Với những lợi thế vượt trội so với marketing truyền thống, marketing
điện tử đang dần khẳng định được vai trò to lơn và xu thế phát triển tất yếu
của mình trong hoạt động thương mại quốc tế. Việc áp dụng marketing điện
tử thay thế dần cho marketing truyền thông là việc làm tát yếu của các doanh
nghiệp bán lẻ trong thời đại nền kinh tế số hóa như hiện nay. Tại Việt Nam,
marketing điện tử trong ngành bán lẻ mới đang ở giai đoạn đầu của quá trình
hình thành và phát triển, do rất nhiều nguyên nhân khác nhau như: trình đố
phát triển yếu kém của nền kinh tế, cơ sở hạ tầng pháp lí và thông tin còn
thiếu và yếu, người dân chưa hình thành thói quen mua sắm trên mạng v.v…
Trước những trở ngại này, tất cả các chủ thể tham gia bao gồm Nhà nước,
doanh nghiệp bán lẻ và người tiêu dùng cần hợp tác để giúp marketing điện tử
trở thành một công cụ hỗ trợ kinh doanh đắc lực trong ngành bán lẻ, giúp
nước ta hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế tri thức toàn cầu.
100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Bộ công nghệ thông tin và truyền thông (2009), Kế hoạch tổng thể phát
triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến
năm 2020
2. Bộ công nghệ thông tin và truyền thông (2009), Sách trắng về công nghệ
thông tin và truyền thông Việt Nam 2009
3. Bộ Công thương (2008), Báo cáo thương mại điện tử Việt Nam 2008, Hà
Nội
4. Bộ Thương Mại (2005), Kế hoạch phát triển thương mại điện tử 2006-
2010
5. Nguyễn Đăng Hậu (2004), Kiến thức Thương mại điện tử, Báo cáo Hội
thảo, Viện đào tạo công nghệ và Quản lí quốc tế - Khoa công nghệ thông
tin
6. PGS.TS. Phạm Thu Hương, ThS. Nguyễn Văn Thoan (2009), Ứng dụng
marketing điện tử trong kinh doanh, NXB Khoa học kĩ thuật 2009
7. Philip Kotler (1999), Marketing căn bản (Biên dịch: PTS. Phan Thăng,
PTS. Vũ Thị Phượng, Phan Văn Chiến), NXB Thống kê 1999
8. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật giao dịch
điện tử, Hà Nội
9. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 222/2005/QĐ – TTG về việc
phê duyết kế hoạch tổng thể về phát triển Thương mại điện tử giai đoạn
2006-2010, Hà Nội
101
10. Trường đại học Ngoại thương (2000), Marketing lí thuyết, NXB Giáo dục,
Hà Nội
TIẾNG ANH
11. Philip Kotler (1999) Principles of Marketing, NXB Prentice Hall Europe
12. Philip Kotler (2004) Marketing Management, NXB Prentice Hall Europe
13. Joh O’Connor và Eamonn Galvin (2000), Marketing in the digital Age,
NXB Financial Times
14. Judy Strauss và Raymond Frost (2001), E-marketing , NXB Prentice Hall
Europe
15. UNCTAD (2008), E-commerce and development Report 2008
WEBSITE
16. Tâm Anh, “20 tập đoàn bán lẻ hàng đầu châu Âu và Mỹ”, website:
truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2010, theo đường dẫn:
my-DBB3C.ipvnn
17. GSO Media (2009), “Mỹ: Thị trường bán lẻ trực tuyến năm 2009 sẽ tăng
trưởng 11%”, website: truy cập ngày 20
tháng 2 năm 2010 theo đường dẫn:
102
18. Sàn giao dịch bất động sản Vinaconex – ITC (2010), “Doanh số bán lẻ Mỹ
tháng 7/2009 tiếp tục giảm”, website: truy cập
ngày 10 tháng 3 năm 2010 theo đường dẫn:
2009-tiep-tuc-giam/229.html
19. Baomoi.com (2009), “E-marketing Việ t Nam 2009”, website
truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2010 theo đường
dẫn:
20. Thời báo Doanh Nhân Online (2010), “7 xu hướng Marketing “hot” vào
năm 2009”, website truy cập ngày 20
tháng 3 năm 2010 theo đường dẫn
huong-marketing-hot-vao-nam-2009.html
21. Nguyễn Tuyết Mai, “Thương mại điện tử và ứng dụng trong marketing”
website: truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2010 theo
đường dẫn
Tu/TMDT_va_ung_dung_trong_marketing/
22. Trung tâm Internet Việt Nam VNNIC (2010), “Một số văn bản pháp luật
về thương mại điện tử”, website: truy cập
ngày 20 tháng 3 năm 2010 theo đường dẫn:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5062_8382.pdf