Theo kinh nghiệm của Mỹ thì, trong thủ tục phá sản, vai trò của các chủ nợ là rất
quan trọng, đặc biệt trong việc chủ động tái tổ chức công ty. Một Uỷ ban chủ nợ
được thành lập với quyền hành rất lớn. Pháp luật Mỹ không chỉ quy định một Uỷ
ban chủ nợ mà trong trường hợp đặc biệt có thể có vài Uỷ ban chủ nợ (Uỷ ban đại
diện người lao động, Uỷ ban đại diện chủ nợ có bảo đảm .), các Uỷ ban này đều có
sự trợ giúp của các luật sư. Tại một số nước khác như pháp luật của các nước theo
khối thịnh vượng chung như Pháp ., chủ nợ thường đóng vai trò ít quan trọng hơn
trong việc giám sát vụ việc và hoạt động của người quản lý cũng như trong thủ tục
phá sản nói chung. Xu hướng hiện đại là cho phép chủ nợ được quyết định những gì
có lợi cho họ nhất và làm cho toà án không cần thiết phải tham gia vào việc ra ra
quyết định của họ trừ trường hợp đảm bảo rằng các chủ nợ nhỏ cũng được đối xử
công bằng.
87 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2758 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Luật phá sản Việt Nam năm 2004: thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội và phương hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hay là phải gửi qua
cơ quan thi hành án? Và gửi bản chính hay bản sao? Những vấn đề này chưa được
quy định rõ nên thực tế có trường hợp khi đối chiếu công nợ thì Tổ quản lý, thanh lý
tài sản lại yêu cầu các chủ nợ nộp lại giấy đòi nợ kèm theo chứng từ chứng minh
việc đòi nợ. Theo tôi, cần quy định rõ khi làm việc Tổ quản lý, thanh lý tài sản có
quyền yêu cầu các chủ nợ nộp giấy đòi nợ kèm theo các chứng từ chứng minh việc
đòi nợ.
Ngoài ra, việc lưu giữ các tài liệu, sổ sách liên quan đến hoạt động của Tổ quản
lý, thanh lý tài sản được quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 67, theo đó, sổ sách
liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lưu giữ tại cơ quan thi
hành án và Toà án do Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản quản lý. Trường hợp
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và Tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể thì hồ sơ
liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lưu giữ tại Toà án
nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quy định như vậy là không rõ
ràng, dẫn đến việc khó xác định loại nào do Toà án quản lý, loại nào do cơ quan thi
hành án quản lý?
57
2.4.6. Về chi phí, thù lao cho thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Theo quy định của pháp luật thì Tổ trưởng và các thành viên của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản được hưởng thù lao theo quy định của Bộ Tài chính, nhưng đến nay
vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể do vậy, thực tiễn tại các địa phương thực
hiện việc trả thù lao cho thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng không
thống nhất. Một số doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản còn quỹ tiền mặt thì Thẩm
phán tính thù lao là 10.000 đồng/ngày/một người hoặc tính trung bình thời gian làm
việc khoảng 15 ngày/tháng (300.000 đồng/tháng/người). Trường hợp không còn
tiền thì không chi thù lao cho các thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Theo
người viết, để thống nhất thực hiện cần có hướng dẫn cụ thể.
2.5. Về vấn đề thu hồi tài sản phá sản
Về vấn đề này LPS 2004 vẫn chưa quy định ai sẽ có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại quyết định thu hồi tài sản hoặc giải quyết các tranh chấp có liên quan đến
tài sản bị thu hồi. Thủ tục giải quyết khiếu nại và tranh chấp này cũng là vấn đề còn
bỏ ngỏ trong LPS 2004. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng còn thiếu vắng các quy
định về những biện pháp bảo đảm thi hành quyết định thu hồi tài sản của Thẩm
phán, cũng như những quy định cho phép Tổ quản lý, thanh lý tài sản được quyền
áp dụng những biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp không
chấp hành quyết định của Toà án. Do đó, việc thi hành quyết định thu hồi tài sản
gặp rất nhiều khó khăn và hiệu quả kém. Việc thu hồi tài sản của các doanh nghiệp
tại TP. Hà Nội còn gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau :
Thứ nhất, các tài sản thường nằm rải rác ở nhiều địa phương khác nhau, trong
khi, công tác quản lý còn yếu kém, khiến việc xác minh còn gặp rất nhiều khó khăn,
chi phí đi lại, giao dịch lớn, trong khi đó tài sản xuống cấp, giảm giá trị (Nhiều
trường hợp, các tài liệu, giấy tờ chứng minh còn bị tẩu tán, cất giấu trái phép). Hiện
nay Luật Phá sản lại chưa quy định về việc uỷ thác thu hồi tài sản trong trường hợp
tài sản của doanh nghiệp bị phân tán nhiều nơi nằm ngoài địa phương đang giải
quyết phá sản. Do vậy, khi tài sản của doanh nghiệp phá sản phân tán ở nhiều nơi
thì không ai khác ngoài chính Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoặc Thẩm phán phải trực
58
tiếp đi thu hồi, điều này dẫn đến một thực trạng là các chủ thể đó phải đi lại như
“con thoi” nhiều nơi để thi hành vừa mất thời gian, kéo dài vụ việc vừa làm tăng
những khoản chi phí không đáng có cho việc giải quyết phá sản.
Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đang thụ lý, giải quyết phá sản đối với công
ty may xuất khẩu Thành Công có trụ sở tại quận Đống Đa Hà Nội nhưng ngoài tài
sản tại trụ sở chính thì công ty còn có tài sản tại Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh.
Khi tiến hành giải quyết, Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã trực tiếp đến các địa
phương đó để kiểm kê tài sản nhưng sau khi kiểm kê xong thì không biết giao tài
sản đó cho ai quản lý.
Thứ hai, một số trường hợp doanh nghiệp khi ký hợp đồng làm dịch vụ cho
chính quyền thành phố đã được yêu cầu ứng trước nguồn vật tư, lao động, sau một
thời gian sẽ được hoàn trả, song đến hạn thì phía chính quyền không trả mà doanh
nghiệp cũng không thể “bán” được “dịch vụ” đã làm để đền bù cho khoản chi cho
mình. Đây là một loại quyền về tài sản khó có thể thu hồi trong qúa trình giải quyết
phá sản.
59
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNG KHẢ NĂNG THỰC THI LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004
I. Dự báo xu hƣớng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở TP. Hà Nội
trong thời gian tới
Dự báo xu hướng phá sản, hay nói cách khác là dự báo xu hướng các doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong thời gian tới là một việc cần thiết giúp cho
các cơ quan chức năng có hướng đi đúng trong việc hoạch định chính sách cho
doanh nghiệp.
1. Cơ sở để dự báo
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản, nhưng trong bài khoá luận này người viết sẽ xem xét vấn đề trên cơ sở phân
tích hai yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong giai đoạn
hiện nay. Đó là:
Thứ nhất, gia nhập WTO, doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp
Hà Nội nói riêng sẽ phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt ngay trên sân nhà mà hậu
quả tất yếu là doanh nghiệp kém sẽ bị phá sản nhiều hơn.
Đã hơn hai năm kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO
(ngày 1/1/2007), bên cạnh những cơ hội mà WTO mang lại thì chúng ta còn phải
đối mặt với nhiều thách thức đối với thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói
chung. Thị trường mở cửa dẫn đến cạnh tranh tăng lên làm cho các doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ khó thích ứng. Thêm vào đó, các
doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều vấn đề như: thiếu kỹ năng và kiến thức chuyên
sâu về quản lý, những rào cản thương mại phi thuế quan, vấn đề ngôn ngữ, các vấn
đề về kế cấu hạ tầng khác như đường xá, viễn thông, cung cấp năng lượng, tiêu
chuẩn hoá, tuân thủ các quy định về nhãn mác và xuất xứ, khung khổ luật pháp
minh bạch để bảo vệ và trợ giúp hợp lý bằng pháp luật,…Khó khăn trong tiếp cân
vốn từ khu vực tài chính chính thức. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 32,4%
60
DNVVN đủ điều kiện để vay từ các ngân hàng chính thức. Do vậy họ phải có được
tài chính từ các nguồn khác để cạnh tranh.
Thứ hai, Tình hình suy thoái kinh tế thế giới sẽ có những tác động tiêu cực đến
doanh nghiệp Hà Nội mà nếu không có giải pháp thì nhiều doanh nghiệp sẽ có nguy
cơ phá sản. Bước sang năm 2009 là năm thứ ba Việt Nam gia nhập Tổ chức thương
mại Thế giới. Theo đánh giá của của các tổ chức và chuyên gia trên thế giới, kinh tế
thế giới đang bước vào một thời kì bất ổn với nhiều thách thức. Xu thế sụt giảm tốc
độ tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục diễn ra và Việt Nam cũng không nằm ngoài
những biến động đó.
Xuất khẩu giảm sút vì thị trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta là Mỹ và châu
Âu nên khi các thị trường này rơi vào suy thoái và lâm vào khó khăn thì nhu cầu cắt
sẽ giảm sút. Việc giảm sút nhu cầu sẽ làm cho việc xuất khẩu các sản phẩm của ta
vào các thị trường này sẽ ít đi, mà như thế sẽ tác động đến GDP (giảm xuống).
Việc hợp tác và phát triển giữa Việt Nam và các đối tác nước ngoài – nơi chịu
ảnh hưởng của khủng hoảng - sẽ bị gián đoạn hay ngưng trệ do phía bạn gặp khó
khăn trong tài chính. Điều này tác động xấu đến các dự án đầu tư hay phát triển
trong dài hạn của ta.
Việc Mỹ lâm vào suy thoái làm đồng đô la mất giá trên thị trường quốc tế, việc
này tác động không nhỏ đến xuất khẩu. Vì đồng đô la mất giá nên việc xuất khẩu
không còn lợi nhuận như trước. Qua đó nó làm giảm GDP của nước ta.
Các hợp đồng kinh tế kí kết với đối tác nước ngòai bị ngưng trệ và có thể các
hợp đồng này sẽ không còn được kí kết hoặc thậm chí đã kí kết, doanh nghiệp Hà
Nội đã giao hàng nhưng rủi ro không lấy được tiền hàng là rất cao. Điều này thực sự
gây thất thu cho cả doanh nghiệp và tác động không tốt đến sự phát triển về lâu dài
của nước ta. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tình hình tăng trưởng Quí
I/2009 đạt 3,1% so với cùng kì năm ngoái, mức thấp nhất trong vòng một thập kỉ
qua. . Còn theo Tổng cục Thống kê, giá trị sản xuất công nghiệp cả nước tháng 1-
2009 chỉ đạt 50,6 nghìn tỷ đồng, giảm 4,4% so với cùng kỳ năm trước và giảm
61
8,6% so với tháng 1-200812. Mức giảm lớn chủ yếu đối với các sản phẩm công
nghiệp quan trọng như thép, giày dép, quần áo...
2. Con số dự báo
Trước ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, ngày 10/3/2009 Uỷ ban nhân dân Thành
phố Hà Nội đã tiến hành triển khai thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ của Chính
phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng
trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và cảnh báo về phá sản đối với doanh
nghiệp. Là một thành phố phát triển với nhiều loại hình doanh nghiệp nên Thành
phố Hà Nội cũng chịu ảnh hưởng đáng kể từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới. Cuộc
họp của Uỷ ban nhân dân TP. Hà Nội và các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố
ngày 3/3/2009 để tìm “lối đi” cho các doanh nghiệp trong thời kì khủng hoảng. Xuất
khẩu giảm sút, không chỉ hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu công nghiệp lớn của
Hà Nội mà ngay cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lớn ở Hà Nội lâu
nay có thị trường xuất khẩu ổn định đều phải cắt giảm kế hoạch, sản lượng sản xuất,
thiếu việc làm cho người lao động, sức tiêu thụ sản phẩm kém… Tốc độ tăng
trưởng từ sản xuất công nghiệp của Hà Nội đã giảm đi rất nhiều. Trung bình tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 1,2 thường là 5.000 container hàng hoá nhưng năm
nay, doanh thu từ xuất khẩu đã giảm 30%. Nhiều đơn hàng đã ký hợp đồng buộc
phải giãn, hoãn thời gian thực hiện.
Thêm vào đó, thách thức gia nhập WTO đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Hà Nội là rõ rệt vì họ còn có nhiều hạn chế về công nghệ, năng lực quản lý, điều
hành, thiếu vốn và thiếu khả năng tiếm cận với thị trường bên ngoài. Mặt khác số
lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội chiếm đến 95% trong tổng số khoảng
76000 doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Trong một buổi làm việc với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội hôm 18/3/2009 Bộ tài chính đưa ra con số 7.000
doanh nghiệp công bố giải thể và hơn 3.000 doanh nghiệp khác phải ngừng sản xuất
12 Website Bộ Ngoại giao Việt Nam:
62
trong năm 200913. Như vậy cả nước có khoảng 10.000 doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, chiếm 2,86% trong tổng số 349.309 doanh nghiệp có đăng kí kinh
doanh. Còn đối với TP. Hà Nội theo dự doán tỷ lệ này có thể lên tới 3.2% trong thời
gian tới, nghĩa là trong năm nay có khoảng 224 doanh nghiệp có khả năng lâm vào
tình trạng phá sản.
Trước tình hình này, việc tìm ra giải pháp để ngăn ngừa phá sản cũng như khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có cơ hội “tái tạo” là rất quan trọng. Điều
này đòi hỏi bản thân LPS 2004 cần phải tiếp tục được sửa đổi để hoàn thiện nhằm
tăng cường tính thực thi trong thực tiễn.
II. Các giải pháp cụ thể
1. Nhóm giải pháp sửa đổi Luật phá sản năm 2004
1.1. Sửa đổi các quy định về việc nộp đơn, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
và việc mở hoặc không mở thủ tục phá sản
1.1.1. Cho phép chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
LPS 2004 vẫn quy định chỉ có chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một
phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; các chủ nợ có bảo đảm
chưa được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản14. Việc LPSDN 1993 cũng như
Luật Phá sản 2004 quy định không cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là xuất phát từ quan điểm cho rằng, đối với chủ nợ
có bảo đảm thì lợi ích của họ đã được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố của
doanh nghiệp hay của người thứ ba, vì vậy, việc doanh nghiệp, hợp tác xã có bị
tuyên bố phá sản hay không thì lợi ích của họ vẫn được bảo đảm. Quy định này là
không hợp lý. Đối với doanh nghiệp thì chủ nợ thông thường và chủ yếu vẫn là chủ
nợ có bảo đảm, vì vậy, cần tăng cường vai trò của các chủ nợ có bảo đảm để thủ tục
phá sản có hiệu quả hơn.
13 Webiste Trung tâm thông tin và dự báo Kinh tế-Xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư :
14 Điều 13, Luật Phá sản Việt Nam năm 2004
63
Theo pháp luật phá sản của hầu hết các nước, các chủ nợ đều có quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, có quyền quyết định về việc con nợ phục hồi hay bị
thanh lý, kiến nghị Toà án áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản của con
nợ, … Tuy nhiên, trong pháp luật phá sản của các nước, mục đích bảo vệ lợi ích của
chủ nợ được đặt lên coi trọng như Anh, Đức, … thì thủ tục phá sản là một công cụ
chủ yếu để giúp các chủ nợ thu hồi lại tiền. Bên cạnh việc quy định quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, pháp luật có quy định quyền của chủ nợ, kể cả chủ nợ có
bảo đảm đều có thể chỉ định người quản lý tài sản để kiểm soát những tài sản đó.
Theo Giáo sư Yasuhei Taniguchi thì trên thực tế khi các con nợ hoặc các chủ nợ
không có bảo đảm nộp đơn yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản, thì thường là vào những
thời điểm quá muộn, thời điểm mà con nợ hầu như không còn tài sản gì hoặc còn lại
rất ít tài sản. Do đó, luật pháp ở một số nước cho phép cả chủ nợ có bảo đảm cũng
có quyền nộp đơn yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản (8)
Thủ tục phá sản cũng chỉ là một phương thức đòi nợ đặc biệt, việc không cho
chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là đã làm mất đi quyền lựa
chọn phương thức đòi nợ của các chủ nợ này.
Các nhà làm luật cần phải nghiên cứu, xem xét một cách kỹ lưỡng có nên quy
định chủ nợ có bảo đảm có được quyền khởi kiện vụ án phá sản hay không? Bởi lẽ
đây là vấn đề còn nhiều điểm chưa rõ ràng: Khi chủ nợ có bảo đảm không thu được
nợ đúng kỳ hạn, họ có quyền thi hành quyền lợi bảo đảm của mình (như bán tài sản
cầm cố). Vậy quyền yêu cầu bắt đầu thủ tục phá sản có quan hệ như thế nào với
quyền này? Tuy nhiên, chúng ta nên thống nhất với nhau một vấn đề đã quá rõ ràng:
các chủ nợ có bảo đảm cần được tham gia vào thủ tục tố tụng phá sản khi thủ tục
phá sản đã được bắt đầu. Do đó, Luật Phá sản nên được sửa đổi theo hướng:
- Các chủ nợ có bảo đảm là các chủ nợ trong tố tụng phá sản,
- Vật cầm cố là một bộ phận trong khối tài sản phá sản,
8 Trình bày của Giáo sư Yasuhei Taniguchi, Đại học Tokyo Kei Zai tại Hà Nội với Tổ biên tập Luật Phá sản
của Bộ Tư Pháp trong các ngày 21, 22-6-2000.
64
- Các chủ nợ có bảo đảm được quyền bỏ phiếu như một trong các loại chủ nợ
đối với kế hoạch phục hồi con nợ, và quyền của họ có thể bị ảnh hưởng bởi kế
hoạch đó,
- Trong thủ tục thanh lý, quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm phải được đặt ưu tiên
cao hơn so với chi phí quản lý hành chính vụ phá sản (phí phá sản) và các loại chủ
nợ khác.
Quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm cần được đặc biệt quan tâm trong thủ tục phá
sản, nếu không sẽ rất nguy hại đến hệ thống tín dụng bảo đảm. Một khi quyền lợi
của các chủ nợ có bảo đảm được đặt sau phí phá sản và chi phí cho các chủ nợ đặc
quyền (như lương người lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp tàn tật cho lao động,
bảo hiểm xã hội), sẽ dẫn đến chủ nợ có bảo đảm sẽ không thể tính trước được quyền
lợi của mình sẽ có giá trị bao nhiêu trong trường hợp con nợ phá sản. Do đó, ưu thế
của tín dụng có bảo đảm, đó là sự an toàn, sẽ bị mất đi.
1.1.2. Bổ sung quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của
một số chủ thể đặc biệt
Theo Luật Phá sản, chủ nợ là một trong các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản. Điều này cũng phù hợp với thông lệ pháp luật của các nước trên
thế giới. Tuy nhiên, nghiên cứu quy định về phá sản trong lĩnh vực ngân hàng tín
dụng, một thông lệ được nhiều nước quy định là hạn chế quyền nộp đơn của chủ nợ
đối với các tổ chức tín dụng nhằm mục đích hạn chế tối đa việc phá sản đối với các
tổ chức này. Lĩnh vực hoạt động ngân hàng – tín dụng có tính chất nhạy cảm cao, dễ
gây ảnh hưởng dây truyền trong hệ thống tiền tệ và nền kinh tế nên một yêu cầu đặt
ra là cần có quy định hạn chế tình trạng tuỳ tiện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
gây ảnh hưởng xấu đến hệ thống này. Để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, pháp luật
quy định giao cho ngân hàng Nhà nước và cơ quan bảo hiểm tiền gửi có quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Hai cơ quan này là cơ quan giám sát hoạt động của
các tổ chức tín dụng, thực hiện áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức
tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Trong trường hợp tổ chức tín dụng đã
áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt mà tổ chức tín dụng vẫn mất khả năng thanh
65
toán thì hai cơ quan này sẽ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để bảo vệ
lợi ích của các chủ nợ. Tuy nhiên, theo LPS 2004 thì hai cơ quan quan này không
có tư cách nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và điều này cũng chưa được Luật
Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng ghi nhận. Với đặc thù của các tổ chức tín
dụng thì kinh nghiệm của các nước về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
của Ngân hàng Nhà nước và cơ quan bảo hiểm tiền gửi cần được nghiên cứu và cụ
thể hoá trong pháp luật phá sản Việt Nam.
1.1.3. Sửa đổi nội dung của đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Nội dung đơn nên sửa đổi theo hướng:
Trường hợp chủ doanh nghiệp hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp vv... khi đưa
đơn đến Tòa án họ có quyền lựa chọn hình thức: thanh lý hoặc phục hồi sản
xuất kinh doanh.
Nếu họ chọn hình thức “phục hồi sản xuất kinh doanh” tức là họ đã phải có sự
suy nghĩ, hình thành những biện pháp phục hồi mà họ cho là khả thi. Luật phá sản
cần quy định những cơ chế cụ thể về nội dung này. Chẳng hạn doanh nghiệp mắc
nợ có quyền được thương lượng với các chủ nợ hoặc một số chủ nợ ủng hộ họ trước
khi đưa đơn ra Tòa. Như vậy, việc giải quyết sẽ nhanh hơn.
Nếu họ chọn hình thức “thanh lý” cũng tức là họ đã suy nghĩ tìm mọi cách
nhưng không còn khả năng níu kéo được nữa. Trường hợp này Luật phá sản nên
quy định từ 1 đến 2 tuần sau khi thụ lý đơn Tòa án ra quyết định nở thủ tục phá sản
ngay, không nên kéo dài việc xem xét.Đối với trường hợp chủ nợ đưa đơn xin mở
thủ tục phá sản thì thời gian Tòa án xem xét đương nhiên phải dài hơn. Và khi đã
quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản thì không nên có quy định đình chỉ việc
giải quyết phá sản nữa.
1.1.4. Xác định rõ và cụ thể về đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước có
quyền làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Nghiên cứu các quy định của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 cho thấy, trong
các công ty được quy định tại Điều 1, Điều 3 Luật này thì chỉ có công ty nhà nước
66
mới là đối tượng áp dụng Luật Doanh nghiệp nhà nước. Do đó, đại diện chủ sở hữu
doanh nghiệp Nhà nước theo quy định tại Điều 16 Luật Phá sản chỉ nên hiểu là đại
diện chủ sở hữu đối với công ty nhà nước. Vì vậy, áp dụng Điều 63 Luật doanh
nghiệp nhà nước thì đại diện chủ sở hữu công ty nhà nước là các tổ chức, cá nhân
bao gồm: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thuộc
chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Hội đồng quản trị công ty nhà
nước. Tuy nhiên, để áp dụng thống nhất quy định này, cần phải có hướng dẫn cụ thể
của Chính phủ hoặc ít nhất cũng phải có quy định dẫn chiếu sang pháp luật doanh
nghiệp nhà nước. Quy định như vậy nhằm giúp Toà án có cơ sở pháp lý để xem xét
và quyết định thụ lý đơn hay trả lại đơn một cách chính xác và đúng pháp luật.
1.1.5. Bổ sung hướng dẫn cụ thể về cách thức xử lý việc không xác định được
địa chỉ của doanh nghiệp và của doanh nghiệp (con nợ)
Về cách thức xử lý việc không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp và của
doanh nghiệp (con nợ), theo chúng tôi nên xử lý vấn đề này như sau: Có thể vận
dụng linh hoạt quy định “Toà án ra quyết định trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã chứng minh được mình không lâm vào tình trạng
phá sản” (khoản 5 Điều 24 LPS 2004) để trả lại đơn, với lý do doanh nghiệp bị yêu
cầu mở thủ tục phá sản chưa thực hiện được yêu cầu này nên Toà án chưa có căn cứ
để quyết định mở thủ tục phá sản hay ra quyết định không mở thủ tục phá sản. Bên
cạnh đó, hướng dẫn cho các doanh nghiệp, chủ nợ đưa đơn là họ tiếp tục xác định
địa chỉ, các khoản nợ và tài sản của doanh nghiệp mắc nợ để cung cấp cho Toà án
khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp lần sau; nếu không xác định
được những nội dung này, họ nên yêu cầu cơ quan Công an địa phương xem xét nếu
doanh nghiệp mắc nợ có dấu hiệu phạm tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản thì xử lý về hình sự.
1.1.6. Cần có hướng dẫn rõ ràng hơn về phí phá sản.
Có thể nói mức đóng tạm ứng phí phá sản hiện nay phụ thuộc vào nhận thức chủ
quan của thẩm phán do đó, sẽ khó có được sự thống nhất và dễ gây ra những thắc
mắc không đáng có. Luật nên quy định một mức đóng tối thiểu để thẩm phán căn cứ
67
vào tính chất mức độ phức tạp của việc phá sản mà ấn định mức tạm ứng phí phá
sản phù hợp bảo đảm cho việc tiến hành công việc phá sản được thuận lợi.
Về phí phá sản: cần có quy định chi tiết các khoản phí, lệ phí, chi phí được coi là
hợp lý trong quá trình giải quyết phá sản. Nên quy định mức án phí cao hơn mức
thu hiện nay là 1 triệu đồng/vụ, tùy theo tính chất phức tạp của vụ phá sản.
1.2. Bổ sung các quy định liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài
sản
Quy chế hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản cần quy định cụ thể trong
LPS 2004, đặc biệt là trong quy định về việc phân công, phân nhiệm và cơ chế làm
việc của các thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng như việc thực hiện nhiệm
vụ của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Người viết đề xuất một số kiến nghị sau:
1.2.1. Tăng cƣờng sự giám sát, kiểm tra của thành viên Tổ quản lý,
thanh lý tài sản trong việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Trước hết, cần phân công cho một thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản là
đại diện doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản và một thành viên khác là đại diện chủ
nợ có số nợ nhiều nhất giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp
cũng như giám sát những hành vi bị cấm và bị hạn chế theo Điều 31 LPS 2004.
Đồng thời, cần quy định cụ thể về quyền và nhiệm vụ của các thành viên của Tổ.
Trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản, vị trí, vai trò của các thành viên không phải như
nhau. Đây là một thiết chế rất đặc biệt, trong đó có sự tham gia đại diện cơ quan
công quyền. Do đó, cần phải có những quy định chi tiết về Quy chế làm việc của
Tổ, giới hạn trách nhiệm, quyền hạn của mỗi loại thành viên.
Đặc biệt, cần quy định về trách nhiệm cá nhân của Tổ trưởng Tổ quản lý,
thanh lý tài sản và các thành viên của Tổ khi thực hiện các quyết định của Tòa
án. Hoạt động của Tổ trưởng có vị trí rất quan trọng, vì đây là người điều phối
hoạt động, tổ chức thực hiện các quyết định quan trọng của Thẩm phán và thực
hiện thanh toán cho các chủ nợ. Do đó, cần quy định rõ chế độ báo cáo của Tổ
trưởng đối với Thẩm phán.
68
Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quy
định: Quản tài viên có nghĩa vụ thu hồi các món nợ do người thứ ba thiếu. Sau khi
trừ đi các khoản chi tiêu, phí tổn, phải nộp lại số tiền đã thu được vào quỹ tồn trữ
trong 3 ngày và phải báo cáo với thẩm phán đã nộp rồi. Nếu nộp muộn hơn sẽ phải
chịu tiền phạt. Thiết nghĩ, đây cũng là những quy định cần được xem xét, kế thừa.
Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn quy chế phối hợp hoạt động giữa Cơ quan
thi hành án dân sự và Tòa án, quy chế hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
1.2.2 Bổ sung hƣớng dẫn về cơ chế làm việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Khi có quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản, tổ trưởng Tổ quản lý,
thanh lý tài sản cần tổ chức phiên họp thứ nhất để phân công nhiệm vụ cụ thể cho
thành viên và thông báo địa điểm, kế hoạch làm việc của Tổ. Địa điểm làm việc của
Tổ là trụ sở của Toà án hoặc trụ sở cơ quan Thi hành án do Tổ trưởng quyết định
sau khi trao đổi ý kiến với Thẩm phán. Phiên họp của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
chỉ được tiến hành khi có sự tham gia của ít nhất 2/3 tổng số thành viên. Các quyết
định của Tổ quản lý, thanh lý tài sản bao gồm các quyết định sau: lập bảng kê tài
sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ; đề nghị Thẩm phán tuyên bố giao
dịch mà doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện vô hiệu; thu hồi tài sản mà doanh
nghiệp đã giao dịch vi phạm Điều 31 của Luật Phá sản; đề nghị Thẩm phán quyết
định thu hồi tài sản hoặc phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp bị áp dụng
thủ tục thanh lý tài sản đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp đối với các trường
hợp quy định tại Điều 43 của Luật phá sản, đề nghị Thẩm phán ra quyết định buộc
doanh nghiệp thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhằm bảo toàn tài sản
hoặc phục vụ cho việc thanh lý tài sản hoặc làm tăng thêm khối tài sản của doanh
nghiệp. Những quyết định này phải có quy định chặt chẽ về thủ tục xem xét và
thông qua, theo chúng tôi, nên quy định chỉ thông qua những quyết định đó khi có
sự đồng ý của đa số thành viên tham gia cuộc họp, trường hợp có số phiếu ngang
nhau thì ý kiến của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản là ý kiến quyết định.
69
1.2.3. Cần quy định rõ hơn về việc chuyển giao tài liệu cho Toà án lƣu trữ
Theo người viết, vấn đề đặt ra ở đây cần được làm rõ là tài liệu do Tổ quản lý,
thanh lý tài sản lập bản chính thì được lưu giữ tại Toà án, còn bản sao thì lưu giữ tại
cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, phải có quy định về việc bàn giao hồ sơ, tài liệu
giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản và Toà án, thời gian bàn giao hồ sơ cho Toà án lưu
giữ là bao lâu? Nghĩa là, trong trường hợp này cần quy định là toàn bộ hồ sơ bản
chính do Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải lưu giữ tại Toà án và trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày Tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể thì Tổ trưởng Tổ quản lý,
thanh lý tài sản phải bàn giao hồ sơ cho Toà án và phải lập biên bản, thống kê các
tài liệu bàn giao cho Toà án.
Ngoài ra, Luật cần có quy định cho phép Tổ truởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản
có quyền huy động nhân viên kế toán và các cán bộ khác của cơ quan Thi hành án
giúp Tổ quản lý, thanh lý tài sản hỗ trợ công tác kiểm tra sổ sách kế toán, quyết
định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo qui định của pháp luật về thi
hành án dân sự, tổ chức thi hành các quyết định của Thẩm phán, đóng tài khoản khi
có quyết định giải thể Tổ quản lý, thanh lý tài sản và bàn giao tài liệu khi kết thúc
việc giải quyết phá sản.
1.3. Tăng cường cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục
phá sản.
Theo nguyên tắc giải quyết phá sản của Ngân hàng thế giới thì các quyền của
chủ nợ phải được bảo đảm thông qua việc thiết lập một Uỷ ban chủ nợ để cho phép
chủ nợ có khả năng tham gia chủ động vào thủ tục phá sản. Pháp luật quốc gia cần
xây dựng cơ chế để Uỷ ban chủ nợ có thể giám sát hiệu quả đối với toàn bộ quá
trình phá sản nhằm bảo đảm sự trung thực khách quan. Uỷ ban chủ nợ sẽ hoạt động
như một cầu nối trong việc cung cấp thông tin cho các chủ nợ khác và trong việc
triệu tập các chủ nợ để đưa ra quyết định về những vấn đề quan trọng. Pháp luật cần
quy định các vấn đề như điều kiện và quyền bỏ phiếu, số chủ nợ cần thiết để biểu
quyết, hội nghị chủ nợ và các hoạt động của hội nghị chủ nợ. đặc biệt, cần thiết lập
các quy định cần thiết trong việc lựa chọn và chỉ định uỷ ban chủ nợ để thực hiện
70
một số hoạt động trong thủ tục phá sản. Việc thành lập Uỷ ban chủ nợ với tư cách là
cơ quan thường trực của Hội nghị chủ nợ là một nhân tố cần thiết, thúc đẩy sự tham
gia tích cực của chủ nợ vào quá trình giải quyết phá sản được pháp luật nhiều nước
quy định. Chẳng hạn:
Theo kinh nghiệm của Mỹ thì, trong thủ tục phá sản, vai trò của các chủ nợ là rất
quan trọng, đặc biệt trong việc chủ động tái tổ chức công ty. Một Uỷ ban chủ nợ
được thành lập với quyền hành rất lớn. Pháp luật Mỹ không chỉ quy định một Uỷ
ban chủ nợ mà trong trường hợp đặc biệt có thể có vài Uỷ ban chủ nợ (Uỷ ban đại
diện người lao động, Uỷ ban đại diện chủ nợ có bảo đảm ...), các Uỷ ban này đều có
sự trợ giúp của các luật sư. Tại một số nước khác như pháp luật của các nước theo
khối thịnh vượng chung như Pháp ..., chủ nợ thường đóng vai trò ít quan trọng hơn
trong việc giám sát vụ việc và hoạt động của người quản lý cũng như trong thủ tục
phá sản nói chung. Xu hướng hiện đại là cho phép chủ nợ được quyết định những gì
có lợi cho họ nhất và làm cho toà án không cần thiết phải tham gia vào việc ra ra
quyết định của họ trừ trường hợp đảm bảo rằng các chủ nợ nhỏ cũng được đối xử
công bằng.
Pháp luật phá sản Đức quy định bên cạnh Hội nghị chủ nợ còn có Hội đồng chủ
nợ. Hôi đồng chủ nợ là một cơ quan thường trực cấp dưới của Hội nghị chủ nợ
không mang tính chất bắt buộc. Đại diện trong Hội đồng chủ nợ gồm những chủ nợ
được bảo đảm, chủ nợ phá sản có quyền đòi nợ lớn nhất và những chủ nợ nhỏ nhất.
Trong Hội đồng chủ nợ cũng phải có một đại diện của những người lao động nếu
những người lao động là chủ nợ phá sản có quyền đòi nợ không nhỏ. Thành viên
Hội đồng chủ nợ do Toà án bổ nhiệm, miễn nhiệm theo yêu cầu của các chủ nợ
hoặc khi xét thấy cần thiết. Thành viên Hội đồng chủ nợ giúp đỡ và giám sát người
quản lý phá sản trong việc điều hành và được hưởng thù lao cho những hoạt động
của mình và được trả những chi phí hợp lý đã bỏ ra khi thực hiện hoạt động với tư
cách là thành viên Hội đồng. Thành viên Hội đồng chủ nợ phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho các chủ nợ có bản đảm, chủ nợ phá sản, nếu có lỗi vi phạm của
71
mình. Nghị quyết của Hội đồng chủ nợ có giá trị nếu được đa số thành viên tham
gia biểu quyết tán thành.
Phù hợp với thông lệ chung của thế giới, người viết đề xuất sửa đổi quy định của
LPS 2004 như sau:
+ Quy định cơ chế hoạt động của Hội nghị chủ nợ một cách độc lập khỏi sự can
thiệp của Toà án (thẩm phán), hạn chế tình trạng hành chính hoá quan hệ dân sự,
kinh tế. Chủ nợ có bảo đảm cần được tham gia một cách tích cực hơn vào việc xem
xét và thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp. Hội nghị chủ nợ phải được quyền cử người thay thế người quản lý và điều
hành doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong trường hợp xét thấy
người quản lý của doanh nghiệp, hợp tác xã hiện tại không có khả năng điều hành
hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ không có lợi cho việc bảo toàn
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
+ Quy định việc thành lập Uỷ ban chủ nợ với sự tham gia của một số chủ nợ
nhất định nhằm tạo cơ chế tham gia một cách thường xuyên, liên tục của các chủ nợ
vào quá trình giải quyết phá sản.
1.4. Bổ sung các quy định về thủ tục quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp bị
tuyên bố phá sản
1.4.1. Cần bổ sung quy định về thủ tục kiểm kê tài sản
Theo Luật Thương mại Sài Gòn năm 1972, thủ tục kê biên được quy định khá rõ
ràng, chi tiết. Quản tài viên lập bản kê khai các tài sản của doanh nghiệp, kể cả
những tài sản là hàng hóa, thực phẩm không bị niêm phong, vì có thể bị hư hại.
Những hàng hóa này Quản tài viên lập bản kê khai và trị giá ngay từ lúc thẩm phán
lập biên bản niêm phong. Khi gỡ niêm, Quản tài viên phải lập bản kê khai tất cả các
tài sản hiện còn lại của doanh nghiệp dưới sự chứng kiến của đương sự. Luật này
cũng quy định về thủ tục niêm phong trước khi lập bản kê tài sản, đề phòng việc lập
bản kê tài sản kéo dài, gây thất thoát tài sản.
72
Kiểm kê là hoạt động được thực hiện kể từ khi có quyết định mở thủ tục tuyên
bố phá sản, do doanh nghiệp thực hiện dưới sự giám sát của Thẩm phán và sự
chứng kiến của những chủ thể khác tham gia vụ phá sản. Công việc này đòi hỏi phải
được thực hiện nhanh chóng và chính xác để đảm bo quyền lợi cho cả chủ nợ và
con nợ.
Thông thường, sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản, con nợ
thường có các hành vi nhằm tẩu tán tài sản, trốn nợ. Mặt khác, tài sản tại doanh
nghiệp thường tồn tại ở rất nhiều dạng khác nhau, thậm chí nằm rải rác ở nhiều nơi.
Vì vậy, trong các văn bản hướng dẫn LPS 2004 cần quy định chi tiết về thủ tục
niêm phong và kê biên để phòng tránh các hành vi này.
Mặt khác, theo Điều 50 LPS 2004, nếu việc kiểm kê, xác định giá trị không
chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền tổ chức kiểm kê, xác định lại
giá trị. Như vậy, cần có quy định chi tiết hơn về thế nào là không chính xác, ở
mức độ nào thì tiến hành kiểm kê lại. Đặc biệt, việc định giá trị tài sản cần phải có
những quy định hướng dẫn rất cụ thể, không chỉ quy định chung chung là theo giá
thị trường tại thời điểm kiểm kê. Trong hoàn cảnh nước ta nền kinh tế thị trường
chưa phát triển, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác giải quyết phá sản,
của cả doanh nghiệp và các chủ nợ về tài chính - kế toán còn nhiều bất cập, thì
việc định giá các tài sản của doanh nghiệp không phải là dễ dàng, nhất là đối với
các tài sản đặc biệt như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công nghiệp… cần có
những quy định khuyến khích doanh nghiệp thuê các tổ chức tư vấn tài chính - kế
toán, các tổ chức định giá chuyên nghiệp tham gia đối với những vụ phá sản lớn
để bo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, góp phần làm lành mạnh hóa
môi trường kinh doanh.
1.4.2. Bổ sung quy định về cách xác định giá trị tài sản đã được kiểm kê
Theo khoản 3 Điều 50 LPS 2004: trong trường hợp Tổ quản lý, thanh lý tài sản
xét thấy việc kiểm kê, xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp quy định tại khoản 1
Điều 50 Luật Phá sản là không chính xác thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản tổ chức
kiểm kê, xác định lại giá trị một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Nghĩa
73
là, khi Tổ quản lý, thanh lý tài sản và doanh nghiệp không thoả thuận được về giá trị
các tài sản đã được kiểm kê thì Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trách
nhiệm thuê tổ chức có chức năng định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá thực
hiện công việc này. Song cũng có ý kiến cho rằng vì việc thuê tổ chức có chức năng
định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá là tốn kém và đòi hỏi những thủ tục phức
tạp nên trong trường hợp này, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chỉ cần tham
khảo giá thị trường hoặc tham khảo các tổ chức có chức năng định giá để đề xuất
mức giá nhất định vào thời điểm kiểm kê sau đó thông qua Tổ quản lý, thanh lý tài
sản theo cách biểu quyết đa số theo tinh thần của Điều 50 Luật Phá sản.
1.4.3. Bổ sung để làm rõ hơn quy định thu hồi và quản lý tài sản của doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản ở nước ngoài
Hiện nay, trên thế giới có hai khuynh hướng quy định về vấn đề này: một là
không công nhận phán quyết giải quyết vụ phá sản của toà án nước ngoài hoặc
không thừa nhận quyền thu hồi tài sản ở lãnh thổ nước sở tại của người quản lý tài
sản của một nước khác ngoại trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định riêng.
Hai là, công nhận một phần hoặc toàn bộ các phán quyết của Toà án nước ngoài
như: công nhận ngay lập tức mà không cần thực hiện bất kỳ một thủ tục tư pháp hay
hành chính nào; thủ tục công nhận trên cơ sở có đi có lại (Pháp, Hy Lạp, Italia); thủ
tục công nhận trên cơ sở không có đi có lại (Mêhicô, Panama và Colômbia,,) và
việc công nhận chỉ giới hạn trong việc thu hồi tài sản (Hà Lan, Thuỵ Điển).
Luật Phá sản năm 2004 chưa quy định về vấn đề này. Vì vậy, có khả năng bỏ
sót những tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản ở nước ngoài và điều đó tất
nhiên ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ, do vậy trong trường hợp này
chúng tôi kiến nghị, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm của Pháp, Hy Lạp và ý,
theo đó Việt Nam sẽ ký kết các Hiệp định hay Hiệp Ước với các quốc gia trên thế
giới theo nguyên tắc có đi có lại để bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia
trong vụ phá sản.
Như vậy, ở nội dung này của LPS 2004, rất cần có hướng dẫn chi tiết các vấn đề
liên quan đến thu hồi và quản lý tài sản như: Thủ tục thu hồi như thế nào; người có
74
quyền đề xuất, người ra quyết định thu hồi; người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại tranh chấp, thủ tục giải quyết khiếu nại tranh chấp phát sinh, việc nhập lại tài
sản vào khối tài sản phá sản như thế nào, vấn đề quản lý tài sản thu hồi được…
Những nội dung này rất cần có quy định rõ, tạo điều kiện cho quá trình thực hiện dễ
dàng, tránh trường hợp tắc trách, vô trách nhiệm của các cán bộ nhà nước trong Tổ
quản lý, thanh lý tài sản.
2. Nhóm giải pháp đối với Thành phố Hà Nội
2.1. Có biện pháp đủ mạnh để thúc đẩy thủ tục tuyên bố phá sản đối với doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Công ty làm ăn kém hiệu qủa thường do các nguyên nhân bên trong và bên
ngoài. Các nguyên nhân bên ngoài như là các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô mà
các công ty không thể kiểm soát được như: khủng hoảng, thay đổi lãi suất, thay đổi
trong môi trường chính sách của chính phủ, lạm phát hay sự xuất hiện của đối thủ
cạnh tranh,… Còn các nguyên nhân bên trong như các vấn đề liên quan đến chiến
lược công ty, các vấn đề lãnh đạo và các vấn đề về tài chính kế toán…
Dù nguyên nhân bên trong hay bên ngoài thì doanh nghiệp làm ăn không hiệu
quả cũng cần phải loại bỏ. Vì trong môi trường kinh tế hội nhập như hiện nay, việc
cạnh tranh gay gắt sẽ dẫn đến việc các doanh nghiệp làm ăn yếu kém, không hiệu
quả bị loại bỏ là điều tất yếu. Do vậy Thành phố Hà Nội cần có các biện pháp hỗ trợ
cho các doanh nghiệp làm này được phá sản sớm, đồng thời kiên quyết không giúp
đỡ các doanh nghiệp yếu kém duy trì sản xuất, kinh doanh.
2.2. Kiên quyết xóa bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự cứu xét của Nhà nước đối với
những doanh nghiệp Hà Nội hoạt động không hiệu quả
Thời gian qua do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, sức tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu giảm
mạnh so với cùng kỳ năm 2008. Để duy trì và phát triển kinh doanh, nhiều công ty
đã tự mình xây dựng và thực hiện các biện pháp kinh doanh hiệu quả. Thí dụ như
Công ty Cổ phần dệt may Hà Nội (Hanosimex) đã giữ “chân” khách hàng truyền
75
thống, có được khách hàng mới... doanh nghiệp đã đẩy mạnh hoạt động chăm sóc
khách hàng, khai thác thế mạnh làm hàng chất lượng cao để tăng giá trị gia tăng, giao
hàng đúng hạn... Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn đẩy mạnh việc chủ động nguồn
nguyên liệu trong nước, giảm lượng nguyên liệu nhập khẩu từ đó hạ giá thành sản
xuất, đáp ứng yêu cầu khách hàng đặt đơn hàng với thời gian ngắn, đáp ứng cả những
đơn hàng số lượng ít… Nhờ những biện pháp này, Hanosimex không chỉ giữ “chân”
được khách hàng Mỹ, mà còn tăng thêm các khách hàng EU, Nhật Bản.
Bên cạnh những doanh nghiệp đã chủ động xây dựng các biện pháp đẩy mạnh
sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, thì còn có các doanh nghiệp ỷ lại
vào sự cứu xét của Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nuớc. Khi Việt
Nam là thành viên của WTO, thay vì cải tiến công nghệ, cách thức tổ chức làm
việc…để cạnh tranh trong một môi trường lớn thì có rất nhiều doanh nghiệp lại
trông chờ vào sự bảo trợ của Nhà nước về thuế, lãi suất,… Thiết nghĩ, để tồn tại và
phát triển trong một môi trường có sự cạnh tranh lớn thì tư tưởng ỷ lại vào Nhà
nước của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội cần phải sớm loại bỏ.
2.3. Tăng cường nâng cao hiểu biết ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp Hà
Nội về lợi ích của thủ tục phá sản và pháp luật phá sản
Để pháp luật phá sản và những quy định về quản lý và xử lý tài sản phá sản
được thực thi có hiệu quả trong thực tiễn thì vấn đề nhận thức pháp luật của xã hội
cũng như giới kinh doanh là hết sức quan trọng. Những nhận đúng sẽ có những
hành vi, ứng xử đúng, nguyên nhân cơ bản khiến việc thực thi Luật phá sản gặp
nhiều khó khăn là do những chủ thể có liên quan đến phá sản doanh nghiệp chưa
nhận thức đúng và đầy đủ vầ phá sản và trình tự phá sản, do công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật phá sản còn chưa được quan tâm đúng mức. Bởi vậy, cần tuyên
truyền, phổ biến nội dung của LPS 2004, đặc biệt là những quy định pháp luật về cơ
chế quản lý và xử lý tài sản phá sản đến những người làm công tác nghiên cứu, lý
luận, những người làm công tác áp dụng pháp luật, đặc biệt là các cán bộ trong các
ngành tòa án, kiểm sát, các luật sư và đặc biệt là các doanh nghiệp để cho những đối
tượng này nắm vững những quy định của pháp luật phá sản, hiểu đúng và rõ ràng
76
hơn về pháp luật phá sản để từ đó tuân thủ pháp luật phá sản nghiêm túc hơn. Việc
tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua các kênh: đài báo, phát thanh, truyền
hình, qua các tổ chức hội nghề nghiệp hay qua các kênh chuyên biệt như mở các lớp
bồi dưỡng, hội thảo, tập huấn...
3. Nhóm giải pháp khác
3.1. Đối với Toà án
Thẩm phán là người trực tiếp giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, do đó, chất
lượng và hiệu quả của việc giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp phụ thuộc nhiều
vào trình độ chuyên môn của Thẩm phán. Trong quá trình giải quyết phá sản, ngoài
những yêu cầu về trình độ pháp lý, người Thẩm phán còn phải có trình độ hiểu biết
về nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính - kế toán. Do vậy, cần phải
bồi dưỡng, nâng cao trình độ thẩm phán giải quyết phá sản, đáp ứng những yêu cầu
mới đặt ra. Thường xuyên, định kỳ tổ chức các hội thảo chuyên đề, khóa đào tạo
nhằm bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư
ký tòa án trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, kịp thời tổng kết, hướng
dẫn các Tòa án địa phương giải quyết những vướng mắc phát sinh. Điều này đặc
biệt quan trọng, vì LPS 2004 đã mở rộng thẩm quyền giải quyết phá sản cho Tòa án
cấp huyện. Trong tương lai, cần hướng tới đào tạo các thẩm phán chuyên trách về
phá sản.
Mặt khác, cần ban hành mẫu báo cáo để Toà án có thể thống kê được chi tiết
hơn về quy mô của doanh nghiệp phá sản để giúp ngành Toà án có thể thống kê chi
tiết những nội dung cụ thể trong quá trình giải quyết phá sản, chẳng hạn những vấn
đề: số lượng lao động của doanh nghiệp phá sản, tổng tài sản của doanh nghiệp phá
sản tổng số nợ của doanh nghiệp phá sản, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp
phá sản, tỷ lệ tài sản trên nợ của doanh nghiệp phá sản chia theo địa phương, theo
mô hình, những đánh giá về vai trò của công ty quản lý nợ, những ảnh hưởng về
mặt xã hội của phá sản và những vấn đề phát sinh liên quan khác... Trên cơ sở đó,
có thể có những số liệu để đánh giá về tình trạng phá sản của các doanh nghiệp ở
77
Việt Nam đồng thời công khai số liệu về phá sản trong tập số liệu thống kê doanh
nghiệp hàng năm.
Ngoài ra, Toà án nhân dân tối cao cũng phải thường xuyên theo dõi quá trình
thực thi pháp luật phá sản, đồng thời tổng kết kinh nghiệm và kịp thời hướng dẫn
giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản cũng như
trong việc quản lý và xử lý tài sản phá sản cho các Toà án nhân dân địa phương.
3.2. Tăng cường xử lý vi phạm pháp luật về kế toán
Như đã phân tích ở trên, một trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu lực
của pháp luật phá sản và những quy định về cơ chế quản lý, xử lý tài sản phá sản
trong thời gian qua là do những yếu kém trong việc thực hiện chế dộ tài chính kế
toán trong các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không tuân theo những quy định
về tài chính - kế toán hiện hành, sổ sách kế toán còn sơ sài, thậm chí có những
doanh nghiệp không có sổ sách kế toán, dẫn đến công nợ không rõ ràng, gian dối về
chứng từ kế toán. Điều đó làm cho việc giải quyết phá sản gặp nhiều khó khăn. Do
vậy, Luật kế toán cần đưa ra những quy định về xử lý nghiêm khắc những vi phạm
về kế toán thống kê. Tăng cường công tác kiểm tra việc tuân thủ chế độ kế toán - tài
chính doanh nghiệp, bắt buộc doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính định kỳ. Đối với
các doanh nghiệp có quy mô lớn cần phải có quy định buộc doanh nghiệp nộp báo
cáo vào cuối mỗi năm tài chính. Trường hợp doanh nghiệp không nộp báo cáo hoặc
báo cáo gian dối phải bị xử phạt năng bằng tiền hoặc trường hợp nghiêm trọng có
thể bị rút đăng ký kinh doanh. Có như vậy mới có thể chấn chỉnh được tình trạng vi
phạm nghiêm trọng về kế toán tài chính như hiện nay.
Ngoài ra, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp.
Xây dựng cơ chế kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp một cách hợp lý và hiệu quả,
nhất là vấn đề tài chính kế toán để có thể kịp thời phát hiện các doanh nghiệp gặp
khó khăn về tài chính, hỗ trợ và giúp các doanh nghiệp đề ra các biện pháp khắc
phục khó khăn đó. Tiến tới tất cả các doanh nghiệp phải tiến hành kiểm toán vào
cuối năm tài chính.
78
3.3 Tăng cường giáo dục sâu rộng mọi đối tượng trong tầng lớp nhân dân Hà Nội
về phá sản để đổi mới nhận thức
Phá sản là một trong những biện pháp để thúc đẩy lưu thông vốn, vì vậy, không
nên coi phá sản là một thủ tục để chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp mà
mục đích quan trọng là tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội tổ chức lại hoạt
động kinh doanh. Trường hợp đã áp dụng mọi biện pháp mà doanh nghiệp vẫn
không thể khắc phục được thì mới thực hiện việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp
để chia cho các chủ nợ. Chỉ khi nào các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, chủ sở
hữu hoặc người quản lý doanh nghiệp, các chủ nợ, người lao động trong các doanh
nghiệp nhận thức đúng đắn những vấn đề này và sử dụng Luật phá sản như là một
công cụ hữu hiệu để lành mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp, cứu vãn
doanh nghiệp trong hoàn cảnh khó khăn, phục hồi doanh nghiệp trở lại hoạt động
kinh doanh bình thường thì pháp luật phá sản mới thực sự phát huy được tác dụng
của nó trong việc cơ cấu lại nền kinh tế.
79
Kết luận
Luật Phá sản năm 2004 và việc thực hiện Luật phá sản năm 2004 trên địa bàn cả
nước nói chung và trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế và bất
cập mà nguyên nhân bao gồm cả yếu tố bên trong (bản thân Luật phá sản năm 2004)
và cả yếu tố bên ngoài (tư tưởng, quan niệm về phá sản,…). Từ đó dẫn đến tình
trạng nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả mà vẫn không tìm đến Toà án yêu
cầu phá sản.
Luật phá sản năm 2004 được ban hành nhằm mục đích ứng dụng cho các “sự
cố” của nền kinh tế, nó không chỉ là Luật để “chôn” các doanh nghiệp yếu kém mà
còn nhằm mục đích khôi phục lại sự cân bằng về cán cân thanh toán tài chính của
thị trường. Sẽ là không tưởng nếu đòi hỏi có một văn bản pháp luật hoàn hảo, nhất
là trong lĩnh vực phá sản mà mục tiêu quan trọng là dung hòa giữa những lợi ích đối
kháng, bởi lẽ bản thân Luật Phá sản là Luật của sự thất bại. Chúng ta chỉ có thể hy
vọng xây dựng một văn bản pháp luật ít khiếm khuyết nhất trong một giai đoạn nhất
định. Không phủ nhận nỗ lực to lớn của các nhà làm luật trong việc nghiên cứu, ban
hành một văn bản Luật mang tính khả thi cao về phá sản nhưng với những quy đinh
hiện nay thì Luật Phá sản năm 2004 mang trong mình nhiều bất cập dẫn đến việc
khó thực thi.
Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn TP. Hà Nội nói riêng và cả
nước nói chung cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản để pháp luật này thực
sự đi vào thực tiễn và được các doanh nghiệp chấp nhận như một vấn đề tất yếu.
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Luật Phá sản số 21/2004/QH11 của Quốc hội
2. Nghị quyết 03/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản.
3. Nghị định 94/2005/NĐ-CP của Chính phủ về giải quyết quyền lợi của
người lao động ở doanh nghiệp và hợp tác xã bị phá sản.
4. Thông tư liên tịch 19/2008/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư
pháp về hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo
đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
5. Công văn 7050/BTC-TCT của Bộ Tài chính về việc Quyết toán thuế đối
với doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
6. Công văn 1977/VPCP-XDPL của Văn phòng Chính về việc thực hiện
Luật phá sản.
7. Nghị định 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn việc áp dụng
Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ
quản lý, thanh lý tài sản.
8. Nghị định 10/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993.
9. Nghị định số 114/CP ban hành ngày 3/11/2008 của Chính phủ về việc
Hướng dẫn chi tiết ban hành một số điều luật của Luật phá sản đối với
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán
và tài chính khác.
81
10. Nghị định số 189/CP ban hành ngày 23/12/1994 về việc Hướng dẫn thi
hành luật phá sản doanh nghiệp.
11. Quyết định số 01/2005 của Toà án nhân dân Tối cao về Quy chế làm việc
của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành làm thủ tục phá sản.
12. Vụ Công tác lập pháp (2005), Những nội dung cơ bản của Luật phá sản
năm 2004, nhà xuất bản Tư pháp.
13. Vũ Thị Hồng Vân- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, “Đánh giá thực trạng
thi hành Luật phá sản doanh nghiệp năm 2004”.
14. Luật phá sản năm 2004 và những văn bản hướng dẫn thi hành, nhà xuất
bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2008
15. Bộ Tư Pháp (2008), “Báo cáo thực trạng áp dụng Luật phá sản năm
2004”.
16. TS. Trương Hồng Hải, Đại học luật Hà Nội, Luận án “Luật phá sản
doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ luật so sánh và phương hướng hoàn
thiện”
17. Dương Đăng Huệ, “Phá sản Việt Nam năm 2004 với việc cải thiện môi
trường kinh doanh”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2005, tr26-31.
Tài liệu tiếng Anh
18. Dr. Hans-Jochem Luer (2000), The Insolvency Laws of Germany, Juris
Publishing.
19. David A.Skeel Jr (2003), “A history of bankruptcy law in America”,
Princeton University Press.
82
Website
20.
21.
22.
23.
24.
25.
26.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4319_6067.pdf