Chương triệu chứng dấu chứng và những phát hiện lâm sàng-cận lâm
sàng bất thường, không phân loại nơi khác) có tỉ lệ tử vong cao chủ yếu là
do bệnh nhân khi đến bệnh viện đã ngưng tim ngưng thở (tạm gọi là chết
truớc nhập viện) nhưng theo qui định chuyên môn sau 30 phút hồi sinh vô
hiệu thì được nhìn nhận là tử vong. Việc mổ xác để xác định nguyên nhân
chỉ tiến hành khi có yêu cầu của công an, hoặc được người nhà bệnh nhân
đồng ý. Tuy nhiên, hầu hết gia đình bệnh nhân đều không đồng ý, do đó,
nguyên nhân tử vong được chọn là triệu chứng dấu chứng và những phát
hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường, không phân loại nơi khác.
92 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7554 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình bệnh tật và tử vong ở bệnh nhân nội trú, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI
MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ
VONG Ở
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ
MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ VONG Ở
BỆNH NHÂN NỘI TRÚ
TÓM TẮT
Mục tiêu Xác định mô hình bệnh tật và tử vong ở những bệnh nhân
nội trú tại bệnh viện Nguyễn Trãi từ năm 2000 đến 2005
Phương pháp Nghiên cứu là một cắt ngang mô tả với dân số mục tiêu
là tất cả bệnh nhân điều trị và xuất viện từ 01/01/2000 đến 31/12/2005 tại
bệnh viện Nguyễn Trãi, với kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Dữ kiện
được hồi cứu từ những bệnh án lưu trữ trên máy tính của bệnh viện, và được
phân tích với phần mềm STATA 8.0. Kết quả là những số thống kê mô tả tỉ
lệ nhập viện và tử vong theo chương bệnh, và phân nhóm bệnh của ICD10.
Kết quả Tỉ lệ bệnh lây nhập viện giảm, không lây tăng, tai nạn ngộ
độc chấn thương giảm. Sáu chương bệnh hàng đầu là bệnh hệ tuần hoàn,
bệnh hệ tiêu hoá, bệnh hô hấp, bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng, bệnh mắt
và phần phụ, bệnh nội tiết-dinh dưỡng và chuyển hoá. Năm phân nhóm bệnh
có tỉ lệ nhập viện cao nhất là tăng huyết áp, viêm thực quản dạ dày tá tràng,
bệnh đường hô hấp dưới mạn tính, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, và tiểu
đường. Tỉ lệ tử vong chung là thấp. Ba chương bệnh có tỉ lệ tử vong cao
nhất là hệ tuần hoàn, triệu chứng và dấu chứng, và hô hấp. Năm bệnh tử
vong hàng đầu là tăng huyết áp, nhóm nguyên nhân tử vong không rõ ràng
hay không biết, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, bướu ác tính, và bệnh đường
hô hấp dưới mạn tính.
Kết luận Mô hình bệnh tật và tử vong tại bệnh viện Nguyễn Trãi trong
sáu năm đầu thế kỷ 21 có đặc tính mô hình bệnh tật của các nước phát triển
ở giai đoạn đầu. Những điều cần làm trong những năm sắp tới là phát hiện
sớm bệnh, đẩy mạnh giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân, tăng cường hiệu quả
của các biện pháp điều trị sẵn có, và đầu tư cho những phương tiện chẩn
đoán và điều trị tốt hơn.
ABSTRACT
Objective To identify the morbidity and mortality patterns of
inpatients at Nguyen Trai hospital from 2000 to 2005
Methods A cross-sectional study was carried out on a sample
systematically drawn from the target population of all inpatients discharged
from Nguyen Trai hospital during the period of 01/01/2000 to 31/12/2005.
Secondary data were retrieved from electronic health records and analyzed
with STATA 8.0 software. Frequency distributions of causes of admission
and death based on ICD 10 were calculated.
Results The morbidity figure showed a decreasing trend of
communicable diseases, and an increasing of non-communicable diseases
and accidents, poisoning and injuries. The first six disease chapters were
circulatory system; digestive system; respiratory system; infectious and
parasitic diseases; eyes and adnexa; endocrinologic, nutritional, and
metabolic diseases. The first five leading causes of admission were
hypertension, gastritis and duodenitis, chronic lower respiratory diseases,
local ischemic heart diseases, and mellitus diabetes. The overall mortality
rate was low, with the predominant of the three chapters of circulatory
system, non specific symptoms and signs, and respiratory system. The five
leading causes of death were hypertension, deaths of undetermined origin,
ischemic heart diseases, malignant tumors, and chronic lower respiratory
diseases.
Conclusion The morbidity and mortality patterns of inpatients at
Nguyen Trai hospital in the first six years of the 21th century resemble the
ones at the early phase of developed countries. What the hospital has to do in
the coming years are early detection, enhancing health education to patients,
improving the current health care services, and intensive investment for
better means of diagnosis and treatment.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh tật và tử vong do những yếu tố tác động như môi trường, thói
quen, nghề nghiệp, tổ chức cơ sở y tế, nhân viên y tế. Đồng hành với sự phát
triển kinh tế xã hội, bệnh tật và tử vong cũng chuyển dịch từ những bệnh lý
lây nhiễm sang những bệnh lý do lối sống. Dự đoán về cơ cấu bệnh tật và tử
vong toàn cầu đã có sự chuyển dịch trong thời gian từ năm 1990 đến 2020
[10].
Bệnh viện Nguyễn Trãi TP. HCM là bệnh viện đa khoa hạng I với
nhiệm vụ chủ yếu là chăm sóc sức khỏe cho người có thẻ bảo hiểm y tế, cho
người dân đóng viện phí có nhu cầu, và diện bảo vệ sức khỏe Thành ủy.
Trong diện bảo hiểm y tế thường xuyên khám chữa bệnh bảo hiểm y tế hầu
hết là người hưu trí, tuổi cao nhiều bệnh tật phối hợp. Đồng thời do uy tín
của bệnh viện, người dân đóng viện phí ở thành phố và các tỉnh trong cả
nước đến khám chữa bệnh ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu phục vụ và
định hướng phát triển bệnh viện một cách bền vững cần có những thông tin
về mắc và chết các bệnh, cùng với kết quả điều trị của những bệnh nhân mà
bệnh viện đang phục vụ. Những thông tin này sẽ là cơ sở xây dựng kế hoạch
nâng cấp cơ sở, đào tạo nhân lực, tăng cường trang thiết bị y tế, nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế, định hướng phát triển chuyên khoa mũi nhọn.
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu xác định mô hình bệnh tật và tử
vong ở bệnh nhân nội trú tại bệnh viện Nguyễn Trãi trong 6 năm đầu thế kỷ
21.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu là một cắt ngang mô tả với dân số mục tiêu là tất cả bệnh
nhân điều trị và xuất viện từ 01/01/2000 đến 31/12/2005 tại bệnh viện
Nguyễn Trãi. Để có 95% tin tưởng xác định các tỉ lệ người bệnh nhập viện
và tử vong hàng đầu, với tham số tham khảo là 0,415% (tỉ lệ mắc của các
bệnh việm phổi trong năm 2005 [10]), với độ chính xác tương đối là 0,25, cỡ
mẫu được ước lượng là 14.750 lượt bệnh nhân trong 6 năm nghiên cứu. Để
xác định những kết quả liên quan đến tử vong, toàn bộ 940 trường hợp tử
vong trong 6 năm được chọn.
Mẫu được chọn là những bệnh nhân điều trị nội trú tại bệnh viện
Nguyễn Trãi từ 01/01/2000 đến 31/12/2005, và loại nếu bệnh án không đủ
những dữ kiện cần thiết. Kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống 1:8 được
sử dụng trên toàn bộ 128.633 bệnh nhân có bệnh án lưu trữ đầy đủ thông tin.
Để đảm bảo tính chính xác của mô hình bệnh tật, nên mỗi bệnh nhân với
một bệnh cụ thể chỉ được chọn 1 lần trong năm, do đó, trước khi chọn mẫu
nếu những bệnh nhân nhập viện n lần trong một năm cùng một bệnh thì máy
tính sẽ loại (n-1) tên của bệnh nhân này trong khung mẫu của năm đó.
Dữ kiện được hồi cứu từ những bệnh án lưu trữ trên máy tính của
bệnh viện. Sau khi chọn mẫu, máy tính sẽ trích xuất những dữ kiện liên quan
vào một biểu mẫu. Các biến số nghiên cứu gồm có nhóm tuổi, giới, năm
bệnh hoặc tử vong, loại bệnh tật theo bảng phân loại quốc tế bệnh tật lần thứ
10 năm 1993 (ICD10: The tenth International Classification of Diseases), và
tử vong. Dữ kiện được phân tích với phần mềm STATA 8.0, và kết quả là
phân bố tần số nhập viện và tử vong theo chương bệnh, và phân nhóm bệnh.
Phạm vi của bài báo này khu trú vào mô hình bệnh tật và tử vong, với 10
chương, 10 nhóm bệnh có tỉ lệ nhập viện hoặc tử vong cao nhất.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Xu hướng bệnh tật tử vong của bệnh viện, tần số và (%)
Nhóm bệnh
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng
Dịch lây
Mắc
118
(5,18)
134
(5,59)
122
(4,93)
173
(6,34)
163
(5,99)
146
(4,75)
856
(5,46)
Chết
9
(5,77)
12
(6, 94)
3
(1,93)
8
(4,54)
6
(4,44)
6
(4,17)
44
(4,69)
Không lây
Mắc
2024
(88,93)
2134
(89,10)
2257
(91,12)
2476
(90,70)
2537
(93,31)
2908
(94,54)
14336
(91,47)
Chết
142
(91,03)
159
(91,91)
148
(95,48)
167
(94,89)
124
(91,85)
138
(95,83)
878
(93,50)
Tai nạn, ngộ độc, chấn thương
Mắc
134
(5,89)
127
(5,30)
98
(3,96)
81
(2,97)
19
(0,70)
22
(0,72)
481
(3,07)
Chết
5
(3,20)
2
(1,15)
4
(2,58)
1
(0,57)
5
(3,71)
0
(0,00)
17
(1,81)
Tỉ lệ bệnh lây là 5,46%, và bệnh không lây là trên 91% (Bảng 1). Tai
nạn ngộ độc chấn thương giảm dần từ 5,89% năm 2000 xuống còn 0,72%
năm 2005. Tỉ lệ tử vong của bệnh lây dưới 5%, của bệnh không lây trên
93%, và của tai nạn ngộ độc chấn thương là 1,81%. So sánh khuynh hướng
6 năm: bệnh lây nhập viện giảm, không lây tăng, tai nạn ngộ độc chấn
thương giảm. Tử vong lây thấp nhưng giảm không đáng kể, không lây cao
và tương đối hằng định, tai nạn ngộ độc chấn thương thấp và giảm khi so
sánh hai thời điểm 2000 và 2005.
Sáu chương bệnh hàng đầu trong tất cả 6 năm là bệnh hệ tuần hoàn
(chương 9) (Bảng 2), bệnh hệ tiêu hoá (chương 11), bệnh hô hấp (chương
10), bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng (chương 1), bệnh mắt và phần phụ
(chương 7), bệnh nội tiết-dinh dưỡng và chuyển hoá (chương 4). Trong 3
năm 2000 đến 2002, bốn chương bệnh từ thứ 7 đến 10 là, bướu tân sinh
(chương 2), bệnh hệ niệu-sinh dục (chương 14), triệu chứng-dấu chứng và
những phát hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường, không phân loại nơi
khác (chương 18). Trong 3 năm 2003-2005, chấn thương, ngộ độc (chương
19), không xuất hiện thay vào đó là hệ xương-cơ- khớp (chương 13). Ba
chương bệnh tuần hoàn, bệnh tiêu hoá và bệnh hô hấp luôn luôn ở vị trí đầu
trong tất cả các năm. Thứ tự của các chương còn lại thay đổi không đáng kể
trong suốt 6 năm. Năm phân nhóm bệnh có tỉ lệ nhập viện cao nhất trong 6
năm 2000-2005 là bệnh tăng huyết áp (I10-I15), viêm thực quản dạ dày tá
tràng (K20-K31), bệnh đường hô hấp dưới mạn tính (J40-J47), bệnh tim do
thiếu máu cục bộ (I20-I25), tiểu đường (E10-E14) (Bảng 3). Trừ nhóm bệnh
tăng huyết áp có tỉ lệ nhập viện tăng dần, 4 bệnh còn lại tương đối hằng
định.
Tỉ lệ tử vong chung là thấp và giảm dần từ 0,84% (2000) đến 0,45%
trong năm 2005 (Bảng 4). Những kết quả tử vong theo chương bệnh (Bảng
5), phân nhóm bệnh (Bảng 6) được phân tích trên tổng 940 trường hợp tử
vong của 6 năm 2000-2005. Ba chương bệnh có tỉ lệ tử vong cao nhất trong
6 năm, 2000-2005 là hệ tuần hoàn (chương 9), triệu chứng, dấu chứng
(chương 18), hô hấp (chương 10) (Bảng 5). Tăng huyết áp là nguyên nhân tử
vong hàng đầu trong 6 năm với tỉ lệ trên 20% tử vong chung; 4 bệnh có tỉ lệ
tử vong phổ biến đều trong suốt 6 năm là nhóm nguyên nhân tử vong không
rõ ràng hay không biết (R95-R99), bệnh tim do thiếu máu cục bộ (I20-I25)
là nguyên nhân tử vong phổ biến thứ hai và ba nhưng là nhóm bệnh có tỉ lệ
tử vong dao động trong 6 năm; bướu ác tính (C00-C97) có tỉ lệ tử vong
tương đối ổn định, bắt đầu tăng từ 2004 và đến năm 2005 là 13,19% (Bảng
6). Bệnh đường hô hấp dưới mạn tính (J40-J47) là nguyên nhân tử vong
hàng thứ năm, có khuynh hướng giảm nhẹ trong hai năm 2004 và 2005.
Bảng 2. Phân bố 10 chương bệnh mắc cao nhất, tần số và (%)
Chương bệnh
Tên chương bệnh
Tổng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
9
Bệnh hệ tuần hoàn
4381
(27,95)
533
(24,30)
615
(25,68)
712
(28,74)
760
(27,84)
786
(28,91)
955
(31,05)
11
Bệnh hệ tiêu hoá
2478
(15,81)
392
(17,22)
372
(15,53)
406
(16,39)
445
(16,30)
404
(14,86)
459
(14,92)
10
Bệnh hô hấp
2216
(14,14)
317
(13,93)
377
(15,74)
309
(12,47)
335
(12,27)
395
(14,53)
483
(15,70)
1
Bệnh nhiễm trùng, ký sinh trùng
856
(5,46)
118
(5,18)
134
(5,59)
122
(4,93)
173
(6,34)
163
(5,99)
146
(4,75)
7
Bệnh mắt và phần phụ
787
(5,02)
110
(4,83)
95
(3,97)
126
(5,09)
157
(5,75)
168
(6,18)
131
(4,26)
4
Bệnh nội tiết, dinh dưỡng, chuyển hoá
778
(4,96)
118
(5,18)
115
(4,80)
126
(5,09)
133
(4,87)
124
(4,56)
162
(5,27)
2
Bướu tân sinh
766
(4,89)
141
(6,20)
144
(6,01)
138
(5,57)
121
(4,43)
97
(3,57)
125
(4,06)
14
Bệnh hệ niệu-sinh dục
703
(4,49)
121
(5,32)
124
(5,18)
98
(3,96)
106
(3,88)
119
(4,38)
135
(4,39)
18
Triệu chứng, dấu chứng và những phát hiện lâm sàng -cận lâm sàng
bất thường, không phân loại nơi khác
615
(3,92)
63
(2,77)
88
(3,67)
97
(3,92)
128
(4,69)
130
(4,78)
109
(3,54)
13
Bệnh hệ cơ xương khớp, mô liên kết
582
(3,71)
117
(4,29)
126
(4,63)
156
(5,07)
19
Chấn thương, ngộ độc, và một số hậu quả khác do nguyên nhân bên
ngoài
442
(2,82)
131
(5,76)
120
(5,01)
94
(3,79)
Bảng 3. Phân bố 10 bệnh mắc hàng đầu, tần số và (%)
Nhóm bệnh
Tên bệnh
Tổng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
I10-I15
Tăng huyết áp
2679
(17,09)
308
(13,53)
339
(14,15)
426
(17,20)
481
(17,62)
504
(18,54)
621
(20,19)
K20-K31
Bệnh của thực quản, dạ dày, tá tràng
1474
(9,40)
236
(10,37)
205
(8,56)
246
(9,93)
270
(9,89)
237
(8,72)
280
(9,10)
J40-J47
Bệnh đường hô hấp dưới mạn tính
764
(4,87)
117
(5,14)
124
(5,18)
111
(4,48)
107
(3,92)
136
(5,00)
169
(5,49)
I20-I25
Bệnh tim do thiếu máu cục bộ
627
(4,00)
103
(4,53)
96
(4,01)
97
(3,92)
99
(3,63)
113
(4,16)
119
(3,87)
E10-E14
Tiểu đường
569
(3,63)
96
(4,22)
90
(3,76)
84
(3,39)
88
(3,22)
93
(3,42)
118
(3,84)
I60-I69
Bệnh mạch máu não
496
(3,16)
73
(3,21)
80
(3,34)
79
(3,19)
87
(3,19)
75
(2,76)
102
(3,32)
J30-J39
Bệnh khác của đường hô hấp trên
459
(2,93)
71
(3,12)
98
(4,09)
76
(2,80)
98
(3,19)
R50-R69
Triệu chứng, dấu chứng toàn thân
459
(2,93)
75
(3,03)
101
(3,70)
89
(3,27)
92
(2,99)
D10-D36
Bướu lành
415
(2,65)
91
(4,00)
101
(4,22)
78
(3,15)
71
(2,60)
K35-K38
Bệnh ruột thừa
354
(2,26)
60
(2,64)
70
(2,92)
A00-A09
Nhiễm trùng đường ruột
253
(2,25)
71
(2,60)
C00-C97
Bướu ác tính
347
(2,21)
58
(2,34)
85
(2,76)
I30-I52
Thể bệnh tim khác
344
(2,99)
67
(2,70)
H25-H28
Bệnh thuỷ tinh thể
337
(2,15)
93
(3,41)
82
(3,02)
H80-H83
Bệnh tai trong
337
(2,15)
77
(2,83)
90
(2,93)
N20-N23
Sỏi niệu
326
(2,08)
58
(2,55)
J20-J22
Nhiễm trùng đường hô hấp dưới, cấp, khác
324
(2,07)
66
(2,76)
Bảng 4. Tử vong chung năm 2000 – 2005, tần số và (%) (N=16075)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng
Tử vong
20 (0,84)
22 (0,89)
14 (0,55)
25 (0,90)
16 (0,58)
14 (0,45)
111 (0,69)
Bảng 5. Mười chương bệnh tử vong hàng đầu, tần số và (%)
Chương bệnh
Tổng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
9
410 (43,66)
74 (47,44)
85 (49,13)
63 (40,65)
74 (42,05)
54 (40,00)
60 (41,67)
18
134 (14,27)
19 (12,18)
28 (16,18)
28 (18,06)
23 (13,07)
18 (13,33)
18 (12,50)
10
131 (13,95)
20 (12,82)
15 (8,67)
17 (10,97)
34 (19,32)
24 (17,78)
21 (14,58)
2
84 (8,95)
14 (8,97)
9 (5,20)
13 (8,39)
14 (7,95)
15 (11,11)
19 (13,19)
11
52 (5,54)
8 (5,13)
7 (4,05)
9 (5,81)
11 (6,25)
5 (3,70)
12 (8,33)
1
44 (4,69)
9 (5,77)
12 (6,94)
3 (1,94)
8 (4,55)
6 (4,44)
6 (4,17)
4
40 (4,26)
4 (2,56)
11 (6,36)
10 (6,45)
7 (3,98)
4 (2,96)
20
13 (1,38)
4 (2,56)
1 (0,58)
3 (1,94)
1 (0,57)
4 (2,96)
14
10 (1,06)
2 (1,28)
1 (0,58)
3 (1,94)
3 (1,70)
1 (0,69)
6
6 (0,64)
1 (0,58)
3 (1,94)
1 (0,74)
1 (0,69)
12
5 (0,53)
1 (0,64)
1 (0,58)
1 (0,65)
1 (0,74)
1 (0,69)
19
4 (0,43)
1 (0,64)
1 (0,58)
1 (0,65)
1 (0,74)
13
2 (0,21)
1 (0,58)
1 (0,57)
3
2 (0,21)
1 (0,69)
Bảng 6. Phân bố 10 nhóm bệnh chết hàng đầu, tần số và (%)
Nhóm bệnh
Tổng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
I10-I15
204 (21,73)
37 (23,72)
47 (27,17)
33 (21,29)
36 (20,45)
22 (16,30)
29 (20,14)
R95-R99
100 (10,65)
15 (9,62)
22 (12,72)
23 (14,84)
17 (9,66)
14 (10,37)
9 (6,25)
I20-I25
96 (10,22)
16 (10,26)
26 (15,03)
12 (7,74)
20 (11,36)
8 (5,93)
14 (9,72)
C00-C97
82 (8,73)
13 (8,33)
9 (5,20)
13 (8,39)
14 (7,95)
14 (10,37)
19 (13,19)
J40-J47
56 (5,96)
9 (5,77)
10 (5,78)
8 (5,16)
15 (8,52)
7 (5,19)
7 (4,86)
K70-K77
44 (4,69)
6 (3,47)
9 (5,81)
11 (6,25)
10 (6,94)
E10-E14
36 (3,83)
11 (6,36)
8 (5,16)
7 (3.98)
4 (2,96)
I60-I69
31 (3,30)
8 (5,13)
7 (4,52)
7 (5,19)
I30-I52
30 (3,19)
6 (3,85)
6 (3,87)
4 (2,96)
7 (4,86)
J10-J18
30 (3,19)
5 (3,21)
10 (5,68)
7 (5,19
I70-I79
29 (3,09)
10 (5,68)
10 (7,41)
6 (4,17)
R50-R69
28 (2,98)
5 (2,89)
5 (2,84)
9 (6,25)
J95-J99
15 (1,60)
4 (2,56)
A15-A19
12 (1,28)
4 (2,56)
5 (2,89)
B15-B19
11 (1,17)
4 (2,78)
I05-I09
10 (1,06)
3 (1,94)
BÀN LUẬN
Xu hướng bệnh tật và tử vong của bệnh viện Nguyễn Trãi là mô hình
bệnh tật và tử vong của các nước phát triển, trong đó bệnh không lây là ưu
thế, rồi đến bệnh dịch lây, và tai nạn ngộ độc chấn thương (Bảng 1). Một lý
giải khác cho tỉ lệ thấp cuả các bệnh lây là vì TP. HCM có nhiều bệnh viện
chuyên khoa sâu nên bệnh nhân nhập bệnh viện Nguyễn Trãi chủ yếu là
bệnh không lây. Với mô hình bệnh tật và tử vong của các nước phát triển,
vấn đề đặt ra cho bệnh viện Nguyễn Trãi là trang thiết bị y tế và nhân lực
phải được đầu tư ngang tầm, để đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh và sự phát
triển bền vững.
Mười chương bệnh và mười phân nhóm bệnh mắc hàng đầu
Các chương bệnh hàng đầu trong 6 năm là tuần hoàn, tiêu hoá, hô hấp,
bệnh nhiểm trùng và ký sinh trùng, bệnh mắt và phần phụ, nội tiết-dinh
dưỡng-chuyển hoá, bướu, niệu-sinh dục; trong đó, ba chương tuần hoàn
(chương 9), tiêu hoá (chương 11), và hô hấp (chương 10) luôn luôn ở vị trí
đầu trong tất cả các năm (Bảng 2). Những dữ kiện của nghiên cứu này là
những dữ kiện từ bệnh viện, với những bệnh nhân đến từ nhiều địa phương
khác nhau, do đó, kết quả có thể không đại diện cho một cộng đồng dân cư
cụ thể. Tuy nhiên, trong mô hình bệnh tật chung của cả nước, của hai khu
vực đông nam bộ, và khu vực đồng bằng sông Cửu Long theo niên giám
thống kê y tế trong cùng thời khoảng [1] [2] [3] [4] [5] [6] ba chương tuần
hoàn, tiêu hoá, và hô hấp luôn ở những vị trí cao. Trong số mười phân nhóm
bệnh nhập viện hàng đầu, năm nhóm bệnh có tỉ lệ nhập viện cao nhất là tăng
huyết áp, viêm thực quản-dạ dày-tá tràng, bệnh đường hô hấp dưới mạn tính,
bệnh tim do thiếu máu cục bộ, và tiểu đường (Bảng 3). Với sự phân bố của 5
phân nhóm bệnh chiếm tỷ lệ cao, đặt ra vấn đề tập trung đầu tư xây dựng các
chuyên khoa phù hợp để đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh cũng như sự phát
triển lâu dài của bệnh viện.
Mười chương bệnh và mười phân nhóm bệnh tử vong hàng đầu
Tỉ lệ tử vong chung trong 6 năm là thấp và giảm dần cho thấy hiệu
quả cao của điều trị (Bảng 4). Theo bảng 5, trong mười chương bệnh có tỉ lệ
tử vong hàng đầu, chương bệnh hệ tuần hoàn, triệu chứng dấu chứng và
những phát hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường không phân loại nơi
khác, bệnh hô hấp, bướu tân sinh, và bệnh hệ tiêu hóa luôn ở vị trí đầu trong
tất cả các năm và có khuynh hướng giảm nhẹ, riêng chương bệnh hô hấp
nhập viện tăng và tử vong tăng nhẹ. Mô hình này tương tự với thống kê tại
Úc năm 2000-2002, các chương bệnh tử vong hàng đầu là tuần hoàn, hô hấp,
nội tiết-dinh dưỡng và rối loạn chuyển hoá, tiêu hoá, triệu chứng-dấu chứng
và những phát hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường, không phân loại nơi
khác [7].
Chương triệu chứng dấu chứng và những phát hiện lâm sàng-cận lâm
sàng bất thường, không phân loại nơi khác) có tỉ lệ tử vong cao chủ yếu là
do bệnh nhân khi đến bệnh viện đã ngưng tim ngưng thở (tạm gọi là chết
truớc nhập viện) nhưng theo qui định chuyên môn sau 30 phút hồi sinh vô
hiệu thì được nhìn nhận là tử vong. Việc mổ xác để xác định nguyên nhân
chỉ tiến hành khi có yêu cầu của công an, hoặc được người nhà bệnh nhân
đồng ý. Tuy nhiên, hầu hết gia đình bệnh nhân đều không đồng ý, do đó,
nguyên nhân tử vong được chọn là triệu chứng dấu chứng và những phát
hiện lâm sàng-cận lâm sàng bất thường, không phân loại nơi khác.
Tử vong của chương bướu tân sinh có khuynh hướng tăng nhẹ cho dù
tỉ lệ nhập viện của nhóm bệnh chương này giảm theo từng năm. Điều này
xảy ra vì bệnh nhân bướu ác tính khi điều trị ở bệnh viện chuyên khoa đến
giai đoạn xấu được cho ra viện và bệnh nhân nhập viện trở lại bệnh viện
Nguyễn Trãi để được chăm sóc trong giai đoạn cuối cùng của cuộc sống.
Chương nhiễm trùng-ký sinh trùng có khuynh hướng nhập viện tăng nhẹ
hàng năm và tỉ lệ tử vong giảm dần, có thể việc điều trị của bệnh viện được
nâng lên, hoặc có thể những bệnh nhân nặng ở nhóm bệnh này đã đến bệnh
viện chuyên khoa lây.
Mười bệnh tử vong hàng đầu là tăng huyết áp, nguyên nhân tử vong
không rõ ràng hay không biết, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, bướu ác tính,
bệnh đường hô hấp dưới mạn tính, bệnh của gan, tiểu đường, bệnh động
mạch, tiểu động mạch và mao mạch, thể bệnh tim khác, và bệnh mạch máu
não (Bảng 6). So sánh với các nước, mô hình tử vong của bệnh viện Nguyễn
Trãi gần giống với mô hình tử vong của các bệnh viện ở Úc, cụ thể là bướu
ác tính, bệnh tim do thiếu máu cục bộ, bệnh mạch máu não, bệnh đường hô
hấp dưới mạn tính, tai nạn chấn thương ngộ độc, tiểu đường, cảm cúm và
viêm phổi, suy tim, bệnh động mạch, tiểu động mạch và mao mạch [8], và
cũng gần giống với những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Singapore [9].
Sự so sánh này không thật sự sát hợp vì bệnh viện Nguyễn Trãi là bệnh viện
đa khoa không có chuyên khoa sản, nhi, và ở TP. HCM có những bệnh viện
chuyên khoa (Ung bướu, Chấn thương - Chỉnh hình, Sản, Nhi, Tai nạn, chấn
thương sọ não) nên tần số nhập viện về bệnh ung bướu, bệnh nhiễm trùng,
tai nạn- chấn thương là thấp. Với thứ tự các nhóm bệnh tử vong hàng đầu
cũng cho thấy một phần mô hình tử vong đang dần dịch chuyển sang những
bệnh bị ảnh hưởng bởi lối sống hiện đại như tim mạch, hô hấp, ung thư, nội
tiết.
Tóm lại, mô hình bệnh tật và tử vong tại bệnh viện Nguyễn Trãi trong
sáu năm đầu thế kỷ 21 có đặc tính mô hình bệnh tật của các nước phát triển
ở giai đoạn đầu. Với những tiến bộ của tình trạng kinh tế, khoa học, và công
nghiệp, đời sống của con người không còn lệ thuộc nhiều vào môi trường tự
nhiên, mà chịu ảnh hưởng của cách sống và hành vi. Bệnh không lây, tai nạn
chấn thương chiếm ưu thế trong số các bệnh nhập viện, và tử vong nghiêng
về những bệnh tim mạch, hô hấp, ung thư, và nội tiết. Những điều mà bệnh
viện Nguyễn Trãi cần quan tâm trong những năm sắp tới là phát hiện sớm
bệnh, đẩy mạnh giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân, tăng cường hiệu quả của
các biện pháp điều trị sẵn có, và đầu tư cho những phương tiện chẩn đoán và
điều trị tốt hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài - MÔ HÌNH BỆNH TẬT VÀ TỬ VONG Ở BỆNH NHÂN NỘI TRÚ.pdf