Đề tài Mô hình quản trị: Tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước

Quyết định số 217/QĐ - HĐBT do Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ ban hành ngày 14/11/1987 là văn bản đầu tiên nhằ m cụ thể hóa Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 3 (Khóa VI) về các chính sách đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với các xí nghiệp quốc doanh; có nội dung chủ yếu là: (1) Chỉ kiểm soát từ 1 – 3 chỉ tiêu pháp lệnh, doanh nghiệp nhà nước được quyền chủ động trong kế hoạch, phương án kinh doanh, được lựa chọn mặt hàng, số lượng hàng hóa dịch vụ; (2) Xóa bỏ chế độ cấp phát vật tư bằng việc mua bán vật tư, sản phẩm; (3) Không giao kế hoạch tiêu thụ, giá cả; (4) Cấp phát một phần ban đầu tài sản cố định và lưu động cho doanh nghiệp nhà nước, nhà nước ủy quyền cho Hội đồng quản trị và cán bộ công chức trong doanh nghiệp trực tiếp quản lý – sử dụng; (5) Buộc doanh nghiệp nộp khấu hao tài sản cố định vào ngân sách nhà nước; (6) Cho phép doanh nghiệp được quyền chủ động vay vốn từ nhiều nguồn khác nhau, được ký kết và thực hiện hợp đồng kinh doanh với doanh nghiệp khác

pdf112 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2138 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mô hình quản trị: Tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước thể hiện đúng vai trò của một nhà đầu tư và quản lý nền kinh tế, không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh những ưu điểm đạt được của quá trình thực hiện tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước, Chương II cũng đã chỉ ra một số nhược điểm còn tồn tại như: sự tồn tại của chế độ hành chính chủ quản dẫn đến việc quản lý vốn lỏng lẻo; một số vấn đề liên quan đến sở hữu và quyền tự chủ; chế độ sử dụng, đãi ngộ cán bộ… Chương III – chương tiếp theo của khóa luận sẽ tập trung vào việc đưa ra một số định hướng và đề xuất giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh việc thực hiện tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước. CHƢƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC HIỆN TÁCH QUYỀN CHỦ SỞ HỮU RA KHỎI QUYỀN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC I. CÁC ĐỊNH HƢỚNG NHẰM ĐẨY MẠNH VIỆC TÁCH QUYỀN CHỦ SỞ HỮU RA KHỎI QUYỀN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC. 77 1.1 Nhà nước và sự bình đẳng với các doanh nghiệp trong vai trò một nhà đầu tư. 1.1.1 Vai trò nhà đầu tư của nhà nước. Nhà nước thực hiện quyền chủ sở hữu của mình với vai trò là người đầu tư vốn bình đẳng như các nhà đầu tư khác. Trong tiến trình Việt Nam thực hiện tổ chức, cải cách lại nền kinh tế cho phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết, cơ chế vận hành nền kinh tế theo nguyên tắc kinh tế thị trường từng bước được hiểu rõ hơn, khi mà các đối tượng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh cùng một loại hàng hóa thì đều được Nhà nước với tư cách là người quản lý đối xử một cách bình đẳng theo các quy định của pháp luật. Các cơ quan nhà nước được giao cho trách nhiệm quản lý phần vốn tại các doanh nghiệp có góp vốn của nhà nước cũng phải chịu sự chi phối của các quy định pháp luật, cũng có trách nhiệm và quyền lợi như bất kỳ một nhà đầu tư khác nào góp vốn vào trong doanh nghiệp. Như vậy thì nhà nước mới thực hiện được công khai, minh bạch các chính sách kinh tế, thực hiện đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế như cam kết trong Hiệp định gia nhập WTO của Việt Nam. 1.1.2 Chuyển từ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước sang Nhà nước làm chức năng quản lý vĩ mô đối với doanh nghiệp nhà nước. Từ bài học của nhiều nước trên thế giới có thể thấy rằng: một trong những nguyên nhân khiến các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả đó là do sự can thiệp quá sâu của Chính phủ vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý vĩ mô tham gia vào việc xây dựng các quyết định mang tính tác nghiệp hàng ngày của các doanh nghiệp. Ở nước ta trong một thời gian dài chức giám đốc từng được coi là cái ghế chứ không phải là nghề vì vậy mà Chính phủ thường chọn các nhà chính trị làm giám đốc doanh nghiệp nhà nước. Do vậy mà ý chí chính trị đã chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo ra cơ chế 78 vừa tập trung quan liêu, vừa phân tán, nhiều tầng lớp trung gian làm triệt tiêu tính năng động tự chủ của giám đốc, người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Cũng như những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế mà không phải là tổ chức chính trị, chức năng cơ bản nhất của chúng là tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng là không thể thiếu được, vấn đề là nội dung và phương pháp quản lý phải thay đổi. Mọi sự áp đặt chủ quan các chỉ tiêu pháp lệnh và cả sự ưu đãi của Chính phủ đối với các doanh nghiệp nhà nước thông qua giá cả, lãi suất, thuế khóa…đều không có hiệu quả. Vì thế Nhà nước phải chuyển từ sự can thiệp trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước sang chức năng tạo môi trường cho các doanh nghiệp ấy tự do hoạt động, đó là môi trường chính trị – xã hội, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, môi trường y tế… 1.2 Đẩy mạnh chất lượng quản lý bộ máy Nhà nước. Việc tách chức năng thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước ra khỏi chức năng quản lý hành chính nhà nước để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của bộ máy công quyền, nâng cao khả năng đáp ứng và phục vụ yêu cầu của xã hội, giảm thiểu đến mức tối đa các điều kiện có thể nảy sinh tham nhũng. Khi tách bạch chức năng của chủ sở hữu và chức năng quản lý nhà nước sẽ tạo điều kiện thực hiện sự chuyên môn hóa cao đối với cơ quan quản lý hành chính bởi vì mục tiêu cả hai nhiệm vụ này là không như nhau: đối với việc quản lý nhà nước thì mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi tới mức tối đa cho cộng đồng doanh nghiệp, còn mục tiêu của chủ sở hữu là lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được. Cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước về kế hoạch, về lao động, về phân phối thu nhập, về tài chính, kế toán thống kê, về 79 thanh tra, kiểm tra, về đầu tư xây dựng cơ bản…đã tạo lập hành lang pháp lý tương đối đồng bộ theo hướng doanh nghiệp nhà nước thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh, phân phối tiền lương, lợi nhuận để lại. Khi giao quyền tự chủ kinh doanh cho doanh nghiệp nhà nước, mấu chốt của vấn đề là làm thế nào để nhà nước vẫn kiểm soát được các doanh nghiệp của mình. Tình hình thực tế cho thấy việc mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước đã dẫn đến nâng cao tính năng động của các doanh nghiệp nhà nước nhưng về cơ bản lại chưa đi liền với việc nâng cao chất lượng giám sát của Nhà nước. Dẫn đến có tình trạng chồng chéo trong giám sát của các cơ quan nhà nước, không giảm được sự lãng phí, vi phạm lợi ích của nhà nước. Do vậy mà cần đẩy mạnh chất lượng quản lý bộ máy nhà nước, đảm bảo cho sự phát triển của các doanh nghiệp nhà nước cũng như bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước. 1.3 Quản lý vốn của nhà nước tại doanh nghiệp. Thực hiện các quyền chủ sở hữu tập trung và thống nhất để đảm bảo việc quản lý nguồn vốn tại các doanh nghiệp thì cần phải có một bộ máy quản lý biên chế gọn, có năng lực chuyên môn và phẩm chất chính trị, ít khâu trung gian. Các cơ quan thực hiện quyền chủ sở hữu được có đủ thẩm quyền trong việc quyết định đầu tư, bổ nhiệm cán bộ và phải chịu trách nhiệm trước nhà nước về những quyết định của mình. Việc thành lập các cơ quan quản lý tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan được giao quản lý vốn và tài sản doanh nghiệp nhà nước theo hướng là gắn quyền lợi với trách nhiệm. Không giống như các chủ đầu tư khác, người được giao quyền đại diện phần vốn của Nhà nước không phải là chủ thực sự của phần vốn đó vì vậy mà Nhà nước cần có những quy định để đánh giá hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn tại doanh nghiệp, từ đó cũng đánh giá được khả năng của đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản lý tại doanh nghiệp và có chế độ đãi ngộ 80 hợp lý. Xây dựng một đội ngũ những người làm công tác quản lý doanh nghiệp mới có trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị: tạo mọi điều kiện thuận lợi và các biện pháp hỗ trợ người lao động nâng cao năng suất, giảm chi phí nguyên vật liệu và giá thành sản phẩm, tạo lợi nhuận cho Nhà nước cũng như người lao động, để bảo toàn và phát triển nguồn vốn của Nhà nước. II. GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH VIỆC TÁCH QUYỀN CHỦ SỞ HỮU RA KHỎI QUYỀN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC 2.1 Làm rõ và thực hiện tốt chức năng quản lý nền kinh tế của Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Việc phân định rõ chức năng quản lý hành chính của các cơ quan hành chính Nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước giúp cho doanh nghiệp nhà nước thực sự thực hiện được quyền tự chủ kinh doanh, linh hoạt và thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường, có tác dụng thúc đẩy quá trình cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động và chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính nhà nước. Cùng với việc tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh còn cần phân biệt rõ hoạt động hành chính với hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công trong các cơ quan hành chính nhà nước để tạo điều kiện cho các cơ quan này tập trung vào thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước, không can thiệp cụ thể để đảm bảo sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước cần quản lý các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau bằng pháp luật, bằng các công cụ, phương tiện công nghệ thông tin hữu hiệu. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, do vậy cần phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh Luật và các văn bản dưới Luật có liên quan đến doanh nghiệp và doanh nghiệp nhà nước. Cần tạo được những đối xử bình đẳng giữa 81 doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác bằng cách gỡ bỏ những ưu đãi, những đặc quyền đối với doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực như tuyển dụng lao động, vay vốn ngân hàng, chính sách bảo vệ tài nguyên môi trường… Ví dụ trong lĩnh vực vay vốn ngân hàng, nên bãi bỏ hình thức bảo lãnh hành chính của các cơ quan chủ quản cấp trên cho các doanh nghiệp nhà nước. Hiện vẫn còn có những quy định đối xử không công bằng của ngân hàng đối với các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp nhà nước theo hướng giành thuận lợi nhiều hơn cho doanh nghiệp nhà nước. Tại nghị quyết Đại hội Đảng X đã xác định đến hết năm 2009 phải tiến hành sắp xếp xong các doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng cổ phần hóa hoặc giao bán, khoán doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối. Do đó cần có nghị định hướng dẫn để đến sau năm 2009 này tất các cả doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam đều phải tuân thủ thực hiện theo một nguồn Luật. Các doanh nghiệp không phân biệt sở hữu đều phải có trách nhiệm đóng góp chi phí bảo vệ môi trường theo nguyên tắc làm ảnh hưởng nhiều đến môi trường thì đóng góp nhiều, có những hoạt động bảo vệ môi trường thì được khuyến khích. Tóm lại, nhà nước cần tập trung vào 3 vấn đề lớn sau 53: (1) Xây dựng, ban hành hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất tạo khung pháp lý cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động; xác định chiến lược, quy hoạch phát triển chung cho các ngành, các lĩnh vực; xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, ổn định kinh tế vĩ mô và môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động; (2) Tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật như tổ chức đăng ký kinh doanh, lưu giữ các thông tin cơ bản về doanh nghiệp nhà nước, theo dõi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, đảm 53 Hoàng Hà (2005) Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam từ 1986 đến nay, thực trạng và giải pháp, Đại học Kinh tế Quốc dân. 82 bảo để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo đúng điều kiện quy định tại quyết định thành lập và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Ngoài ra nhà nước xây dựng, quy hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp; (3) Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp nhà pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. 2.2 Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước Nghị quyết Hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nêu rõ mục tiêu cơ bản của sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước là nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua, nước ta đã tích cực sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiện có, cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn; sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả; giao bán, khóa kinh doanh, cho thuê các doanh nghiệp quy mô nhỏ, không cổ phần hóa được và Nhà nước không cần nắm giữ; đồng thời thực hiện chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn đối với doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn… Cần tiếp tục thực hiện việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp đa dạng (ví dụ như sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước để giảm đầu mối; giải thể, tổ chức lại bộ máy và thay đổi nhân sự, bán toàn bộ hay một phần tài sản của doanh nghiệp, cho thuê tài sản nhà xưởng mặt bằng, khoán quản lý doanh nghiệp; đặc biệt là đẩy nhanh và hoàn thành tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước) nhằm loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, sản xuất kinh doanh kém 83 hiệu quả và dồn vốn vào các doanh nghiệp còn lại. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước sẽ đem lại những kết quả tích cực, khu vực doanh nghiệp nhà nước được lành mạnh hóa, thích ứng và năng cao khả năng cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. 2.3 Tăng cường việc quản lý vốn của Nhà nước đối với nguồn vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp. Vốn hóa toàn bộ tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước kể cả là giá trị quyền sử dụng đất có thời hạn. Nhà nước sẽ quản lý vốn theo tính hiệu quả sinh lời trên nguồn vốn đầu tư chứ không phải là quản lý hiện vật của các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh cần đánh giá lại tài sản của mình. Nhà nước giao cho doanh nghiệp nguồn vốn này và chỉ quản lý giá trị đã được giao, còn hiện vật dưới hình thức nào là thuộc quyền quản trị của doanh nghiệp nhà nước miễn là các doanh nghiệp này sử dụng có hiệu quả. Nhà nước sở hữu vốn của doanh nghiệp còn pháp nhân doanh nghiệp sở hữu các tài sản cụ thể của doanh nghiệp, như vậy đã tách biệt giữa quyền của chủ sở hữu pháp nhân và quyền của pháp nhân đó. Khi đã công ty hóa doanh nghiệp nhà nước thì các quyết định bên trong của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự định đoạt. Nhà nước chỉ có nhiệm vụ là kiểm soát hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua hiệu quả tài chính. Doanh nghiệp nhà nước tự chủ về tiền lương, tiền thưởng, các phục lợi tập thể… còn Nhà nước kiểm soát tỷ suất sinh lời trên vốn của Nhà nước để đảm bảo suất sinh lời trên vốn của Nhà nước, bảo đảm và phát triển nguồn vốn. Theo chỉ thị số 316/CP của Hội đồng bộ trưởng, các doanh nghiệp nhà nước được trao quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh hay gọi là khoán vốn. Với hình thức khoán vốn về cơ bản là không tách được chức năng sở hữu ra khỏi chức năng kinh doanh, sự can thiệp của bộ máy hành chính nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 84 chưa được khắc phục. Vấn đề doanh nghiệp tự chịu lỗ lãi không được giải quyết vì muốn bù lỗ phải lấy vốn tự có hoặc nâng giá sản phẩm mà vốn tự có thì khó khăn, nếu nâng giá thì lại không bán được sản phẩm. Hơn nữa hệ số khoán trong từng chu kỳ nhận khoán là không thay đổi nên các yếu tố sản xuất kinh doanh khó di chuyển được, doanh nghiệp không thể chủ động. Do đó đề xuất việc khoán lợi nhuận cho các doanh nghiệp nhà nước. Khoán lợi nhuận cũng có nghĩa là chủ sở hữu chỉ quản lý bằng lợi nhuận, chủ sở hữu nắm được lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp mà giám đốc tạo ra cho mình. Về phía giám đốc thì có toàn quyền sử dụng toàn bộ tài sản vốn liếng của doanh nghiệp miễn là không vi phạm các quy định của pháp luật, quy định tài chính do chủ sở hữu đề ra. Nếu tiết kiệm được các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra thêm được lợi nhuận thì tiền lương, tiền thưởng của giám đốc càng cao và ngược lại nếu không đạt được tỷ suất lợi nhuận tối thiểu theo quy định thì giám đốc phải chịu trách nhiệm theo khế ước đã thỏa thuận. Với tư cách là người làm công, các giám đốc được thuê rất sợ mất việc, giảm nguồn thu từ họat động chuyên môn của mình, thứ nữa là danh dự và địa vị xã hội cho nên giám đốc phải tìm mọi cách để duy trì sự phát triển của doanh nghiệp trên cơ sở là tạo ra nguồn lợi nhuận ngày càng cao trong kinh doanh. 2.4 Xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước chịu sự kiểm tra, quản lý, giám sát của pháp luật nói chung và của các Bộ quản lý chuyên ngành ở từng lĩnh vực nói riêng. Các Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ ủy quyền làm đại diện chủ sở hữu nhà nước, phải xây dựng được cơ quan tham mưu riêng cho quản lý doanh nghiệp phù hợp với đặc thù ngành và kinh tế quốc tế. Như vậy chỉ có một cơ quan chịu trách nhiệm duy nhất trước Nhà nước, trước pháp luật về việc bảo toàn và phát triển các loại vốn thuộc sở hữu chung toàn dân; giải 85 quyết nhanh chóng, kịp thời và thống nhất những vấn đề phát sinh trong thực tiễn về tài sản, vốn của Nhà nước trong quá trình hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nhà nước. Hình 7: Sơ đồ mô hình tổ chức quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc cấp Chính phủ. Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC – State Capital Investment Corporation) là mô hình mới mẻ của Việt Nam, chính thức hoạt động từ ngày 17/12/2006. Vậy nhưng SCIC lại thực hiện quyền sở hữu nhà nước đối với một số tiền khổng lồ và với danh mục đầu tư hết sức đa dạng. Theo thống kê của SCIC, tính đến ngày 28/2/2009 cơ quan này đang quản lý 776 doanh nghiệp, tổng giá trị mà SCIC nhận bàn giao (tính đến cuối năm 2008) là 6924 tỷ đồng. Đến 2010 khi mà quá trình cổ phần hóa được thực hiện xong nếu chỉ khoảng 1/3 số vốn nhà nước chuyển cho SCIC thì họ 86 đã quản lý danh mục tài sản đến 10 tỷ đôla. Do đó việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của SCIC có ý nghĩa quan trọng: - Khẩn trương tăng cường năng lực quản lý, điều hành, kể cả bổ sung chức năng, nhiệm vụ cho SCIC. Thường xuyên đánh giá để xác định năng lực của SCIC, tính toán khả năng được nhà nước giao thực thi quyền sở hữu. Cho phép SCIC tuyển dụng chuyên gia tài chính nước ngoài, xác lập cơ chế lương, thưởng cho nhà quản lý, cho nhân viên… - Hoàn thiện quy chế pháp lý và cụ thể hóa điều lệ cho SCIC theo quy luật kinh tế thị trường, ngăn chặn việc cơ quan nhà nước can thiệp hoạt động của SCIC, cho phép SCIC được hợp tác kinh doanh với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế có uy tín để nâng cao hiệu quả đầu tư, học tập thêm các kinh nghiệm quản lý. - Thực hiện nghiêm túc việc chuyển phần vốn nhà nước (của Bộ, địa phương) ở các doanh nghiệp nhà nước đã chuyển đổi cho SCIC. Thí điểm chuyển phần vốn nhà nước ở một số Tổng công ty cho SCIC. - Nhà nước chỉ nên đặt mục tiêu duy nhất cho SCIC là tối đa hóa giá trị vốn nhà nước và hàng năm SCIC được khoán một khoản cố tức cố định cho nhà nước. Ngoài mức cổ tức cố định này SCIC được quyền quyết định phân chia lương, thưởng theo pháp luật. Ban hành cơ chế đặc thù về kiểm toán, giám sát và công khai, minh bạch, niêm yết cho SCIC để đảm bảo sự kiểm soát của nhà nước, sự giám sát của dân chúng và các cổ đông liên quan. - Xác định ngành, lĩnh vực cho SCIC được phép đầu tư để SCIC đầu tư những ngành quan trọng thiết yếu, tránh đầu tư ngành doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể đầu tư được. Hạn chế nắm giữ phần vốn nhà nước ở các công ty độc lập quy mô vừa và nhỏ. 87 Hình 8: Mô hình tổ chức quản lý vốn của doanh nghiệp nhà nƣớc tại các bộ quản lý ngành. Cần chuyển đổi một cách hữu hiệu từ phương thức đầu tư, quản lý và sử dụng vốn của Nhà nước theo cách quản lý hành chính thông qua việc cấp phát vốn từ ngân sách Nhà nước sang phương thức đầu tư, quản lý và sử dụng vốn của Nhà nước theo phương thức hạch toán kinh doanh đối với quá trình đầu tư vốn cho các loại hình doanh nghiệp nhà nước. Với phương thức hạch toán kinh doanh này nhằm đảm bảo các mục tiêu đã đề ra, thực hiện những chỉ tiêu hiệu quả về kinh tế, chính trị, xã hội. 2.5 Tăng cường hệ thống chế định của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước 2.5.1 Hoàn thiện công cụ pháp luật Nhắc đến cơ chế thị trường là sự phong phú, đa dạng của các sản phẩm hàng hóa dịch vụ, kết quả của sự tự do linh hoạt và tính mềm dẻo năng động trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên cũng không thể tự do ăn cắp, tự do dùng tài sản của Nhà nước để kinh doanh bất hợp pháp nhằm mục đích vun vén cho cá nhân đặc quyền, đặc lợi. Pháp luật ra đời ngoài chức năng tạo hành lang cho các doanh nghiệp tự do hoạt động còn góp phần tích cực vào việc 88 ngăn ngừa và xử lý những hành vi kinh doanh bất hợp pháp đảm bảo kỷ cương pháp luật. Để tạo ra được luật chơi và cơ hội tốt cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện tự chủ chủ của mình, đảm bảo sự quản lý tập trung và có hiệu quả của nhà nước trước hết phải có được một hệ thống pháp luật đồng bộ. Làm rõ một số điều tại Nghị định 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính phủ như 54: - Điều 8: Về việc thực hiện đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước (hiện chưa có văn bản pháp luật về thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước) - Điều 10: Về quản lý nhà nước các tổ chức kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân (chưa làm rõ được mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong kinh tế tư nhân và kinh tế tập thể) - Điều 14: Về quản lý tài chính, tài sản như hiện nay vẫn còn hạn chế giao quyền cho các Bộ trong việc quản lý tài chính, tài sản. Mối quan hệ các Bộ trong việc xây dựng, thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các ngành, lĩnh vực được phân công theo dõi còn hiều hạn chế dẫn đến giữa các Bộ cũng làm mất thời gian xin ý kiến lẫn nhau Luật Doanh nghiệp đã mở ra nhiều hình thức trả lương cho người làm công tác quản lý: có thể thỏa thuận lương theo thâm niên, theo năng lực và theo công việc thực tế đang đảm nhiệm. Vì vậy cũng cần xây dựng Nghị định để xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của người điều hành. Đặc biệt cũng cần có những hướng dẫn về chế độ đãi ngộ phù hợp với sự cống hiến của đội ngũ những người làm công tác quản trị doanh nghiệp. Chúng ta cần phân biệt được rằng mặc dù người quản trị doanh nghiệp có thể là công chức 54 Nguyễn Đặng Tường Anh (2007), Tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp – Mô hình quản trị mới trong doanh nghiệp nhà nước, Đại học Ngoại Thương 89 được cử sang làm quản lý các doanh nghiệp nhà nước thì trong thời gian làm quản lý doanh nghiệp họ vẫn có quyền được hưởng thành quả của mình tại doanh nghiệp như một doanh nhân thực sự. Như vậy sự hình thành đồng bộ hệ thống luật pháp có liên quan đến họat đông sản xuất kinh doanh và hoạt động công ích tại các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta là không thể chậm trễ. Vấn đề hiện nay là cần có sự cụ thể hóa Luật doanh nghiệp 2005, Chính phủ có sự phân công cụ thể cho các cơ quan chức năng mà trực tiếp là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, …chuẩn bị các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Tiến trình cải cách mới theo hướng đảm bảo tính tự của của doanh nghiệp nhà nước đồng thời tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực và chủ trương của các cơ quan kể trên. 2.5.2 Ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật doanh nghiệp 2005 về một số vấn đề: * Nhà nƣớc không can thiệp vào ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp Khác với Luật doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật doanh nghiệp 2005 đã mở rộng phạm vi kinh doanh của các doanh nghiệp mà không phân biệt ai là chủ sở hữu. Trong đó các doanh nghiệp được phép hoạt động kinh doanh trên mọi lĩnh vực mà pháp luật không cấm, luật không quy định bắt buộc các các doanh nghiệp thuộc Bộ công thương không được tham gia trong lĩnh vực ngân hàng hay nông nghiệp… Trên cơ sở quy định này mà nhiều Tổng công ty nhà nước đã mở rộng hoạt động thành lập các công ty cổ phần hoạt động trong những lĩnh vực hoàn toàn khác với ngành nghề truyền thống của mình. Trong Nghị định hướng dẫn cần quy định rõ số lượng ngành nghề yêu cầu phải có sự thỏa thuận đặc biệt của các cơ quan quản lý nhà nước để tránh tình trạng luật thì quy định mở còn các cơ quan thực thi lại vận dụng tùy tiện để gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cần cân nhắc lại về việc một Tổng 90 công ty nhà nước hay một tập đoàn kinh tế phải có một ngành nghề kinh doanh chủ yếu vì như thế không phù hợp với yêu cầu khách quan hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước phải được tự do lựa chọn và quyết định chiến lược kinh doanh, ngành nghề kinh doanh nhằm đảm bảo thu được lợi nhuận tối đa. * Nhà nƣớc không hạn chế địa bàn kinh doanh Các doanh nghiệp được tự chọn địa bàn kinh doanh phù hợp với khả năng tài chính, nguồn nhân lực hiện có và khả năng mở rộng thị trường mà không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nào, qua đó mở rộng khả năng cạnh tranh để cung ứng cho người tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng tốt, giá cả hợp lý… Trong quá trình phát triển, khi doanh nghiệp đã tận dụng được các khả năng thuận lợi để mở rộng thị trường, nâng cao sản lượng thì họ có quyền quyết định đầu tư tại các địa phương mà họ có khả năng cạnh tranh, có khả năng thu được nguồn lợi nhuận lớn. Nếu như tiếp tục ràng buộc doanh nghiệp theo phương thức quản lý hành chính sẽ làm mất đi cơ hội kinh doanh, phát triển thị trường của doanh nghiệp. Trong điều kiện mở cửa kinh tế thì khả năng phát triển thị trường, chiếm lĩnh thị trường là yếu tố quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp nhà nước. Không vì phân địa giới hành chính mà hạn chế các doanh nghiệp nhà nước phát triển thị trường kể cả thị trường nước ngoài. Cần có những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước phát triển ra thị trường ngoài nước ví dụ như Tổng công ty viễn thông quân đội phát triển thị trường di động tại Lào, Campuchia; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tham gia hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí tại Angeri… 2.6 Xóa bỏ chế độ hành chính chủ quản và tăng cường quyền tự chủ về quản trị doanh nghiệp cho các doanh nghiệp. 91 Việc xóa bỏ cơ chế chủ quản không có nghĩa là xóa bỏ chức năng của nhà nước, làm mờ nhạt vài trò của chủ sở hữu, nó đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Khắc phục tối đa sự trùng lặp, chồng chéo giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Các cơ quan nhà nước chỉ tập trung vào hoạt động quản lý nhà nước trong các lĩnh vực, ngành nghề mà mình phụ trách. Xóa bỏ cơ chế chủ quản sẽ thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo pháp luật và các căn cứ thị trường. Cơ chế chủ quản của các Bộ, các cơ sở quản lý ngành và sự lẫn lộn giữa quản lý nhà nước và chủ sở hữu sẽ không còn lý do để tồn tại. Các giải pháp về cơ chế quản lý để tăng cường quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước, đưa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác mà vẫn đảm bảo vị trí, vai trò của mình. Cần đổi mới các chính sách giao quyền tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước trên các nội dung cụ thể: 2.6.1 Về cơ chế quản lý tài chính Nhà nước chuyển hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn; chuyển từ định mức vốn sang vốn điều lệ cho doanh nghiệp đồng thời nhà nước cũng phải đảm bảo đủ vốn điều lệ và không thu tiền sử dụng vốn tạo sự bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Phần vốn đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước được tính cả giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Nhà nước tăng quyền tự chủ tài chính cho doanh nghiệp nhà nước đồng thời gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Nhà nước cần cho phép các doanh nghiệp nhà nước được tiếp cận, thu hút các nguồn vốn trên thị trường, doanh nghiệp nhà nước tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng và trả nợ khoản vốn vay. Chấm dứt tình 92 trạng dùng ngân sách nhà nước để bù lỗ, miễn thuế, xóa nợ cho doanh nghiệp nhà nước. Về việc vay vốn ngân hàng để kinh doanh sẽ hoàn toàn do ngân hàng định đoạt việc cho vay căn cứ vào hiệu quả của dự án mà không có bàn tay can thiệp, chỉ định của nhà nước. Mở rộng và đa dạng hóa hơn nữa các hình thức thuê mua tài chính, tạo hành lang pháp lý cho họat động này tồn tại và phát triển ổn định, đổi mới và tái đầu tư, gắn lợi ích vật chất với hiệu quả kinh doanh. Ngoài phần vốn do nhà nước đầu tư vào, doanh nghiệp nhà nước có thể tự huy động. Việc huy động vốn để kinh doanh được thực hiện theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm, tự hoàn trả, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn được huy động mà không được làm thay đổi hình thức sở hữu của doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước quản lý vốn doanh nghiệp nhà nước bằng giá trị tài sản tại doanh nghiệp mà không quản lý bằng tài sản hiện vật, do vậy phải để cho các doanh nghiệp nhà nước được chủ động xử lý các tài sản dư thừa, vật tư hay hàng hóa ứ đọng. Doanh nghiệp nhà nước được quyền tự chủ trong việc phân phối và trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế (như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng và phúc lợi…). Nhà nước cũng cần có chính sách đối với những tài sản do doanh nghiệp nhà nước đầu tư bằng nguồn vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản cũng như là chính sách đối với lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài hòa các lợi ích, phù hợp với từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, từ đó khuyến khích được doanh nghiệp tiếp tục đầu tư phát triển. Nhà nước cũng cần có phương án xử lý nợ đối với các khoản nợ hiện nay của một số doanh nghiệp nhà nước như thông qua công ty mua bán nợ và tài sản, tránh tình trạng nhà nước phải xử lý giãn nợ, xóa nợ thuế…giúp cho các doanh nghiệp nhà nước được lành mạnh hóa tình hình tài chính. 2.6.2 Về đầu tư và đổi mới, hiện đại hóa công nghệ 93 Nhà nước cần tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong quyết định đầu tư trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển đã được phê duyệt; được quyết định các dự án đầu tư, sử dụng quỹ khấu hao để đầu tư, đổi mới tài sản cố định; sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp để liên doanh liên kết, góp vốn với các doanh nghiệp khác; thuê, mua một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp khác để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Doanh nghiệp nhà nước phải được hưởng các chế độ ưu đãi đầu tư, tái đầu tư theo quy định của pháp luật; xóa bỏ cơ chế xin – cho trong đầu tư và quan hệ tài chính giữa nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước. Ngay cả khi cần phải đầu tư mới hoặc cần hiện đại hóa, phát triển doanh nghiệp theo chương trình quốc gia, nhà nước cũng không theo phương thức cấp phát như trước mà chuyển sang hình thức quỹ đầu tư hoặc công ty đầu tư tài chính của nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước được áp dụng các chế độ ưu đãi với người có công đóng góp vào đổi mới công nghệ, mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp. Đối với các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, công nghệ, cơ chế quản lý, các biện pháp tăng năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu… thì tùy theo giá trị làm lợi mà doanh nghiệp nhà nước sẽ có quyền tự quyết định mức thưởng cho các cán bộ, nhân viên của mình để khuyến khích mọi người hăng hái tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nhà nước cũng có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới máy móc thiết bị nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, mở rộng thị trường hội nhập kinh tế khu vực và thế giới như là: khuyến khích đầu tư tài chính cho khoa học và công nghệ; được vay vốn từ ngân hàng, quỹ phát triển khoa học và công nghệ với mức lãi suất ổn định, hợp lý… 2.6.3 Về cơ chế sử dụng lao động, tiền lương 94 Doanh nghiệp nhà nước thực hiện chuyển chế độ biên chế sang hợp đồng; cơ chế tuyển chọn, đào tạo, sử dụng lao động theo quy định của pháp luật trên cơ sở của hợp đồng lao động và sự thỏa ước tập thể. Đối với lượng lao động dôi dư nhà nước cần có chế độ, chính sách giải quyết một cách dứt điểm thông qua trợ cấp mất việc, thôi việc hoặc là cho đi đào tạo lại. Về tiền lương áp dụng việc không chế lương tối thiểu nhưng không khống chế mức lương tối đa. Các doanh nghiệp nhà nước được tự chủ trong việc trả tiền lương, tiền thưởng trên cơ sở là tốc độ tăng tiền lương phải thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động và không bị gò bó bởi đơn giá lương, các thang, bảng lương. Nhà nước ban hành quy định làm cơ sở về pháp lý cho việc tính toán lương của doanh nghiệp trên cơ sở hiệu quả kinh doanh đồng vốn nhà nước đầu tư. Có như vậy thì tiền lương, tiền thưởng mới thực sự tạo động lực mạnh, gắn người lao động với kết quả sản xuất kinh doanh, để người lao động sáng tạo, mang hết sức của mình vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp; đồng thời góp phần thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao làm việc tại doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. 2.6.4 Về tổ chức bộ máy và nhân lực Mở rộng quyền tự chủ, đổi mới quản lý nội bộ doanh nghiệp theo mô hình Hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch doanh nghiệp, xác định rõ ràng trách nhiệm của giám đốc điều hành. Tăng trách nhiệm của mỗi cá nhân tương xứng với nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Đối với doanh nghiệp nhà nước có Hội đồng quản trị cần quy định rõ quyền hạn là cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp; Hội đồng quản trị phải là cơ quan quyền lực cao nhất, hoàn toàn chịu trách nhiệm trước người ra quyết định thành lập doanh nghiệp (chủ đầu tư nhà nước) và trước pháp luật về kết quả sản xuất kinh doanh cũng như những hoạt động khác của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh doanh nghiệp nhà nước để giải quyết các vấn đề liên 95 quan đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và quyền lợi của doanh nghiệp nhà nước trừ một số thẩm quyền của chủ sở hữu phân cho các cơ quan, tổ chức khác đại diện chủ sở hữu thực hiện. Nhà nước cần có quy định về chế độ tiền lương, thưởng cũng như các hình thức khen thưởng, kỷ luật cụ thể để khuyến khích, động viên và qui rõ trách nhiệm của các thành viên Hội đồng quản trị tương ứng với kết quả sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp nhà nước đó thu được. Hội đồng quản trị có quyền chỉ định hoặc thuê giám đốc theo hợp đồng, chủ động tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiễm hoặc ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng theo hướng chủ yếu là thi tuyển. Giám đốc doanh nghiệp có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp theo phân cấp của Hội đồng quản trị. Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần đồng thời nâng cao trách nhiệm của giám đốc doanh nghiệp nhà nước: có quyền chủ động tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức kinh doanh phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ nhà nước giao; đặt chi nhánh, văn phòng đại diện trong và ngoài nước. Chủ tịch Hội đồng quản trị không thể kiêm chức vụ giám đốc doanh nghiệp nhà nước vì như thế sẽ dẫn đến sự trùng lặp chức năng đại diện chủ sở hữu và chức năng quản lý kinh doanh tại doanh nghiệp. 2.7 Hình thành đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp giỏi. Trong hoạt đông sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp nhà nước cán bộ quản lý có vai trò vô cùng quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường và trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì vai trò của cán bộ quản lý, điều hành doanh nghiệp nhà nước lại càng quan trọng. Cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước phải vừa đảm bảo tổ chức quản lý doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả 96 cao, vừa phải trực tiếp thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước. Muốn vậy người cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước phải là người có kiến thức về quản lý, về kinh tế và chuyên môn kỹ thuật cao, có sức khỏe tốt, có năng lực lãnh đạo và quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh. Trong cơ chế mới hiện nay khi mà chủ sở hữu nhà nước đã dần về đúng với chức năng quản lý vĩ mô còn quyền sử dụng tài sản vốn liếng thuộc về doanh nghiệp thì giám đốc có toàn quyền tổ chức, điều hành doanh nghiệp trên cơ sở định hướng của nhà nước bằng pháp luật và chính sách kinh tế. Như đã trình bày ở trên, đó là quyền xây dựng và vận hành kế hoạch kinh doanh, là quyền tìm kiếm thị trường, khai thác vật tư và tiêu thụ sản phẩm, quyền lựa chọn công nghệ và dây chuyền sản xuất, quyền tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, quyền mở rộng quan hệ hợp tác và liên doanh, liên kết…Đồng thời giám đốc cũng là người chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu trong việc làm tăng giá trị tài sản, vốn liếng và các khoản đóng góp vào ngân sách nhà nước, chịu trách nhiệm về đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Với những chức năng này nếu giám đốc không có năng lực quản lý giỏi thì tính tự chủ của doanh nghiệp nhà nước chỉ là hình thức và dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tránh khỏi những khó khăn. Do vậy yêu cầu đặt ra là tập trung xây dựng đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi có đủ sức quản lý doanh nghiệp nhà nước tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong cơ chế thị trường: - Đẩy tới một bước việc đào tạo mới và đào tạo lại giám đốc doanh nghiệp nhà nước. Ở nước ta các trường đại học kinh tế đều đã tiến hành thành lập khoa quản trị kinh doanh hoặc không cũng đã đưa bộ môn quản trị kinh doanh vào chương trình. Song do nhu cầu của thực tiễn cũng như kinh nghiệm của một số quốc gia khác, cần có chủ trương, tiến hành thành lập trường đại học chuyên ngành để đào tạo nghề giám đốc. 97 - Song song với quá trình đào tạo mới, đào tạo lại, cần đẩy mạnh hình thức bồi dưỡng nhằm bổ sung kiến thức, hiện đại hóa bộ não của các giám đốc. Đây cũng là một trong những con đường đào tạo lại có kết quả đối với phần đông các giám đốc còn đang đương chức. Tuy nhiên cần phải tổ chức lại hệ thống trường lớp nhằm thống nhất sự quản lý của nhà nước về chương trình, về tài chính, phương thức tiến hành… - Đa dạng hóa loại hình đào tạo bồi dưỡng, gắn đào tạo lý thuyết với hoạt động thực tiễn. - Ngoài ra đội ngũ giám đốc doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay có thể còn được hình thành, nâng cao kiến thức từ: hình thức đào tạo từ xa qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các sách báo viế về quản trị doanh nghiệp; tổ chức các câu lạc bộ giám đốc, hội thảo khoa học nhằm trao đổi và học tập kinh nghiệm giữa các nhà doanh nghiệp… Như vậy, Chương III của khóa luận đã chỉ ra những phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc tách quyền chủ sở hữu và quyền quản trị doanh nghiệp trong doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. Các giải pháp được đưa ra nhằm tập trung vào giải quyết các vấn đề: 1. Tăng cường quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước đi đôi với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền sở hữu nhà nước, tăng hiệu quả đầu tư, chống lãng phí, thất thoát, xóa bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp nhà nước theo định hướng Nhà nước là chủ đầu tư bình đẳng với các chủ thể đầu tư khác. 3. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, đa dạng hóa hình thức sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước, xóa bỏ cơ chế hành chính chủ quản. 98 4. Xây dựng cơ chế công khai, minh bạch trong tổ chức hoạt động của chủ thể kết hợp với tăng cường năng lực của Nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát tổ chức hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. 5. Đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước để nâng cao tính chuyên nghiệp và nâng cao năng lực kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và đội ngũ quản lý. 99 KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu về mặt lý thuyết, thực tiễn việc tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước cũng như nghiên cứu đưa ra các phương hướng và giải pháp, em xin có một số những kết luận sau đây: 1. Doanh nghiệp nhà nước được hình thành và phát triển ở các quốc gia trên thế giới mà không chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa. Có 5 nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành của doanh nghiệp nhà nước: (1) Do nhu cầu khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh; (2) Thực hiện quốc hữu hóa toàn bộ các xí nghiệp tư bản nước ngoài sau khi giành được độc lập; (3) Thành lập các doanh nghiệp nhà nước để cung cấp các hàng hóa công cộng, tạo công ăn việc làm… ; (4) Thành lập các doanh nghiệp nhà nước như những đàu tàu dẫn dắt nền kinh tế ở những nước đang phát triển; (5) Thành lập các doanh nghiệp nhà nước để nắm giữ những ngành công nghiệp đặc biệt quan trọng. Ở nước ta hiện nay, do quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước để nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả hoạt động sản xuất của chúng mà số lượng các doanh nghiệp nhà nước giảm đi đáng kể. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. 2. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước cũng như những loại hình doanh nghiệp khác, phải thể hiện sự nhanh nhạy, năng động của mình để sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển, tiếp cận và không ngừng mở rộng thì trường, nâng cao năng suất lao động… Do đó, Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu không được can thiệp vào quá trình quản trị của doanh nghiệp, các doanh nghiệp có quyền quản trị, tự quyết định các kế hoạch sản xuất, tự chủ về tài chính, chế độ tiền lương…, có quyền quyết định các 100 phương án vay và sử dụng nguồn vốn miễn là chịu trách nhiệm trả nợ và hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay, bảo đảm và phát triển nguồn vốn của Nhà nước. Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến nay, Nhà nước ta đã từng bước có những cải cách trong cơ chế quản lý, các quy định của luật pháp để mở rộng quyền cho các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên để đảm bảo quyền sở hữu của Nhà nước, đồng thời nhằm đảm bảo trật tự Nhà nước mà việc thực hiện quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước luôn kèm theo cụm từ ‘theo quy định của pháp luật’, do vậy quyền tự chủ của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam là quyền tự chủ có điều kiện, trong khuôn khổ của pháp luật. 3. Quá trình thực hiện tách quyền chủ sở hữu và quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta có rất nhiều ưu điểm như mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước chủ động thực hiện các quyền kinh doanh của mình, tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, tham gia liên doanh liên kết…để phát triển. Đồng thời các cơ quan quản lý Nhà nước cũng xác định rõ nhiệm vụ của mình, không can thiệp sâu vào các hoạt động của doanh nghiệp, đóng vai trò như những nhà đầu tư khác: đầu tư và thu lợi…Tuy vậy vẫn còn tồn tại một số những vấn đề liên quan đến chế độ hành chính, chế độ nhân sự - đãi ngộ, quyền sở hữu và quyền tự chủ… Trong quá trình từng bước thực hiện việc tách quyền chủ sở hữu và quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước, xuất hiện mô hình chủ quản. Mặc dù chế độ chủ quản đã góp phần quản lý được toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo phân công của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp giải quyết các vấn đề lớn, có tính định hướng và cơ chế hoạt động cho các Tổng công ty 91 nhưng có rất nhiều những hạn chế về chế độ báo cáo; về thẩm quyền quyết định đầu; về báo cáo tình hình 101 của Tổng công ty… Từ đó đặt ra vấn đề cần xóa bỏ chế độ chủ quản, để nâng cao tính tự chủ, tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước. 4. Từ việc nghiên cứu lý thuyết và tình hình thực tiễn, khóa luận đã đưa ra một số phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc thực hiện tách quyền chủ sở hữu và quyền quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Các giải pháp mà khóa luận đề cập đến bao gồm: làm rõ và thực hiện tốt chức năng quản lý nền kinh tế của Nhà nước đối với các doanh nghiệp; tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước; tăng cường việc quản lý vốn của Nhà nước đối với nguồn vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp; xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; tăng cường hệ thống chế định của Nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước; xóa bỏ chế độ hành chính chủ quản và tăng cường quyền tự chủ về quản trị doanh nghiệp cho các doanh nghiệp nhà nước; hình thành đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp giỏi. 5. Để sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được thành công là phụ thuộc rất nhiều vào kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, cụ thể hơn nữa là phụ thuộc vào hiệu quả sử dụng vốn nhà nước hiện đang nằm ở trong các doanh nghiệp. Chính từ nguồn lợi nhuận và các khoản thuế thu được từ các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước sẽ dùng để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, tạo ra thêm nhiều công ăn việc làm mới, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính vì vậy mà vấn đề tạo ra được những động lực mới tác động tích cực đến doanh nghiệp nhà nước là vấn đề rất quan trọng, từng bước xóa bỏ chế độ chủ quản, để các doanh nghiệp nhà nước thực sự nắm quyền tự chủ. 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin. Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia 2. Bộ Luật Dân sự 2005. Nhà xuất bản Tư pháp 3. Luật doanh nghiệp 2005, Nhà xuất bản Thống kê 4. Luật đầu tư. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 6. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2006) Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 7. Hoàng Hà (2005), Quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam từ 1986 đến nay – Thực trạng và giải pháp, Đại học Kinh tế Quốc dân 8. Tiến sĩ Võ Đại Lược, Giáo sư, Tiến sĩ Cốc Nguyên Dương (1997), Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc – So sánh với Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 9. Nguyễn Văn Đặng (2006) Tổng công ty nhà nước hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Giao thông vận tải 10. Nguyễn Văn Đặng (2006) Xu hướng và giải pháp cạnh tranh, kiểm soát độc quyền trong công nghiệp, Nhà xuất bản Lao động 11. Nguyễn Đặng Tường Anh (2007), Tách quyền chủ sở hữu ra khỏi quyền quản trị doanh nghiệp – Mô hình quản trị mới trong doanh nghiệp nhà nước, Đại học Ngoại Thương 12. Đoàn Phúc Thanh (1996), Đảm bảo tính tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, Học viện Hành chính Quốc Gia Hồ Chí Minh 103 13. Dương Hoàng Oanh (2002), Cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc từ 1978 đến nay, Viện Kinh tế Thế giới 14. Phạm Minh Tuấn (2007), Quan hệ pháp lý giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Học viện Hành chính Quốc gia 15. Vũ Đình Bách (2001) Đổi mới tăng cường thành phần kinh tế nhà nước, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 16. Lê Đăng Doanh (1996), Cơ sở khoa học và thực tiễn của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, Đại học Kinh tế Quốc dân. 17. PGS. TS Ngô Quang Minh (2004), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước 18. Tập thể tác giả (1996) Cải cách doanh nghiệp nhà nước – Thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm thế giới, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 19. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2002) Cải cách doanh nghiệp nhà nước – tình hình ở Việt Nam và kinh nghiệm một số nước trên thế giới 20. Vũ Minh Trai (2000) Thực trạng và giải pháp sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước thuộc thành phố Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 21. Nguyễn Thị Thanh Hà (2001) Nâng cao hiệu quả cải cách doanh nghiệp nhà nước, Tạp chí Lý luận Chính trị số 12 22. Lee Kang Woo (2002), Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 1986 – 2000, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. 23. Malcolm Gillis, Dwight H.Perkins, Michael Roemer,… (1990), Kinh tế học của sự phát triển (Bản tiếng Việt), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương 24. Trương Văn Bân – chủ biên, Nguyễn Khang – người dịch (1996), Bàn về cải cách toàn diện doanh nghiệp nhà nước, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 104 25. Paul A.Samuelson, William D.Nordhaus (1989), Kinh tế học (Bản tiếng Việt), Viện kinh tế học 26. Nghị định số 50/HĐBT ngày 22/03/1988: 0001 27. Số 388/HĐBT – Quy chế thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước 0001 28. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946: 1n343tq83a3q3m3237nvn&cochu 29. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959: 1n343tq83a3q3m3237nvn&cochu 30. Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1980: 1n343tq83a3q3m3237nvn&cochu 31. Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992: 32. Luật doanh nghiệp nhà nước 1995: e=25 33. Luật doanh nghiệp nhà nước 2003: 0001 34. Quyết định 217/QĐ - HĐBT ngày 14/11/1987: e=25 105 35. Nghị định số 98 – HĐBT ngày 02/06/1988: 0001 36. Nghị định số 27 – HĐBT ngày 22/03/1989: 0001 37. Quyết định số 195 – HĐBT ngày 02/12/1989: e=51 38. Nghị định số 133/2005/NĐ-CP: 00003/lawdocument_view 39. Luật tổ chức Chính phủ: /lawdocument_view 40. Nghị định số 86/2002/NĐ-CP: 50001/lawdocument_view 41. Nghị định số 55/2003/NĐ-CP: 42. Nghị định 39/CP: 03_ND-CP.htm 43. Số 39/1995/NĐ-CP - Điều lệ mẫu về Tổ chức và hoạt động của Tổng công ty nhà nước: 0001 44. Lịch sử phát triển ngành Dầu khí Việt Nam 8 106 D%E1%BA%A7u_kh%C3%AD_Qu%E1%BB%91c_gia_Vi%E1%BB %87t_Nam 45. Xuân Hòa, Doanh nghiệp nhà nước cần thể hiện vai trò ổn định vĩ mô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4358_2863.pdf
Luận văn liên quan