Đề tài Một số giải pháp phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Việt Nam đang hội nhập ngày một sâu rộng vào kinh tếquốc tế, và thời điểm chính thức mởcửa thịtrường bán lẻ đang đến gần. Trước sức ép cạnh tranh mạnh mẽ đến từbên ngoài, và trước rất nhiều khó khăn, thách thức bên trong, việc xây dựng một hệthống phân phối hàng hoá bán lẻtheo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, quy mô lớn và có khảnăng cạnh tranh, đểtừ đó có một thịtrường bán lẻvững mạnh, tạo điều kiện cho sản xuất và tiêu dùng phát triển là một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay.

pdf99 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3060 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Gần đây đã có sự thay đổi đáng kể về giá cả hàng hoá giữa các loại hình phân phối hiện đại với chợ. Nếu vài năm trước đây người tiêu dùng ngại vào siêu thị/TTTM vì giá bán ở đây thường cao hơn ở chợ thì nay đã có khá nhiều mặt hàng có giá tương đương hoặc thấp hơn ở chợ. Tỷ trọng hàng hoá qua các loại hình bán lẻ hiện đại tăng dần, đáp ứng tốt hơn nhu cầu mua sắm của người dân, tác động tới sự tiến bộ của hệ thống phân phối hàng hoá, thúc đẩy hoạt động nhập khẩu và sản xuất trong nước phát triển bằng những đơn đặt hàng có yêu cầu cao về chất lượng, mẫu mã, xuất xứ…góp phần vào việc quảng bá thương hiệu, nâng cao uy tín của nhà sản xuất với người tiêu dùng. 66 3.4. Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Không chỉ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh ngày một mạnh mẽ từ các tập đoàn bán lẻ nước ngoài, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức vô cùng to lớn về chính sách và luật pháp, vốn, hậu cần, con người, tính chuyên nghiệp trong quản lý… 67 Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM 1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ TẠI VIỆT NAM. 1.1. Bối cảnh thế giới Hiện nay, trong từng nước cũng như trên phạm vi toàn cầu, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra với tốc độ nhanh. Ở các nước phát triển, nền kinh tế chuyển đổi từ cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp sang cơ cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP ở các nước phát triển tăng nhanh và chiếm khoảng 70 - 80%. Trong các nền kinh tế này, thương mại nội địa (dịch vụ phân phối – trong đó có dịch vụ bán lẻ) có tác động rất lớn và là một bộ phận rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Con đường của một sản phẩm từ sản xuất đến thị trường đi qua 3 công đoạn chính: xác định nhu cầu - tổ chức sản xuất và cuối cùng là tiến hành tiêu thụ. Thay vì như trước đây, các nước phát triển chỉ quan tâm đến sản xuất nay chuyển trọng tâm sang khai thác các phát minh, sáng chế, kiểu dáng, giải pháp hữu ích (gắn với đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hoá) và đưa sản phẩm đó vào một hệ thống phân phối mạnh cùng với việc triển khai các chiến dịch tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mại… Theo đó, sản phẩm sẽ được tiêu thụ với giá cao hơn nhiều so với giá thành sản xuất. Vì vậy, hệ thống phân phối ngày càng trở nên quan trọng, có ý nghĩa quyết định và được các nước phát triển đặc biệt quan tâm. Xu thế toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng mà bản chất của nó là sự mở rộng thị trường theo các định chế song phương, khu vực và toàn cầu. Thông qua các cam kết về mở cửa thị trường mà sự phát triển của các tập đoàn xuyên 68 quốc gia và đa quốc gia trong lĩnh vực phân phối ngày càng lớn mạnh. Sự hình thành nên các hãng phân phối lớn xuyên quốc gia và đa quốc gia có mạng lưới phủ khắp toàn cầu đã trở thành một thế lực mạnh, áp đặt cuộc chơi cho các nhà sản xuất. Nếu Việt Nam không sớm củng cố, phát triển hệ thống phân phối nội địa tốt trước khi mở cửa thị trường thì Việt Nam chỉ có thể hưởng lợi trong việc thu hút nguồn vốn FDI do quá trình phân công lại cơ cấu sản xuất, còn việc bị các tập đoàn phân phối nước ngoài thao túng thị trường nội địa là nguy cơ không còn quá xa và khó tránh khỏi. Thống trị trong phân phối dẫn đến sẽ thống trị trong sản xuất. Quá trình tăng trưởng kinh tế sẽ khó cao do giá trị tăng trong công đoạn sản xuất ngày một thấp đi. Trên thế giới, xu hướng phát triển chung của hệ thống phân phối diễn ra từ những năm giữa thập kỷ 90 đến nay là: Tập trung hoá hệ thống phân phối ngày càng cao. Trong bán lẻ, xuất hiện sự thay thế các cửa hàng quy mô nhỏ, độc lập bằng những hệ thống siêu thị, TTTM, trung tâm mua sắm… Quy mô trung bình của các loại hình này (diện tích, doanh số, lao động…) tăng lên đồng thời mật độ của chúng giảm xuống; ngày càng xuất hiện nhiều siêu thị, đại siêu thị và TTTM có quy mô cực lớn, kinh doanh theo chuỗi. Sự xuất hiện các doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối làm cho mối quan hệ giữa sản xuất, bán buôn và bán lẻ ngày càng chặt chẽ và mật thiết, tạo ra một hệ thống phân phối hàng hoá chuyên nghiệp, liên hoàn ngày càng hiệu quả. Phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp phân phối lớn đã liên kết các cửa hàng có quy mô nhỏ trong cùng một hệ thống, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn do chất lượng dịch vụ tốt hơn. Sự xuất hiện và phát triển với tốc độ nhanh các phương thức mua bán trực tuyến như bán hàng qua mạng, qua bưu điện… cũng tác động đến các doanh nghiệp bán buôn, bán lẻ với lối mua bán truyền thống. Thương mại điện tử là một xu hướng giao dịch mua bán mới, hiện đại, xuất hiện trong thời 69 đại “số hoá” giúp cho khách hàng giao dịch rất nhanh, nhà kinh doanh giảm chi phí mở cửa hàng trong khi vẫn tăng được doanh số lượng khách hàng (kể cả khách hàng ngoài biên giới quốc gia) với tần suất giao dịch gần như là không giới hạn trong một khoảng thời gian cực ngắn. Xu hướng phát triển các phương thức quản lý mới (xây dựng thương hiệu, tự động hoá quy trình công nghệ kinh doanh…), các phương thức kinh doanh mới (thương mại điện tử, liên kết “chuỗi” phân phối nhượng quyền thương mại…), các loại hình tổ chức kinh doanh mới (đại siêu thị, chuỗi siêu thị, sàn giao dịch, kho hàng bán buôn, cửa hàng tiện lợi…) đang ngày càng nhanh và thay thế ngày càng mạnh cho phương thức quản lý, phương thức giao dịch và loại hình tổ chức kinh doanh truyền thống. Việt Nam cần phải phát triển một cấu trúc đồng bộ và hiện đại như thế cho phân ngành dịch vụ phân phối, tương thích với xu thế chung, nếu không muốn sa vào nguy cơ tụt hậu, thậm chí bị “bỏ rơi” trong lĩnh vực này. 1.2. Bối cảnh trong nước 1.2.1. Lộ trình hội nhập trong lĩnh vực dịch vụ bán lẻ hàng hoá ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Phạm vi cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối trong hiệp định Thương mại Việt Mỹ23: Hiệp định đã quy định cụ thể một số quyền kinh doanh có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ bán lẻ như sau: Cho phép các công ty Hoa Kỳ thành lập liên doanh bán lẻ tại Việt Nam với vốn góp không quá 49%; Đến tháng 12/2007 cho phép các công ty liên doanh Hoa Kỳ có thể thành lập liên doanh bán lẻ tại Việt Nam với vốn góp trên 49% nhưng dưới 100%; Đến tháng 12 năm 2008, các công ty Hoa Kỳ có thể thành lập công ty thương mại 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên việc mở thêm điểm bán lẻ ngoài điểm bán lẻ đầu tiên sẽ được xem xét cấp phép cho từng 23 Hiệp định thương mại song phương Việt Mỹ - ( 70 trường hợp; Dịch vụ nhượng quyền thương mại được thực hiện theo tiến trình xây dựng pháp luật và quy định. Phạm vi cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối trong Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam-Nhật Bản: Đây là hiệp định có mức bảo hộ cao nhất, đã cam kết cao hơn trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ. Theo hiệp định này thì các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ được thành lập các liên doanh với vốn góp không quá 49%, trên 49% và doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản vào thời điểm Việt Nam cho phép bất kỳ nhà đầu tư của nước thứ ba nào có hiệu lực, tuỳ thời điểm nào diễn ra trước. Đối với AFTA, nguyên tắc chung là các nước cùng đặt ra một thời hạn nhất định đối với lộ trình cụ thể về mở cửa thị trường thông qua cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, buộc các thành viên phải cùng thực hiện. Trong những năm tới, Việt Nam sẽ tham gia đàm phán trong khuôn khổ đàm phán của khu vực mậu dịch tự do ASEAN với các đối tác ASEAN cộng (bao gồm các nước ASEAN và Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc). Đối với APEC, ASEM, nguyên tắc chung của hợp tác là các bên cùng đặt ra thời hạn mục tiêu mà không có lộ trình bắt buộc cụ thể, các nước tự nguyện, linh hoạt xây dựng lộ trình và thực hiện. Đối với WTO, ta phải thừa nhận 5 nguyên tắc cơ bản của WTO là: Thương mại không có sự phân biệt đối xử; đảm bảo tính ổn định và minh bạch cho hoạt động thương mại; thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán; tạo môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng và dành những điều kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển. Các nguyên tắc và luật lệ của WTO đều mang tính ràng buộc cao mà các nước thành viên có trách nhiệm tuân thủ nghiêm chỉnh. 71 1.2.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế tới hệ thống phân phối bán lẻ ở Việt Nam. Từ xu hướng phát triển bán lẻ trên thế giới và thực trạng thị trường bán lẻ tại Việt Nam, ta có thể nhận định rằng: quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động rất sâu sắc đến hệ thống phân phối nói chung và hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam nói riêng. Những tác động đó là: 1.2.2.1. Sự gia tăng đáng kể của các chủ thể sản xuất và kinh doanh vào hệ thống phân phối hàng hoá. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh. Nhờ chủ trương trên và nhờ việc thực hiện các Luật doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Hợp tác xã…đã tạo một bước thay đổi rất lớn trong cải cách thể chế kinh tế, dẫn đến sự ra đời của nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, cùng với hàng triệu hộ buôn bán nhỏ tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá ở thị trường nội địa. Với mục tiêu tăng trưởng bình quân GDP thời kỳ 2001-2010 là 7-7,5%/năm thì quy mô về Tổng mức LCHHBL trong nước vào năm 2010 sẽ ở mức 600-650 nghìn tỷ đồng. Như thế, sẽ có sự gia tăng lớn các chủ thể kinh tế vào hệ thống phân phối hàng hoá Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 1.2.2.2.Rào cản gia nhập và rút lui khỏi hệ thống phân phối sẽ giảm dần. Trong xu thế tự do hoá thương mại của thế giới, nước ta đã thực hiện quá trình tự do hoá thương mại ngay từ khi bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới với việc cho phép tất cả các doanh nghiệp trong nước (không phân biệt sản xuất hay thương mại) được phép kinh doanh bán lẻ trên thị trường nội địa. Những năm tới, với chủ trương Nhà nước khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh những mặt hàng, ngành nghề 72 và lĩnh vực mà Nhà nước không cấm và thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập sẽ làm cho quá trình tự do hoá thương mại của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc hơn. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được thành lập hệ thống phân phối bán lẻ tại thị trường Việt Nam theo các lộ trình đã cam kết. Việc tiếp tục thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng hơn. Các giấy phép con trong việc đăng ký kinh doanh sẽ tiếp tục được loại bỏ nếu xét thấy không cần thiết và từng bước dỡ bỏ các hạn chế về tiếp cận các loại dịch vụ công (quyền thuê đại lý, nhà tư vấn và phân phối, nghiên cứu thị trường…). Tất cả những động thái và thực hiện lộ trình, cam kết trên sẽ làm cho rào cản gia nhập và rút lui khỏi hệ thống phân phối hàng hoá giảm dần, cạnh tranh sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. 1.2.2.3.Ngày càng có sự tham gia của các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia vào hệ thống phân phối hàng hoá Việt Nam. Các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia đang trở thành một lực lượng quan trọng trong đời sống kinh tế thế giới. Những năm tới, với việc sát nhập và hợp nhất cùng với việc đầu tư và mở rộng thị trường thì khả năng chiếm lĩnh, khống chế và kiểm soát việc tiêu thụ sản phẩm ngày càng tăng. Đồng thời, các tập đoàn kinh doanh bán lẻ như Walmart (Hoa Kỳ), Carrefour (Pháp), Metro (Đức), Tesco (Anh)…cũng đang mở rộng thị trường và thâm nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường bán lẻ hàng hoá của các nước đang phát triển, và Việt Nam không phải là ngoại lệ. 1.2.2.4. Hệ thống phân phối ngày càng lớn mạnh và liên thông Cùng với quá trình bành trướng và thâm nhập của các công ty đa quốc gia và công ty xuyên quốc gia vào hệ thống phân phối hàng hoá của Việt Nam, việc xây dựng và phát triển các tập đoàn phân phối mạnh của Việt Nam cũng đang được chính phủ quan tâm và chỉ đạo thực hiện. Hiện tại đã có một số tổng công ty và công ty vừa tổ chức sản xuất vừa tham gia hoạt động trong lĩnh vực phân phối (kể cả bán buôn, bán lẻ và xuất khẩu) như Tổng công ty Xi 73 măng, Tổng công ty Thép, Công ty sữa Vinamilk…Trong tương lai, các tổng công ty và công ty sẽ ngày càng phát triển. Đồng thời, quá trình tích tụ và tập trung trong kinh doanh thương mại đang ngày càng tăng cũng làm xuất hiện các trung gian thương mại có quy mô lớn và hệ thống phân phối ngày càng lớn mạnh như Tổng công ty Thương mại Sài Gòn, Co-op mart…Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dưới áp lực của cạnh tranh ở cả thị trường trong nước lẫn thị trường thế giới, các nhà bán lẻ nhỏ sẽ rất khó tồn tại do không đủ sức để cạnh tranh, có thể phải sát nhập hoặc bán lại cho các công ty lớn, vì thế, các nhà kinh doanh phải thực hiện việc tích tụ và tập trung cũng như liên doanh liên kết để tăng sức cạnh tranh và giảm chi phí…, điều đó sẽ khiến hệ thống phân phối ngày càng lớn mạnh và liên thông hơn. 1.2.2.5. Hệ thống phân phối trực tiếp ngày càng phát triển Trong những năm gần đây, phương thức giao dịch có sử dụng các phương tiện điện tử đã trở nên phổ biến và thương mại điện tử đã tiếp tục phát triển nhanh khiến cho thương mại truyền thống bị thay đổi. Ngoài việc đơn giản hoá các phương thức giao dịch thương mại, tính công khai và minh bạch của các phương thức giao dịch này cũng sẽ tăng lên làm cho vai trò cần thiết của những trung gian thương mại truyền thống bị giảm bớt. Người bán hàng hoá và người mua có thể liên hệ trực tuyến với nhau trong việc lựa chọn, đặt hàng, thanh toán và giao nhận hàng hoá. Các doanh nghiệp có thể sử dụng lợi thế của việc khai thác dữ liệu tiên tiến từ các giao dịch trực tuyến để thực hiện việc tiếp thị một cách có chủ đích và tích cực hơn, kể cả đối với một số lượng khách hàng lớn ở các địa điểm khác nhau. Từ một địa điểm bán hàng duy nhất hoặc là từ nơi sản xuất có thể bán hàng hoá đi khắp thế giới. Chính vì vậy, hệ thống phân phối trực tiếp sẽ ngày càng phát triển. 74 1.2.2.6. Sự liên kết giữa hệ thống phân phối trong nước với nước ngoài ngày càng phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngay càng sâu rộng sẽ dẫn tới việc gia tăng đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được quyền kinh doanh thương mại trên thị trường nội địa theo lộ trình mở cửa thị trường đã cam kết, dẫn đến các hệ thống phân phối phải cạnh tranh với nhau gay gắt để chiếm lĩnh thị trường, các hệ thống phân phối trong nước và nước ngoài phải liên kết với nhau để hình thành hệ thống phân phối mạnh hơn. 1.2.2.7. Tổ chức và quản lý hệ thống phân phối hàng hoá sẽ phát triển theo hướng văn minh, hiện đại hơn. Những năm qua, hệ thống phân phối hàng hoá của Việt Nam còn phát triển theo kiểu tự phát, các kênh phân phối chủ yếu là các kênh đơn, mua bán theo kiểu truyền thống cổ điển hoặc theo thương vụ. Đó là một mạng lưới rời rạc, kết nối một cách lỏng lẻo, các nhà sản xuất, bán buôn, bán lẻ hoạt động độc lập. Các thông tin về giá cả, chất lượng, tình trạng hàng hoá và khách hàng đều là điều bí mật. Tuy nhiên, khi hệ thống phân phối phát triển theo hướng văn minh hơn, thì việc tổ chức và quản lý nhà nước đối với hệ thống phân phối ngày càng phải hoàn thiện. 1.2.2.8. Sự hình thành của hệ thống phân phối còn mang dấu ấn của một nền thương nghiệp nhỏ. Đó là sự tồn tại của không ít doanh nghiệp và thương nhân với lối làm ăn “chụp giật”, không thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong hợp đồng mua bán, phương thức kinh doanh lạc hậu và văn minh thương mại thấp kém. Đồng thời, chỉ một số mặt hàng và ở các đô thị, thành phố lớn, hệ thống phân phối mới có thể vươn tới người tiêu dùng cuối cùng, còn ở nông thôn và đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu và vùng xa thì hệ thống phân phối vẫn chậm phát triển. 75 1.2.3. Cơ hội và thách thức Trước những tác động mạnh mẽ của hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường bán lẻ Việt Nam có nhiều cơ hội lớn, song đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. 1.2.3.1. Cơ hội Thể chế thị trường định hướng XHCN từng bước được hoàn chỉnh và do đó ngày càng phát huy khả năng tự điều chỉnh của thị trường kết hợp với sự điều tiết vĩ mô hợp lý của Nhà nước (từ trực tiếp sang gián tiếp, thông qua các công cụ tài chính, ngân hàng, đầu tư, mua sắm của chính phủ, dự trữ quốc gia…), làm cho thị trường trở thành tín hiệu tin cậy, có tác dụng định hướng và quyết định sự phát triển của sản xuất và tiêu dùng. Kinh tế phát triển, thu nhập của người dân từng bước được cải thiện và nâng cao là cơ sở kinh tế để phát triển thương mại nội địa cùng hệ thống phân phối bán lẻ. Tỷ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam thuộc loại cao so với các nước trong khu vực (trên 70%) trong khi của Singapre là 55.9%, Malaysia là 58,2% và Thái Lan là 67,7%... Trong giai đoạn 2001 - 2005, tốc độ tiêu dùng tăng cao hơn nhiều lần so với tốc độ tăng dân số (7,7% so với 1,4%) chứng tỏ tiêu dùng bình quân đầu người và mức sống của dân cư đã tăng đáng kể. Theo kết quả điều tra của công ty Nghiên cứu nhân lực và Kiểm định kinh tế (Pricewaterhouse Cooper) thì Việt Nam là 1 trong 7 quốc gia hấp dẫn nhất về đầu tư thương mại24. Đó là lý do dù Việt Nam chưa mở cửa thị trường bán lẻ nhưng nhiều tập đoàn đang xây dựng kế hoạch để thâm nhập khi thời cơ đến. Trong số đó phải kể đến 3 tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới là Wal- Mart (Mỹ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh) và các tập đoàn bán lẻ hàng đầu châu Á như Dairy Farm (Hongkong), South Asia Investment Pte (Singapore)… 24 Cục xúc tiến thương mại, Ngành bán lẻ nội địa: cần chính sách hơn vốn, 76 Xu hướng tiêu dùng chuyển dịch từ yêu cầu “ăn no, mặc ấm” sang yêu cầu “ăn ngon, mặc đẹp” làm cho chất lượng “cầu” được nâng lên. Nếu như những năm trước đây, các mặt hàng điều hoà, xe máy, xe hơi, tủ lạnh, máy giặt, các bộ phận nghe nhìn… được xem là đồ dùng cao cấp, đắt tiền thậm chí có ý nghĩa “dự trữ tài sản”, thì nay đã được phổ cập ở thành thị và lan truyền sang khu vực nông thôn. Xu hướng mua sắm hàng giá trị cao, chạy theo các mode mới đang xuất hiện ở giới trẻ thành phố đã bắt đầu theo kịp xu hướng tiêu dùng của khu vực và thế giới. Cơ cấu dân số trẻ, năng động, có học vấn cao có thói quen thích mua sắm hàng hoá ở siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích là một lợi thế để phát triển hệ thống phân phối hiện đại. Hiện có 57% dân số có độ tuổi dưới 30 và sau 15 năm tỷ lệ này là 50%. Nhờ kết quả của công cuộc đổi mới và quá trình tự vươn lên của minh, một số doanh nghiệp Việt Nam bước đầu có chỗ đứng trên thị trường và đang đi tiếp con đường chuyên nghiệp hoá trong lĩnh vực phân phối như Sài Gòn Co.op, Intimex, tổng công ty thương mại Sài Gòn, công ty TNHH Phú Thái… Một số doanh nghiệp khác đang có kế hoạch mang tầm chiến lược về thiết lập, đổi mới và phát triển mạnh hệ thống phân phối hiện đại, như Tổng công ty thương mại Hà Nội, Công ty TNHH thương mại dịch vụ G7, công ty cổ phần Hoang Corp… Những doanh nghiệp này sẽ đóng vai trò thúc đẩy hệ thống phân phối bán lẻ phát triển theo hướng văn minh, hiện đại. Các nhà phân phối trong nước có ưu thế là nắm chắc các yếu tố văn hoá, tâm lý, thói quen của người tiêu dùng. Đồng thời, các doanh nghiệp nhà nước còn được hưởng lợi thế do lịch sử để lại (có mặt bằng kinh doanh ở những khu vực trung tâm đô thị hoặc ở các khu dân cư tập trung…). Khi chính thức trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ mở cửa thị trường đối với dịch vụ phân phối, cho phép các doanh nghiệp 77 nước ngoài hoạt động. Bên cạnh các “chuỗi” siêu thị bán buôn Metro Cash & Carry, siêu thị bán lẻ Big C, trung tâm mua sắm hàng hiệu Parkson, các hệ thống bán lẻ của Unilever, P&G… sẽ có thêm tên tuổi của nhiều nhà phân phối nước ngoài lớn khác. Với sự xuất hiện của mô hình phân phối tiến tiến hiện nay, khả năng tiếp cận với công nghệ mới, phương thức mới trong phân phối và quản lý phân phối, khả năng chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác với nhà phân phối hiện đại sẽ ngày một gia tăng. Đây là nhân tố góp phân làm thay đổi bộ mặt của hệ thống phân phối bán lẻ. 1.2.3.2. Thách thức Nhìn chung, với điểm xuất phát thấp và chưa có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh theo cơ chế thị trường, cũng như chưa có nhiều kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực phân phối nên các thách thức đối với hệ thống phân phối bán lẻ cũng rất lớn: Kết cấu hạ tầng thương mại yếu, thiếu đồng bộ; tính liên kết trong hệ thống và giữa doanh nghiệp với nhau còn kém; đại bộ phận doanh nghiệp thương mại nhỏ bé trong điều kiện nguồn vốn Nhà nước hạn hẹp. Khả năng tích tụ và tập trung các nguồn lực chưa đảm bảo đủ sức để cạnh tranh và hợp tác. Phương thức kinh doanh lạc hậu, thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ đội ngũ quản lý không bắt kịp yêu cầu phát triển thương mại theo xu hướng hiện đại và tiến trình hội nhập quốc tế. Thông tin thị trường mang tính hệ thống chậm được xác lập, chưa thông suốt, thiếu công khai và minh bạch, kém nhạy bén và ít có giá trị dự báo, tiên lượng… Sức ép hội nhập về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối ngày càng rõ rệt, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Sự hiện diện của các nhà phân phối chuyên nghiệp nước ngoài sẽ tạo ra áp lực 78 cạnh tranh rất lớn đối với các doanh nghiệp có quy mô kinh doanh nhỏ, nguồn lực yếu. 2. CÁC GIẢI PHÁP 2.1. Định hướng phát triển các loại hình phân phối bán lẻ. Theo định hướng tổ chức thương mại trong nước giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến 2020, thì thương mại trong nước sẽ đi theo hai hướng cơ bản25: Một là, tạo ra các không gian kinh tế, các không gian giao dịch mua bán hàng hoá và trên cơ sở đó tổ chức các loại hình thương mại phù hợp, gắn với các địa bàn thị trường. Hai là, tạo ra các mối liên kết kinh tế và tổ chức các loại hình thương mại theo các mối liên kết kinh tế giữa sản xuất – lưu thông – tiêu dùng và giữa các khâu, các công đoạn trong quá trình lưu thông. Từ hai định hướng trên, ta có thể đưa ra định hướng phát triển các loại hình phân phối bán lẻ ở thị trường nội địa như sau: - Phát triển nhanh hệ thống phân phối hiện đại gồm các TTTM, trung tâm mua sắm, siêu thị, các cửa hàng bán hàng tiến bộ (cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh…) thuộc nhiều loại hình doanh nghiệp phân phối với quy mô tương đối lớn. - Khuyến khích các doanh nghiệp phân phối phát triển hệ thống theo “chuỗi” (“chuỗi” siêu thị, “chuỗi” TTTM, “chuỗi” cửa hàng tiện lợi…). Từng bước liên kết, lôi kéo các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống, các hộ kinh doanh cá thể vào hệ thống “chuỗi” các cửa hàng tiện lợi, kết hợp hài hoà giữa các loại hình thương mại truyền thống với thương mại hiện đại. - Xây dựng hệ thống logistics gồm các trung tâm kho vận, kho bán buôn, các trung tâm phân phối với công nghệ và kỹ thuật hiện đại…đảm nhận các khâu và các công đoạn trong quá trình đưa hàng từ nhà cung ứng (nhà sản xuất, nhà nhập khẩu) đến nhà bán lẻ. 25 Bộ Thương mại, Định hướng phát triển thị trường nội địa giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn đến 2020. 79 - Cải tạo và xây dựng mới mạng lưới chợ, sắp xếp lại các chợ dân sinh trong mối tương quan với các loại hình phân phối hiện đại. Từng bước chuyển hoá các chợ dân sinh nhỏ thành các siêu thị, cửa hàng tiện lợi kết hợp với việc di chuyển ra ngoại thành để hình thành các chợ đầu mối bán buôn. - Phát triển mô hình tổ chức giao dịch, mua bán qua mạng (siêu thị “ảo”, chợ “ảo”) trước hết là tại các đô thị lớn trong các trung tâm thương mại, trong các tổng công ty và tập đoàn phân phối lớn; tiếp cận từng bước để dần hình thành một loại hình mua bán hàng hoá dựa trên cơ sở của thương mại điện tử hoạt động theo mô hình như Amazon.com hay eBay.com trong tương lai. - Hình thành và phát triển các nhà phân phối chuyên kinh doanh bán lẻ tổng hợp thông qua mô hình TTTM, siêu thị, chuỗi cửa hàng… (như liên hiệp Hợp tác xã Thành phố Hồ Chí Minh với hệ thống siêu thị Co.op Mart và hệ thống cửa hàng tiện lợi, công ty TNHH Thương mại – dịch vụ An Phong với hệ thống siêu thị MAXIMARK, Công ty TNHH thương mại dịch vụ Đông Hưng với hệ thống siêu thị CITIMARK, chuỗi cửa hàng tiện lợi của 24-seven Việt Nam Holding…); liên kết với các đơn vị sản xuất hàng tiêu dùng, công ty kinh doanh xuất nhập khẩu (thực phẩm chế biến, hàng công nghiệp tiêu dùng), các gia trại, trang trại, các Hợp tác xã, các chợ đầu mối (hàng thực phẩm tươi sống, rau - củ - quả) thông qua hợp đồng mua bán và đơn đặt hàng lâu dài để tạo nguồn hàng ổn định, có khối lượng lớn, trung chuyển về các trung tâm phân phối, các kho hàng bán buôn của mình và từ đó, cung cấp thường xuyên cho các đơn vị bán lẻ trong hệ thống. 2.2. Các giải pháp 2.2.1. Các giải pháp vĩ mô 2.2.1.1.Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng dành cho phân phối. Bên cạnh việc khuyến khích đầu tư để phát triển sản xuất thì việc đầu tư cơ sở hạ tầng để phục vụ lưu thông, phân phối hàng hoá là rất quan trọng. Khi xây dựng mới hay điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế, thương mại, 80 cần đặc biệt chú ý đến việc quy hoạch, dành quỹ đất cho việc xây dựng các cơ sở phân phối hàng hoá hiện đại. Hay cụ thể hơn, cần một bản đồ quy hoạch chi tiết cho hệ thống phân phối nói chung, và cho hệ thống phân phối bán lẻ nói riêng. Nhà nước cũng cần hỗ trợ đầu tư bằng vốn ngân sách cho công trình hạ tầng thương mại quan trọng, sau đó tiến hành đấu thầu để các doanh nghiệp khai thác phát triển hệ thống phân phối hàng hoá. Đồng thời cần có chính sách thoả đáng để các doanh nghiệp và nhân dân cùng tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển hệ thống phân phối. Cần xây dựng và áp dụng quy trình thực hiện các chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thương mại theo các Quyết định 311 về tổ chức thị trường trong nước và Nghị định 02 về phát triển và quản lý chợ26 của Thủ tướng Chính phủ để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của các chính sách này trong thực tiễn, trong đó cần xác định rõ các trình tự thủ tục, các cơ quan, tổ chức cụ thể ở từng ngành, từng cấp chịu trách nhiệm thi hành chính sách; phổ biến rộng rãi và công khai để các doanh nghiệp và cá nhân có cơ hội bình đẳng tham gia vào phát triển các hệ thống kết cấu thương mại trên từng địa bàn. Kết cấu hạ tầng thương mại cần được xây dựng theo quy hoạch, gồm: - Hệ thống các loại hình chợ (chợ nông thôn, chợ thành thị, chợ biên giới, chợ cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu, chợ đầu mối tổng hợp hoặc chợ chuyên doanh phát luồng bán buôn, sàn giao dịch, trung tâm đấu giá). - Hệ thống các TTTM, trung tâm mua sắm, siêu thị, cửa hàng tiện lợi…Với mỗi loại hình, từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng văn minh và hiện đại, liên kết thành các hệ thống, các chuỗi phân phối, lập ra và quản lý các trung tâm logistics nội bộ, ứng dụng phương thức nhượng quyền thương mại… 26 Bộ Thương mại (2004), Các văn bản về phát triển và quản lý chợ, Hà Nội. 81 - Hệ thống các kho hàng , trung tâm logistics. Các trung tâm này hoạt động độc lập, là các nhà phân phối trung gian chuyên nghiệp, thực hiện đồng bộ và khép kín tất cả các công đoạn hậu cần (thu mua, phân loại, sơ chế, bảo quản, ghi nhãn, vận chuyển....) trong quá trình đưa hàng từ nhà cung ứng (nhà sản xuất, nhà nhập khẩu) đến nhà bán lẻ. - Hệ thống các trung tâm hội chợ - triển lãm hàng hoá, khu thương mại dịch vụ tập trung. Các khu mua sắm – khu thương mại dịch vụ tập trung được hình thành trên cơ sở liên kết và hội tụ các TTTM lớn, các siêu thị, các trung tâm cung ứng dịch vụ cùng với các công trình văn hoá, thể thao, vui chơi giải trí, tạo ra một không gian rộng lớn phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của cư dân và khách du lịch. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần quan tâm đầu tư không chỉ hệ thống phân phối hàng hoá nói chung, hệ thống phân phối bán lẻ nói riêng, mà còn phải đầu tư để phát triển các dịch vụ hỗ trợ phát triển hệ thống phân phối như: hạ tầng cơ sở giao thông, hạ tầng cơ sở thông tin, thanh toán, kho bãi, vận chuyển… 2.2.1.2.Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại nói chung và hệ thống phân phối bán lẻ nói riêng. Hoàn chỉnh các thể chế quản lý nhà nước thông qua việc xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật qui định chi tiết và hướng dẫn thực hiện các luật có liên quan theo hướng đảm bảo tính đồng bộ và ổn định. Luật Thương mại là một trong những đạo luật cần được bổ sung, điều chỉnh trước hết sao cho phù hợp với các quy định của các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia (về hàng hoá cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện: về nhượng quyền thương mại; về giao dịch thương mại điện tử; về mua bán qua sàn giao dịch hàng hoá; về quyền kinh doanh và quyền phân phối thương nhân có vốn đầu tư nước ngoài…). 82 Bên cạnh đó cũng cần triển khai thực hiện các luật: Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Giao dịch điện tử và các Pháp lệnh…; xây dựng và sớm ban hành Luật chống bán phá giá và chống trợ cấp, Luật về thương hiệu…nhằm tạo ra môi trường thuận lợi và ổn định cho phát triển hệ thống phân phối bán lẻ. Đồng thời, các pháp lệnh hợp đồng kinh tế, quy chế đại lý mua bán hàng hoá cũng cần được điều chỉnh để tạo môi trường pháp lý cho các liên kết kinh tế bền vững. Một điểm cần chú ý là: trong điều kiện thị trường mang tính tự phát như hiện nay, các mô hình thương mại theo hướng hiện đại chưa nhiều, hình thức và quy mô của thị trường còn nhỏ nhưng lại quá nhiều cấp độ làm cho con đường lưu thông của hàng hoá bị chia nhỏ, cắt vụn. Vì vậy, khi hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách phải tạo ra các điều kiện thuận lợi để phát triển các mô hình thương mại hiện đại, các liên kết có quy mô lớn, dài và các mối liên kết vững chắc lâu dài. Đồng thời, cần hạn chế tính tự phát, tình trạng vi phạm và coi thường văn minh thương mại, mua bán theo kiểu “chụp giựt” đang diễn ra khá phổ biến hiện nay. Xây dựng một hệ thống thông tin thông suốt, nhanh nhạy để phản ánh kịp thời diễn biến tình hình của cung - cầu, giá cả trên thị trường trong và ngoài nước, tình hình hoạt động thương mại trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, trước hết tập trung vào các mặt hàng thuộc diện quan trọng hoặc đặc thù, từ đó dự báo sớm, phản ứng nhanh, điều tiết kịp thời, bảo đảm bình ổn thị trường. Xây dựng cơ chế quản lý kinh doanh và cơ chế điều tiết vĩ mô, nhất là đối với các mặt hàng thuộc diện quan trọng hoặc đặc thù, bằng cách sử dụng linh hoạt các công cụ kinh tế phù hợp với các định chế pháp lý quốc tế để can thiệp khi thị trường có dấu hiệu bất ổn bởi các tác động khách quan, như tăng (giảm) các loại thuế, xây dựng và sử dụng dự trữ quốc gia, tín dụng thương mại … trong từng trường hợp (tình trạng khẩn cấp, biện pháp tự vệ…). Xây 83 dựng và củng cố các cơ quan tham gia điều tiết vĩ mô thị trường nội địa theo hướng hiện đại hoá và chuyên nghiệp hoá. Thiết lập và củng cố hệ thống phân phối nòng cốt của doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng quan trọng hoặc đặc thù, trong đó chú trọng đến việc xây dựng các trung tâm phân phối, các kho hàng, tổ chức hệ thống phân phối trực thuộc doanh nghiệp hoặc làm đại lý cho doạnh nghiệp, xử lý hài hoà lợi ích các khâu, các bộ phận tham gia trong cả chuỗi phân phối… 2.2.1.3.Mở cửa thị trường cho dịch vụ phân phối theo các cam kết quốc tế. Việc mở cửa thị trường dịch vụ phân phối là tất yếu, song cần phải cân nhắc kỹ về cách thức, bước đi, thời điểm với những nội dung và chính sách thích hợp. Cần tham khảo kinh nghiệm của về mở cửa thị trường của các nước xung quanh như Thái Lan, Malaysia…Tại Thái Lan, 80% kênh phân phối hiện đại đã do các tập đoàn nước ngoài nắm giữ, nên chính phủ Thái Lan buộc phải điều tiết, hạn chế, chỉ cho các tập đoàn nước ngoài được mở từng siêu thị riêng lẻ, không cho phép hình thành chuỗi siêu thị để chi phối thị trường. Còn Malaysia hiện đang tạm ngưng cho phép nước ngoài đầu tư những đại siêu thị ở những bang và thành phố lớn mà hướng vào các bang kém phát triển và vùng nông thôn. Tiến hành mở cửa thị trường có lộ trình, một mặt tạo sức ép cạnh tranh, theo đó buộc các doanh nghiệp trong nước phải đẩy mạnh quá trình đổi mới hoạt kinh doanh, đẩy mạnh tăng trưởng, đẩy mạnh quá trình liên kết, đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung các nguồn lực và mặt khác; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi, tranh thủ thời gian và sử dụng các giải pháp hợp lý để khuyến khích và hỗ trợ cho qua trình vươn lên của các doanh nghiệp trong nước để các doanh nghiệp này có đủ tiềm lực và khả năng cạnh tranh trên thị trường. 84 2.2.1.4.Ban hành một số chính sách khuyến khích phát triển hệ thống phân phối bán lẻ. Trên cơ sở đổi mới tư duy chuyển từ chỗ coi thương mại (hoạt động phân phối) là môt ngành phi sản xuất và do đó các doanh nghiệp đầu tư vào thương mại không được ưu đãi như các doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất sang chỗ thấy được thương mại có một vai trò, vị trí hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, các doanh nghiệp đầu tư vào kết cấu hạ tầng thương mại phải được hưởng các ưu đãi theo chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước giống như đối với một số ngành sản xuất. Ngoài ra để thúc đẩy nhanh quá trình tập trung và tích tụ vốn cho doanh nghiệp, cần có một số ưu đãi có thời hạn, mang tính đặc thù cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán lẻ. Cụ thể: - Chính sách về đất đai: Do đặc thù của hoạt động thương mại và đặc biệt là với dịch vụ bán lẻ, đất đai và vị trí của đất đai là rất quan trọng. Các địa phương, nhất là các thành phố cần qui hoạch và bố trí đủ quỹ đất cho hạ tầng thương mại. Cùng một vị trí đất với giá bán, thuê như nhau, nếu nhiều doanh nghiệp cùng có nhu cầu, quan tâm ưu tiên giải quyết cho doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Cũng cần có ưu tiên đặc biệt cho các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trong nước. - Chính sách về tài chính - tín dụng: Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ phân phối bán lẻ có dự án xây dựng hạ tầng được quyền tiếp cận các nguồn vốn bình đẳng như những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khác. Đưa các công trình đầu tư để phát triển cơ sở vật chất ngành thương mại – dịch vụ vào danh mục các công trình được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước về đầu tư và được vay vốn với lãi suất ưu đãi. - Chính sách về thuế: Đối với thuế nhập khẩu các trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh (thang cuốn, hệ thống lạnh, quầy, kệ trưng bày 85 hàng máy tính tiền, xe nâng hàng…) được miễn thuế như nhà đầu tư nước ngoài cùng lĩnh vực hoặc như các doanh nghiệp sản xuất có dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư. Đối với thuế thu nhập, cần được áp dụng miễn giảm theo luật như các nhà đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp sản xuất có dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư. Đối với các doanh nghiệp phát triển theo “chuỗi”, kinh doanh qua mạng, cải tiến phương pháp quản trị hiện đại dựa trên ứng dụng các tiến bộ của Công nghệ thông tin… cần có thêm chính sách ưu tiên về thuế thu nhập để hỗ trợ họ tích tụ vốn phục vụ cho quá trình phát triển (như “giãn” nộp, miễn nộp có thời hạn nếu sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư phát triển hạ tầng thương mại). - Cho phép doanh nghiệp (nhất là các doanh nghiệp có phần vốn sở hữu nhà nước) được điều chuyển, hoán đổi, sang nhượng… các cơ sở (kho tàng, cửa hàng, bến bãi…) không phù hợp với điều kiện kinh doanh mới để khai thác tối đa nguồn lực hiện có cho qua trình hiện đại hoá hạ tầng, tích tụ và tập trung vốn. - Phát triển nguồn nhân lực: Sử dụng các nguồn vốn trong và ngoài nước để hỗ trợ cho công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp. Có chương trình hỗ trợ đổi mới đội ngũ giáo viên và giáo trình của một số trường đại học kinh tế, trường cao đẳng, dạy nghề kịp với xu hướng của khu vực và thế giới trong lĩnh vực phân phối để đáp ứng nhu cầu đổi mới chất lượng nguồn nhân lực về lâu dài. - Thông tin và tư vấn: Tổ chức hệ thống thông tin, cập nhật, phân tích và dự báo xu hướng phát triển của thị trường, nhu cầu tiêu dùng, thói quen mua sắm, cơ cấu hệ thống phân phối… để trao đổi, tư vấn, cung cấp thông tin định hướng cho doanh nghiệp. Ngoài ra, có thể thông qua các tổ chức và cá nhân nghiên cứu, dự báo thị trường để đặt hàng với nhà thương mại và nhà thương mại đặt hàng với nhà sản xuất. 86 - Cần có chính sách hỗ trợ các cửa hàng nhỏ, độc lập bằng cách cho hưởng ưu đãi (miễn thuế kinh doanh và thuế đất), tổ chức đào tạo, huấn luyện cho chủ cửa hàng và nhân viên cửa hàng về quản lý thu chi, trưng bày hàng, dịch vụ khách hàng…; đồng thời giúp đỡ , hướng dẫn họ dần nâng cấp thành các cửa hàng bán lẻ theo mô hình hiện đại, khuyến khích các cửa hàng này vào hoạt động kinh doanh theo chuỗi theo phương thức nhượng quyền kinh doanh. - Chọn một số nhà phân phối bán lẻ lớn, có tiềm năng và hỗ trợ về nhiều mặt để họ có thể trở thành những tập đoàn bán lẻ mạnh, đủ khả năng làm đối trọng với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. 2.2.1.5.Thành lập hiệp hội các nhà phân phối bán lẻ Thông qua hoạt động của hiệp hội để các hội viên chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi thông tin, tìm kiếm và tạo mối liên kết làm ăn lâu dài; nếu tạo được mối liên kết thì có thể cùng phát huy được lợi thế về quy mô, nâng cao sức mạnh đàm phán, sử dụng thương hiệu, cơ sở hạ tầng cho phân phối, áp dụng tiêu chuẩn...; đồng thời thông qua hiệp hội để kiến nghị và tham gia vào qua trình xây dựng chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước. 2.2.2. Các giải pháp cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán lẻ 2.2.2.1.Xác định rõ và trung thành với khách hàng mục tiêu. Lựa chọn được thị trường mục tiêu và khách hàng mục tiêu cho mình, các nhà phân phối bán lẻ phải xác định thật chính xác những tính chất, đặc điểm của khách hàng mục tiêu, qua đó có thể đưa ra những quyết định tương hợp với nhau về chủng loại hàng hoá, cách trang trí cửa hàng, nội dung quảng cáo và phương tiện quảng cáo, giá cả…Nhà phân phối bán lẻ phải xây dựng được cho mình một chiến lược tổng thể, lâu dài cho hoạt động kinh doanh, hướng tới thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng mục tiêu. 87 2.2.2.2.Xây dựng và phát triển thương hiệu bán lẻ Không giống như những dịch vụ hay sản phẩm khác, bản thân điểm bán lẻ chính là nơi quảng bá thương hiệu bán lẻ hiệu quả nhất. Việc đầu tư vào một hệ thống nhận diện thương hiệu bán lẻ (bao gồm logo, màu sắc, cách thức và vật liệu trang trí) là rất quan trọng, vì không chỉ đóng vai trò như quảng cáo ngoài trời mà còn gắn liền ngay với hình ảnh siêu thị/cửa hàng. Hình ảnh này cũng gắn liền với cách trưng bày hàng hóa bên trong, vốn là những công cụ quảng bá kinh điển của siêu thị/cửa hàng bán lẻ. Thương hiệu bán lẻ còn được tạo ra từ chính sách giá, chính sách sản phẩm, dịch vụ, chính sách xúc tiến, các dịch vụ, hệ thống chăm sóc khách hàng của doanh nghiệp bán lẻ. 2.2.2.3.Hoạch định và thực hiện nhất quán chính sách giá. Giá cả là yếu tố then chốt trong cạnh tranh bán lẻ. Để có thể bán hàng hoá với giá cạnh tranh, các nhà bán lẻ phải áp dụng nhiều biện pháp để giảm giá đầu vào: giảm số khâu trung gian khi mua hàng từ nhà cung ứng, liên kết chặt chẽ với nhà cung ứng, giảm chi phí lưu thông hàng hoá, mua hàng số lượng lớn, ký hợp đồng ổn định dài hạn, thanh toán nhanh, đúng hẹn, không chiếm dụng vốn lâu, đầu tư hoặc ứng vốn cho các nhà sản xuất…Ngoài ra, còn phải triệt để tiết kiệm, giảm hao hụt mất mát, tận dụng trang thiết bị và mặt bằng… 2.2.2.4.Mở rộng chủng loại hàng hoá, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hoá. Nhà bán lẻ phải cố gắng mở rộng chủng loại hàng hoá để có thể đáp ứng được mong đợi của khách hàng, bởi chủng loại hàng hoá là một trong những yếu tố then chốt trong cuộc cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ tương tự nhau. Để làm được điều này, nhà bán lẻ phải tìm được nguồn cung ứng hàng hoá đa dạng, tạo quan hệ tốt với các nhà phân phối lớn, các nhà bán buôn, tìm những mặt hàng độc đáo để thoả mãn yêu cầu của khách hàng. 88 Mặt khác, nhà bán lẻ có thể liên kết với nhà sản xuất để tạo ra những sản phẩm theo tiêu chuẩn và mang thương hiệu của nhà bán lẻ. Đây là một cách tạo nét độc đáo, cũng là một phương thức để xây dựng và quảng bá thương hiệu của nhà bán lẻ. Bên cạnh chủng loại hàng hoá, nhà bán lẻ còn phải quan tâm đến vấn đề chất lượng hàng hoá, vệ sinh an toàn thực phẩm. Cần xây dựng một quy trình kiểm soát chất lượng chặt chẽ theo các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế trên các mặt, từ khâu mua hàng, chế biến, dự trữ, bảo quản, trưng bày…để tạo sự tin tưởng nơi khách hàng. Khi chọn lựa các nhà cung cấp, nhà bán lẻ cũng cần đề ra tiêu chuẩn: ưu tiên hợp tác với các nhà cung cấp, nhà sản xuất đạt các tiêu chuẩn cao về hàng hoá, dịch vụ. 2.2.2.5.Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng dịch vụ, đẩy mạnh sử dụng các biện pháp kích thích. Nhà bán lẻ cần mở rộng số lượng và nâng cao chất lượng những dịch vụ mà mình sẽ cung cấp cho khách hàng, bởi ngoài giá cả thì số lượng và chất lượng dịch vụ là một trong những công cụ quyết định trong cạnh tranh. Cần tiến tới cung cấp cho khách hàng các dịch vụ đa dạng, ví dụ như: bán hàng qua điện thoại, giao hàng tận nhà, gói quà, tặng quà sinh nhật theo yêu cầu khách hàng, giữ xe miễn phí hoặc với giá ưu đãi, quầy dịch vụ khách hàng, thanh toán bằng các loại thẻ hiện đại: ATM, thẻ tín dụng quốc tế Visa, Master Card, liên kết với các ngân hàng lắp đặt hệ thống máy rút tiền tự động và cho vay để mua trả góp các sản phẩm giá trị cao… Để giành giật người tiêu dùng, các nhà bán lẻ cần đẩy mạnh sử dụng các biện pháp kích thích như: quảng cáo trên báo chí và truyền hình, gửi quảng cáo tới từng hộ gia đình, tổ chức các chương trình “khách hàng thân thiết”, phát hành các loại thẻ thành viên, thẻ ưu đãi, giảm giá, tổ chức các chương trình khuyến mại, giảm giá, quay số trúng thưởng…Ngoài ra, các biện pháp kích thích còn bao gồm: trình bày hấp dẫn, sắp xếp ở những vị trí dễ lấy, 89 dễ thấy, những hàng hoá có liên quan được sắp xếp gần nhau, hàng khuyến mại được trưng bày ở những nơi bắt mắt, hàng hoá bày với số lượng lớn để khách hàng cảm giác là hàng hoá đó đang được bán rất chạy… 2.2.2.6.Áp dụng công nghệ mới vào quản lý phân phối, lưu chuyển hàng hoá, thanh toán… Sử dụng công nghệ mới nói chung và công nghệ thông tin nói riêng, các nhà bán lẻ có thể tổng hợp các số liệu, dữ kiện để đưa ra những dự báo tốt hơn về thị trường, kiểm soát hàng tồn kho, kiểm soát chi phí, đặt hàng tự động từ các nhà sản xuất… Ngoài ra, các nhà bán lẻ cần phát triển hệ thống thanh toán bằng máy quét, theo dõi cửa hàng qua camera, trao đổi dữ liệu điện tử, cải thiện hệ thống xử lý hàng hoá…Việc thanh toán tiến tới hạn chế dùng tiền mặt mà dùng các phương tiện thanh toán hiện đại để giảm thời gian thanh toán, quản lý tốt hơn doanh thu… 2.2.2.7.Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên để đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh ngày càng cao. Các nhà bán lẻ vừa phải tuyển dụng, bồi dưỡng, đầu tư chi phí đào tạo hoặc cử ra nước ngoài đào tạo để có những cán bộ hiểu biết sâu sắc và có khả năng quản lý hoạt động phân phối bán lẻ hiện đại; vừa phải huấn luyện đội ngũ nhân viên lành nghề trong từng khâu: lưu thông, bán hàng, chăm sóc khách hàng, giải quyết khiếu nại… 2.2.2.8.Xây dựng và phát triển theo “chuỗi” Khi mở rộng hoạt động, các nhà bán lẻ không nên đi theo hướng mở các siêu thị hay cửa hàng đơn lẻ. Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường, để giành được niềm tin của khách hàng, đồng thời để hạn chế sự phân tán, manh mún về nguồn lực, vốn, công nghệ, cũng như khắc phục sự tự phát, thiếu thống nhất trong hoạt động kinh doanh, các siêu thị, cửa hàng bán lẻ cần được xây dựng, tổ chức và vận hành theo “chuỗi”, thành 90 một “hệ thống”. Tức là các siêu thị, cửa hàng bán lẻ cần phải được xây dựng, tổ chức, chỉ đạo, quản lý và hoạt động thống nhất tập trung theo một phương châm, một khái niệm (concept) thống nhất từ quan điểm kinh doanh, chiến lược hàng hoá và giá cả, dịch vụ khách hàng, cách thức thiết kế, trang trí bên trong và bên ngoài, cách thức sắp xếp và trưng bày hàng hoá, các hoạt động quảng cáo khuyến mãi… Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước cũng cần học tập hoặc áp dụng mô hình chung của thế giới với các điểm trọng yếu: đảm bảo tính chuyên môn hoá cho các thành viên trong chuỗi; truyền và xử lý thông tin trong chuỗi trên cơ sở hạ tầng thông tin hiện đại mà cơ bản là hệ thống xử lý thông tin POS; ứng dụng những kỹ thuật logistics hiện đại với sự hỗ trợ của hệ thống thông tin; mọi hoạt động trong chuỗi từ khai thác nguồn hàng, logistics, bán hàng cho đến các hoạt động xúc tiến phải được tiêu chuẩn hoá cao nhất. 2.2.2.9.Tạo mối liên kết với các nhà cung cấp và với các nhà bán lẻ khác - Xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài cùng có lợi với các nhà cung cấp. Nhờ vào hệ thống dữ liệu khách hàng được tổ chức và lưu trữ đầy đủ, các nhà bán lẻ có thể tạo điều kiện và cùng chia sẻ với các nhà sản xuất các thông tin về tình hình thị trường, sản phẩm, tâm lý tiêu dùng, thị hiếu và các phản ánh của khách hàng, trên cơ sở đó cùng xây dựng các chiến lược hợp tác phát triển và phân phối sản phẩm. Ngoài ra, nhà bán lẻ có thể tạo điều kiện cho các nhà cung cấp triển khai giới thiệu, quảng bá, bày bán và phân phối các sản phẩm của mình tới tay người tiêu dùng trong thời gian ngắn với chi phí hợp lý, có hiệu quả. - Liên kết với các nhà kinh doanh bán lẻ khác để nâng cao năng lực cạnh tranh. Các nhà bán lẻ có thể liên kết với nhau để tận dụng được nguồn vốn, mặt bằng, tạo vị thế mạnh với nhà cung cấp, cùng tiến hành quảng bá để tiết 91 kiệm chi phí, cùng tổ chức các chiến dịch bán lẻ lớn, các chiến dịch bán hàng giảm giá để thu hút khách hàng, đồng thời dễ dàng kiến nghị hoặc phản hồi về các chính sách, quy định, thủ tục… với cơ quan quản lý nhà nước. 92 KẾT LUẬN Việt Nam đang hội nhập ngày một sâu rộng vào kinh tế quốc tế, và thời điểm chính thức mở cửa thị trường bán lẻ đang đến gần. Trước sức ép cạnh tranh mạnh mẽ đến từ bên ngoài, và trước rất nhiều khó khăn, thách thức bên trong, việc xây dựng một hệ thống phân phối hàng hoá bán lẻ theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, quy mô lớn và có khả năng cạnh tranh, để từ đó có một thị trường bán lẻ vững mạnh, tạo điều kiện cho sản xuất và tiêu dùng phát triển là một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay. Với mục tiêu đưa ra một số giải pháp phát triển thị trường bán lẻ hàng hoá tiêu dùng tại Việt Nam, trong luận văn này, người viết tập trung vào một số nội dung cơ bản sau: Tổng hợp một số vấn đề lý luận về bán lẻ như: khái niệm chung về bán lẻ, các hình thức phân phối bán lẻ trên thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống phân phối bán lẻ, và các xu hướng phát triển của ngành bán lẻ trên thế giới. Trên cơ sở tham chiếu những vấn đề lý luận với thực tiễn phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam trong 10 năm qua, người viết đưa ra những dự báo về khuynh hướng phát triển của thị trường bán lẻ, và những cơ hội, thách thức đi liền với nó. Từ đó, hệ thống hoá và đề xuất những giải pháp mang tính khả thi cho sự phát triển của thị trường bán lẻ trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Do hạn chế về kiến thức, tài liệu, cũng như thời gian thực hiện và kinh nghiệm thực tế, khoá luận này chắc chắn không tránh khỏi có nhiều thiếu sót. Vì vậy, người viết rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các thày giáo, cô giáo và các bạn để khoá luận được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Thương mại (2005), Đánh giá thực trạng tổ chức phân phối hàng hoá ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội. 2. Bộ Thương mại (2004), Kỷ yếu hội thảo quốc tế chính sách phát triển các mô hình phân phối hàng hoá hiện đại, Hà Nội. 3. Bộ Thương mại - Dự án Việt Nam-Phần Lan (2004), Tập bài giảng Xây dựng và quản lý chợ, Hà Nội. 4. TS Lê Trịnh Minh Châu, PGS.TS Đinh Văn Thành, TS. Trương Đình Chiến, ThS. Vũ Bá Sơn (2004), Phát triển hệ thống phân phối hàng hoá ở VN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Lý luận chính trị - Bộ TM, Viện nghiên cứu Thương mại, Hà Nội. 5. Nguyễn Ngọc Hoà (2005), Kinh nghiệm phát triển hệ thống siêu thị và chuỗi siêu thị Coop Mart. 6. Intimex (2005), Chiến lược phát triển hệ thống siêu thị và trung tâm phân phối. 7. TS Nguyễn Thị Nhiễu, Hệ thống thương mại bán lẻ của Pháp, Cẩm nang siêu thị Việt Nam, Báo Thương mại. 8. James Scott, Tổng giám đốc công ty Metro Cash & Carry Việt Nam (2004), Kinh nghiệm của Metro Cash & Carry trong việc phát triển các loại hình phân phối bán buôn hiện đại, Hội thảo: “Chính sách phát triển các loại hình phân phối hiện đại”, Bộ Thương mại. 9. Zhang Shu Dong, Trưởng phòng cải cách doanh nghiệp, Bộ Thương mại Trung quốc, Chính sách quản lý Nhà nước và thực trạng phát triển hệ thống phân phối và lưu thông hàng hoá hiện đại của Trung Quốc, Bộ Thương mại - Vụ CSTTTN, Hà Nội. 10. Somchat Sroythong, Trưởng phòng xúc tiến và phát triển kinh doanh, Bộ Thương mại Thái Lan (2004), Những mô hình phân phối hàng hoá hiện đại ở Thái Lan, Bộ Thương mại - Vụ CSTTTN, Hà Nội. 11. Philip Kotler (2002), Marketing Essentials, NXB Thống kê, Hà Nội. 12. Philip Kotler and Kevin Lane Keller (2001), Marketing Management, Pearson Education Inc., US. 13. A Coskun Samli (1998), Strategic Marketing for Success in Retailing, NXB Quorum/Greenwood, US. 14. Richard L Sandhusen (2000), Marketing, Barron's Educational Series, UK. 15. Các trang web:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3490_2343.pdf
Luận văn liên quan