Bảo hiể m có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử xã hội loài người, nó
ra đời là do nhu cầu khách quan của chính bản thân con người. Đời sống của
con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về mức độ bảo đảm an toàn
và nhu cầu về bảo hiểm ngày càng lớn và phong phú. Bảo hiểm ngày càng trở
nên quan trọng, nó là động lực phát triển kinh tế xã hội và ổn định đời sống
của mỗi cá nhân.
Trong thời gian vừa qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển hết
sức nhanh chóng và trở thành một thị trường tiềm năng, hấp dẫn đối với các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với tiềm lực về vốn và kinh nghiệm kinh
doanh lâu năm. Với tiến trình mở của thị trường tài chính nói chung và thị
trường bảo hiểm nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối đầu với s ự
cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Mặc dù đã
có những bước phát triển vượt bậc, nhưng các doanh nghiệp bảo hiể m Việt
Nam vẫn còn một số hạn chế về năng lực tài chính, nguồn nhân lực, sản phẩ m
bảo hiểm, chất lượng cung ứng dịch vụ.
100 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2342 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghệ tiên tiến, chịu khó đầu tư vào việc quảng bá giới thiệu sản phẩm
mới và nâng cao chất lượng dịch vụ. Về sự đa dạng của các sản phẩm dịch vụ
bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh trong việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ bảo hiểm. Những đối thủ
nước ngoài đã có sẵn tiềm lực và đa dạng gói sản phẩm, họ có nhiều lợi thế
sẵn sàng cung cấp hàng loạt dịch vụ tài chính tổng hợp nhanh chóng và hiệu
quả. Hơn nữa, tình hình cạnh tranh trên thị trường còn thiếu lành mạnh, hệ
thốn luật pháp chưa hoàn chỉnh cũng là một thách thức không nhỏ. Cùng với
sự đa dạng hoá là việc tham gia thị trường của các công ty bảo hiểm ngày, đã
gây ra tình trạng chia cắt thị trường, đặc biệt khi điều kiện các quan hệ thị
trường của nền kinh tế Việt Nam chưa phát triển. Ngoài ra, các công ty kinh
doanh bảo hiểm còn chịu sức ép cạnh tranh từ các sản phẩm thay thế, như các
dịch vụ ngân hàng chứng khoán – các dịch vụ này ngày càng đa dạng và hấp
dẫn hơn so với nhiều sản phẩm bảo hiểm tương tự.
2.2. Môi trường đầu tư còn nhiều hạn chế
Hoạt động và môi trường đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam còn nhiều hạn chế. Một phần hoạt động quan trọng của các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam là tìm cách đầu tư là lợi nhất, phù hợp với khả
năng của mình trước hết là để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, đồng thời
thu lợi nhuận và phát triển. Thực tế, điều kiện và cơ hội lưu chuyển dòng vốn
đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay chưa hiệu quả,
phạm vi đầu tư còn hẹp, chưa đa dạng, cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam tại Việt Nam lại còn quá ít, bởi thị trường chứng khoán
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
73
và một số loại hình đầu tư tài chính khác ở nước ta chưa phát triển mạnh.
Hiện trạng chậm phát triển và tình hình ảm đạm trên thị trường chứng khoán
những năm gần đây cho thấy đây vẫn chưa thể là một kênh đầu tư vốn hấp
dẫn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. Thêm vào đó, số dự án kêu gọi góp
vốn cổ phần, góp vốn liên doanh đảm bảo mức độ tin tưởng và khả năng sinh
lời hợp lý không còn nhiều. Tình hình cũng tương tự đối với các dự án huy
động vốn vay để phát triển sản xuất, kinh doanh. Trong khi đó, về phía doanh
nghiệp bảo hiểm thì số lượng các sản phẩm đầu tư hoàn thiện, phù hợp với
đặc thù kinh doanh bảo hiêm vẫn chỉ tập trung chủ yếu vào gửi tiền ngân
hàng có kỳ hạn và mua trái phiếu Chính phủ – khiến cho hiệu quả đầu tư còn
hạn chế. Tỷ trọng các nguồn vốn đầu tư ngắn hạn còn ở mức cao, chiếm 70%
trên tổng nguồn vốn đầu tư.
2.3. Quy mô thị trường bảo hiểm còn nhỏ
Phạm vi và quy mô của các DNBH Việt Nam chưa tương xứng với
tiềm năng phát triển của nền kinh tế xã hội. Mức độ đáp ứng nhu cầu về bảo
hiểm cho nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Thị trường bảo hiểm trong nước thời
gian qua đã phát triển với tốc độ cao và rất đáng khích lệ. Nhưng so với khả
năng và tiềm năng của nền kinh tế thì hiện nó vẫn còn rất nhỏ bé. Có thể thấy
điều này qua bảng tỷ trọng khai thác các sản phẩm bảo hiểm dưới đây:
Bảng 11: Tỷ trọng khai thác một số sản phẩm bảo hiểm so với tiềm
năng năm 2004
Loại sản phẩm bảo
hiểm
Tỷ trọng khai thác so với tiềm năng
Nhân thọ 3,61% tổng tiết kiệm
Tai nạn con người 12% số lao động làm việc trong các ngành kinh tế
Tai nạn học sinh 45,86% tổng số học sinh
Tai nạn hành khách 41,15% số lượng hành khách
Vật chất thân xe 40,4% xe ôtô các loại và 10,53% số xe máy
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
74
Xây lắp 7,17% vốn đầu tư từ nguồn trong nước và 90,91%
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Dầu khí 41,27% tổng giá trị đầu tư cho ngành dầu khí
Hàng xuất 6,55% kim ngạch xuất khẩu
Hàng nhập 30,76% kim ngạch nhập khẩu
Nông nghiệp 1% cây trồng, vật nuôi
(Nguồn: Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003
đến năm 2010, Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg).
Thực tế trong thời gian qua, mặc dù thị trường bảo hiểm đạt tốc độ tăng
trưởng 29%/năm trong 10 năm qua nhưng doanh thu phí bảo hiểm mỗi năm
chỉ đạt gần 1,7%, trong khi ở các nước phát triển thường ở mức 14% và các
nước trong khu vực thì đã đạt 5-6%.
Ngoài ra, các DNBH Việt Nam hiện chưa đủ mạnh để đáp ứng được
đòi hỏi của phát triển kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh, an toàn cho doanh
nghiệp, các tổ chức, dân cư trong giai đoạn hiện nay trên nhiều lĩnh vực.
Phạm vi hoạt động của các DNBH Việt Nam mới diễn ra chủ yếu ở trong
nước, công nghệ quản lý, kinh nghiệm quản lý và năng lực cạnh tranh trong
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ còn yếu và thiếu. Hoạt động nghiên cứu thị
trường và sử dụng các công cụ Marketing chưa đáp ứng được những đòi hỏi
của hoạt động phải có trình độ kỹ năng cao và có tính chuyên nghiệp. Một số
lĩnh vực mới triển khai còn thiếu nhiều kinh nghiệm như đầu tư, bảo hiểm
nhân thọ, bảo hiểm y tế, bảo hiểm cho các nhu cầu, hạng mục đặc biệt. Hệ
thống Marketing quốc tế chưa phát triển, hệ thống mạng lưới nội địa chưa
được củng cố vững chắc, cơ sở khách hàng chưa ổn định. Hệ thống thông tin,
tin học chưa đồng bộ, thông tin về các sản phẩm bảo hiểm rất khó đến được
với khách hàng; phương pháp đánh giá chất lượng dịch vụ bảo hiểm cũng là
vấn đề đặt ra cần giải quyết thì mới có khả năng đứng vững được trên thương
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
75
trường. Hệ thống quản lý còn cồng kềnh, kém hiệu lực, tính linh hoạt không
cao, nhiều đầu mới, khó tinh giản. Công nghệ quản lý kinh doanh chưa được
hiện đại hoá, nhiều doanh nghiệp vẫn còn áp dụng các phương pháp thủ công
trong việc quản lý hợp đồng bảo hiểm, cấp đơn và thu phí bảo hiểm. Hầu hết
các doanh nghiệp chưa thiết lập được hệ thống phần mềm tin học tính phí bảo
hiểm, trích lập dự phòng nghiệp. Quan hệ dọc, ngang phức tạp, điều hành gặp
nhiều khó khăn, sự giám sát, kiểm soát bị hạn chế, đầu tư bị phân tán, thiếu
tập trung, dẫn đến sự lãng phí hoặc khong có hiệu quả và chi phí quản lý cao.
Sự bảo hộ của Nhà nước trong một thời gian dài đã để lại những hậu quả chưa
thể thay đổi ngay được như: tư duy, nhận thức đến phong cách ứng xử, thói
quen kinh doanh theo cơ chế cũ của một số bộ phận, một số cán bộ nhân viên
vẫn còn, dẫn đến sự trì trệ, bảo thủ, máy móc, ỷ lại trong hành động; số
lượng, chất lượng và cơ cấu lao động không phù hợp; cơ chế quản lý cứng
nhắc, quan liêu thời bao cấp vẫn còn rơi rớt lại.
2.4. Sản phẩm chưa đa dạng
Mặc dù trong 10 năm, số lượng các loại sản phẩm tăng lên nhanh
chóng từ 23 sản phẩm năm 1993 lên hơn 600 sản phẩm năm 2005, nhưng số
lượng và các loại hình sản phẩm vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu bảo
hiểm của nhiều ngành kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Đối với bảo
hiểm nhân thọ, sản phẩm còn ít chủng loại, chưa đáp ứng được yêu cầu của
thị trường, tính linh hoạt của sản phẩm chưa cao, sức hút của các sản phẩm
đối với khách hàng còn hạn chế. Ngoài ra, các doanh nghiệp mới chỉ tập trung
khai thác các dịch vụ truyền thống, các dịch vụ có lãi ngay tại các thành phố,
phục vụ các doanh nghiệp lớn và người dân có thu nhập cao, mà chưa chú
trọng đến việc mở rộng nội dung hoạt động, phát triển các sản phẩm bảo hiểm
đòi hỏi đầu tư lớn về công nghệ, nhưng thời gian thu hồi vốn lâu; chưa chú
trọng đến việc cung cấp các sản phẩm bảo hiểm phục vụ bà con nông dân,
diêm dân và ngư dân tại khu vực nông thôn.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
76
2.5. Yêu cầu về chất lượng dịch vụ cao hơn
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội, mức thu nhập và mức
sống cũng đang ngày một tăng lên, kéo theo nhận thức của khách hàng về bảo
hiểm càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Vì thế, thay vì việc thụ động chấp nhận
những điều khoản bảo hiểm mà công ty bảo hiểm đưa ra như trước kia, thì
khách hàng ngày nay đang đặt ra những yêu cầu cao hơn và khắt khe hơn cho
các công ty bảo hiểm trước khi họ đi đến lựa chọn mà nhà bảo hiểm cho
mình. Điều này có thể thấy rõ qua những yêu cầu về mở rộng phạm vi bảo
hiểm, gia tăng quyền lợi, gia tăng các tiện ích khi tham gia bảo hiểm, đơn giả
hoá cá thủ tục và rút ngắn thời gian giải quyết quyền lợi khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm... và đặc biệt là yêu cầu nhà bảo hiểm phải giảm phí bảo hiểm đến
mức tối thiểu.
2.6. Gian lận, trục lợi bảo hiểm gia tăng
Khi thị trường bảo hiểm phát triển, tất yếu gian lận và trục lợi bảo hiểm
sẽ có cơ hội gia tăng, song nguy hiểm hơn là tình trạng gian lận, trục lợi bảo
hiểm hiện nay đang có chiều hướng khôn khéo và tinh vi hơn. Nó sẽ trở thành
một vấn đề nhức nhối, một thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam. Trục lợi bảo hiểm làm giảm lợi nhuận, khiến cho hiệu quả sản xuất
kinh doanh bị hạn chế, thậm chí có tác động xấu đến uy tín của doanh nghiệp
bảo hiểm. Có thể nói, gian lận bảo hiểm đang xuất hiện và tồn tại trong hầu
hết các khâu ở tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm, nhưng phổ biến hơn cả là bảo
hiểm xe cơ giới, bảo hiểm con người và bảo hiểm nhân thọ. Đối với một số
lĩnh vực bảo hiểm, khách hàng thực hiện hành vi trục lợi như một điều “hiển
nhiên” và có tính “thường xuyên”. Cụ thể trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu, tình trạng trục lợi biểu hiện dưới các hình thức tiêu biểu như: hàng hoá
được yêu cầu bảo hiểm trong hành trình vận chuyển nhưng chưa đóng phí bảo
hiểm; khi biết hàng hoá về đến nơi an toàn rồi khách hàng xin huỷ đơn bảo
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
77
hiểm hoặc hợp đồng bảo hiểm để trốn trách nhiệm đóng phí. Thậm chí có chủ
hàng biết thông tin hàng hoá của mình bị tổn thất rồi mới đến mua bảo hiểm
hoặc thông đồng với cán bộ doanh nghiệp bảo hiểm để mua bảo hiểm và nhận
bồi thường cho tổn thất đó. Trong bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tàu thuyền,
trục lợi bảo hiểm được thực hiện thông qua việc hợp lý hoá ngày hiệu lực bảo
hiểm. Trên thực tế còn tạo ra hiện trường giả các vụ tai nạn xe cơ giới, cháy
hoặc chìm tàu…khai báo rủi ro không trung thực, khai giảm tuổi so với tuổi
thực trong bảo hiểm nhân thọ để được giảm phí bảo hiểm, cố ý gây tai nạn
trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm…
2.7. Khả năng thị trường bảo hiểm có thể chững lại
Mặc dù trong những năm gần đây, dịch vụ bảo hiểm đạt tốc độ tăng
trưởng khá cao và được đánh giá là có nhiều tiềm năng để phát triển, nhưng
các chuyên gia vẫn nhận định, thị trường bảo hiểm có thể sẽ chững lại trong
thời gian tới. Theo một số chuyên gia tài chính, chỉ số giá tiêu dùng tiếp tục
tăng cao khiến cho phần tích luỹ của người dân cũng bị giảm sút, vì vậy họ
phải cân nhắc nhiều hơn trước khi bỏ ra một phần tiền để mua bảo hiểm.
Trong khi đó, các ngân hàng thương mại vốn là đối thủ cạnh tranh "đáng
gờm" của các công ty bảo hiểm, lại liên tục tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm
khiến cho các công ty bảo hiểm như ngồi trên đống lửa. Báo cáo mới đây của
Bộ Tài chính cũng cho thấy, trong năm 2005, lĩnh vực bảo hiểm Việt Nam rất
khó để đạt được mục tiêu tăng trưởng dự kiến là 20,2% do những diễn biến
bất lợi trên thị trường trong nước và thế giới. Theo Bộ Tài chính, mức tăng
trưởng của thị trường bảo hiểm năm 2005 là mức tăng trưởng thấp nhất kể từ
năm 2001, khi thị trường luôn đạt mức tăng trưởng bình quân 40%/năm. Thị
trường bảo hiểm nhân thọ chỉ đạt mức tăng trưởng 13%, thấp hơn hai lĩnh vực
còn lại là phi nhân thọ và đầu tư tài chính. Do giá cả tăng cao và lãi suất tiền
gửi ngân hàng khá hấp dẫn nên tỷ lệ huỷ hợp đồng của khách hàng tại công ty
bảo hiểm ước đạt 8%. Mặc dù đây chưa phải là mức đáng lo ngại và chưa cao
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
78
hơn so với các nước khác trong khu vực, nhưng giới chuyên môn cho rằng,
sắp tới các công ty bảo hiểm sẽ còn gặp khó khăn. Trong lĩnh vực bảo hiểm
phi nhân thọ, hoạt động của các công ty bảo hiểm cũng có những dấu hiệu
giảm sút, theo Bộ Tài chính, thị phần của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
có vốn đầu tư nước ngoài đã giảm từ 7% cuối năm ngoái xuống còn 5,7% vào
thời điểm này.
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế có cả cơ hội và thách thức. Cơ hội và thách
thức luôn vận động và biến đổi. Tận dụng được cơ hội sẽ đẩy lùi được thách
thức và tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội thì
thách thức sẽ lấn át làm triệt tiêu cơ hội. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp
bảo hiểm phải hiểu rõ cơ hội và thách thức để có được chiến lược phát triển
đúng đắn, nâng cao năng lực cạnh tranh trong thời gian tới.
III. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện các mục tiêu phát triển đã đề ra trong Chiến lược phát triển
thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến 2010 là một thách thức lớn
đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Khi Việt Nam gia nhập WTO,
nền kinh tế Việt Nam sẽ hội nhập hoàn toàn với nền kinh tế thế giới. Việc hội
nhập kinh tề quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ tạo ra những cơ hội mới,
đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới đối với các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước. Nếu không được chuẩn bị kỹ, thì các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước có thể gặp
nhiều khó khăn trong cạnh tranh, thậm chí đi đến chỗ phá sản do sự yếu kém
về năng lực tài chính, về kinh nghiệm, công nghệ quản lý. Trong bối cảnh đó,
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
trở thành một vấn đề cấp bách. Căn cứ vào mục đích trong chiến lược phát
triển và thực tế hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian qua,
những giải pháp có thể và cần phải thực hiện để nâng cao năng lực cạnh tranh
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
79
của các doanh nghiệp bảo hiểm trong thời gian tới để thị trường bảo hiểm
Việt Nam ngày một phát triển:
1. Nhóm giải pháp vĩ mô
1.1. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh
doanh bảo hiểm
1.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Hiện nay, Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn đã
được ban hành tạo ra khuôn khổ pháp luật tương đối đầy đủ cho hoạt động
kinh doanh bảo hiểm và giúp cho các doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao năng
lực cạnh tranh. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý hoạt động kinh doanh bảo
hiểm trong quá trình hội nhập còn nhiều vấn đề nảy sinh chưa được thể chế
hoá. Do vậy, các giải pháp đề ra là:
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động kinh doanh bảo hiểm
để thị trường bảo hiểm phát triển lành mạnh, an toàn, phù hợp với yêu cầu
hội nhập, cam kết quốc tế và những nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế; đảm
bảo tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Xây dựng phương án và lộ trình mở cửa thị trường trong lĩnh vực bảo
hiểm phù hợp với phương án tổng thể của ngành tài chính dịch vụ. Sớm
ban hành quy định cụ thể về hoạt động đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu
nhằm đảm bảo nguồn vốn này được sử dụng an toàn, hiệu quả và đảm bảo
khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm.
Luật Kinh doanh bảo hiểm phải sớm được sửa đổi, cho phép các doanh
nghiệp đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của mình vào tài sản ở nước ngoài, nhất
là các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được phép đầu tư ra nước ngoài từ
nguồn vốn lấy từ các quỹ dự phòng kỹ thuật. Theo điều 98 của luật kinh
doanh bảo hiểm thì các doanh nghiệp chỉ được phép sử dụng nguồn vốn
nhàn rỗi của mình để đầu tư ở Việt Nam, đây là một bất lợi lớn đối với
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
80
việc nâng cao hiệu quả đầu tư, cũng như hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp bảo hiểm.
Cần phải xem xét lại chính sách thuế đối với phí bảo hiểm nhân thọ theo
nhóm. Quy định hiện hành không cho doanh nghiệp khấu trừ thuế đối với
phí bảo hiểm nhân thọ theo nhóm. Nếu như sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
được khấu trừ thuế thì khi một tổ chức kinh tế hoặc doanh nghiệp mua bảo
hiểm cho các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, thì chắc chắn
rằng các tổ chức chính trị xã hội hoạt động trong các lĩnh vực khác của nền
kinh tế sẽ tích cực mua các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ theo nhóm, như
vậy sẽ góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thị trường bảo hiểm
nhân thọ ở nước ta.
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các văn bản hướng dẫn
về hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, tạo khuôn khổ
pháp lý hoàn chỉnh cho các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện hoạt động
cho vay theo Luật Kinh doanh bảo hiểm. Bộ Tài chính và Ngân hàng sớm
ban hành các văn bản quy định về tỷ lệ tài sản rủi ro so với tổng tài sản của
doanh nghiệp bảo hiểm và hướng dẫn thi hành việc trích lập quỹ dự phòng
rủi ro cho hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng để
các công ty bảo hiểm có cơ sở thực hiện và có cơ chế xử lý rủi ro khi rủi ro
phát sinh.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong phê duyệt và thực hiện các dự
án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư bất động sản, nâng dần và đi tới xoá bỏ
các hạn chế về đầu tư gián tiếp, đặc biệt là tỷ lệ góp vốn của các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài vào các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước.
Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm, ưu tiên
phát triển sản phẩm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn, các sản phẩm bảo
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
81
hiểm phục vụ nông, lâm, ngư, nghiệp và việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
cho các vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp bảo hiểm tự bổ sung
vốn điều lệ cho phù hợp với tính chất hoạt động và quy mô kinh doanh của
doanh nghiệp. Nhà nước không trực tiếp đầu tư thêm vốn vào lĩnh vực môi
giới bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín
thác mà doanh nghiệp quản lý theo quy định của pháp luật. Cần cho phép
các doanh nghiệp bảo hiểm lớn thành lập ngân hàng thương mại và các
Ngân hàng thương mại thành lập doanh nghiệp bảo hiểm. Họ sẽ trở thành
tập đoàn tài chính mạnh như mô hình của các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mở rộng phạm vi hoạt động
kinh doanh, kể cả ở thị trường bảo hiểm quốc tế và khu vực, tham gia góp
vốn vào các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm đang hoạt động thành công ở
nước ngoài và thành lập công ty con kinh doanh bảo hiểm ở nước ngoài.
Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ quản lý
kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ theo các chuẩn mực
quốc tế, được phép thuê chuyên gia trong nước và ngoài nước để quản lý
một số lĩnh vực hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Tạo ra một hành lang pháp lý thực sự bình đẳng giữa các doanh
nghiệp
Thị trường bảo hiểm Việt Nam muốn phát triển tốt và bền vững thì đòi hỏi
phải có sự cạnh tranh thực sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trên thị
trường. Do vậy, các giải pháp để tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm:
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
82
Tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường có cơ hội tự do
thâm nhập thị trường bảo hiểm khi đáp ứng được tiêu chuẩn mà pháp luật quy
định về vốn, khả năng thanh toán, xếp hạng tín dụng, kế hoạch kinh doanh…
Tất cả các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm như doanh nghiệp bảo hiểm Nhà
nước, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài kinh doanh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam bình đẳng như
nhau trong việc được phép đầu tư vào các loại tài sản ngắn hạn hoặc dài hạn
phù hợp với đặc thù kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ hoặc nhân thọ với
cùng các điều kiện quy định như nhau.
Luật pháp về quản lý kinh doanh bảo hiểm, về tài chính doanh nghiệp bảo
hiểm phải thực sự bình đẳng trong cạnh tranh đối với tất cả các loại hình
doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
1.1.3. Tăng cường chức năng giám sát của Nhà nước đối với hoạt
động kinh doanh bảo hiểm
Để đáp ứng kịp thời các yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp bảo
hiểm trong quá trình hội nhập, các giải pháp được đề ra nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
Củng cố tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.
Trong thời gian qua, thị trường bảo hiểm tăng trưởng một cách nhanh
chóng, trong khi đó cơ quan quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm mặc
dù đã có bước phát triển về quy mô và thẩm quyền nhưng dường như vẫn
chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu đòi hỏi về giám sát hoạt động của các công ty
bảo hiểm. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế với ASEAN, APEC, và
sắp tới là WTO thì tốc độ phát triển của thị trường bảo hiểm trong năm tới
còn nhanh hơn nữa. Vì thế, cần phải củng cố cơ quan quản lý Nhà nước đối
với hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo hướng mở rộng quy mô phù hợp với
quy mô phát triển của thị trường, đồng thời đảm bảo quản lý theo các loại
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
83
hình nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, môi giới và đại lý. Cơ quan
quản lý nhà nước về hoạt động kinh tế bảo hiểm phải thực hiện hai chức năng
cơ bản là chức năng quản lý ngành kinh tế-kỹ thuật và chức năng giám sát tài
chính.
Đào tạo nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý nhà nước về kinh
doanh bảo hiểm.
Hiện nay, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ quản lý nhà
nước còn nhiều bất cập nên đã hạn chế rất nhiều trong việc theo dõi, giám sát
hoạt động của thị trường bảo hiểm. Vì vậy việc nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ phải chú trọng đến bồi dưỡng các kiến thức về đánh giá rủi ro, định
phí, trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ, kiến thức về quản lý đầu tư, kiến thức
kinh doanh quốc tế…
Xây dựng các hệ thống chỉ tiêu hoàn chỉnh phục vụ cho công tác giám sát
tài chính dược chặt chẽ.
Những quy định hiện hành trên các văn bản pháp lý về khả năng thanh
toán, dự phòng nghiệp vụ còn nhiều bất cập và chưa hoàn chỉnh, chưa phản
ánh đúng bản chất của các chỉ tiêu tài chính; từ đó làm cho công tác giám sát
thông qua các chỉ tiêu tài chính không phản ánh đúng thực trạng tài chính
cũng như mức độ an toàn của các doanh nghiệp bảo hiểm. Cho nên cần phải
hoàn chỉnh hệ thống các chỉ tiêu tài chính và cách xác định của các chỉ tiêu
này để đảm bảo cho công tác giám sát tài chính của các cơ quan quản lý nhà
nước được chặt chẽ; từ đó có cơ sở can thiệp kịp thời khi doanh nghiệp có
nguy cơ mất khả năng thanh toán, bảo đảm cho thị trường bảo hiểm phát triển
ổn định và bền vững.
Thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế trong giám sát tài
chính.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường bảo hiểm trong
nước còn có sự tham gia của các công ty bảo hiểm nước ngoài và chịu sự tác
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
84
động lẫn nhau giữa thị trường bảo hiểm các nước. Vì vậy, bộ máy và hệ thống
giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phải phù hợp với yêu
cầu và thực tiễn kinh doanh bảo hiểm của nước ta và các nguyên tắc chuẩn
mực quốc tế, đảm bảo cho ngành bảo hiểm Việt Nam hoạt động an toàn đồng
thời bảo đảm cho các chủ thể tham gia thị trường phát triển tối đa khả năng
của mình.
Tiếp tục nâng cao vai trò tự quản của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.
Để Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam thực hiện tốt vai trò tự quản, hỗ trợ
cầu nối và đại diện cho các doanh nghiệp bảo hiểm trước cơ quan quản lý nhà
nước và công chúng bằng cách: mở rộng phạm vi hợp tác giữa các doanh
nghiệp bảo hiểm về đào tạo, trao đổi thông tin; xem xét, sửa đổi, bổ xung điều
lệ Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam tham gia Hiệp hội; xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ
quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm và Hiệp hội để kiểm tra, giám
sát việc thoả thuận giữa các hội viên.
1.2. Nhóm giải pháp về phía Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
1.2.1. Nâng cao vai trò của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam.
Trong thời gian qua các doanh nghiệp bảo hiểm trong Hiệp hội đã có
một số hợp tác nhất định như ký kết các thoả thuận bảo hiểm hoả hoạn, thoả
thuận hợp tác duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ. Tuy nhiên, phạm vị và mức độ hợp tác này còn bị hợp tác
này còn hẹp và chưa chặt chẽ. Để nâng cao hơn nữa vai trò của Hiệp hội bảo
hiểm, trong thời gian tới Hiệp hội cần có những biện pháp:
Nghiên cứu xây dựng cơ chế phối hợp và cơ chế kiểm tra theo phương
thức tự quản trong việc thực hiện các thoả thuận giữa các hội viên và có
báo cáo cơ quan quản lý Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm, kịp thời xử lý
các hành vi vi phạm cũng như việc không tuân thủ các quy chế hợp tác.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
85
Hiệp hội cũng cần tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền cho
ngành Bảo hiểm Việt Nam như: tổ chức mít tinh nhân ngày truyền thống
của ngành Bảo hiểm Việt Nam, mở các cuộc triển lãm về ngành bảo hiểm
Việt Nam, phối hợp với các phương tiện truyền thông để không ngừng đưa
tin về hoạt động của ngành bảo hiểm.
Tiếp tục vận động các công ty môi giới bảo hiểm, công ty tư vấn giám
định bảo hiểm, văn phòng đại diện tham gia hiệp hội.
Thành lập một hệ thống thông tin toàn thị trường làm cơ sở để đánh giá rủi
ro, tính phí bảo hiểm; hệ thống phân tích và kiểm soát tổn thất, hợp tác
trong việc phối hợp cùng giải quyết tai nạn; hợp tác trong việc đồng bảo
hiểm, tái bảo hiểm, trợ giúp kỹ thuật, đào tạo để có thể nâng cao năng lực
thực hiện bảo hiểm cho các thành viên.
1.2.2. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho Hiệp hội
Kiện toàn bộ máy của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam bao gồm các phòng
ban nghiệp vụ phân tích dự báo, đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thành lập trung tâm đào tạo bảo hiểm cho toàn ngành. Những cán bộ
chuyên môn phải được đào tạo về cơ bản và phải vượt qua được các kỳ thi
sát hạch về chuyên môn và phải được cấp chứng chỉ.
Hiệp hội tiếp tục hoàn thiện giáo trình Đào tạo đại lý Bảo hiểm phi nhân
thọ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình đào tạo đại
lý.
Tổ chức hội nghị của các công ty môi giới bảo hiểm, văn phòng đại diện
và khối trường đại học, học viện là hội viên tài trợ để bàn giải pháp phối
hợp hoạt động.
Liên hệ và liên kết với các học viện bảo hiểm nước ngoài, cử cán bộ của
Hiệp hội và của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam đến các hiệp hội này
để học hỏi và nâng cao trình độ chuyên môn.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
86
2. Nhóm giải pháp vi mô
Trong giới hạn Khoá luận này, tác giả xin đưa ra các giải pháp dựa trên
các nhân tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm.
2.1. Các giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp
2.1.1 Tăng nguồn vốn kinh doanh
Theo quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo
hiểm đang hoạt động trên thị trường phải có kế hoạch bổ sung vốn điều lệ, tối
thiểu bằng mức vốn pháp định nhằm nâng cao năng lực tài chính và khả năng
thanh toán của doanh nghiệp. Mức vốn này phải được duy trì trong suốt quá
trình hoạt động của doanh nghiệp. Theo cách tính toán hiện hành (vốn điều lệ
được tính bằng 33% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ và 40% doanh thu
phí bảo hiểm nhân thọ), để thực hiện được mục tiêu phát triển đến năm 2010
là các công ty bảo hiểm phải có số vốn điều lệ tối thiểu phải bằng số vốn pháp
định (khoảng 70 tỷ đồng đối với công ty bảo hiểm phi nhân thọ và 150 tỷ
đồng đối với nhân thọ). Vì vậy việc tăng cường tiềm lực tài chính, bổ sung đủ
vốn điều lệ theo tiến trình phát triển là một vấn đề cấp bách.
Việc bổ sung vốn điều lệ của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước có
thể thông qua nhiều biện phát như : số vốn được trợ giúp, bổ sung từ ngân
sách nhà nước (đối với các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước), bổ sung từ
nguồn lợi nhuận để lại hàng năm, từ quỹ dự phòng của doanh nghiệp, phát
hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn.
2.1.2 Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Nguồn vốn của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình hoạt động kinh
doanh cần phải được sử dụng có hiệu quả thông qua các biện pháp:
- Giảm số dư nhàn rỗi. Để thực hiện điều này doanh nghiệp phải chấn
chỉnh việc chấp hành các quy chế tài chính về quản lý số dư; kiểm tra, đôn
đốc việc thanh quyết toán của đại lý.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
87
- Quản lý nợ hiệu quả hơn bằng cách thành lập Ban quản lý công nợ
của công ty.
- Phối hợp hiệu quả hơn với hệ thống ngân hàng thông qua các vĩnh
vực: sử dụng dịch vụ thu tiền hộ của hệ thống ngân hàng; khuyến khích thanh
toán qua ngân hàng; sử dụng dịch vụ chuyển tiền tự động của ngân hàng.
- Quản lý tốt tình hình luân chuyển vốn lưu động, có thể bằng cách: lập
kế hoạch sử dụng các sổ sách kế toán hợp lý; giảm thiểu vật tư, các loại hàng
hoá tồn kho.
2.2. Giải pháp nâng cao nguồn nhân lực của doanh nghiệp
2.2.1. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh của
doanh nghiệp
Hiện tại, tình trạng thiếu nguồn nhân lực bảo hiểm có trình độ cao tại
các công ty bảo hiểm trong nước là khá phổ biến, việc quan tâm phát triển
chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa được quan tâm đầy đủ. Hơn nữa, khi
Việt Nam gia nhập WTO, sự xuất hiện các công ty bảo hiểm nước ngoài với
các ưu thế cạnh tranh vượt trội sẽ tạo ra hiệu ứng chuyển dịch nguồn nhân lực
có chất lượng cao từ các công ty bảo hiểm trong nước sang các công ty bảo
hiểm nước ngoài. Để khắc phục tình trạng trên, các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam cần chú trọng những biện pháp sau:
Xây dựng quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng và bãi miễn cán bộ
chặt chẽ, phân cấp và xác định rõ ràng trách nhiệm của từng chức danh
chủ chốt, từng người trong hoạt động khai thác, đánh giá rủi ro, xác định
phí bảo hiểm, trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ, giám định bồi thường và
các vấn đề pháp lý khác của doanh nghiệp.
Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ trong việc đào tạo các chuyên gia giỏi
trong một số lĩnh vực đặc thù như: tính phí bảo hiểm, trích lập quỹ dự
phòng nghiệp vụ, giám định và bồi thường, quản lý rủi ro, đầu tư và quản
lý vốn đầu tư, khuyến khích nhân viên thi những chứng chỉ do các tổ chức
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
88
bảo hiểm quốc tế cấp. Doanh nghiệp có thể thuê chuyên gia nước ngoài về
giảng dạy hoặc gửi nhân viên đi học ở nước ngoài.
Doanh nghiệp nên xây dựng chính sách tiền lương và tiền thưởng hợp lý
và gắn với hiệu quả kinh doanh, đảm bảo thu nhập của người lao động
nhằm thu hút và duy trì đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn cao.
2.2.2 Giải pháp nâng cao chất lượng của đội ngũ đại lý bảo hiểm
Đến hết năm 2005, trên toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có
91.734 đại lý bảo hiểm. Mặc dù tốc độ phát triển của các đại lý bảo hiểm rất
nhanh, nhưng chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ trong số đó được đào tạo cơ bản. Để
việc khai thác bảo hiểm phát triển bền vững thì các đại lý bảo hiểm không
những được đào tạo cơ bản mà còn được đào tạo nâng cao kiến thức chuyên
ngành về kỹ năng khai thác sản phẩm bảo hiểm.
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá đội ngũ nhân viên đại lý
bảo hiểm: trình độ nghiệp vụ, đạo đức và sự nhiệt thành trong công việc. Để
nâng cao chất lượng của đội ngũ đại lý bảo hiểm, có thể có những biện pháp
sau:
- Tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đại lý định
kỳ, phổ cập kinh nghiệm khai thác và phổ biến tình hình thị trường cho đại lý.
Bên cạnh đó, khi cho ra đời một sản phẩm mới, các doanh nghiệp cũng cần
trang bị, cập nhật cho đại lý những kiến thức, thông tin về sản phẩm, giúp cho
người đại lý trở thành tư vấn viên tốt nhất cho sự lựa chọn sản phẩm bảo hiểm
của khách hàng.
- Có chế độ hoa hồng và chi phí hỗ trợ đại lý để khuyến khích đội ngũ
đại lý đông đảo gia nhập thị trường. Để nâng cao sự nhiệt thành trong công
việc, ngoài phí hoa hồng được hưởng trên doanh thu phí bảo hiểm, các doanh
nghiệp có thể thưởng thêm cho đại lý khi họ hoàn thành xuất sắc công việc
hay khi họ có những đóng góp, sáng kiến bổ ích cho công ty.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
89
- Để nâng cao đạo đức hoạt động của người đại lý, bên cạnh việc giáo
dục, khen thưởng động viên, các doanh nghiệp còn phải xử phạt thích đáng
đối với những trường hợp vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
- Tăng cường tuyển dụng đại lý bảo hiểm là những sinh viên, đặc biệt
là những sinh viên học chuyên ngành bảo hiểm và thương mại quốc tế. Đây là
đội ngũ trẻ, năng động, có ý chí tiến thủ, rất phù hợp với yêu cầu làm đại lý
bảo hiểm.
2.3. Các giải pháp nhằm đa dạng hoá và nâng cao chất lượng của
sản phẩm bảo hiểm
2.3.1. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường để thực hiện đa dạng
hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường
được tập trung ở khả năng cung ứng cho thị trường những sản phẩm bảo hiểm
phong phú, đa dạng với chất lượng tốt, giá phí bảo hiểm hạ, các dịch vụ chăm
sóc khách hàng hoàn hảo, tài chính của doanh nghiệp lành mạnh. Vì vậy, để
cạnh tranh có hiệu quả, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chú trọng đầu tư
nghiên cứu hoàn thiện các sản phẩm, dịch vụ truyền thống, đồng thời triển
khai các sản phẩm, dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính
của người mua bảo hiểm, đáp ứng tốt ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách
hàng.
Cụ thể đối với các sản phẩm phi nhân thọ, bên cạnh việc tiếp tục hoàn
thiện và nâng cao chất lượng các sản phẩm hiện có, đặc biệt khai thác tối đa
các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc như bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới và bảo hiểm tai nạn hành khách, mở rộng các loại hình bảo hiểm còn
thấp như : bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản cho các doanh
nghiệp tư nhân, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm thiệt hại trong kinh doanh...
Đồng thời triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới đặc biệt là các sản phẩm
phục vụ chương trình nông, lâm, ngư nghiệp, bảo hiểm du lịch...
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
90
Đối với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam cần triệt để khai thác triệt để về tính đa dạng, về chất lượng sản
phẩm có khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần trước các đối thủ cạnh
tranh. Khuyến khích chuyên môn hoá việc phát triển và hoàn thiện sản phẩm,
triển khai các sản phẩm dài hạn như : bảo hiểm an sinh giáo dục, bảo hiểm
hưu trí, bảo hiểm trả tiền định kỳ và các sản phẩm bảo hiểm khác gắn với tiết
kiện và đầu tư.
Bên cạnh đó, các sản phẩm bảo hiểm mới có thể đưa vào nghiên cứu để
triển khai như:
- Sản phẩm bảo hiểm bằng ngoại tệ: là loại sản phẩm bảo hiểm mà hoạt
động nộp phí bảo hiểm và bồi thường bằng các đồng ngoại tệ mạnh (đồng
Đô-la Mỹ, Yên Nhật…)
- Sản phẩm bảo hiểm chia lãi: là sản phẩm bao gồm điều khoản chia lãi
cho khách hàng trên cơ sở nguồn hình thành lãi là: do lãi suất đầu tư cao hơn
lãi suất giả định, lãi tiết kiệm chi phí hoạt động, lãi chênh lệch rủi ro thực tế
so với giả định.
- Sản phẩm bảo hiểm trả tiền bảo hiểm nhiều lần: là loại hình bảo hiểm
trả số tiền bảo hiểm nhiều lần như hợp đồng bảo hiểm hỗn hợp thời hạn với
thời hạn ví dụ như 15 năm: trả 30% số tiền cuối năm thứ 5, 30% số tiền bảo
hiểm cuối năm thứ 10, và 40% còn lại khi đáo hạn hợp động.
2.3.2. Phát triển, đa dạng hoá các kênh phân phối sản phẩm
Hiện nay, việc phân phối các sản phẩm bảo hiểm vẫn được thực hiện
chủ yếu qua các tư vấn viên. Gần đây có một số hình thức phân phối mới
được các công ty triển khai: phân phối bảo hiểm qua ngân hàng
(bancassurance), bưu điện, Internet... Trong tương lai, bán bảo hiểm qua ngân
hàng chắc chắn sẽ là một kênh phân phối có hiệu quả để thúc đẩy bán hàng,
tăng doanh thu phí bảo hiểm. Có thể lấy ví dụ như Prudential có 70 chi nhánh,
còn Agribank với 2000 chi nhánh, rõ ràng con số 70 của Prudential nhỏ hơn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
91
so với của Agribank rất nhiều lần. Nếu khách hàng của Prudential có thể giao
dịch ở quận, làng, xã qua các chi nhánh của Agribank thì thay vì khách hàng
phải đi đến trụ sở của Prudential thì chỉ cần tới văn phòng cấp 1, 2, 3 của
ngân hàng là có thể thực hiện giao dịch được. Điều này tiết kiệm được chi phí
cho doanh nghiệp bảo hiểm và tạo sự tiện lợi cho khách hàng.
Bảng 12: Kênh phân phối các sản phẩm bảo hiểm
Kênh truyền thống Kênh trực tiếp Kênh mới
Đại lý Qua điện thoại Ngân hàng
Môi giới Qua thư tín, qua Internet Các tổ chức tài chính
Đại diện thương
mại…
Qua các nhà tuyển dụng… Các cửa hàng…
(Nguồn: Tạp chí Bảo hiểm số 1, tháng 3/2005)
Căn cứ vào tình hình Việt Nam hiện tại thì các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam cần phải:
- Phát triển hoạt động môi giới bảo hiểm, bảo đảm hoạt động của các
công ty môi giới là đại diện cho khách hàng và phục vụ trước hết vì lợi ích
của khách hàng.
- Phát triển và mở rộng mạng lưới đại lý bảo hiểm và nâng cao nghiệp
vụ của các tư vấn viên.
- Phát triển nghiệp vụ bán hàng qua ngân hàng và bưu điện nơi có
lượng khách hàng lớn, dễ quản lý và có khả năng tài chính. Các doanh nghiệp
bảo hiểm sẽ tận dụng được mạng lưới chi nhánh sẵn có, rộng khắp của ngân
hàng, bưu điện.
- Phát triển thương mại điện tử: doanh nghiệp bảo hiểm được phép bán
bảo hiểm qua mạng Internet với trách nhiệm đảm bảo đúng thông tin cho
khách hàng và chế độ lưu trữ thông tin để tiện cho việc kiểm tra và giám sát
của các cơ quan quản lý nhà nước.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
92
2.4. Nhóm giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của doanh
nghiệp bảo hiểm
2.4.1. Tiếp tục hiện đại hoá công nghệ quản lý, chú trọng đến công tác
tự kiểm tra, giám sát trong doanh nghiệp
Với đặc thù là một ngành kinh doanh dịch vụ với chu kỳ kinh doanh
đảo ngược, các doanh nghiệp bảo hiểm phải quản lý một số lượng hợp đồng
rất lớn, và tăng theo thời gian. Nhu cầu mua và trả phí bảo hiểm cũng như
thanh toán bảo hiểm của khách hàng ngày càng phong phú. Vì vậy, doanh
nghiệp bảo hiểm cần áp dụng công nghệ thông tin thông qua các biện pháp:
- Hiện đại hoá các trang thiết bị liên quan đến việc ứng dụng công nghệ
thông tin. Xây dựng hệ thống giao dịch trên mạng, lập địa chỉ website, tư vấn
trực tuyến…
- Xây dựng chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả các
khâu, trong đó tập trung phát triển hệ thống phần mềm thống kê tính phí, trích
lập quỹ dự phòng nghiệp vụ, hệ thống truyền dữ liệu báo cáo kinh doanh từ
công ty đến chi nhánh và ngược lại, đảm bảo cập nhật thông tin trong toàn hệ
thống, xử lý kịp thời các diễn biến của thị trường.
- Tích cực triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực
mới: phân phối bảo hiểm qua ngân hàng (bacassurance) và thương mại điện
tử (e-commerce & telemarketing).
Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước cần hòan thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm:
- Đề cao vai trò tự giám sát thông qua hoạt động kiểm toán nội bộ, công
khai tài chính. Hiện nay, trong các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước mới chỉ
có hai doanh nghiệp bảo hiểm là Bảo Việt và Bảo Minh là đã thực hiện công
khai, minh bạch tài chính. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp bảo hiểm
khác cũng cần tiến hành công khai tài chính.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
93
- Các biện pháp như chuẩn hoá các quy trình nghiệp vụ, giảm thiểu các
thủ tục hành chính trong công tác quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ cũng cần
được thực hiện.
- Tăng cường sự phân cấp trong quản lý, từng khâu công việc, của từng
cá nhân trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Kiên quyết xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
2.4.2. Xây dựng chiến lược kinh doanh hiệu quả trong điều kiện mới
Chiến lược kinh doanh là kim chỉ nam cho hoạt động kinh doanh của
công ty. Thực tế đã chỉ ra nhiều bài học thành công hay thất bại trong kinh
doanh nhờ có được chiến lược kinh doanh tối ưu hay ngược lại. Đặc trưng nổi
bật của chiến lược kinh doanh là tính định hướng và xác định những chính
sách lớn của doanh nghiệp, nó xác định rõ những mục tiêu cơ bản và phương
hướng kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và được quán triệt
trong tất cả các mặt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tính định hướng
của chiến lược nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp phát triển liên tục và vững
chắc trong môi trường kinh doanh thường xuyên biến động, đồng thời huy
động tối đa và kết hợp tối ưu việc khai thác và sử dụng các nguồn lực hiện tại
và tương lai nhằm phát huy những lợi thế và nắm bắt những cơ hội để giành
ưu thế trong cạnh tranh, đảm bảo nâng cao vị thế, tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
Đối với ngành bảo hiểm, trong những năm tới, hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp bảo hiểm sẽ diễn ra trong môi trường khác hẳn trước
đây. Trong bối cảnh hội nhập hoàn toàn với nền kinh tế thế giới, những thuận
lợi có nhiều nhưng những nguy cơ gây mất ổn định kinh tế – xã hội vẫn còn
tồn tại, sự bảo hộ của nhà nước đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước không còn nên các doanh nghiệp phải tự khẳng định mình trong cuộc
cạnh tranh bình đẳng, không khoan nhượng đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh đó, để tồn tại và phát triển được trong cạnh
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
94
tranh, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải chủ động xây dựng cho
mình một chiến lược kinh doanh bài bản phù hợp với định hướng chiến lược
phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam đã được chính phủ phê duyệt.
Chiến lược phát trtiển của các doanh nghiệp trong nước phải thể hiện
được tầm nhìn dài hạn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp trên cả thị trường trong và ngoài nước. Trong hoạt động kinh doanh cả
trong ngắn hạn và dài hạn luôn coi trọng chất lượng và hiệu quả. Chìa khoá
của mục tiêu đó là coi trọng đào tạo nâng cao nguồn nhân lực kinh doanh bảo
hiểm, xây dựng công nghệ quản ký hiện đại, ứng dụng triệt để công nghệ tin
học, biết và dám cạnh tranh theo cơ chế thị trường.
2.4.3. Nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư của các doanh nghiệp
bảo hiểm
Chú trọng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ đầu tư chuyên nghiệp
Các cán bộ đầu tư cần am hiểu về thị trường tài chính và đầu tư tài
chính. Mỗi công ty bảo hiểm nên thành lập một công ty đầu tư, phòng ban
đầu tư để nâng cao vai trò, trách nhiệm của công tác đầu tư.
Sử dụng tối đa và có hiệu quả nguồn vốn đầu tư:
Cần xem xét tách bạch rõ nguồn vốn đầu tư từ nguồn vốn chủ sở hữu
và nguồn vốn từ quỹ dự phòng nghiệp vụ để có thể đánh giá đúng hiệu quả
đầu tư từng nguồn vốn và giới hạn an toàn về số vốn có thể sử dụng cho hoạt
động đầu tư. Đối với nguồn vốn chủ sở hữu có thể ưu tiên lựa chọn các hình
thức đầu tư dài hạn, có mức độ cao hơn để tìm kiếm lợi nhuận cao. Đối với
nguồn vốn đầu tư từ quỹ dự phòng mạo hiểm nhân thọ, do tính chất giải hạn
của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và nhu cầu chi trả có thể dự đoán khá
chính xác nên ngoài các hình thức đầu tư chủ yếu là cho vay có đảm bảo bằng
thế chấp, đầu tư chứng khoán (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty, trái
phiếu công trình), có thể lựa chọn các hình thức phù hợp với quy chế pháp
luật như cho vay theo Pháp lệnh ngân hàng, kinh doanh bất động sản…
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
95
Đa dạng hóa hoạt động đầu tư
Trước mắt, các doanh nghiệp nên ưu tiên cho hình thức đầu tư hiện có
nhiều ưu điểm về độ an toàn, tính thanh khoản và hiệu suất sinh lời là tiền gửi
tại các tổ chức tín dụng. Về lâu dài, để chuẩn bị cho tương lai, các chuyên
viên thực hiện công tác đầu tư cần tích cực tìm hiểu môi trường đầu tư, tích
luỹ những kiến thức về đầu tư kinh doanh trên các lĩnh vực, nhất là trên thị
trường chứng khoán ngay từ bây giờ.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
96
KẾT LUẬN
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử xã hội loài người, nó
ra đời là do nhu cầu khách quan của chính bản thân con người. Đời sống của
con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về mức độ bảo đảm an toàn
và nhu cầu về bảo hiểm ngày càng lớn và phong phú. Bảo hiểm ngày càng trở
nên quan trọng, nó là động lực phát triển kinh tế xã hội và ổn định đời sống
của mỗi cá nhân.
Trong thời gian vừa qua, thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển hết
sức nhanh chóng và trở thành một thị trường tiềm năng, hấp dẫn đối với các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với tiềm lực về vốn và kinh nghiệm kinh
doanh lâu năm. Với tiến trình mở của thị trường tài chính nói chung và thị
trường bảo hiểm nói riêng, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối đầu với sự
cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Mặc dù đã
có những bước phát triển vượt bậc, nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm Việt
Nam vẫn còn một số hạn chế về năng lực tài chính, nguồn nhân lực, sản phẩm
bảo hiểm, chất lượng cung ứng dịch vụ. Tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm của
toàn thị trường so với GDP còn rất nhỏ (2,2%). Năng lực tài chính của doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam vẫn còn hạn chế, tỷ trọng vốn điều lệ so với các
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài còn khoảng cách lớn. Hoạt động đầu tư tài
chính chưa đa dạng, chủ yếu sử dụng vốn để gửi tại các ngân hàng thương
mại hoặc mua trái phiếu Chính phủ. Trong kinh doanh bảo hiểm, cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chủ yếu tập trung vào hạ phí bảo hiểm,
tăng chi hoa hồng bảo hiểm, mở nhiều đại lý để tăng thị phần, tăng doanh thu
mà chưa chú trọng đến nâng cao chất lượng đại lý. Chất lượng nguồn nhân
lực còn chưa cao nên hiệu quả của hoạt động nghiệp vụ và hoạt động đầu tư
của các doanh nghiệp còn thấp. Cơ cấu sản phẩm bảo hiểm chưa thực sự
phong phú, chủ yếu tập trung vào các sản phẩm ngắn hạn nên đã hạn chế khả
năng huy động vốn dài hạn, nhiều loại sản phẩm bảo hiểm tiềm năng vẫn còn
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
97
bỏ ngỏ. Công nghệ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước còn nhiều bất cập. Chính những hạn chế này đã làm giảm năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước trong cuộc đua giành thị
phần bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài.
Vậy, để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các giải pháp
được đề ra đối với Nhà nước như: hoàn thiện hệ thống pháp luật cho hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng cho tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời, Nhà nước, Bộ chủ
quản, và Hiệp hội bảo hiểm tăng cường công tác kiểm tra giám sát hoạt động
kinh doanh bảo hiểm nhằm góp phần ổn định thị trường. Về phía doanh
nghiệp cũng cần có các biện pháp cụ thể để nâng cao năng lực tài chính,
nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm, năng lực quản lý…để có thể cạnh tranh
được với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, thậm chí với năng lực cạnh
tranh vượt trội hơn hẳn.
Thị trường Bảo hiểm Việt Nam còn tương đối non trẻ. Tuy nhiên tốc độ
tăng trưởng nhanh chóng của thị trường này kể từ khi Chính phủ Việt Nam
cho phép mở cửa thị trường đã cho thấy đây là một thị trường đầy tiềm năng.
Thời khắc Việt Nam gia nhập WTO đang đến gần, các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam đang ráo riết chuẩn bị cho sự kiện này. Trong đó, nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam là vấn đề được
quan tâm đặc biệt bởi các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam không muốn thị
trường bảo hiểm nội địa đầy tiềm năng rơi vào tay các doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. David Bland (1999), Bảo hiểm- Nguyên tắc và thực hành, Viện Bảo
hiểm Hoàng gia Anh, NXB Tài chính.
2. Phillip Kotler (2001), Principles of Marketing, Prentice Hall
3. Jerome Yeatman (2001), Giáo khoa quốc tế về bảo hiểm, trường Quốc
gia bảo hiểm Pari, NXB Thống kê.
4. Nguyễn Ngọc Định (1999), Lý thuyết về bảo hiểm, NXB Tài chính
5. Trần Vĩnh Đức (2003), Đánh giá quan điểm của Chính phủ Việt Nam
trong phát triển thị trường bảo hiểm, nhà xuất bản Thống kê.
6. PGS.TS. Trần Văn Trùng (2004), Cạnh tranh kinh tế, NXB Thế Giới.
7. Trần Sửu (2004), Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong
điều kiện toàn cầu hoá, NXB Lao Động
8. Bộ Tài chính (2006), Thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2005, NXB
Tài chính
9. Tạp chí Asian Insurance Review, số tháng 8, năm 2004.
10. Tạp chí Bảo hiểm năm 2004, 2005, 2006.
11. Tạp chí Tài chính năm 2006
12. Tạp chí Vneconomy, số tháng 6, năm 2005
13. Tạp chí Kinh tế phát triển 2005, 2006
14. Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc, Bộ kế hoạch đầu
tư (1999), Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, NXB Chính
trị quốc gia
15. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (2005), Bảo Việt 40 năm hình thành
và phát triển, NXB Tài chính.
16. Thủ tướng Chính phủ, Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt
Nam năm 2003-2010, NXB Tài chính.
Khoá luận tốt nghiệp
Phạm Ngọc Anh Lớp A11- K41D - KTNT
99
17. Viện Khoa học tài chính (2005), Báo cáo kết quả nghiên cứu đánh giá
tác động của việc mở cửa thị trường đối với ngành bảo hiểm Việt Nam,
NXB Tài chính.
18. Vụ quan hệ quốc tế (2001), Đánh giá tác động của Hiệp định thương
mại Việt Mỹ đối với lĩnh vực tài chính, Bộ Tài chính
19. Vụ tài chính ngân hàng (2005), Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh
của ngành tài chính dịch vụ, NXB Tài chính.
20. www.asianinsurancereview.com/news
21. wwww.baoviet.com.vn/thongtinthitruong
22. www.baohiempro.vn/diendan
23. www.aig.com/about us/2005 annual report
24. www.newyorklife.com/history
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3399_2546.pdf