Đề tài Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho hộ nông dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn cầu. Nó không chỉ là một thực tế đang diễn ra ở nước ta mà còn là một tồn tại phổ biến trên toàn thế giới và trong khu vực. Ngay cả những nước phát triển cao, vẫn còn một bộ phận dân cư sống ở mức nghèo khổ. So với năm 2008, số người nghèo trên thế giới năm 2009 đã tăng trên 100 triệu người. Thủ phạm chính của tình trạng này là cuộc khủng hoảng lương thực kết hợp với suy thoái kinh tế toàn cầu.Các nước thành viên của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) đã cam kết đến năm 2015 giảm một nửa số người bị đói trên thế giới. Nhưng từ đó đến nay, số người bị đói trên thế giới đã tăng từ 850 triệu người lên gần một tỷ người và cứ 6 giây có một đứa trẻ bị chết đói. Theo các bản báo cáo của FAO, từ nay đến năm 2050, sản xuất nông nghiệp phải tăng 70% mới có thể có đủ lương thực để nuôi 9 tỷ người trên thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới, giá lương thực lên cao làm tăng ngay số người nghèo đói lên và sự giảm sút về thu nhập trên toàn cầu cũng là một nguyên nhân làm cho tình trạng nghèo đói tồi tệ hơn. Điều trớ trêu là hầu hết những người nghèo đói của thế giới lại là nông dân, những người sản xuất ra lương thực. Thực tế, hơn 60% người dân châu Phi làm việc ở nông thôn, trồng trọt và chăn nuôi súc vật, chỉ kiếm được chưa đầy 1 USD/ngày. Năng suất các vụ mùa của họ chỉ bằng 20% năng suất các vụ mùa ở châu Âu và Mỹ, bởi vì họ không tiếp cận được với tất cả những điều kiện cần thiết để tăng sản lượng như giống, phân bón, nước, điện, kỹ thuật và khả năng tiếp cận thị trường. Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất nông nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữ vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã vững vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo). Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số liệu trẻ em suy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991, vấn đề xoá đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển khai thành phong trào xoá đói giảm nghèo. Hiện nay, theo chuẩn nghèo quốc gia thì tỷ lệ số hộ nghèo toàn quốc đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 14,8% năm 2007; theo chuẩn quốc tế thì từ 58% năm 1993 xuống còn 24% vào năm 2004, năm 2008 13,4% và còn 12,3% vào năm 2009. Việt Nam đã sớm đạt mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được nước ta cũng còn rất nhiều huyện, xã chưa giải quyết tận gốc vấn đề nghèo đói. Những kết quả đạt được chưa mang tính bền vững bởi vì thu nhập của người dân hầu hết đều xoay quanh ở mức cận nghèo. Do vậy rất dễ rơi vầo tình trạng tái nghèo khi gập những tác động không thuận lợi tới đời sống và sản xuất của họ. Đặc biệt đối với hộ nông dân miền núi, nơi có những khó khăn về mặt địa hình, kinh tế xã hội, trình độ dân trí thấp, cơ sở hạ tầng kém phát triển, trình độ sản xuất hàng hoá và tiếp cận thị trường còn hạn chế . Hiện nay, trong tổng số những người nghèo của cả nước, có tới 85% số người nghèo tập trung ở nông thôn và 1/3 trong số đó tập trung tại khu vực miền núi. để đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nước ta từ nay đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì vấn đề xoá đói giảm nghèo cần được ưu tiên thực hiện hàng đầu. Xoá đói giảm nghèo cũng như chữa bệnh, điều cốt lõi là phải tìm ra được đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói? Trong đó, nguyên nhân nào là nguyên nhân chính? Từ đó đề ra được những giải pháp đúng dắn nhất, hiệu quả nhất nhằm giúp người dân xoá nghèo. Võ Nhai là huyện vùng cao của tỉnh Thái Nguyên, trung tâm huyện cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 37 km về phía Đông - Bắc. Toàn huyện có 14 xã, 1 thị trấn với 172 xóm, bản gồm 16.296 hộ dân. Hiện nay 11/15xã là xã có hoàn cảnh kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo chương trình 135. Mặc dù được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm đầu tư, Võ Nhai vẫn là huyện nghèo nhất của tỉnh Thái Nguyên. Võ Nhai là huyện vùng cao nên thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp, chỉ đạt khoảng 2.100.000 đồng/người/năm. Năm 2006 toàn huyện có 7.237 hộ nghèo chiếm 52,4%, đến năm 2009 còn 4.079 hộ nghèo chiếm 25,03%. Do vậy xoá đói giảm nghèo của huyện Võ Nhai vẫn là một yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi địa phương cũng như Trung ương phải sớm tìm gia những giải pháp hỗ trợ người dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập tiến tới “thoát nghèo”.

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3174 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu và đề xuất một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho hộ nông dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong nhiều lĩnh vực. Biểu hiện dễ thấy nhất của nghèo đói tại Ấn Độ là thu nhập quốc dân chỉ mới đạt 820 USD/người trong năm 2006 và tính theo sức mua tương đương (PPP) mới đạt 3.800 USD/người. 70% dân số sống ở nông thôn, trong đó chỉ có 56% hộ được sử dụng điện, 52% số hộ không có nhà vệ sinh, 85% số hộ được dùng nước sạch, 61% dân số biết chữ. Chỉ số về giáo dục của Ấn Độ là 0,61, trong khi đó, chỉ số này ở Dim-ba-bu-ê là 0,77, Trung Quốc là 0,84. Về chỉ số phát triển con người (HDI), Ấn Độ đứng thứ 126/177 nước. 47% trẻ em dưới 5 tuổi ở đây bị thiếu cân (Trung Quốc chỉ có 8%, Dim-ba-bu-ê là 13%). Chênh lệch thu nhập cũng là vấn đề lớn: 39% dân số nông thôn chỉ sở hữu 5% số tài sản, trong khi đó, 8% những người giàu có chiếm tới 46% số tài sản cả nước. Những người nghèo nhất ở nông thôn Ấn Độ chỉ chi tiêu 0,2 USD/ngày. Chỉ số đói toàn cầu (GHI) của Ấn Độ đứng thứ 96/119 nước, trong khi đó, Nê-pan đứng thứ 92, Pa-ki-xtan ở vị trí thứ 88. 80% dân số sống dưới 2 USD/người/ngày. Nghèo đói dẫn tới 15 triệu trẻ em Ấn Độ phải lao động kiếm sống - là mức cao nhất thế giới Để giải quyết cơ bản vấn đề nghèo đói, trước mắt, Ấn Độ đã tăng đầu tư cho nông nghiệp. Năm 1995-1996 Ấn Độ chi 4,1 tỉ USD cho nông nghiệp nhưng năm 2006-2007 tăng lên 19,5 tỉ USD. Đây là mức tăng đáng kể dành cho nông nghiệp. Dự kiến, từ năm 2007 đến năm 2010, Ngân hàng trung ương Ấn Độ sẽ cho nông nghiệp vay gấp 2 lần. Ngân hàng lớn nhất là SBI sẽ mở thêm từ 5.000 đến 6.000 chi nhánh tại nông thôn, để vừa mở rộng kinh doanh, vừa thực hiện chủ trương tăng cường đầu tư cho nông nghiệp. Phát triển nông nghiệp, tăng cường sản xuất lương thực là một nhiệm vụ trọng tâm của kinh tế Ấn Độ. Để đạt chỉ tiêu 175 kg ngũ cốc/người, 11 kg đỗ/người vào năm 2012, Chính phủ Ấn Độ đã chi 1,2 tỉ USD cho Ủy ban An ninh lương thực, để tăng sản xuất gạo, đậu đỗ, lúa mì… và tiến hành kế hoạch chăn nuôi, nâng cấp đàn gia súc nhằm tăng lượng sữa, trứng, thịt. Một trong những trọng tâm để Ấn Độ có mức tăng trưởng từ 9 đến 10% trong kế hoạch XI là phải “cải thiện kết cấu hạ tầng nông thôn”. Ấn Độ sẽ tăng vốn để phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn từ 3 tỉ USD năm 2007 lên 3,5 tỉ USD năm 2008. Bộ Tài chính cũng tăng tín dụng phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp từ 56,25 tỉ USD năm 2007-2008 lên 62,5 tỉ USD năm 2008-2009. Ngân hàng phát triển nông nghiệp Ấn Độ sẽ cung cấp 6,7 triệu USD cho quỹ phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Cũng về cơ sở hạ tầng, để giúp nông dân giảm bớt khó khăn, Ấn Độ đang thúc đẩy thành lập 31 đặc khu nông nghiệp, 12 khu xuất khẩu nông sản (AEZ), một trung tâm trưng bày nông sản với chi phí hơn 5 tỉ USD và 30 công viên lương thực lớn (chi phí khoảng 4 tỉ USD). Các khu này sẽ tăng cường quản lý sau thu hoạch, cất trữ, kết nối sản xuất với các sân bay, bến cảng... để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Về thủy lợi, Ấn Độ đang có kế hoạch liên kết 14 sông lớn ở vùng Hi-ma-lay-a với 17 sông ở phía Nam, để phân bổ lại khoảng 173 tỉ m3 khối nước/năm, từ đó, đưa sản lượng lương thực của Ấn Độ từ hơn 200 triệu tấn hiện nay lên 450 triệu tấn vào năm 2050. Kết quả này sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc xoá đói giảm nghèo. Đồng thời, Chính phủ đã chi 3,3 tỉ USD cho 300 dự án, chương trình chống lũ lụt ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Về năng lượng, Ấn Độ thực hiện ưu tiên điện khí hoá nông thôn và đang xây dựng hệ thống năng lượng cho khu vực này. Trọng tâm là khai thác năng lượng tái sinh như khí sinh học, năng lượng mặt trời, gió, thuỷ điện nhỏ, để trong 5 năm tới sẽ cung cấp điện cho 75 triệu nông hộ. Ấn Độ cũng đã tăng chi cho xóa đói giảm nghèo và coi đây là mục tiêu quan trọng, là chương trình lớn trong các kế hoạch dài hạn. Ngày 15-8-1995, Ấn Độ đã đưa ra Kế hoạch quốc gia về hỗ trợ xã hội cho những người sống dưới mức nghèo khổ: những người nghèo trên 65 tuổi sẽ được trợ cấp 2 USD/tháng; hỗ trợ từ 130 đến 250 USD cho những gia đình nghèo có người chết; hỗ trợ 10 USD cho những phụ nữ trên 19 tuổi trong 2 lần sinh đầu. Từ năm 1999, Ấn Độ đã thực hiện hỗ trợ 10 kg lương thực cho những người già không có lương hưu. Gần đây, chương trình này đã mở rộng cho cả những người có lương hưu. Ngày 25-9-2001, Ấn Độ đưa ra chương trình bảo đảm lương thực và việc làm cho nông thôn, chương trình nhà ở, chương trình bảo đảm lợi ích người lao động trong khu vực nông nghiệp… Năm 2006, Chính phủ đã đầu tư 800 triệu USD vào những vùng lạc hậu; năm 2007, lập quỹ 700 triệu USD giúp những vùng nông thôn lạc hậu. Trong kế hoạch lần thứ XI, Ấn Độ sẽ đưa ra chương trình đặc biệt để phát triển kinh tế cho 75 nhóm lạc hậu đang sống trong những điều kiện hết sức nghèo nàn. Cũng trong kế hoạch lần này, Ấn Độ sẽ chi 1 tỉ USD để xóa bỏ tình trạng lao động trẻ em. Tăng trợ cấp sản xuất nông nghiệp cũng là một biện pháp quan trọng để xóa đói giảm nghèo. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ X, Ấn Độ đã hỗ trợ sản xuất nông nghiệp là 18 tỉ USD và kế hoạch lần thứ XI là 27 tỉ USD. Trợ cấp trong từng ngành là rất cụ thể: tháng 3-2007, trợ cấp vận chuyển đường là 37USD/tấn; Ngành chè được trợ cấp 22 triệu USD; Mỗi ha chuối được trợ cấp 700 USD để tăng cường sản xuất và xuất khẩu. Chính phủ đã chi 11 tỉ USD để trợ giá phân bón trong năm 2007-2008 và năm 2008-2009 sẽ là 16 tỉ USD. Mỗi hộ nông dân sẽ được trợ cấp 150 USD tiền điện. Bảo hiểm nông nghiệp sẽ tăng từ 16% lên 80-90% số nông hộ. Năm 2008, Chính phủ sẽ xóa nợ cho nông dân 15 tỉ USD, giảm thuế cho những hộ có diện tích dưới 3 ha. Khoảng 30 triệu nông dân đang mắc nợ sẽ được lợi từ kế hoạch này. Tạo việc làm là một trong những biện pháp quan trọng để xóa đói giảm nghèo. Chính vì thế, chương trình việc làm luôn luôn là một nội dung quan trọng trong các kế hoạch của Chính phủ. Tháng 8-2005, Ấn Độ thông qua Luật Bảo đảm việc làm cho nông dân - một trong những văn bản pháp lý quan trọng nhất được ban hành từ khi Ấn Độ giành được độc lập. Luật này sẽ bảo đảm về pháp lý để mỗi nông dân có đủ 100 ngày có việc làm/năm, với mức lương 1,5 USD/ngày. Nếu không có việc làm, nông dân sẽ nhận được một khoản trợ cấp thất nghiệp. Giai đoạn đầu, chương trình này sẽ áp dụng trong 200 huyện; 4 năm tiếp theo sẽ mở rộng ra toàn Ấn Độ. Theo nhiều đánh giá, chương trình này được coi là có nhiều kì vọng nhất trên thế giới để xóa đói giảm nghèo. Triển khai Luật trên, năm 2005-2006 Ấn Độ đã chi 3 tỉ USD, năm 2006-2007 là 2,7 tỉ USD và năm 2007-2008 là 2,8 tỉ USD cho chương trình việc làm nông thôn. Gần đây, Ấn Độ đã mở rộng Luật trên, tăng chi tiêu để trong 7 năm tới tạo thêm 50 triệu việc làm. Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, Ấn Độ đã nhận được sự giúp đỡ hết sức tích cực của quốc tế. Ngân hàng thế giới (WB) đã cho Ấn Độ vay nhiều nhất, với 3,75 tỉ USD, bằng 15% tổng mức cho vay của WB trong năm 2007. Trong lượng vốn trên, một phần quan trọng đã được đưa vào nông nghiệp, nông thôn, vừa giúp Ấn Độ phát triển các lĩnh vực nói chung, vừa tăng cường công cuộc xóa đói giảm nghèo tại nông thôn. WB đã cấp 225 triệu USD để xóa đói giảm nghèo tại bang Mát-hi-a (Madhya). WB cũng giúp 463 triệu USD cho bang Bi-ha - bang nghèo nhất Ấn Độ, với 44% dân số nghèo khổ. Năm 2007, WB đã cho Ấn Độ vay thêm 600 triệu USD để trợ giúp các trang trại, 944 triệu USD để tăng cường hệ thống tài chính nông thôn, thực hiện bảo hiểm nông nghiệp và các dự án quản lý nguồn nước. Cùng với WB, không kể các khoản vốn đã cấp, từ 2007-2010 Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) sẽ cho các bang nghèo nhất của Ấn Độ vay 2,1 tỉ và sẽ đầu tư thêm 9,2 tỉ USD vào cơ sở hạ tầng, nhất là cho những bang nghèo như Bi-ha (Bihar), Giắc-hen (Jharkhand). Thủ tướng Anh, trong chuyến thăm Ấn Độ tháng 1-2008 đã tuyên bố viện trợ phát triển 1,6 tỉ USD cho những bang nghèo nhất của Ấn Độ. Nhờ những cố gắng trên, nghèo đói ở Ấn Độ đã giảm nhiều. Các chỉ số xã hội như thu nhập, giáo dục, y tế, giao thông, điện, nước uống… ở hầu hết những vùng nông thôn nghèo đã được cải thiện đáng kể từ năm 1991. Tỷ lệ nghèo ở nông thôn đã giảm từ 45,76% trong năm 1983 xuống 37,26% trong năm 1994 và 29,18% trong năm 2005. Số lượng người nghèo tương ứng với các thời điểm trên là 252,05 triệu; 247,8 triệu và 232,16 triệu. Đa số nông dân đã có đủ lương thực, với tỷ lệ đủ ăn tăng từ 94,5% (năm 1994-1995) lên 97,1% (năm 2004-2005). Những thành tựu nông nghiệp đã giúp Chính phủ cung cấp lương thực cho những người nghèo nhất. Phân phối lương thực đã tăng từ 10 kg, lên 20 kg và đến tháng 7-2001 là 25 kg/gia đình/tháng. Chính phủ cũng đã bỏ ra hàng triệu tấn lương thực để cứu trợ những vùng bị thiên tai. Việc phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn đã giải quyết nhiều việc làm cho nông dân, qua đó, giúp họ cải thiện, ổn định đời sống. Một trong những thành tựu đáng kể của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Ấn Độ là đã thực hiện bữa ăn trưa miễn phí cho 120 triệu trẻ em, chủ yếu ở nông thôn. Chính phủ sẽ chi thêm 10,7 tỉ USD cho kế hoạch này. Về chương trình hỗ trợ xã hội, lương hưu cho người nghèo trên 65 tuổi sẽ tăng từ 1,5USD/tháng lên 4,5 USD/tháng. Sau 17 năm cải cách, mức tiêu dùng ở nông thôn Ấn Độ đã tăng lên. Số hộ dùng ga tăng gấp 6 lần. Chi tiêu cho giáo dục từ năm 1999-2000 đến năm 2004-2005 tăng từ 29% lên 44% 1.1.2.3 Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo của Thái Lan Thông qua chính sách phát triển, Thái Lan thực hiện việc loại trừ đói nghèo ở vùng trọng điểm. Từ năm 1980 đến nay, Thái Lan áp dụng mô hình gắn liền chính sách quốc gia với chính sách phát triển nông thôn thông qua việc phát triển nông thon, phát triển các xí nghiệp ở các làng quê nghèo, phát triển doanh nghiệp nhỏ, mở rộng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để giảm bớt nghèo khổ. Chính phủ ban hành chính sách cải cách ruộng đất, theo đó người nông dân được quyền làm chủ về đất đai, Nhà nước tạo điều kiện để họ có khả năng tích tụ ruộng đất, mở rộng quy mô, hướng nông dân đi vào sản xuất hàng hoá. Thái Lan đã thực hiện tốt mô hình đổi mới Hợp tác xã nông nghiệp theo hình thức tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, hoạt động của Hợp tác xã chủ yếu mang tính chất dịch vụ. Kết quả là người nghèo ở Thái Lan từ 30% dân số trong thập niên 80 đã giảm xuống 23% vào năm 1990 (3 triệu người) 1.1.2.4 Tình hình nghèo đói của Việt Nam- Kinh nghiệm và giải pháp a. Tình hình nghèo đói của Việt Nam Ở Việt Nam, đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững luôn luôn được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong gần 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn nước ta, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được thành tựu đáng kể, có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc phòng, phát huy được bản chất tốt đẹp của dân tộc ta và góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh trong khoảng thời gian 5 năm từ 17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống còn 8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ, bình quân mỗi năm giảm 34 vạn hộ, đến cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. "Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế". Đó là đánh giá trong "Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004" của Ngân hàng thế giới. Do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng với định hướng chung là từng bước tiếp cận với trình độ của các nước đang phát triển trong khu vực, nên chuẩn nghèo đã được điều chỉnh lại, trong đó có tính đến các nhân tố ảnh hưởng. Với sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong nhiều năm qua, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Tình hình nghèo đói của Việt Nam trong những năm qua được thể hiện qua bảng sau: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới của Chính phủ giai đoạn 2006-2010 Đơn vị tính: % Khu vực Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Chung cả nước 18,1 15,5 13,4 I. Phân theo khu vực Thành thị - Nông thôn 1. Thành thị 8,6 7,7 6,7 2. Nông thôn 21,2 17,0 16,1 II. Phân theo vùng 1. Đồng bằn sông Hồng 12,7 10,0 8,6 2. Trung du và miền núi phía Bắc 29,4 27,5 25,1 3. Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung 25,3 22,2 19,2 4. Tây Nguyên 29,2 24,0 21,0 5. Đông Nam Bộ 4,6 3,1 2,5 6. Đồng bằng sông Cửu Long 15,3 13,0 11,4 Như vậy ta thấy theo chuẩn nghèo giai đoạn năm 2006-2010 của Chính phủ thì tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước giảm từ 15,5% năm 2006 xuống mức 13,4% năm 2008. Vùng trung du và miền núi phía bắc là vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất nước 25,1% (2008), vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ là 2,5% (2008). Theo dự báo tỷ lệ hộ nghèo của nước ta có thể giảm xuống mức 10% trong năm 2010. Tuy đạt được nhiều thành công, song nước ta vẫn còn một số tồn tại trong xoá đói giảm nghèo như: - Chuẩn nghèo của nước ta còn cách xa so với chuẩn nghèo thế giới. - Kết quả xoá đói giảm nghèo không mang tính bền vững, tỷ lệ hộ dân có thu nhập quanh mức chuẩn nghèo còn cao do đó khi có sự biến động về chuẩn nghèo hoặc những tác động của các yếu tố ngoại cảnh rất dễ dẫn đến tình trạng tái nghèo. - Hầu hết số người nghèo đói của nước ta đều tập trung ở khu vực nông thôn, nơi khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Điều này gây trở ngại cho công tác xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Ngân hàng thế gới Đơn vị tính: % Khu vực Năm 1998 Năm 2002 Năm 2004 Năm 2006 Năm 2008 Chung cả nước 37,4 28,9 19,5 16,0 14,5 I. Phân theo khu vực Thành thị - Nông thôn 1. Thành thị 9,5 6,6 3,6 3,9 3,3 2. Nông thôn 44,9 35,6 25,0 20,4 18,7 II. Phân theo vùng 1. Đồng bằn sông Hồng 30,7 21,5 11,8 8,9 8,0 2. Trung du và miền núi phía Bắc 64,5 47,9 38,3 32,3 31,6 3. Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung 42,5 35,7 25,9 22,3 18,4 4. Tây Nguyên 52,4 51,8 33,1 28,6 24,1 5. Đông Nam Bộ 7,6 8,2 3,6 3,8 2,3 6. Đồng bằng sông Cửu Long 36,9 23,4 15,9 10,3 12,3 b. Kinh nghiệm Xoá đói giảm nghèo của tỉnh Hà Giang Trong 62 huyện nghèo nhất nước thì Hà Giang có tới 6/11 huyện thị nằm trong danh sách này. Những năm qua nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cùng với công tác chỉ đạo sát sao, xã hội hoá các nguồn lực,  phát huy tinh thần tương thân, tương ái của đồng bào dân tộc trong tỉnh mà công tác xoá nhà tạm, xoá đói giảm nghèo của Hà Giang đã đạt được kết quả rất tích cực. Tỷ lệ hộ nghèo trong tỉnh giảm nhanh từ 51,05% năm 2005 xuống còn 27,64% năm 2008, cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn đã có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trong đó, việc xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo là quan trọng và việc tác động làm thay đổi nhận thức của người dân về ý thức tự vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống, tránh trông chờ ỷ lại là điểm mấu chốt.  Những năm qua, nhiều cơ quan, doanh nghiệp đã rất tích cực trong công tác xoá đói giảm nghèo của tỉnh. Ngoài ra, tỉnh cũng phát động nhiều cuộc vận động thu hút các ngành và đông đảo cán bộ, đảng viên và tầng lớp nhân dân trong tỉnh giúp dân giảm nghèo. Tiêu biểu như cuộc vận động ủng hộ giống gia súc nuôi luân chuyển và phản nằm, màn cho các hộ nghèo, thu hút 633 cơ quan, trên 5 nghìn cán bộ, đảng viên tự nguyện trích một phần tiền lương và thu nhập để tham gia ủng hộ. Qua đó, hỗ trợ được 184 con trâu, 302 con bò, 4.374 con dê và trên 5 nghìn tấm phản nằm, với tổng số tiền lên tới 4,24 tỷ đồng, bảo đảm ít nhất mỗi hộ nghèo được hỗ trợ 1 con trâu (bò), hoặc từ 2 - 3 con dê sinh sản. Để làm được điều đó, tỉnh vận động các đồng chí ủy viên, lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể nêu cao tinh thần gương mẫu, mỗi đồng chí ủng hộ ít nhất 1 hộ nghèo trở lên, mỗi hộ 2 con dê, 1 tấm phản nằm, 1 chiếc màn; cán bộ công nhân viên mỗi người trích một phần thu nhập để trợ giúp giống trâu, bò, dê, lợn cho các hộ nghèo theo đơn vị đã được phân công phụ trách. Ngoài ra, các hộ có điều kiện sẽ giúp giống gia súc cho các hộ nghèo nuôi rẽ. Các huyện ít hộ nghèo sẽ giúp các huyện, xã có nhiều hộ nghèo hơn. Việc thống kê các hộ cần hỗ trợ phải được nêu tên, địa chỉ cụ thể rõ ràng. Gắn với cuộc vận động này, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh việc xoá nhà tạm để đảm bảo cho người dân có nơi an cư lạc nghiệp, qua đề án hỗ trợ thêm 5.836 hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định 167. Quá trình thực hiện cũng mang tính xã hội hoá cao, ngoài nguồn vốn của Nhà nước, các doanh nghiệp Trung ương cũng đã hỗ trợ rất nhiều, cùng với nguồn tài chính của gia đình, dòng họ, thôn xóm giúp đỡ. Việc huy động các nguồn tiền đóng góp ủng hộ đồng bào xây dựng nhà cũng được tỉnh cho từng sở, ban, ngành, doanh nghiệp phụ trách từng xã đặc biệt khó khăn một cách cụ thể. Ví dụ như huyện Mèo Vạc chỉ trong một thời gian ngắn đã huy động được 3 tỷ đồng hỗ trợ các hộ nghèo xoá nhà tạm.  Đến nay, tỉnh Hà Giang đã xoá được khoảng 14.000 căn nhà tạm. Riêng năm 2009, xoá được 6.287 căn nhà tạm thì có 2.212 nhà xây, 1.312 nhà trình tường, 1.372 nhà sàn và 1.048 nhà gỗ. Trong tổng số gần 140 tỷ dùng xoá nhà tạm thì nguồn tiền xã hội hoá chiếm tới 2/5. Nhiều ngôi nhà vững chắc đã được dựng lên đảm bảo theo những tiêu chí đã đặt ra tạo điều kiện cho bà con có chỗ ở tốt hơn d. Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo tại huyện Phú Ninh tỉnh Quảng Nam Hiện nay, toàn huyện Phú Ninh có diện tích tự nhiên 25.116ha, dân số trên 83 ngàn người. Cơ cấu của huyện nhiều năm qua phát triển theo hướng Nông nghiệp là chính. Tỷ lệ hộ nghèo còn khá cao, năm 2007 là gần 16%. Nguyên nhân nghèo là do một số địa phương dân cư ở không tập trung, địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, nhất là mùa mưa lũ, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân còn thiếu thốn, đầu tư chưa đồng bộ. Xuất phát điểm của huyện là nền kinh tế phát triển chậm, dân trí không đồng đều, tập quán canh tác nhiều địa phương còn lạc hậu, đội ngũ cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo ở cơ sở còn thiếu kinh nghiệm...  Trước thực trạng trên, Đảng bộ và chính quyền của huyện Phú Ninh sau khi được thành lập đã tập trung tuyên truyền giáo dục, nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện để mọi người, mọi ngành hiểu rõ tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo, tích cực tham gia thực hiện các biện pháp xoá đói giảm nghèo trên địa bàn. Huyện còn tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện bằng những chủ trương, giải pháp đồng bộ trong sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi, phát triển trang trại, phát triển thủ công nghiệp; tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi xã hội công cộng có liên quan trực tiếp đến sản xuất, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển và cải thiện đời sống nhân dân như: công trình thuỷ lợi kênh mương nội đồng, công trình nước sinh hoạt, hệ thống điện lưới quốc gia, làm đường giao thông, tổ chức đào tạo nghề; đẩy mạnh xuất khẩu lao động... Mục tiêu được đề ra đến năm 2010 toàn huyện phải giảm được số hộ nghèo xuống dưới 10%. Mỗi năm phấn đấu giải quyết việc làm mới cho từ 150-200 lao động thuộc diện hộ nghèo, giới thiệu từ 30-40 lao động được đi xuất khẩu lao động v.v... Thực tế cho thấy, sau gần 4 năm thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, đến nay, số hộ nghèo trên địa bàn huyện từ 15.99% năm 2007 giảm xuống còn hơn 14 % năm 2008. Hiện nay, số hộ nghèo do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự biến động của giá cả thị trường đang là một trong những thách thức lớn đối với huyện. Làm sao để tỷ lệ hộ đói nghèo của huyện giảm xuống nhanh chóng cũng là sự trăn trở đối với các cấp lãnh đạo địa phương ở huyện nhà. Để làm được điều đó, huyện uỷ Phú Ninh đã ra ban hành nhiều Đề án, Nghị quyết, chủ trương về xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng thâm canh tăng năng xuất và chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng mùa vụ, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để đạt hiệu quả cao trên một đơn vị diện tích. Nhờ có các giải pháp khả thi và do làm tốt các chủ trương về xoá đói giảm nghèo của tỉnh, huyện, xã nên năm 2008, đời sống của nhân dân trên địa bàn được nâng cao hơn. Cạnh đó, trong công tác này, huyện còn đề ra một số chương trình, dự án để phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo trên địa bàn như: dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, chương trình xã hội hóa trường học; đầu tư nâng cấp trạm y tế, chương trình giao thông nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường với tổng số tiền hàng tỷ đồng. Đặc biệt là từ sau khi thành lập đến nay, được sự quan tâm của Chính phủ và các cấp, các ngành, huyện Phú Ninh đã được đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân, làm thay đổi đáng kể bộ mặt nông thôn. Đến Phú Ninh hôm nay, nhiều xã đã có đường giao thông liên xã, có tuyến đường nhựa chạy qua, 6/10 xã đạt chuẩn về y tế, nhiều xã được đầu tư các công trình thuỷ lợi lớn nhỏ, có đường điện lưới quốc gia... Kết thúc năm 2008, tổng sản lượng lương thực tăng 5,1% so với năm 2007, giá trị thu nhập bình quân đạt 36,86 triệu đồng/ha canh tác hằng năm. Cơ cấu nội bộ ngành chuyển biến tích cực; diện tích cánh đồng cho thu nhập cao trên 80 triệu/ha đạt 454ha. Sản lượng cây lương thực có hạt tăng; năng suất lúa bình quân đạt 52.9 tạ/ha; công tác xây dựng cánh đồng cho thu nhập trên 80 triệu đồng/ha được tập trung triển khai thực hiện với diện tích hơn 450ha; nhiều xã khó khăn như Tam Lộc, Tam Lãnh, Tam Thành… đã được Đảng uỷ và chính quyền xã chỉ đạo các đoàn thể như: hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên... tín chấp vay vốn ngân hàng chính sách xã hội và tổ chức các lớp tập huấn đưa cây trồng, vật nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất để giúp các hội viên có vốn, có kiến thức phát triển kinh tế gia đình. Để tiếp tục thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo các tháng còn lại của năm 2008 và những năm tiếp theo, Phú Ninh đang tập trung phát triển nguồn lực, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển các thành phần kinh tế nhất là phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, xuất khẩu lao động phát triển tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại; đồng thời thực hiện có hiệu quả chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình, nhất là giảm tỷ lệ dân số; đồng thời vận động nhân dân thực hiện chính sách tiết kiệm, góp phần giảm nghèo ở các địa phương bằng các giải pháp mang tính khả thi cao như: Phát huy tốt nội lực trong nhân dân, tích cực tuyên truyền nhằm làm thay đổi nhận thức, nhằm xóa bỏ lối suy nghĩa trông chờ, ỷ nại vào sự giúp đỡ của Nhà nước, tự giác chuyển đổi cách nghĩ, cách làm, nhằm khai thác tiềm năng thế mạnh của địa phương để phát triển kinh tế, từng bước cải thiện đời sống cho nhân dân, góp phần xoá đói giảm nghèo làm giàu cho gia đình và cho quê hương. 1.1.2.5 Nguyên nhân dẫ đến đói nghèo ở Việt Nam Có thể nói có rất nhiều những nguyên nhân gây ra đói nghèo cho người dân, ở đây chúng tôi chỉ xin đưa ra một số nhóm nhừng nguyên nhân cơ bản nhất: a. Nguồn lực hạn chế Người nghèo thường thiếu nguồn lực, hộ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của hộ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo, cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án sản xuất tự cung, tự cấp là chính. Họ vẫn sử dụng những phương thức sản xuất truyền thống, sử dụng những phương pháp này dẫn đến giá trị sản phẩm không cao, năng xuất các loại cây trồng, vật nuôi thấp nên thiếu tính cạnh tranh trên thị trường và vì vậy đưa họ vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Bên cạnh đó, đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Nhiều những yếu tố đầu vào của sản xuất như giống, phân bón,.... đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị sản phấm sản xuất ra. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Sự hạn chế của các nguồn vốn là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ mới. Mặc dù trong chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã được tăng lên rất nhiều song vẫn còn khá nhiều người nghèo không có khả năng tiếp cận được tín dụng. Một mặt họ không có tài sản để thế chấp, mặt khác họ không xây dựng được kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng đồng vốn không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận nguồn vốn và cuối cùng càng làm cho họ nghèo hơn. b. Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định Người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do đó không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi đói nghèo. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp có ảnh hưởng tới các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái... đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thê hệ tương lai. Trình độ học vấn hạn chế cũng ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm việc làm trong khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. c. Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp. Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khó nắm bắt. Mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư.. hạn chế, phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã... chi phí dịch vụ pháp lý còn cao. d. Các nguyên nhân về nhân khẩu học Quy mô gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong gia đình. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo đói còn rất cao. Đông con, ít lao động là một trong những đặc điểm của các gia đình nghèo. Quy mô gia đình lớn làm tỷ lệ người ăn theo cao. e. Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng thiên tai và các rủi ro khác Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ khó có khả năng chống chọi với các bến cố xảy ra trong cuộc sống (như: thiên tai, mất mùa, mất việc làm, mất sức khoẻ, tai nạn ...). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình trong nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống gia đình của họ và gây ra tình trạng nghèo đói cho hộ. Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh cũng rất cao đối với người nghèo, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn chế làm cho hộ mất khả năng phục hồi rủi ro và có thể gặp rủi ro hơn nữa. f. Bệnh tất, sức khoẻ yếu cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. Vấn đề bệnh tật và sực khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và chi tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn đói nghèo, Họ phải gánh chịu 2 gánh nặng: Một là mất đi thu nhập từ lao động, hai là chịu chi phí khám chữa bệnh, kể cả chi phí trực tiếp và gián tiếp. g. Những tác động của chính sách vĩ mô và chính sách cải cách (tự do hoá thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước...) đến đói nghèo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong thời gian qua là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới mức giảm nghèo. Việt Nam đã đạt được những thành tựu giảm nghèo rất đa dạng và trên diện rộng. Tuy nhiên quá trình phát triển và mở của nền kinh tế cũng có những tác động tiêu cực đền người nghèo. - Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý: Tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi, các trục công nghiệp chính, chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, chưa chú trong đầu tư cho những ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động....... - Cải cách các Doanh nghiệp nhà nước và các khó khăn về tài chính của các doanh nhgiệp nhà nước đã dẫn đến việc mất đi nhiều việc làm trong giai đoạn đầu cải cách. Nhiều công nhân mất việc làm đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm việc làm mới và bị rơi vào nghèo đói. Phần lớn số người này là phụ nữ, người có trình độ thấp và người lớn tuổi. - Chính sách cải cách kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tự do hoá thương mại đã tạo ra những động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên một số ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tạo việc làm chưa quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp….. dẫn đến nhiều doanh nghiệp bị phá sản và đẩy công nhân vào thất nghiệp dẫn đến nghèo đói. - Tăng trưởng kinh tế giúp xoá đói giảm nghèo trên diện rộng, song việc tình trạng của người nghèo (về thu nhập, khả năng tiếp cận, phát triển các nguồn lực) lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích và tăng trưởng giữa các tầng lớp dân cư không bình đẳng, điều này dẫn đến khoảng cách giầu nghèo trong xã hội ngày càng tăng lên. - Kết cầu hạ tầng giao thông đến các vùng xâu, vùng xa, vùng đói nghèo vừa thiếu vừa yếu. Việc tiếp cận các vùng này còn gặp nhiều khó khăn. Vốn đầu tư của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của toàn dân còn hạn chế, chủ yếu bằng lao động. Trên đây là một số những nguyên nhân và ảnh hưởng đến tình hình nghèo đói trong dân cư. Tuy nhiên, đối với những địa phương khác nhau thì có thể có những nguyên nhân khác nhau. Ngay trong bản thân các hộ nông dân cũng có thể có một hoặc một số các nguyên nhân tác động gây ra tình trạng nghèo đói, có những nguyên nhân chủ quan nhưng cũng có những nguyên nhân khách quan. Điều mấu chốt trong nghiên cứu đói nghèo là phải tìm ra được những nguyên nhân tác động tới hộ cũng như đâu là nguyên nhân cơ bản nhất? 1.1.2.6 Những giải pháp trong chiến lược xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam. Để xây dựng được những giải pháp xoá đói giảm nghèo của một vùng, một quốc gia phải được dựa trên điều kiện thực tế của địa phương. Trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng xoá đói giảm nghèo của Việt Nam, dựa vào những bài học kinh nghiệm trong quãng thời gian thực hiện xoá đói giảm nghèo vừa qua với những thành công đã đạt được. Việt Nam đã đúc kết lại một số giải pháp mang tính chất chính sách và định hướng để xoá đói giảm nghèo sau: - Đầu tư cơ sở hạ tầng như hệ thống điện, đường, trường, trạm cho các xã nghèo và các xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, xã vùng cao. Đầu tư cơ sở hạ tầng là một giải pháp mang tính chiến lược để xoá đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách giữa vùng phát triển và vunùg chậm phát triển. Việt Nam thực hiện thành công các giải pháp này thông qua các chương trình như 134. 135, 156, … Cụ thể năm 20002, cả nước có 2.362 xã thuộc chương trình 135 với tổng số vốn đầu tư là 1.149.500 triệu đồng. Có thể nói việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo không những tạo điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho người dân cả về vật chất lẫn tinh thần mà còn tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hoá, xoá bỏ khoảng cách giữa các vùng. - Hoàn thiện hệ thống các chính sách xoá đói giảm nghèo. Để công tác xoá đói giảm nghèo được thành công mang tính bền vững đòi hỏi nhà nước và các cơ quan quản lý cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ từ trung ương đến địa phương. - Xây dựng đào tạo đội ngũ cán bộ xoá đói giảm nghèo đầy đủ về năng lực và phẩm chất. - Bố trí thời vụ cây trồng vật nuôi hợp lý với điều kiện thời tiết khí hậu cụ thể của từng vùng. - Thực hiện tốt chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với hộ nghèo, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn. - Tăng cường công tác giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao hiểu biết cho người dân về kiến thức sản xuất trồng trọt, chăn nuôi và cả lĩnh vực kinh tế thị trường. - Thực hiện tốt công tác dân số kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm tỷ lệ sinh trong các hộ nhất là đối với hộ nghèo. - Thực hiện đào tạo nghề, mở một số ngành nghề phụ để tăng cường thu nhập giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động địa phương - Thực hiện tốt các chính sách xã hội khác như y tế, giáo dục, an ninh ….. 1.1.2.7 Những thành tựu trong xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam Việt Nam được đánh giá là đạt được nhiều thành công trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, với kết quả đạt được thông qua các khía cạnh như sau: - Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến mức giảm tỷ lệ nghèo đói, trong đó phát triển sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và kinh tế nông thôn có vai trò đặc biệt quan trọng. Tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra sự tích luỹ, từ đó có nguồn vốn để thực hiện xoá đói giảm nghèo. Ngược lại, xoá đói giảm nghèo tạo điều kiện để tăng trưởng bền vững và sự ổn định về chính trị cũng giúp kinh tế tăng trưởng. Sau 20 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam có những thay đổi cơ bản về các quan hệ kinh tế - xã hội, đưa đến một giai đoạn phát triển kinh tế và giảm tỷ lệ đói nghèo chưa từng thấy trong bốn thập kỷ của chiến tranh, khó khăn trong phát triển kinh tế. Cơ chế kinh tế mới đã tạo ra nhừng nhân tố cho tăng trưởng kinh tế với các kết quả đầy ấn tượng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1991-2000 đạt 7,5%/năm, xuất khẩu tăng nhanh, từng bước kiểm soát được lạm phát và ổn định giá cả. Trong sản xuất nông nghiệp, Việt Nam từng là một nước nhập khẩu lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Bên cạnh những thành tựu về tăng trưởng kinh tế, công tác xoá đói giảm nghèo cũng thu được nhiều thành công, từ 70% năm 1990 xuống 14,5 % năm 2008 (theo chuẩn nghèo của WB). Về điểm này, Việt Nam đã sớm hoàn thành mự tiêu thiên niên kỷ do Liên Hợp Quốc đề ra gia đoạn 1990 -2015 vào năm 2004. - Nguồn lực cho công tác xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm được tăng cường. Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, song Nhà nước đã đầu tư cho các chương trình quốc gia phục vụ xoá đói giảm nghèo thông qua các chương trình đầu tư cơ sở hại tầng cho các xã nghèo (chương trình 134, 135, ….). Công cuộc xoá đói giảm nghèo của Việt Nam những năm qua còn nhận được sự giúp đỡ của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ về nhiều mặt như kinh nghiệm, kỹ thuật và nguồn vốn …. dưới hình thức không hoàn lại và tín dụng ưu đãi. Đây là yếu tố rất quan trọng, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh công tác xoá đói giảm nghèo. - Tỷ lệ các xã không có hoặc thiếu cơ sở hạ tầng thiết yếu đã giảm. Xây dựng những công trình hại tầng thiết yếu phục vụ cho hoạt động sản xuất và đời sống là hết sức quan trọng, nó góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất và nâng cao đời sống của người dân về nhiều mặt. Nhận thức được điều đó, trong 2 năm (1999-2000) đã đầu tư 6.500 công trình cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo (trong đó Ngân sách Nhàn nước đầu tư trực tiếp cho 1.200 xã năm 1999 và 1.870 xã năm 2000, ngân sách địa phương đầu tư cho 650 xã nghèo khác), bình quân mỗi xã đầu tư 2,5 công trình. Ngoài ra các địa phương còn huy động được 17 triệu ngày công lao động của nhân dân tham gia xây dựng công trình, huy động vốn góp bằng tiền và hiện vật trong nhân dân với giá trị hàng chục tỷ đồng. Đến năm 2001 đã có trên 5.000 công trình hoàn thành và được đưa vào sử dụng. - Năng lực cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo đã được nâng lên. Tính đến cuối năm 2000 đã có 1.798 thuộc 22 tỉnh, thành phố có các bộ phận và cán bộ chuyên trách xoá đói giảm nghèo tại chỗ. Đây là bộ phận nòng cốt được trang bị những kiến thức giúp người dân thực hiện chương trình trên địa bàn, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. - Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách giải quyết việc làm, tạo cơ hội để người lao động có thể chủ động tìm hoặc tự tạo việc làm kết hợp với sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng. - Đời sống dân cư nhiều vùng được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh những thành tựu mà công cuộc xoá đói giảm nghèo đã đạt được như nêu trên, Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình thực hiện mục tiêu của mình. 1.1.2.8 Những thách thức đối với xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam Trong quá trình thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, Việt Nam phải đối mặt với những thách thức cả cũ và mới như: - Tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Việt Nam đã đạt được thành công lớn trong việc giảm tỷ lệ người dân sống dưới mức nghèo đói theo tiêu chuẩn của Việt Nam. Tuy nhiên, chuẩn nghèo của Việt Nam rất thấp so với các nước trong khu vực, cũng như chuẩn nghèo của thế giới do WB đưa ra. Điều đó cho thấy những thành công của Việt Nam nếu đem ra so sánh với các nước trong khu vực thì chúng ta còn thua kém rất nhiều. Tính đến năm năm 2010 Việt Nam còn khoảng 10% hộ nghèo (theo tiêu chuẩn của Việt Nam), tỷ lệ này vẫn cao nếu tính theo tiêu chí của WB. Một vấn đề nữa đó là nghèo đói phân bố không đều giữa các vùng, chủ yếu tập trung ở các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng hay bị thiên tai…. - Trong tiến trình mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, thách thức do phải cạnh tranh gay gắt trên trường Quốc tế, trong khi chất lượng phát triển còn thấp, hiệu quả chưa cao, sức cạnh tranh kém, nhất là giá cả nông sản không ổn định. Như chúng ta đã biết, tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam chủ yếu tập trung ở nông thôn (năm 2008 tỷ lệ này là 85%), nơi mà người dân sống chủ yếu vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính. Khi giá cả nông sản bấp bênh và đi xuống thì đây cũng là nguyên nhân khiến các hộ gia đình nghèo ở nông thôn không có cơ hội tăng thu nhập của mình để thoát nghèo. - Mục tiêu xoá đói giảm nghèo phải tiếp tục được mở rộng thêm về nội dung và thay đổi về chất. Khi mà đời sống xã hội ngày càng đi lên, người dân không chỉ cần đáp ứng đủ nhu cầu về ăn mà cần phải thoả mãn các nhu cầu khác như: mặc ấm, nhà ở không dột nát, ốm đau được chữa bệnh, trẻ em được đi học … bên cạnh đó còn phải tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận các dịch vụ xã hội, trợ giúp pháp luật, có cơ chế bảo vệ quyền lưọi cho người nghèo ….. - Sự chênh lệch thu nhập, mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi và vùng đồng bằng, giữa các tầng lớp dân cư, giữa vùng giàu và vùng nghèo tiếp tục gia tăng. - Những thành tựu xoá đói giảm nghèo đã đạt được còn thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo còn rất lớn. Đa phần người dân nông thôn có mức sống thấp, thu nhập bình quân xoay quanh chuẩn nghèo, điều này dẫn đến những thành tựu không mang tính bền vững, người nghèo dễ bị tổn thương trước những rủi ro của cuộc sống như: ốm đau, tai nạn, mất mùa, dịch bệnh, thiên tai … Khi những yếu tố này xảy ra, người nghèo rất dễ rơi vào tình trạng tái nghèo. - Nguồn lực trong nước còn hạn hẹp Việt Nam mới thực hiện mở của nền kinh tế được hơn 10 năm, mặc dù nền kinh tế đã gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên mức tích luỹ của nền kinh tế còn thấp, trong khi đó chúng ta vừa phải đầu tư cho phát triển chung của đất nước, vừa phải đầu tư cho xoá đói giảm nghèo. Hiện nay chúng tay dựa rất nhiều vào nguồn vốn vay cũng như viện trợ từ bên ngoài, việc làm này tuy đem lại được rất nhiều lợi ích, song nếu chúng ta thực hiện quản lý, sử dụng các nguồn vốn này không tốt thì sẽ là gánh nặng cho các thế hệ tương lai. - Lao động dư thừa nhiều, tỷ lệ lao động được đào tạo thấp. Tỷ lệ lao động khu vực nông thôn còn cao, chếm khoảng 70% lao động xã hội, trong khi đó việc làm trong khu vực nông thôn không nhiều, tình trạng bán thất nghiệp do tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Trong các khu vực thành thị hoặc ven đô thị, do tác động của tình trạng nhập cư, mất đất sản xuất, đô thị hoá … tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng trở lại, nhất là trong các đô thị và thành phố lớn. - Các cơ chế, chính sách xoá đói giảm nghèo và hỗ trợ cho người nghèo tuy đã triển khai thực hiện nhưng chưa đầy đủ vvà đồng bộ, chưa rõ ràng và minh bạch ở một số địa phương, chưa thích ứng với điều kiện cụ thể của từng vùng. - Các chính sách về bình đẳng giới tuy đã được ban hành nhiều, nhưng chưa được thực hiện nghiêm túc. Trên đây là một số những thách thức đối với công cuộc xoá đói giảm gnhèo của Việt Nam, điều này đòi hỏi trong quá trình thực hiện càn có những cải tiến nhất định, cũng như sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, huy động mọi nguồn lực trong dân vào công cuộc xoá đói giảm nghèo. Các chính sách khi ban hành cần nghiên cứu kỹ để sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, để từ đó kết quả xoá đói giảm nghèo được thành công và bền vững. 1.2. Phương pháp nghiên cứu 1.2.1 Câu hỏi nghiên cứu Một là, tại sao phải nghiên cứu đói nghèo ở huyện Võ Nhai? Võ Nhai là huyện nghèo nhất của tỉnh Thái Nguyên, trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với các xã có hoàn cảnh kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo chương trình 134, 135 của Chính Phủ đời sống của nhân dân trong huyện đã được cải thiện đáng kể, số hộ nghèo liên tục giảm. Tuy nhiên, chất lượng xoá đói giảm nghèo chưa mang tính bền vững. Để góp phần phát triển kinh tế xã hội của huyện thì công tác xoá đói giảm nghèo của huyện là một công việc không thể xem nhẹ. Chính vì vậy tôi tiến hành nghiên cứu xoá đói giảm nghèo cho huyện, từ đó đề xuất một số giai pháp cho hộ nông dân phát triển sản xuất và thoát nghèo. Hai là, nguyên nhân nào dẫn đến nghèo đói của hộ, làm thế nào để có thể khẳng định một cách chính xác những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói của hộ nông dân, từ đó tìm ra đâu là nguyên nhân chính, đâu là nguyên nhân phụ? Để làm được điều này chúng ta phải áp dụng phần mềm tin học vào ước lượng để tránh những kết luận mang tính chủ quan của người nghiên cứu. Trong đề tài này, để giải quyết vấn đề trên tôi sẽ ứng dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas vào phân tích. Ba là, làm thế nào để các giải pháp đưa ra gắn với thực tiễn, phù hợp với điều kiện thực tế của người nông dân trong huyện? Để đưa ra được những giải pháp gắn với thực tế thì cần phản xuất phát từ những nguyên nhân thực tế gây ra đói nghèo của hộ. Vì vậy khi nghiên cứu xoá đói giảm nghèo thì chúng ta phải đi tìm và phân tích những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói từ đó tác động vào những nguyên nhân chính có ảnh hưởng nhiều nhất đến đói nghèo của hộ. Đề xuất một số nhóm giải pháp xoá đói giảm nghèo để có thể áp dụng cho từng nhóm hộ có điều kiện kinh tế và nguyên nhân dẫn đến nghèo đói khác nhau. 1.2.2 Các phương pháp nghiên cứu 1.2.2.1 Cơ sở phương pháp luận Đề tài sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp luận, qua đó có thể đánh giá các hiện tượng, sự vật nghiên cứu một cách khách quan khoa học nhất. Cụ thể ở đây là đánh giá kinh tế hộ và vấn đề nghèo đói của các hộ nông dân ở địa phương. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng cho ta phương pháp nhìn sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng với nhau. 1.2.2.2 Phương pháp thu thập thông tin a. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp. Số liệu thứ cấp được thu thập thông tin qua các tài liệu, các báo cáo của địa phương, Phòng Thống kê, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Phòng Lao động - thương binh và xã hội và các cán bộ có trách nhiệm ở địa phương. b. Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp - Phương pháp xác định mẫu điều tra Việc chọn hộ nghiên cứu là bước hết sức quan trọng có liên quan trực tiếp tới độ chính xác của các kết quả nghiên cứu. Do vậy, việc chọn hộ để điều tra phải mang tính đại diện cho vùng nghiên cứu. Để xác định số lượng hộ cần điều tra nghiên cứu, ta sử dụng công thức sau: t2σ2 n= Δ2 Trong đó: n: Số lượng hộ cần tiến hành điều tra. t: Hệ số tin cậy (t= 1,96 với α = 5 %) Δ: Phạm vi sai số cho phép Để ước lượng σ ta dùng phương sai chọn mẫu (S2 được tính cho 30 hộ điều tra thử) và ước lượng theo công thức sau: (n - 1) S2 (n - 1) S2 ≤ σ2 ≤ U2 U1 Trong đó: S2: Phương sai mẫu n: Dung lượng mẫu U1, U2: Chênh lệch mẫu và được tra từ bảng phân phối χ2. Sau đó dựa vào công thức tính n, ta xác định được số lượng mẫu cần điều tra là n = 144 mẫu. Tuy nhiên để tăng độ chính xác và để loại trừ những mẫu không đạt chất lượng hoặc số liệu điều tra trùng nhau nên số lượng mẫu được tăng lên là 160 mẫu. Sau khi xác định được số lượng mẫu cần điều tra, tôi xác định địa điểm tiến hành điều tra tại 4 xã: Dân Tiến, Thần Sa, Nghinh Tường, Lâu Thượng. Việc lựa chọ hộ để điều tra hoàn toàn theo phương pháp ngẫu nhiên, không căn cứ theo tiêu chuẩn nghèo đói của Bộ Lao đông - thương binh và xã hội. Lựa chọn để điều tra được thể hiện thông qua bảng sau: Bảng 1.5 Lựa chọn địa điểm điều tra STT Xã Số hộ Ghi chú 1 Dân Tiến 40 Đại diện cho các xã sản xuất NN phía Nam 2 Thần Sa 40 Đại diện cho các xã trồng rừng và khai thác khoáng sản phía Bắc 3 Nghinh Tường 40 Đại diện cho các xã vung núi cao phía Bắc 4 Lâu Thượng 40 Đại diện cho các xã ven trục đường quốc lộ Tổng 160 Huyện Võ Nhai được chi thành 3 vùng rõ rệt: vùng phía Bắc là các xã miền núi đá hiểm trở, chủ yếu sản xuất Lâm nghiệp và khai thác khoáng sản; vùng phía Nam là các xã thuộc vùng núi thấp chủ yếu sản xuất nông nghiệp; vùng trung tâm bao gồm các xã và thị trấn nằm dọc theo đường Quốc lộ 1B, có các dịch vụ và kinh tế phát triển nhất trong huyện. Với mục tiêu nghiên cứu đói nghèo, tôi không chọn vùng trung tâm huyện làm điểm nghiên cứu mà chọn hai vùng phía Nam và phía Bắc đại diện cho toàn huyện. - Sau khi tiến hành xác định số lượng mẫu cànn điều tra và địa điểm điều tra, bước tiếp theo là xây dựng phiếu điều tra tình hình kinh tế và đói nghèo của hộ. - Thu thập thông tin về tình hình của hộ nông dân bằng phiếu điều tra xây dựng trước. Qua phiếu điều tra này sẽ cho phép thu thập được các thông tin định tính và định lượng về vấn đề liên quan đến sản xuất và nguyên nhân nghèo đói của hộ. - Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo: Thu thập thông tin qua các cán bộ địa phương, người lãnh đạo trong cộng đồng và những người dân có uy tín trong cộng đồng. Phương pháp này đặc biệt cho phép khai thác được những kiến thức bản địa của người dân địa phương. 1.2.2.3 Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu a. Đối với thông tin thứ cấp Sau khi thu thập được các thông tin thứ cấp, tiến hành phân loại, sắp xếp thông tin theo thứ tự ưu tiên về độ quan trọng của thông tin. Đối với các thông tin là số liệu thì phải lập trên bảng biểu. b. Đối với thông tin sơ cấp Phiếu điều tra sau khi hoàn thành sẽ được kiểm tra và nhập vào phần mềm máy tính để tiến hành tổng hợp, xử lý. 2.2.2.4 Phương pháp phân tích thông tin. a. Phương pháp phân tổ. Do khi tiến hành điều tra không căn cứ theo tiêu chuẩn đói nghèo của Bộ Lao đông - thương binh và xã hội, do đó phân tổ để xác định đâu là hộ nghèo, đâu là hộ trung bình và đâu là hộ khá là hết sức quan trọng. Để tiến hành phân tổ, tôi sử dụng phương pháp đồ thị. Có nghĩa sau khi tính được thu nhập bình quân của tất cả các mẫu, sắp xếp theo chiều tăng dần và tiến hành xác định khoảng cách tổ một cách phù hợp. b. Phương pháp hàm sản xuất Cobb - Douglas Để phân tích những tác động đến kết quả sản xuất của hộ, tôi sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas để phân tích (CD). Hàm CD có dạng: Y = AX1b1X2b2…XnbneD1eD2…eDm Trong đó: Y: Biến phụ thuộc. Trong mô hình Y là thu nhập của hộ Xi: Là các biến độc lập định lượng (i = 1,n) Dj: Các biến độc lập thuộc tính (j = 1,m) Hàm sản xuất CD được giải bằng phương pháp logarit hoá hai về và giải trên phần mềm SPSS c. Phương pháp đồ thị Để xác định sự bất bình đẳng trong thu nhập, tôi sử dụng đường cong Lorenz và hệ số Gini Đường cong Lorenz có dạng: Tỷ lệ % thu nhập cộng dồn 100 80 60 40 20 0 ssssssssssshyuhyyh 20 40 60 80 100 Tỷ lệ % hộ cộng dồn Đường cong Lorenz Đường cong Lorenz càng cách xa đường 45o càng chứng tỏ sự bất bình đẳng trong thu nhập càng lớn. 1.2.3 Hệ số các chỉ tiêu nghiên cứu 1.2.3.1 Các chỉ tiêu phản ánh tình hình sản xuất. - Tổng giá trị sản xuất của hộ: GO (Gross output) là toàn bộ giá trị sản phẩm do hộ làm ra, được tính bằng tổng của các sản phẩm làm ra quy về giá trị. GO = Σ(qi pi) (i = 1:n) Trong đó: qi là khối lượng sản phẩm i pi là giá trị sản phẩm i - Chi phí trung gian IC (Intermediate Cost) là toàn bộ những chi phí mua ngoài phục vụ quá trình sản xuất của hộ IC = Σ Ci (i = 1:n) - Giá trị gia tăng: VA (Value Added) là phần giá trị tăng thêm của hộ khi sản xuất trên một đơn vị diện tích. VA = GO - IC - Hệ số Lorenz hay Gini (G): là hệ số phản ánh sự bất bình đẳng trong thu nhập ΣPi(Fi+Fi-1) Công thức tính: G = 1- 100 Trong đó: G: Hệ số Lorenz hay hệ số Gini Pi: Tỷ lệ % dân số Fi: Tỷ lệ thu nhập cộng dồn Hệ số Gini nhận giá trị từ 0 đến 1 1.2.3.2 Các chỉ tiêu bình quân n Σ X i i=1 Công thức tính số bình quân: X = n Các số bình quân như: thu nhập bình quân, diện tích bình quân, nhân khẩu bình quân, độ tuổi bình quân…. 1.2.3.3 Chỉ tiêu hiệu suất biên một đơn vị của biến độc lập Y - Đối với biến định lượng: ΔY = bi* X - Đối với biến thuộc tính: ΔY = eDj Ý nghĩa: đầu tư thêm 1 đơn vị yếu tố i sẽ mang lại thêm bao nhiêu đơn vị yếu tố thu nhập (Y) CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI CỦA HUYỆN VÕ NHAI 2.1 Tình hình cơ bản của huyện Võ Nhai 2.1.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên 2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội huyện Võ Nhai 2.1.3 Đánh giá những thuận lợi - khó khăn của huyện Võ Nhai 2.1.4 Tình hình phát triển kinh tế xã hội huyện Võ Nhai giai đoạn 2006 -2010 2.2 Thực trạng nghèo đói của huyện Võ Nhai 2.2.1 Thực trạng nghèo đói của huyện 2.2.2 Thực trạng nghèo đói của nhóm hộ điều tra 2.2.3 Phân tích nguyên nhân và các hậu quả ảnh hưởng đến nghèo đói của hộ gia đình. 2.2.4 Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới thu nhập của hộ bằng hàm sản xuất Cobb-Douglas 2.2.5 Kết luận về nguyên nhân tác động đến thu nhập của hộ CHƯƠNG II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÓ ĐÓI GIẢM NGHÈO CHO HỘ NÔNG DÂN HUYỆN VÕ NHAI 3.1 Định hướng phát triển kinh tế - xã hội huyện Võ Nhai 3.1.1 Định hướng phát triển chung của huyện 3.1.2 Những chỉ tiêu phấn đấu cụ thể 3.2 Một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho hộ nông dân 3.2.1 những giải pháp về kinh tế 3.2.2. Những giải pháp về tổ chức thực hiện KẾT LUẬN

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu và đề xuất một số giải pháp xoá đói giảm nghèo cho hộ nông dân.doc
Luận văn liên quan