Đề tài Nghiên cứu về fdi vào Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010

MỤC LỤC CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN .1 1.1 Khái niệm . .1 1.2 Đặc điểm . .1 1.3 Các hình thức FDI . 1 1.3.1 Phân theo bản chất đầu tư. . 1 1.3.2 Phân theo tính chất dòng vốn . . .1 1.3.3. Phân theo động cơ của nhà đầu tư . 2 1.3.4. Phân theo hình thức tồn tại . .3 1.4 Ưu điểm và nhược điểm của FDI 4 1.4.1 Ưu điểm . .4 1.4.2 Nhược điểm . . 8 1.5 Những nhân tố thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài 9 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA FDI TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 -2010 . .12 2.1 Sơ lược về thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào giai đoạn 1990 – trước năm 2000 . 12 2.1.1 Thực trạng . 12 2.1.2 Tác động . 17 2.2 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam giai đoạn 2000–hết năm 2001 . .20 2.2.1 Thực trạng . . 20 2.2.2 Tác động . . 22 2.3 Thực trạng và tác động của FDI vào Việt Nam giai đoạn 2002-2003 2.3.1 Thực trạng . . 23 2.3.2 Tác động . . 27 2.4 Thực trạng và tác động của FDI vào Việt Nam giai đoạn 2004 – 2006 2.4.1 Thực trạng . . 32 2.4.2 Tác động . . 33 2.5 Thực trạng và tác động của FDI vào Việt Nam giai đoạn 2006 - 2007 2.5.1 Thực trạng . . 37 2.5.2 Tác động . . 39 2.6 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào giai đoạn 2008 – hiện nay . 39 2.6.1 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào năm 2008 . 39 2.6.2 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào năm 2009 . 47 2.6.3 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào năm 2010 . 54 CHƯƠNG 3: HIỆU QUẢ VÀ NHỮNG MẶT TRÁI ĐANG TỒN TẠI 59 3.1 Hiệu quả kinh tế . 59 3.1.1 Mặt tích cực . 59 3.1.2 Mặt tiêu cực . 61 3.2 Mặt trái tồn tại . . 63 3.3 Biện pháp khắc phục . 67 TỔNG KẾT . 70

doc75 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4972 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu về fdi vào Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khuyến kích FDI trong các lĩnh vực này). Một số lĩnh vực vướng mắc nhiều rào cản lớn nên FDI chỉ  chiếm một tỷ trọng nhỏ như ngân hàng, viễn thông, quảng cảo, văn hóa, y tế, giáo dục. 2.5.2 Tác động Vốn đầu tư nước ngoài đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta trong năm 2006. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp động lực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta với mức tăng trưởng GDP trên 8.2% trong năm 2006. FDI đã hỗ trợ Việt Nam một cách tích cực trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để Việt nam gia nhập ASEAN, ký kết thoả thuận khung với EU, bình thường hoá quan hệ và thoả thuận thương mại song phương với Mỹ. 2.6 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào giai đoạn 2008 – hiện nay 2.6.1 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào năm 2008 2.6.1.1 Thực trạng Mặc dù tình hình kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn nhưng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt được kết quả đáng khích lệ. Có thể nói, trong suốt 21 năm qua, FDI của năm 2008 là một điểm sáng vượt bậc với mức kỉ lục 64.01 tỷ USD. TỔNG HỢP ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM Các dự án còn hiệu lực tính đến 31/12/2008 PHÂN THEO NGÀNH TT Ngành Số dự án Vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn điều lệ (USD) 1 CN chế biến,chế tạo 6,550 85,981,418,741 28,449,043,285 2 KD bất động sản 278 32,420,870,557 8,696,349,527 3 Dvụ lưu trú và ăn uống 229 10,258,854,587 2,215,209,118 4 Xây dựng 413 8,730,982,648 3,176,036,248 5 Thông tin và truyền thông 489 4,564,628,824 2,857,559,543 6 Nghệ thuật và giải trí 110 3,455,753,932 1,041,693,553 7 Nông,lâm nghiệp;thủy sản 468 2,920,317,601 1,432,412,075 8 Khai khoáng 60 2,682,326,547 1,998,805,156 9 Vận tải kho bãi 260 2,121,352,009 793,381,012 10 SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa 37 2,070,892,464 647,075,453 11 Tài chính,ngân hàng,bảo hiểm 70 1,181,605,080 1,084,318,000 12 Y tế và trợ giúp XH 60 948,775,273 232,901,705 13 Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa 181 897,989,961 423,290,598 14 Dịch vụ khác 46 590,569,500 124,173,894 15 HĐ chuyên môn, KHCN 637 480,383,209 227,738,072 16 Giáo dục và đào tạo 119 240,002,203 97,049,497 17 Hành chính và dvụ hỗ trợ 86 177,212,926 80,592,516 18 Cấp nước;xử lý chất thải 12 40,523,000 29,823,000 Tổng số 10,105 159,764,459,062 53,607,452,252 PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TT Hình thức đầu tư Số dự án Vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn điều lệ (USD) 1 100% vốn nước ngoài 7,854 96,419,448,348 32,404,185,991 2 Liên doanh 1,849 52,742,398,481 15,310,348,943 3 Hợp đồng hợp tác KD 219 4,564,622,409 4,093,109,490 4 Công ty cổ phần 173 4,193,256,824 1,249,864,828 5 Hợp đồng BOT,BT,BTO 9 1,746,725,000 466,985,000 6 Công ty mẹ con 1 98,008,000 82,958,000 Tổng số 10,105 159,764,459,062 53,607,452,252 PHÂN THEO ĐỊA PHƯƠNG TT Địa phương Số dự án Vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn điều lệ (USD) 1 TP Hồ Chí Minh 2,874 26,073,730,718 9,407,024,729 2 Bà Rịa-Vũng Tàu 198 20,686,540,318 5,511,727,361 3 Hà Nội 1,349 18,864,589,686 7,270,667,101 4 Đồng Nai 1,012 14,016,097,827 6,648,577,773 5 Bình Dương 1,856 10,879,310,065 4,375,217,914 6 Ninh Thuận 20 9,968,046,566 841,868,678 7 Hà Tĩnh 9 7,920,105,000 2,717,915,000 8 Thanh Hóa 33 6,996,148,144 465,461,987 9 Phú Yên 47 6,377,956,438 1,442,518,655 10 Hải Phòng 294 4,255,252,040 1,524,277,692 11 Quảng Ngãi 19 3,417,528,689 472,265,000 12 Long An 261 2,907,135,092 1,199,776,630 13 Kiên Giang 14 2,772,730,857 1,195,170,082 14 Đà Nẵng 134 2,548,674,770 987,276,509 15 Thừa Thiên-Huế 53 2,335,616,587 413,583,684 16 Hải Dương 222 2,292,458,434 842,580,574 17 Dầu khí 39 2,158,441,815 1,801,441,815 18 Vĩnh Phúc 126 1,914,556,776 627,125,192 19 Bắc Ninh 134 1,913,038,241 565,566,235 20 Khánh Hòa 75 1,208,172,094 392,705,350 21 Quảng Ninh 105 1,151,665,685 465,740,872 22 Hưng Yên 145 773,432,740 312,180,152 23 Quảng Nam 64 735,292,621 279,613,440 24 Bình Thuận 65 710,132,183 216,197,387 25 Tây Ninh 176 701,641,663 404,999,917 26 Cần Thơ 49 688,595,611 633,458,213 27 Hậu Giang 5 632,959,217 353,107,232 28 Lâm Đồng 110 521,996,550 266,095,147 29 Ninh Bình 17 509,514,910 156,425,529 30 Bình Định 33 371,831,000 130,499,500 31 Phú Thọ 50 354,117,987 194,080,290 32 Lào Cai 35 317,734,147 110,807,095 33 Tiền Giang 17 266,546,723 130,853,112 34 Bắc Giang 59 247,555,697 103,566,320 35 Thái Nguyên 24 224,604,472 100,177,540 36 Thái Bình 32 209,808,921 89,276,357 37 Bình Phước 62 194,135,000 132,685,380 38 Hà Nam 26 190,359,490 95,243,165 39 Nam Định 28 165,891,829 122,829,750 40 Nghệ An 16 153,385,654 74,899,051 41 Lạng Sơn 30 113,505,102 53,522,784 42 Sơn La 8 112,620,000 15,272,000 43 Bến Tre 12 110,969,048 85,472,925 44 Tuyên Quang 7 110,660,322 20,500,000 45 Hòa Bình 25 84,642,891 37,126,210 46 Kon Tum 3 77,130,000 74,540,000 47 Vĩnh Long 13 76,995,000 25,585,000 48 Gia Lai 9 74,934,616 14,160,000 49 Trà Vinh 13 54,057,701 22,893,701 50 Quảng Trị 13 47,759,500 20,717,100 51 Bạc Liêu 9 42,942,476 27,686,517 52 Đồng Tháp 13 36,113,037 30,533,037 53 Quảng Bình 4 32,333,800 9,733,800 54 Sóc Trăng 6 29,283,000 16,003,000 55 Cao Bằng 12 27,150,812 22,270,000 56 Yên Bái 10 22,915,188 9,729,581 57 Bắc Cạn 6 17,572,667 8,104,667 58 An Giang 5 17,161,895 6,846,000 59 Đắc Lắc 2 16,668,750 5,168,750 60 Đắc Nông 5 15,499,000 10,891,770 61 Cà Mau 5 7,000,000 7,000,000 62 Hà Giang 4 5,083,000 5,083,000 63 Lai Châu 3 4,000,000 3,000,000 64 Điện Biên 1 129,000 129,000 Tổng số 10,105 159,764,459,062 53,607,452,252 Những dự án đầu tư khổng lồ: Ngày 23/11/2008, sự kiện khởi động dự án Khu liên hợp Thép Cà Ná tại tỉnh Ninh Thuận, có công suất 14,42 triệu tấn thép/năm, tổng vốn đầu tư gần 9,8 tỷ USD, đã được báo chí dành cho sự quan tâm khá đặc biệt. Bởi, số vốn đăng ký của riêng dự án này đã gần bằng tổng số vốn đăng ký của cả năm 2006 (trên 10 tỷ USD), và xấp xỉ một nửa con số của năm 2007 (20,3 tỷ USD). Nhưng Thép Cà Ná không phải là cá biệt. Trong vòng một năm qua, rất nhiều siêu dự án FDI quy mô vốn hàng tỷ USD đã “đổ” vào Việt Nam, khiến cho tổng số vốn đăng ký tăng cao kỷ lục. Với nhiều dự án quy mô vốn đặc biệt lớn, FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm tại Việt Nam năm 2008, tính đến 19/12, đã đạt 64,011 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2007, và gấp hơn hai lần so với con số của hai năm 2006 và 2007 cộng lại. Năm dự án có vốn đầu tư lớn nhất trong năm 2008: Dự án Công ty TNHH Thép Vinashin - Lion (Malaysia) có số vốn đăng ký 9,8 tỷ USD Dự án Công ty Gang thép Hưng Nghiệp Formosa của Đài Loan 7,9 tỷ USD Dự án Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa) của Nhật Bản và Kuwait liên doanh 6,2 tỷ USD Dự án Công ty TNHH New City Việt Nam 4,3 tỷ USD Dự án Hồ Tràm của Canada trên 4,2 tỷ USD. Chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 được dự kiến từ đầu năm: Vốn thực hiện: đạt 10 tỷ USD vượt 25% năm 2007 (8 tỷ USD) Lao động: 160.000 người, tăng 6,7% so với năm 2007 Nộp ngân sách Nhà nước: 2 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007 Về giải ngân: Các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã giải ngân số vốn lên tới 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Nếu trong giai đoạn 20 năm trước đó (1988-2007), vốn FDI thực hiện đạt 43 tỷ USD, tức là tính trung bình chỉ giải ngân được 2,15 tỷ USD/năm, thì giải ngân trong năm 2008 đã bằng 26,7% tổng số vốn giải ngân 20 năm trước đó. Về GDP và xuất nhập khẩu: GDP đạt 6,23% khối doanh nghiệp FDI có phải là một “cứu cánh” trong một năm sóng gió của khủng hoảng kinh tế. Khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách nhà nước 1,982 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm 2007. Tổng doanh thu của khối các doanh nghiệp FDI trong năm 2008 lên đến 50,55 tỷ USD, tăng 24,4% so với năm 2007. Trong đó, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt 24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. 2.6.1.2 Tác động Tác động tích cực: Trong năm 2008, Việt Nam đã thu hút được 1.557 dự án mới với tổng vốn đầu tư đăng ký 66,5 tỷ USD, gấp 3,55 lần mức thu hút 2007. Trong cùng kỳ, 397 lượt dự án đã được điều chỉnh tăng vốn đăng ký với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 5,2 tỷ USD, gấp 1,98 lần năm 2007. Tính cả cấp mới và tăng thêm, vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam 2008 đạt mức kỷ lục 71,7 tỷ USD, gấp 3,35 lần so với năm 2007. Điểu này tích cực cải thiện bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam trong thời kì nền kinh tế Thế giới đang chìm trong cuộc khủng hoảng tài chính khổng lồ. Số vốn đầu tư vào các dự án công trình lớn tăng vọt. Ông Trần Đình Thiên, quyền Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, trong một hội thảo gần đây từng phát biểu rằng những dự án có vốn dưới 3 tỷ USD giờ đây dường như chỉ là “tý hon” bên cạnh những “người khổng lồ”. Các chỉ tiêu khả quan về GDP, cán cân xuất nhập khẩu, tỷ lệ thất nghiệp cải thiện và sự chuyển dần cơ cấu kinh tế trên được coi là “sự nhìn nhận lạc quan của quốc tế đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam trong dài hạn”, theo quan điểm của ông Phan Hữu Thắng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Tác động tiêu cực: Trong 60,271 tỷ USD vốn đăng ký cấp mới, số vốn điều lệ chỉ có 15,429 tỷ USD, bằng khoảng 25,6%. Tỷ lệ giải ngân thấp dần trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2008. Con số 11,5 tỷ USD vốn giải ngân trong năm nay, tuy đã tăng tới 43,2% so với năm 2007 về giá trị tuyệt đối, nhưng chỉ chiếm gần 18% so với tổng vốn đăng ký. So với giai đoạn trước, tỷ lệ này của thời kỳ 1988-2005 là 50,3%, của năm 2006 còn 33%, và năm 2007 chỉ còn khoảng 23%. Có những lập luận cho rằng dự án lớn, đầu tư lâu dài thì tỷ lệ giải ngân không thể đạt cao như mong đợi, nhưng những “nút thắt cổ chai” như thủ tục hành chính, công tác quy hoạch, cơ sở hạ tầng, giải phóng mặt bằng, đào tạo nguồn nhân lực... vẫn hiển hiện, không thể phủ nhận. Khối doanh nghiệp FDI cũng chính là khối có kim ngạch nhập khẩu rất lớn và là một trong những nhóm doanh nghiệp đóng góp “tích cực” vào con số nhập siêu tăng rất cao trong năm nay. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt 24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, nhưng khối doanh nghiệp này cũng nhập khẩu tới 28,458 tỷ USD.Tổng nhập siêu xấp xỉ 4 tỷ USD của khối này đã chiếm gần 1/4 thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008. Trái với quan điểm rõ ràng của Việt Nam, mong muốn hướng đầu tư vào một số ngành, lĩnh vực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục tiêu, vốn FDI năm 2008 xem ra vẫn nặng về “bất động sản”. Hồi đầu năm nay, nhiều chuyên gia kinh tế đã cảnh báo lượng vốn FDI vào Việt Nam đang có sự chuyển hướng sang lĩnh vực dịch vụ, bao gồm bất động sản. Trong năm 2008, lĩnh vực dịch vụ có 554 dự án với tổng vốn đăng ký 27,4 tỷ USD. Nếu xét về tỷ lệ đã chiếm 47,3% về số dự án và 45,4% về vốn đầu tư đăng ký.- một mức tăng khá mạnh mẽ so với thời gian trước đó. Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, năm nay thu hút được 32,62 tỷ USD, chiếm 54,12% tổng vốn đầu tư đăng ký, nhưng nhìn vào nhiều dự án, phần bất động sản được “che đậy” không phải nhỏ Con số 267 triệu và trên 127 tỷ đồng là số tiền Công ty Vedan đã nộp phạt cho các hành vi vi phạm hành chính cũng như việc truy thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp của công ty này. Điều này phần nào minh họa cho một thực tế, đó là tại Việt Nam đang tồn tại những dự án FDI tồi, những dự án hủy hoại môi trường. Bên cạnh đó là các vụ phát giác Công ty Miwon gây ô nhiễm môi trường nước, hay vụ bác đề nghị đầu tư vào vịnh Vân Phong của Tập đoàn Posco... Điều này nội cộm lên việc Việt Nam cần kiểm soát chặt chẽ hơn về môi trường để tránh biến nước ta thành bãi chứa rác thải công nghệ. Liên quan đến kỷ lục trên 64 tỷ USD vốn đăng ký trong năm nay, có một lo ngại khác là xu hướng vốn đăng ký vào Việt Nam đang giảm dần về cuối năm. Trong 9 tháng đầu năm, cả nước đã thu hút được 57,12 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký, bình quân gần 6,35 tỷ USD/tháng, thì tháng 10 “gọi” thêm được 2,19 tỷ USD, tháng 11 thêm 3,19 tỷ USD, và tháng cuối năm thêm được 1,51 tỷ USD. Năm nay cũng chứng kiến sự sụt giảm số lượng dự án FDI vào Việt Nam. Trong năm 2008, cả nước đã cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 1.171 dự án, trong khi con số của năm 2007 là 1.406 dự án. Tương tự, số dự án tăng vốn là 311, so sánh với 361 lượt dự án tăng vốn của năm 2007. 2.6.2 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào năm 2009 2.6.2.1 Thực trạng Nhìn chung, vốn FDI vào Việt Nam năm 2009 đã suy giảm đáng kể tương ứng với từng kỳ năm trước. TỔNG HỢP ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM PHÂN THEO NGÀNH Các dự án còn hiệu lực tính đến ngày 15/12/2009 TT Chuyên ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn điều lệ (USD) 1 CN chế biến,chế tạo 6,766 88,850,994,612 29,634,570,710 2 KD bất động sản 315 40,117,953,638 9,990,957,249 3 Dvụ lưu trú và ăn uống 258 14,964,511,189 2,433,438,420 4 Xây dựng 501 9,103,498,618 3,250,878,311 5 Thông tin và truyền thông 548 4,673,509,012 2,911,662,190 6 Nghệ thuật và giải trí 120 3,680,589,178 1,046,333,799 7 Khai khoáng 66 3,079,334,407 2,385,813,016 8 Nông,lâm nghiệp;thủy sản 480 3,002,667,405 1,467,414,502 9 Vận tải kho bãi 286 2,324,750,704 843,673,485 10 SX,pp điện,khí,nước,điều hòa 53 2,236,203,675 676,377,653 11 Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa 307 1,203,191,541 551,787,585 12 Tài chính,ngân hàng,bảo hiểm 72 1,181,695,080 1,084,363,000 13 Y tế và trợ giúp XH 65 956,849,074 237,855,506 14 Dịch vụ khác 80 625,730,000 140,541,644 15 HĐ chuyên môn, KHCN 807 597,750,432 275,028,133 16 Giáo dục và đào tạo 127 269,037,416 105,066,210 17 Hành chính và dvụ hỗ trợ 91 185,158,416 85,758,006 18 Cấp nước;xử lý chất thải 18 59,423,000 37,123,000 Tổng số 10,960 177,112,847,397 57,158,642,419 PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ Các dự án còn hiệu lực tính đến ngày 15/12/2009 TT Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn điều lệ (USD) 1 100% vốn nước ngoài 8,521 110,802,022,376 34,996,441,787 2 Liên doanh 2,021 54,767,095,420 15,769,544,770 3 Hợp đồng hợp tác KD 222 4,962,400,300 4,480,687,381 4 Công ty cổ phần 186 4,736,596,301 1,362,025,481 5 Hợp đồng BOT,BT,BTO 9 1,746,725,000 466,985,000 6 Công ty mẹ con 1 98,008,000 82,958,000 Tổng số 10,960 177,112,847,397 57,158,642,419 Các dự án còn hiệu lực tính đến ngày 15/12/2009 TT Địa phương Số dự án Tổng vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn điều lệ (USD) 1 TP Hồ Chí Minh 3,140 27,214,859,297 9,735,280,636 2 Bà Rịa-Vũng Tàu 211 23,641,917,748 6,444,532,489 3 Hà Nội 1,644 19,473,325,864 7,461,354,830 4 Đồng Nai 1,028 16,339,129,459 7,171,568,424 5 Bình Dương 1,946 13,394,129,566 4,618,771,680 6 Ninh Thuận 25 10,080,426,566 853,628,678 7 Phú Yên 49 8,149,956,438 1,807,818,655 8 Hà Tĩnh 10 7,990,105,000 2,736,915,000 9 Thanh Hóa 33 6,996,148,144 465,461,987 10 Quảng Nam 65 4,885,292,621 379,613,440 11 Hải Phòng 302 4,289,882,040 1,531,107,692 12 Quảng Ngãi 20 3,444,028,689 477,115,000 13 Long An 280 2,952,646,092 1,229,127,130 14 Kiên Giang 14 2,772,730,857 1,195,170,082 15 Đà Nẵng 145 2,704,274,770 1,018,736,509 16 Dầu khí 43 2,554,191,815 2,187,191,815 17 Thừa Thiên-Huế 56 2,362,463,938 423,843,684 18 Hải Dương 230 2,321,736,301 850,718,441 19 Vĩnh Phúc 129 1,978,489,334 645,147,192 20 Bắc Ninh 143 1,933,988,241 575,466,235 21 Khánh Hòa 80 1,302,922,094 420,445,350 22 Quảng Ninh 107 1,167,065,685 480,140,872 23 Bình Thuận 77 849,900,087 261,771,291 24 Hưng Yên 159 798,247,490 324,787,152 25 Tây Ninh 188 795,996,663 436,979,917 26 Cần Thơ 54 714,159,536 647,144,338 27 Ninh Bình 20 701,614,910 183,825,529 28 Hậu Giang 6 633,959,217 354,107,232 29 Lâm Đồng 118 554,208,550 280,944,147 30 Bình Định 34 377,831,000 132,499,500 31 Phú Thọ 52 367,117,987 202,635,290 32 Lào Cai 35 330,780,147 124,453,095 33 Bình Phước 65 294,635,000 166,685,380 34 Bắc Giang 67 289,988,697 118,221,320 35 Tiền Giang 19 282,246,723 136,003,112 36 Thái Nguyên 27 248,457,472 117,877,540 37 Thái Bình 33 212,808,921 92,276,357 38 Hà Nam 30 197,735,490 99,143,165 39 Nam Định 28 165,891,829 122,829,750 40 Nghệ An 16 153,385,654 74,899,051 41 Lạng Sơn 30 113,505,102 53,522,784 42 Sơn La 8 112,620,000 15,272,000 43 Bến Tre 12 110,969,048 85,472,925 44 Tuyên Quang 7 110,660,322 20,500,000 45 Hòa Bình 26 91,142,891 43,626,210 46 Kon Tum 3 77,130,000 74,540,000 47 Vĩnh Long 13 76,995,000 25,585,000 48 Gia Lai 9 74,934,616 14,160,000 49 Trà Vinh 19 68,857,701 37,573,701 50 Quảng Trị 13 47,759,500 20,717,100 51 Bạc Liêu 10 45,942,476 28,886,517 52 Quảng Bình 5 38,333,800 15,733,800 53 Đồng Tháp 14 36,300,537 30,720,537 54 Đắc Lắc 3 34,668,750 9,168,750 55 Cao Bằng 13 32,280,812 27,200,000 56 Sóc Trăng 6 29,283,000 16,003,000 57 Yên Bái 10 22,915,188 9,729,581 58 Bắc Cạn 6 17,572,667 8,104,667 59 An Giang 5 17,161,895 6,846,000 60 Đắc Nông 5 15,499,000 10,891,770 61 Hà Giang 6 8,510,160 8,020,090 62 Cà Mau 5 7,000,000 7,000,000 63 Lai Châu 3 4,000,000 3,000,000 64 Điện Biên 1 129,000 129,000 Tổng số 10,960 177,112,847,397 57,158,642,419 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch đầu tư Tình hình hoạt động: Trong năm 2009, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 10 tỷ USD, bằng 87% so với năm 2008. Xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu khí) năm 2009 đạt 29,9 tỷ USD, bằng 86,6 % so với năm 2008 và chiếm 52,7 % tổng xuất khẩu cả nước. Nếu không tính dầu thô, khu vực đầu tư nước ngoài xuất khẩu 23,6 tỷ USD, chiếm 41,7 % tổng xuất khẩu và bằng 98 % so với năm 2008. Nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài năm 2009 đạt 24,8 tỷ USD, bằng 89,2 % so với năm 2008 và chiếm 36,1% tổng nhập khẩu cả nước. Trong năm 2009, khu vực đầu tư nước ngoài xuất siêu 5,03 tỷ USD. Tình hình cấp GCNĐT năm 2009: Theo các báo cáo nhận được đến 15/12/2009, trong năm 2009 cả nước có 839 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 16,34 tỷ USD. Tuy chỉ bằng 24,6 % so với năm 2008 nhưng đây là cũng là con số khá cao trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế hiện nay. Trong năm 2009, có 215 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 5,13 tỷ USD, bằng 98,3% so với năm 2008. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 21,48 tỷ USD, bằng 30% so với năm 2008. Theo lĩnh vực đầu tư: Dịch vụ lưu trú và ăn uống vẫn là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8,8 tỷ USD vốn cấp mới và tăng thêm. Trong đó, có 32 dự án cấp mới với tổng vốn đầu tư là 4,9 tỷ USD và 8 dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm là 3,8 tỷ USD. Kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với 7,6 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Trong đó có một số dự án có quy mô lớn được cấp phép trong năm như Khu du lịch sinh thái bãi biển rồng tại Quảng Nam, dự án Công ty TNHH thành phố mới Nhơn Trạch Berjaya tại Đồng Nai và dự án Công ty TNHH một thành viên Galileo Investment Group Việt Nam có tổng vốn đầu tư lần lượt là 4,15 tỷ USD, 2 tỷ USD và 1,68 tỷ USD Lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo có quy mô vốn đăng ký lớn thứ ba trong năm 2009 với 2,97 tỷ USD vốn đăng ký, trong đó có 2,22 tỷ USD đăng ký mới và 749 triệu USD vốn tăng thêm. Theo đối tác đầu tư: Trong năm 2009, có 43 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 9,8 tỷ USD chiếm 45,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, Cayman Islands đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 2,02 tỷ USD chiếm 9,4%, đứng thứ 3 là Samoa với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD chiếm 7,9%; Hàn Quốc đứng thứ 4 với 1,66 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm 7,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Theo địa bàn đầu tư: Bà Rịa-Vũng Tàu là địa phương thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất trong năm 2009 với 6,73 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm. Tiếp theo là Quảng Nam, Bình Dương, Đồng Nai và Phú Yên với quy mô vốn đăng ký lần lượt là 4,1 tỷ USD; 2,5 tỷ USD; 2,36 tỷ USD và 1,7 tỷ USD. 2.6.2.2 Tác động FDI trong 2009 thiên về đầu tư lĩnh vực bất động sản và lưu trú ăn uống. Việc này sẽ khai thác tích cực hơn các nguồn lực tiềm năng khác của Việt Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong 10 dự án đầu tư nước ngoài lớn nhất năm 2009, ngoài một dự án có vốn đăng kí bằng vốn điều lệ, các dự án còn lại có vốn điều lệ thấp hơn vài lần, thậm chí hàng chục, hàng trăm lần vốn đăng ký. Nhìn trong các dự án bất động sản, dịch vụ lưu trú ăn uống, hiện tượng này càng nổi lên. Vấn đề đặt ra là nhà đầu tư có thực hiện dự án theo kiểu "mỡ nó rán nó", huy động vốn từ Việt Nam để tạo lợi nhuận chuyển ra ngoài nước. Đây là vấn đề mà chính phủ ta cần kiểm soát rõ ràng và nghiêm ngặt. Trong giai đoạn khủng hoàng tài chính toàn cầu ngày có những diễn biến phức tạp, việc FDI vào Việt Nam có khuynh hướng suy giảm là chuyện có thể dự đoán trước được. Tuy nhiên, FDI năm 2009 cũng đã có những tác động tích cực nhằm nâng cao các chỉ số phát triển kinh tế của quốc gia so với các nước khác. Có thể nói, FDI là một trong những nhân tố góp phần khiến nước ta vượt qua khủng hoảng tài chính một cách bình tĩnh và có hiệu quả tương đối. 2.6.3 Thực trạng và tác động của FDI tại Việt Nam vào năm 2010 2.6.3.1 Thực trạng ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THÁNG 1 – 2010 TẠI VIỆT NAM PHÂN THEO NGÀNH STT Địa phương Số dự án TVĐT đăng kí Số dự án tăng Vốn tăng thêm 1 TP HCM 10 3,130,000 1 900,000 2 Bà Rịa - Vũng Tàu 0 0 3 Hà Nội 14 8,961,110 4 Đồng Nai 1 500,000 2 32,000,000 5 Ninh Thuận 0 0 0 6 Bình Dương 10 211,958,430 7 Hà Tĩnh 8 Thanh Hóa 0 0 9 Phú Yên 0 0 10 Quảng Ngãi 0 0 11 Hải Phòng 2 22,256,000 12 Long An 13 Kiên Giang 14 Đà Nẵng 1 420,000 15 Hải Dương 1 37,000,000 16 Vĩnh Phúc 0 0 17 Dầu Khí 18 Bắc Ninh 19 Thừa Thiên Huế 0 0 20 Quảng Ninh 0 0 21 Hưng Yên 0 0 22 Bình Thuận 23 Khánh Hòa 24 Cần Thơ 0 0 25 Tây Ninh 1 900,000 26 Hậu Giang 27 Quảng Nam 28 Ninh Bình 29 Thái Nguyên 0 0 30 Lâm Đồng 31 Bình Định 32 Lào Cai 0 0 33 Phú Thọ 0 0 34 Bắc Giang 35 Nghệ An 36 Tiền Giang 37 Bình Phước 38 Hà Nam 39 Nam Định 40 Lạng Sơn 41 Sơn La 0 0 42 Bến Tre 0 0 43 Thái Bình 0 0 44 Tuyên Quang 45 Hòa Bình 46 Kon Tum 0 0 47 Gia Lai 0 0 48 Vĩnh Long 49 Trà Vinh 0 0 50 Quảng Trị 0 0 51 Đồng Tháp 0 0 52 Bạc Liêu 0 0 53 Quảng Bình 54 Sóc Trăng 0 0 55 Cao Bằng 56 Yên Bái 57 Bắc Cạn 0 0 58 An Giang 0 0 59 Đắc Lắc 60 Đác Nông 61 Cà Mau 0 0 62 Hà Giang 0 0 63 Lai Châu 64 Điện Biên 0 0 Tổng số 40 285,125,540 3 32,900,000 BÁO CÁO NHANH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 3 THÁNG NĂM 2010 TT Chỉ tiêu Đơn vị tính 3 tháng năm 2009 3 tháng năm 2010 So cùng kỳ 1 Vốn thực hiện triệu USD 2,200 2,500 113.6% 2 Vốn đăng ký triệu USD 7,373 2,139 29.0% 2.1. Cấp mới triệu USD 3,235 1,924 59.5% 2.2. Tăng thêm triệu USD 4,138 215 5.2% 3 Số dự án 3.1. Cấp mới dự án 235 139 59.1% 3.2. Tăng vốn lượt dự án 80 41 51.3% 4 Xuất khẩu 4.1. Kể cả dầu thô triệu USD 6,187 8,017 129.6% 4.2. Không kể dầu thô triệu USD 4,754 6,679 140.5% 5 Nhập khẩu triệu USD 4,639 7,104 153.1% 25 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam trong 3 tháng đầu 2010, các nhà đầu tư lớn nhất lần lượt là Hoa Kỳ với tổng vốn đăng ký là 979,8 triệu USD chiếm 45,8% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, Hàn Quốc đứng thứ 2 với tổng vốn đăng ký 584,8 triệu USD chiếm 27,3%, đứng thứ 3 là Singapore với tổng vốn đăng ký 146,7 triệu USD chiếm 6,9% . Cũng trong 3 tháng đầu năm 2010, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 2,5 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2009. Đây là mức tăng khá cao trong 3 tháng  đầu tiên của năm 2010. Theo các báo cáo nhận được, trong 3 tháng đầu năm 2010 cả nước có 139 dự án mới được cấp GCNĐT với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư cấp mới chỉ bằng 59,5 % so với cùng kỳ  2010 nhưng 1,9 tỷ USD đăng ký mới cũng là con số khá cao trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Trong 3 tháng đầu năm 2010, có 41 dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 215 triệu USD, bằng 5,2% so với cùng kỳ năm trước Vốn tăng thêm  trong 3 tháng đầu năm 2010 thấp thể hiện khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài. Một số dự án lớn được cấp phép mới đáng chú ý như: dự án Công ty TNHH Skybridge Dragon Sea của Hoa Kỳ,  mục tiêu xây dựng, kinh doanh Khu trung tâm hội nghị triển lãm, trung tâm thương mại, kd bất động sản tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với tổng vốn đầu tư 902,5 triệu USD; dự án kho ngầm chứa xăng dầu tại KKT Dung Quất với tổng vốn đầu tư là 340 triệu USD, dự án Công ty TNHH đầu tư Daewon - Bình Khánh để kinh doanh bất động sản tại TP Hồ Chí Minh với tổng vốn đầu tư 120 triệu USD; dự án Công ty TNHH CZ Slovakia Việt Nam của nhà đầu tư Slovakia để kinh doanh bất động sản với tổng vốn đầu tư 100 triệu USD; dự án Công ty TNHH Promenada Canany của Thái Lan với mục tiêu xây dựng, quản lý, vận hành 1 tòa nhà trung tâm thương mại để cho thuê với tổng vốn đầu tư 95 triệu USD. Tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 3 tháng đầu năm 2010, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 2,13 tỷ USD, bằng 29% so với cùng kỳ năm trước. Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu khí) 3 tháng đầu năm ước đạt 8 tỷ USD, tăng 29,6% so với cùng. Nếu không tính dầu thô, khu vực đầu tư nước ngoài xuất khẩu khoảng 6,68 tỷ USD tăng 40,5% so với cùng kỳ 2009. Nhập khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài 3 tháng đầu năm uớc đạt 7,1 tỷ USD, tăng 53,1% so với cùng kỳ 2.6.3.2 Tác động FDI trong nhửng tháng đầu năm 2010 mang tới cái nhìn khả quan cho việc thu hút các nguồn vốn cho thời gian tới. Những con số phân tích trên cho ta thấy được một xu thế gia tăng FDI trong thời gian tới. Sang năm 2010, chỉ tiêu vốn FDI cả cấp mới và tăng vốn khoảng 22-25 tỷ USD, vốn thực hiện đạt khoảng 10,5-11 tỷ USD. Nói về định hướng thu hút FDI thời gian tới, ông Nguyễn Xuân Trung – Cục trưởng Cục Đầu Tư Nước Ngoài cho biết lĩnh vực ưu tiên là các dự án công nghệ cao để trên cơ sở đó tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm. Bộ Kế hoạch và Đầu Tư đang cử một tổ xây dựng danh mục dự án trọng điểm quốc gia để gọi vốn đầu tư. Các lĩnh vực như công nghệ cao, công nghệ sinh học, dự án đầu tư hạ tầng giao thông, cảng biển, sân bay, dự án phát triển ngành điện, trường học, bệnh viện; lĩnh vực chế biến khoáng sản, nông lâm sản... CHƯƠNG 3: HIỆU QUẢ VÀ NHỮNG MẶT TRÁI ĐANG TỒN TẠI 3.1 Hiệu quả kinh tế: 3.1.1 Mặt tích cực Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam trong 18 năm qua đã đạt gần 49 tỉ USD và hiện đang có xu hướng tăng mạnh. Dòng vốn này đã tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua. Trước hết, FDI góp phần làm tăng tổng vốn đầu tư, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thu ngân sách nhà nước và ổn định kinh tế vĩ mô. Về tác động gián tiếp (còn gọi là tác động tràn), FDI tác động tới các doanh nghiệp Việt Nam qua bốn kênh chính: Tạo sức ép cạnh tranh trên thị trường, từ đó buộc các doanh nghiệp trong nước phải đầu tư đổi mới công nghệ; lưu chuyển lao động từ doanh nghiệp FDI đến các doanh nghiệp trong nước; chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp trong nước; liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước để sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, việc tác động có các mức độ rất khác nhau và tùy thuộc từng loại hình doanh nghiệp. Một trong những tác động lớn nhất của dòng vốn FDI đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là tác động đến việc di chuyển lao động và chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy tác động này đã không hoặc rất ít diễn ra. Vậy nguyên nhân của nó là: Di chuyển lao động có tay nghề và kỹ thuật cao hiện nay chủ yếu diễn ra trong nội bộ các doanh nghiệp FDI hơn là giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước. Cụ thể chỉ có 4,6% doanh nghiệp trong nước thuộc nhóm ngành chế biến thực phẩm cho biết là có tiếp nhận lao động từ doanh nghiệp FDI. Lý do có thể là tiền lương của khu vực doanh nghiệp FDI cao hơn nên doanh nghiệp trong nước chưa có sức hút đối với lao động tay nghề cao từ các doanh nghiệp FDI. Về kênh chuyển giao và phổ biến công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước cũng không hoặc ít diễn ra. Ngoài các nguyên nhân khách quan như khuôn khổ luật pháp về sở hữu trí tuệ chưa đầy đủ, hiệu lực thấp, còn nguyên nhân chủ quan từ phía các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước phần lớn qui mô còn nhỏ, thiếu năng lực về tài chính để thanh toán các hợp đồng chuyển giao công nghệ, trình độ lao động thấp dẫn đến khả năng hấp thụ công nghệ thấp. Kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ lao động có kỹ năng của các doanh nghiệo trong nước thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ lao động có kỹ năng của doanh nghiệp FDI. Sự xuất hiện của dòng vốn FDI tạo áp lực cạnh tranh lớn đối với doanh nghiệp trong nước: Chỉ có 31% nguyên liệu sản xuất các doanh nghiệp FDI hiện đang sử dụng được mua từ các doanh nghiệp trong nước, còn lại phần lớn là nhập khẩu hoặc mua lại từ các doanh nghiệp FDI khác. Khu vực FDI hiện đang góp 100% sản lượng một số sản phẩm công nghiệp như dầu khí, ôtô, máy giặt, máy điều hòa, tủ lạnh, điện tử; 60% cán thép; 28% ximăng; 33% máy móc thiết bị điện, điện tử; 25% thực phẩm đồ uống... Trong năm năm 2001-2005, xuất khẩu của khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 33,8 tỉ USD, chiếm trên 33% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nếu tính cả xuất khẩu dầu thô, tỉ lệ này đạt gần 55%. Khu vực FDI chiếm khoảng 15% tổng sản phẩm nội địa (GDP), 18% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Sức ép cạnh tranh có tác động hai mặt, thứ nhất làm đối thủ cạnh tranh yếu hơn có nguy cơ bị thu hẹp thị phần, giảm sản xuất, thậm chí phải rút lui khỏi thị trường. Đây là mặt tiêu cực của cạnh tranh. Tuy nhiên, cạnh tranh lại kích thích các đối thủ tự đầu tư đổi mới để vươn lên đứng vững trên thị trường, từ đó năng suất sản xuất được cải thiện. Đó chính là tác động tích cực của FDI. Kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp qui mô lớn chậm đổi mới trang thiết bị sẽ bị tác động cạnh tranh nhiều, còn doanh nghiệp vừa và nhỏ dường như có lợi thế về tính linh hoạt nên tránh được sức ép cạnh tranh hơn. Vì vậy, để tận dụng tốt những lợi thế của FDI vào Việt Nam thì chính sách khuyến khích FDI của Chính phủ và các địa phương cần hướng tới đạt được cả tác động tích cực trực tiếp lẫn gián tiếp. Những biện pháp có thể áp dụng như: hoàn thiện thể chế phát triển thị trường các yếu tố (đặc biệt là thị trường lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản, thị trường vốn), đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhanh chóng hình thành hệ thống doanh nghiệp phụ trợ để cùng với các doanh nghiệp FDI tạo nên những nhóm ngành có khả năng cạnh tranh quốc tế. 3.1.2 Mặt tiêu cực Những con số đi ngược kỳ vọng Từ khi FDI vào Việt Nam, khối doanh nghiệp có FDI được kỳ vọng sẽ là lực lượng giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tạo vốn và kích thích chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ cho nền kinh tế. Trên thực tế, một báo cáo mới đây của Công ty Chứng khoán Artex, trong giai đoạn 10 năm từ 1999 đến 2009, đặc biệt trong ba năm qua, đánh giá: “khu vực FDI kém hiệu quả nhất (…), hầu như các doanh nghiệp FDI đều lỗ (theo báo cáo), hoặc các doanh nghiệp khác thì thực chất là một phân xưởng của công ty mẹ ở nước ngoài”. Để đơn giản, có thể đánh giá hiệu quả FDI căn cứ vào hai chỉ số: ICOR (tỉ số gia tăng vốn và đầu vào) và TFP (hệ số năng suất các nhân tố tổng hợp). ICOR càng cao thì càng là dấu hiệu xấu, chứng tỏ vốn đầu tư trở thành yếu tố quá quan trọng trong khi các nhân tố tăng trưởng khác lại không phát huy. Ngược lại, TFP càng cao càng là dấu hiệu tốt. Nghiên cứu của chuyên gia kinh tế Bùi Trinh cho thấy trong 10 năm (1999-2009), ICOR của khu vực nhà nước, tư nhân và FDI lần lượt là: 7,76; 3,54; và 7,91. Nhìn ra thế giới, ICOR trung bình của nhóm tăng trưởng cao chỉ có 3,6. “Khối FDI có chỉ số ICOR cao nhất và điều đó chứng tỏ hiệu quả của họ là thấp nhất” - ông Bùi Trinh cho biết. Còn về khía cạnh chuyển giao công nghệ, giai đoạn 2004-2009, hệ số TFP của các khu vực kinh tế nhà nước, tư nhân và doanh nghiệp có FDI lần lượt là: 8,6; 3,1 và -17,6. Theo ông Bùi Trinh, hệ số TFP của khối nhà nước cao nhất cho thấy mặc dù vốn đầu tư rót vào khu vực này nhiều (đầu tư không hiệu quả) nhưng sự chuyển giao công nghệ là có thật. Nói cách khác, doanh nghiệp công “cũng có mang lại đổi mới công nghệ”. Trong khi ở khối FDI thì chỉ số này lại âm (-17,6). Ông Trinh giải thích: “Như thế nghĩa là ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, sự tăng trưởng chủ yếu nhờ các yếu tố khác, ví dụ lao động rẻ mạt, chứ không phải do công nghệ. Trên thực tế, khảo sát ở nhiều doanh nghiệp FDI cho thấy máy móc, công nghệ được đối tác nhập vào Việt Nam đều cũ kỹ hoặc đã khấu hao hết”. Về việc sử dụng lao động, đến nay khối FDI thu hút 1,7 triệu lao động, song có tới 1,1 triệu trong số đó là lao động nữ, không được đào tạo hoặc chỉ đào tạo ngắn ngày. Vị chuyên gia nói trên cho biết từng đi khảo sát ở nhiều doanh nghiệp có FDI, ông nhận thấy: “Họ giống như phân xưởng của công ty mẹ ở nước ngoài vậy. Lương lao động ở đây rất rẻ, bệnh nghề nghiệp nhiều. Có nhà máy mấy chục ngàn công nhân mà chỉ khoảng ba chục người được đi nước ngoài vài tuần gọi là “đào tạo””. Tăng trưởng kinh tế bền vững phải dựa trên sự đóng góp ngày càng nhiều của công nghệ và giảm dần mức độ đóng góp của lao động. Những thống kê mà các chuyên gia thu thập được, đánh giá về hiệu quả FDI trong khoảng thời gian 10 năm qua thống nhất ở một số điểm: Kinh tế nhà nước - khu vực tập trung nhiều vốn nhất - đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu theo hướng thay đổi công nghệ. Tỉ lệ lao động làm việc trong khu vực này đã giảm xuống trong năm năm trở lại đây. Tuy nhiên, nguồn vốn hút về khối doanh nghiệp nhà nước thì vẫn tăng. Trong khi đó, nếu căn cứ vào quy mô vốn, có thể thấy khối tư nhân mới là lực lượng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất, sử dụng nhiều lao động nhất (giúp giảm sức ép về nhu cầu việc làm của người lao động) nhưng vốn đầu tư cho họ lại thấp nhất. Cuối cùng, các chuyên gia cảnh báo: “FDI là khu vực đóng góp ít nhất cho nền kinh tế”. 3.2 Mặt trái tồn tại: Từ năm 1988 đến 2003, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trải qua 4 trạng thái khác nhau. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay là giai đoạn phục hồi hoạt động của FDI. FDI tác động đến cả chiều rộng và chiều sâu của quá trình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tác động quan trọng nhất của FDI là góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế - xã hội của nước ta, như tăng năng suất lao động xã hội, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, hình thành các định chế tiền tệ, tín dụng dần đáp ứng các chuẩn mực quốc tế, đóng góp ngày càng nhiều vào thu ngân sách và cải thiện môi trường sống của xã hội. Và đương nhiên, cũng như các hoạt động kinh tế khác, FDI cũng đã tác động tiêu cực đến một số mặt kinh tế-xã hội của đất nước, mà bất kì nước nào tiếp nhận FDI cũng phải đề ra các giải pháp để giảm thiểu các tác động đó nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của FDI.( theo báo Đầu tư) Phần này chúng ta sẽ nghiên cứu về những mặt trái của FDI trong giai đoạn 2000 – 2010, để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm và thiết lập một hướng đi đúng trong tương lai. Cạnh tranh không lành mạnh: (Theo Saigon Times) Chuyên gia Đặng Thế Truyền, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, đã cảnh báo rằng do chạy theo số lượng FDI, các địa phương sẵn sàng cạnh tranh không lành mạnh khiến cho nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh thái, du lịch vô giá của đất nước có thể bị bán rẻ. Hệ quả là phần lợi nhuận mang lại cho Việt Nam từ FDI không tương xứng với giá trị của nguồn tài nguyên vĩnh viễn bị mất đi. Ông Truyền, người từng được giao nghiên cứu về FDI, kể rằng để thu hút được nhiều vốn FDI vào địa phương mình, nhiều tỉnh đã tự ý “phá rào”, đưa ra các ưu đãi quá mức về thuế (đã biến tướng để tránh các quy định của Nhà nước về thuế), đất đai, lao động, làm thiệt hại quyền lợi đất nước. Đã có nhiều ý kiến lo ngại tình trạng chiếm đất, giữ đất của một số “siêu” dự án hiện nay, “bởi vì rất có thể sau này, khi các “bãi biển vàng” của Việt Nam trở thành “Thiên đường nghỉ mát” của khu vực và thế giới, thì các công ty chiếm được diện tích quá rộng hiện nay với giá thấp, sẽ trở thành kẻ thống trị cả một bãi biển, cả nghĩa đen và nghĩa bóng”, ông Truyền cảnh báo. Thực tế hiện nay khẳng định những lo ngại trên không phải là lo xa, khi luồng vốn FDI vẫn tiếp tục chảy vào lĩnh vực bất động sản và du lịch. Một lo ngại khác là với hiện tượng chạy theo số lượng, một lượng lớn vốn FDI đổ vào các dự án bất động sản như hiện nay có thể phá vỡ quy hoạch phát triển trong lĩnh vực này và dẫn đến nhiều hệ luỵ. Một trong các hệ luỵ, theo phân tích của chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, là số vốn FDI được công bố không phản ánh đúng đồng vốn thực mà các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Không sòng phẳng trong việc công bố số liệu FDI: (Theo Saigon Times) Sự gia tăng mạnh mẽ của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam với con số vốn đăng ký khổng lồ trên 64 tỷ USD đã cho mọi người cái “quyền” được đặt câu hỏi xung quanh sự bất thường này.Có những băn khoăn rằng liệu Việt Nam có hấp thụ được lượng vốn này hay không? Liệu có những dự án bị thổi phồng về con số vốn đầu tư? Liệu có những cái “bánh vẽ” về viễn cảnh lợi nhuận của dự án?...Đó là những băn khoăn chính đáng, và cần có lời giải đáp thoả đáng. TS. Lê Đăng Doanh cho rằng công bố các con số không chính xác thì không có ích gì, cho dù với bất cứ lý do nào, bởi theo ông, vì lợi ích chung của đất nước, vì uy tín của Việt Nam đối với nhà đầu tư, chúng ta phải sòng phẳng, minh bạch trong các con số đưa ra. Còn quá nhiều dự án chậm giải ngân: (Theo Saigon Times, Kinh Tế Đô Thị) Mặc dù chưa có một thống kê cụ thể về số lượng các dự án FDI chưa hoặc chậm giải ngân, nhưng chính ông Phan Hữu Thắng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, cũng thừa nhận rằng tình trạng này (dự án hơn 10 năm chưa thực hiện) là không thể tránh khỏi. Hai trong số những dự án FDI “không chịu” giải ngân đã làm tốn không ít giấy mực trong thời gian qua, đó là dự án Vũng Tàu - Paradise, hiện vẫn nằm “đắp chiếu” sau 17 năm được cấp phép hay dự án cảng Thị Vải sau gần 10 năm cấp phép mới chỉ triển khai được một vài hạng mục đầu tư. Vào giai đoạn giữa năm 2009, Cục Đầu tư nước ngoài mới “bổ sung” thêm cho thành tích thu hút FDI năm 2008 hơn 7 tỉ đô la Mỹ nữa. Cũng theo Cục Đầu tư nước ngoài, một số địa phương có hiện tượng “không chịu” báo cáo về số lượng và quy mô các dự án FDI trên địa bàn mình. Thế nên, không phải lúc nào, Cục Đầu tư nước ngoài cũng nắm được một cách chính xác tên, số lượng cũng như quy mô các dự án đã đăng ký. Cũng thật khó để nói rằng, thu hút và giải ngân vốn FDI, quá trình nào quan trọng hơn. Thế nhưng, cũng không thể nói rằng, việc nắm được hồ sơ các dự án chưa giải ngân là rất khó, trong khi các dự án đang thuộc dạng “tìm kiếm cơ hội đầu tư” lại được cập nhật thường xuyên Trong hai năm 2007 và 2008, Việt Nam phải nếm trải tiêu cực do dòng vốn nước ngoài đổ vào quá lớn. Dường như đấy chính là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao trong năm 2008, do ngân hàng Nhà nước mất khả năng kiểm soát, thanh lọc, theo nhận định của World Bank. . Theo phân tích thì 189,6 ngàn tỉ VND, tức 58% tổng vốn đầu tư của khu vực kinh doanh gồm cả các doanh nghiệp nhà nước là FDI, đầu tư chứng khoán hoặc vay nợ nước ngoai. (Theo Kinh Tế Đô Thị) Vấn đề môi trường: (Theo Kinh Tế Đô Thị) Con số 267 triệu và trên 127 tỷ đồng là số tiền Công ty Vedan đã nộp phạt cho các hành vi vi phạm hành chính cũng như việc truy thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp của công ty này.Điều này phần nào minh hoạ cho một thực tế, đó là tại Việt Nam đang tồn tại những dự án FDI tồi, những dự án huỷ hoại môi trường. Mức độ nghiêm trọng của vấn đề đã khiến nhiều chuyên gia lên tiếng cảnh báo, Việt Nam cần kiểm soát chặt chẽ hơn về môi trường để tránh biến nước ta thành bãi chứa rác thải công nghệ. Một số mặt khác: Tỷ lệ FDI trong khu vực không tham gia vào thương mại quốc tế ngày một gia tăng như trong lĩnh vực bất động sản và du lịch. Riêng trong năm 2008, ước tính khoảng 30% tổng vốn đầu tư đã thực hiện nằm trong ngành bất động sản và khách sạn, so với 13% đầu tư vào ngành công nghiệp nhẹ và 3% trong ngành nông nghiệp và thực phẩm. Thực trạng này dẫn tới hệ luỵ là lạm phát, đã tác động trực tiếp đến chi phí sinh hoạt và tiền lương thực tế. Thu nhập thực tế giảm mạnh trong năm 2008, thậm chí trước cả sự suy giảm cầu thế giới đối với hàng hoá của Việt Nam có nguy cơ đe doạ đến việc làm. Các doanh nghiệp nước ngoài có xu hướng thâm dụng lao động nhất, tạo ra số việc làm nhiều hơn các doanh nghiệp khác. Năm 2007, theo báo cáo của UNDP, các công ty nhận cả những công nhân không biết chữ và đã mở các lớp xoá mù chữ nhằm đảm bảo công nhân có thể đọc các thông báo an toàn và những chỉ dẫn cơ bản. Các doanh nghiệp này luôn tìm cách khai thác triệt để nguồn lao động động rẻ mạt, mà không chú trọng đào tạo trình độ và kỹ năng cho người lao động. 3.3 Biện pháp khắc phục: FDI đã trở thành một bộ phận hữu cơ không thể thiếu của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy  FDI nói riêng, các nguồn vốn nước ngoài nói chung cũng không phải là không gây ra vấn đề. Một ảnh hưởng dễ nhận thấy, trực tiếp liên quan đến nền kinh tế nước ta là có không ít những dự án  FDI không hiệu quả, công nghệ thấp, tàn phá môi trường...  FDI cũng góp phần gây ra các bất ổn kinh tế vĩ mô. Ví dụ:  FDI vào nhiều quá cùng với các luồng vốn khác trong điều kiện quản trị vĩ mô không tốt, gây ra bong bóng bất động sản, khung tín dụng tăng, lạm phát... FDI cần thiết cho sự phát triển, song không phải là điều kiện đủ. Chứa đựng đằng sau nó là những rủi ro mà có hạn chế được hay không lại phụ thuộc vào phản ứng chính sách, điều chỉnh vĩ mô, cải cách bên trong của chúng ta. Các vấn đề chúng ta cần chú ý: Tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, từ thể chế, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực... trong đó Chính phủ phải đóng vai trò rất quan trọng. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại Việt Nam phát triển, điều này sẽ góp phần chứng minh được sự hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Mặt khác, việc phát triển của các doanh nghiệp FDI trong nước sẽ thu hút thêm sự đầu tư và các ngành công nghiệp phụ trợ, mặt khác các doanh nghiệp sinh lời cũng có khả năng tái đầu tư từ lợi nhuận và mở rộng quy mô kinh doanh cho doanh nghiệp mình. Cách thức mở cửa, tinh thần của chúng ta là hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới, bảo hộ ít đi là đúng nhưng cách thức mở cửa như thế nào cho phù hợp, nhất là trong lĩnh vực tài chính để có thể né tránh được những bất ổn. Cần phân loại các dòng vốn FDI vào theo tiêu chí tác động tốt hay không tốt, bởi trong thực tế, FDI có nhiều loại, có loại vào để khai thác tài nguyên, khai thác thị trường, tìm kiếm hiệu quả, đặc biệt là những ngành liên quan đến xuất khẩu, FDI vào các lĩnh vực dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bất động sản... Cần dự báo đúng luồng luân chuyển vốn FDI của thế giới, xu hướng của các nhà đầu tư, từ đó nắm bắt, điều chỉnh chiến lược thu hút vốn FDI . Cần đánh giá chất lượng thực sự của dòng vốn FDI và các chính sách thu hút FDI được triển khai. Phân cấp quản lý đầu tư thực ra là dân chủ hóa trong quản lý kinh tế, là điều tất yếu trong  phát triển kinh tế. Nhưng không phải cái gì cũng phân cấp. Có những vấn đề buộc phải tập trung về trung ương. Muốn phân cấp hiệu quả phải có sự chuẩn bị đầy đủ. Phát triển các ngành phụ trợ cho các lĩnh vực cần đầu tư, thu hút vốn FDI. Việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ là điều kiện tiền đề để thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp khác, bởi nó sẽ giúp giảm bớt sự phụ thuộc và sự nhập khẩu các linh kiện từ nước ngoài. Giúp các doanh nghiệp nâng cao sự chủ động về nguồn nguyên liệu và sự gia tăng về lợi nhuận do chi phí giảm. Thiết lập, vận hành và phát triển thị trường M&A: Thị trường mua bán và sáp nhập (M&A) tại Việt Nam tuy đã có hệ thống pháp luật quy định nhưng tốc độ phát triển của thị trường này còn quá chậm, trung bình mỗi năm chỉ có khoảng 20 thương vụ với giá trị khoảng 250 triệu USD/ năm. Trong khi đó giá trị vốn FDI thu hút trên thế giới và lĩnh vực M&A chiếm đến hơn 3000 tỷ USD. Sự phát triển của thị trường M&A sẽ giúp tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ, tạo ra nguồn lực lớn hơn qua đó cạnh tranh được với các đối thủ, giảm thiểu rủi ro. Đồng thời sự tăng trưởng của các nhà đầu tư vào lĩnh vực này sẽ góp phần thu hút đầu tư của các nhà cung cấp các ngành phụ trợ cũng như sự tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp được mua lại và sáp nhập này Mỗi nước có thể có trình độ, năng lực khác nhau. Bên trong môi trường lại phải xem những nhân tố nào hấp dẫn họ. Nhìn chung, có 4 nhóm nhân tố hấp dẫn FDI: Một là nhóm chỉ số vĩ mô gồm ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát, tỷ giá, ổn định xã hội... Hai là nhóm chỉ số liên quan đến nguồn lực như nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, tài nguyên thiên nhiên... Ba là thể chế như luật lệ, pháp lý có dự báo được hay không, có thân thiện với kinh doanh hay không, cách thức làm việc của bộ máy hành chính, chi phí giao dịch có nhỏ không... Bốn là mức độ mở cửa thị trường đến đâu. Rõ ràng, chúng ta phải có cách cải thiện năng lực của mình, biết lựa chọn các dự án FDI dựa vào loại hình và nhân tố cải thiện nó. Bên cạnh đó, cũng cần có cách thức chia sẻ thông tin và xúc tiến thương mại đầu tư. TỔNG KẾT Đối với bất kỳ sự tăng trưởng kinh tế nào thì FDI luôn đóng vai trò đáng kể. Từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời cho đến nay, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến rõ rệt, việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam trở nên năng động hơn, giàu tính cạnh tranh hơn, người dân Việt Nam được hưởng thụ nhiều sản phẩm và dịch vụ với chất lượng tốt hơn và giá cả cạnh tranh hơn. Đối với Việt Nam, việc tăng trưởng cao có sự đóng góp không ít của FDI (năm 2008 là 18,68% GDP - Theo Tổng Cục Thống Kê). Ngoài ra, FDI cũng làm đổi thay bộ mặt của đất nước với sự xuất hiện của những tòa cao ốc chọc trời, những khu công nghiệp rộng hàng ngàn hecta. Nguồn thu ngân sách từ các hoạt động FDI cũng giúp cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng cho các tỉnh thành, nâng cao mức sống cho người dân lao động. FDI có thể xem như là liều “thuốc bổ” đối với nền kinh tế Việt Nam. Nhưng, giống như những loại thuốc bổ khác, FDI cũng là “con dao 2 lưỡi”. Nếu như ta biết cách sử dụng nó một cách hợp lý thì tác động của nó đến nền kinh tế là rất tích cực còn nếu sử dụng không đúng thì hậu quả của nó là khó lường. Vì vậy, liều “thuốc bổ” này cần phải có sự chọn lọc và sử dụng hợp lý để tránh những ảnh hưởng tiêu cực của nó. Đó là tình trạng đầu tư mất cân đối giữa các ngành nghề và vùng lãnh thổ. Vì nếu “bồi bổ” quá nhiều cho một ngành thì sẽ gây ra việc thiếu hụt các yếu tố đầu vào cho ngành đó, cũng như các ngành khác. Việc sự dụng các đồng vốn không hiệu quả, chậm giải ngân… cũng đã gây không ít sự lãng phí về tài nguyên và tiền của. Tóm lại, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu đã tác động tiêu cực đến kế hoạch đầu tư quốc tế của các công ty xuyên quốc gia và tạo ra làn sóng bảo hộ nền kinh tế của các quốc gia năm 2009. Tuy nhiên, đây chỉ là ảnh hưởng trong ngắn hạn. Về triển vọng lâu dài, FDI sẽ khởi sắc vào năm 2010 và đạt đà tăng trưởng mạnh vào năm 2011 khi nền kinh tế thế giới khôi phục lại tiến trình liên kết và mở cửa. TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS Trần Ngọc Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Định (2005), “Tài chính quốc tế”, NXB Thống Kê Akamatsu, Kaname (1962) "A Historical Pattern of Economic Growth in Developing Countries,” The Developing Economies, Preliminary Issue No. 1, pp. 3-25. Dunning, John H. (1981), International Production and the Multinational Enterprise, London: George Allen and Unwin. Dunning, John H. (2001) "The Eclectic (OLI) Paradigm of International Production: Past, Present and Future," International Journal of the Economics of Business, Vol. 8, No. 2, pp. 173-190. Hymer, Stephen H. (1960, published 1976), The International Operations of National Firms: a Study of Direct Foreign Investment, Cambridge, MA: MIT Press. Rugman. A. M. (1987), "The Firm-Specific Advantages of Canadian Multinationals," Journal of International Economics Studies, Vol. 2, No. 1, pp. 1-14. UNCTAD (2003), World Investment Report 2003. Vernon, Raymond (1966) "International Investment and International Trade in the Product Cycle,” Quarterly Journal of Economics, Vol. 80, No. 2, pp. 190-207.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNghiên cứu về fdi vào việt nam giai đoạn 2000-2010.doc