Đề tài Những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới. Khi toàn cầu hóa về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết với các quốc gia khác để cùng phát triển. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung của thế giới. Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự cạnh tranh, Việt Nam của chúng ta cũng vậy. Là một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế giới đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội, cũng như nhiều thách thức. Sức cạnh tranh là một yếu tố cần thiết, cấp bách và không thể thiếu đối với bất kỳ quốc gia, hay bất kỳ dân tộc nào. Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xía bỏ rào cản, chấp nhận tự do buôn bán, vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam (về chất lượng và giá cả). Nhưng làm sao và làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nước ta hiện nay đang là vần đề hết sức nan giải và có thể nói là đầy khó khăn, đang được nhiều người quan tâm. Qua đó em chọn đề tài nghiên cứu là: “Những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO”.

doc30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9266 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận sửa đổi và cập nhật để thích ứng với điều kiện thay đổi của môi trường thương mại thế giới. Hiệp định GATT 1947, cùng với các quyết định đi kèm và một vài biên bản giải thích khác đã hợp thành GATT 1994. Một số hiệp định riêng biệt cũng đạt được trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Dệt may, Trợ cấp, Tự vệ và các lĩnh vực khác; cùng với GATT 1994, chúng tạo thành các yếu tố của các Hiệp định Thương mại đa phương về Thương mại Hàng hoá. Vòng đàm phán Uruguay cũng thông qua một loạt các quy định mới điều chỉnh thương mại Dịch vụ và Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến thương mại. Một trong những thành công lớn nhất của vòng đàm phán lần này là, cuối Vòng đàm phán Uruguay, các nước đã cho ra Tuyên bố Marrakesh thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995. 1.1.3 Mục tiêu và chức năng hoạt động của WTO Với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, WTO thừa nhận các mục tiêu của GATT trong đó có 3 mục tiêu chính như sau: - Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường. - Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các nước đang phát triển đặc biệt là các nước kém phát triển được hưởng những lợi ích thực chất từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế. - Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động đối thiểu. Theo như Hiệp định Marrakesh về thành lập WTO, tổ chức này có năm chức năng cơ bản như sau: - Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương mại đa phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực hiện nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ. - Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO. - Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương. - Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hóa thương mại và tuân thủ các quy định của WTO. - Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trong việc hoạch định những chính sách và dụ báo về xu hướng phát triển tương lai của nèn kinh tế toàn cầu. 1.1.4 Nguyên tắc pháp lý của WTO WTO hoạt động dựa trên một bộ các luật lệ và quy tắc tương đối phức tạp, bao gồm trên 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng trên cơ sở 4 nguyên tắc pháp lý nền tảng là: tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, mở cửa thị trường và cạnh tranh công bằng. - Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO.Theo nguyên tắc MFN, WTO yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng cho phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên tắc này. - Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT) Đãi ngộ quốc gia, viết tắt theo tiếng Anh là NT (National Treatment), nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong nước. - Nguyên tắc mở cửa thị trường Nguyên tắc “mở cửa thị trường” hay còn gọi là “ tiếp cận thị trường” (market access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và đầu tư nước ngoài vào. Trong thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa. Về mặt chính trị, “tiếp cận thị trường” thể hiện nguyên tắc tự do hóa thương mại của WTO, về mặt pháp lý, “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm phán gia nhập WTO. - Nguyên tắc cạnh tranh công bằng Cạnh tranh công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc “tự do cạnh tranh trong những điều kiện bình đẳng như nhau”. Việc thúc đẩy cạnh tranh công bằng bằng cách loại bỏ các hoạt động mang tính “ không công bằng” như trợ cấp sản xuất, trợ cấp xuất khẩu, bán phá giá nhằm tranh giành thị phần. 1.1.5 Cơ cấu tổ chức của WTO Hiện nay, WTO có 153 nước thành viên (tính đến tháng 9/2009), Đại Hội đồng WTO đã chấp thuận Cape Verde là thành viên thứ 153 của WTO). Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất hai năm một lần, là cơ quan đưa ra quyết định đối với mọi vấn đề của bất kỳ hiệp định cụ thể nào. Thông thường, Hội nghị Bộ trưởng đưa ra các đường lối, chính sách chung để các cơ quan cấp dưới tiến hành triển khai. Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại Hội đồng, tiến hành các công việc hàng ngày của WTO trong thời gian giữa các Hội nghị Bộ trưởng, thông qua ba cơ quan chức năng là: Đại Hội đồng, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) và Cơ quan Rà soát Chính sách Thương mại (TPRB). Đại Hội đồng giải quyết các vấn đề của WTO thay mặt cho Hội nghị Bộ trưởng và báo cáo lên Hội nghị Bộ trưởng. Đại Hội đồng cũng đồng thời đóng vai trò là Cơ quan Giải quyết Tranh chấp (DSB) và Cơ quan Rà soát chính sách (TPRB). Cơ quan Giải quyết Tranh chấp được phân ra làm Ban Hội thẩm (Panel) và Uỷ ban Kháng nghị (Appellate). Các tranh chấp trước hết sẽ được đưa ra Ban Hội thẩm để giải quyết. Nếu như các nước không hài lòng và đưa ra kháng nghị thì Uỷ ban Kháng nghị sẽ có trách nhiệm xem xét vấn đề. Dưới Đại Hội đồng, WTO có ba Hội đồng về ba lĩnh vực thương mại cụ thể là Hội đồng Thương mại Hàng hoá, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại. Các hội đồng này có các cơ quan cấp dưới (các uỷ ban và các tiểu ban) để thực thi các công việc cụ thể trong từng lĩnh vực. (Ví dụ, Hội đồng Thương mại Hàng hoá có 11 uỷ ban, 2 nhóm công tác và Cơ quan Giám sát Hàng dệt, Hội đồng Thương mại Dịch vụ có 2 uỷ ban, 2 nhóm công tác...). Tương đương với các Hội đồng này, WTO còn có một số uỷ ban, có phạm vi chức năng nhỏ hơn, nhưng cũng báo cáo trực tiếp lên Đại Hội đồng, đó là các Uỷ ban về Thương mại và Phát triển, Thương mại và Môi trường, Hiệp định Thương mại Khu vực, Hạn chế bảo vệ Cán cân Thanh toán, Uỷ ban về Ngân sách, Tài chính và Quản lý, và Tiểu ban về các nước Chậm phát triển. Bên cạnh các uỷ ban đó là các Nhóm công tác về Gia nhập, và Nhóm Công tác về Mối quan hệ giữa Đầu tư và Thương mại, về Tác động qua lại giữa Thương mại và Chính sách cạnh tranh, về Minh bạch hoá Mua sắm của Chính phủ. Ngoài ra còn có hai uỷ ban về các hiệp định nhiều bên. Một cơ quan quan trọng của WTO là Ban Thư ký WTO đứng đầu là Tổng Giám đốc, dưới đó là 4 Phó Tổng Giám đốc, phụ trách từng mảng cụ thể. Ban Thư ký có khoảng 500 nhân viên, có trụ sở tại Geneva, với nhiệm vụ chính là: Hỗ trợ về kỹ thuật và quản lý cho các cơ quan chức năng của WTO (các hội đồng, uỷ ban, tiểu ban, nhóm đàm phán) trong việc đàm phán và thi các hiệp định. Trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát triển; Phân tích các chính sách thương mại và tình hình thương mại; Hỗ trợ trong việc giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến việc diễn giải các quy định, luật lệ của WTO; Xem xét vấn đề gia nhập của các nước và tư vấn cho các nước này. 1.1.6 Các hiệp định cơ bản của WTO Các Hiệp định của WTO điều chỉnh 3 lĩnh vực chính là hàng hoá, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ. Các Hiệp định này đưa ra các nguyên tắc cho tự do hoá thương mại để trên cơ sở đó các thành viên WTO đưa ra những cam kết cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào thương mại và mở cửa thị truờng dịch vụ. Sau đây là danh mục các hiệp định cơ bản trong WTO: Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới Phụ lục 1: Phục lục 1A gồm 20 hiệp định đa phương về thương mại hàng hóa; Phụ lục 1B là Hiệp định đa phương về thương mại dịch vụ ( GATS); Phụ lục 1C là Hiệp định đa phương về các khía cạnh liên quan đến thương mại của sở hữu trí tuệ (TRIPS). Phụ lục 2: Hiệp định đa phương về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp thương mại (DSU). Phụ lục 3: Hiệp định đa phương về cơ chế rà sóat chính sách thương mại (TPRM). 4 hiệp định nhiều bên về mua sắm máy bay dân dụng, mua sắm của chính phủ, sản phẩm sữa và sản phẩm thịt bò. 23 tuyên bố và quyết định liên quan đến một số vấn đề chưa đạt được thỏa thuận trong Vòng đàm phán Uruguay. 1.2 Quá trình gia nhập của Việt Nam vào WTO Sơ lược về thủ tục gia nhập WTO: Nộp đơn xin gia nhập Minh bạch hóa chính sách thương mại (nộp Bị vong lục) Trả lời các câu hỏi của Ban Công tác WTO Đàm phán đa phương (về thực hiện các quy định của WTO) và Đàm phán song phương (về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ) Hoàn chỉnh hồ sơ gia nhập Kết nạp và công bố chính thức 1.2.1 Quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam Đảng Cộng sản VN với bản chất cách mạng và tư duy chính trị nhạy bén đã khởi xướng và tiến hành công cuộc đổi mới một cách toàn diện và sâu sắc trên các lĩnh vực, cả về đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại và cải cách nền hành chính quốc gia. Gắn kết các nội dung đổi mới và để bảo đảm cho quá trình đổi mới là quá trình hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế quản lý, từng bước hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường. Chính điều này không chỉ đảm bảo phát huy được nội lực của đất nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân mà còn tạo ra tiền đề bên trong - nhân tố quyết định cho tiến trình hội nhập với bên ngoài. Việt Nam đã phát triển mạnh quan hệ toàn diện và mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc; gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á(ASEAN), tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN; Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC); là sáng lập viên Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM). Cùng với các nước ASEAN ký Hiệp định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, ASEAN Hàn Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN - Úc và New Zealand. Ký hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA). Đây là những bước đi quan trọng, là sự "cọ xát" từng bước trong tiến trình hội nhập. Thực tiễn những năm qua chỉ rõ: khi mở cửa thị trường, lúc đầu chúng ta có gặp khó khăn. Mở cửa buôn bán biên giới với Trung Quốc, hàng hoá nước bạn tràn vào đẩy doanh nghiệp nước ta vào thế bị động, một số ngành sản xuất "lao đao", một số doanh nghiệp phải giải thể. Tuy nhiên với thời gian, các doanh nghiệp nước ta đã vươn lên, trụ vững và đã có bước phát triển mới. Nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến kiểu dáng, mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhờ đó mà tăng được sức cạnh tranh, phát triển được sản xuất, mở rộng được thị trường. Thực hiện các cam kết theo hiệp định mậu dịch tự do ASEAN, chúng ta đã loại bỏ hàng rào phi quan thuế, giảm thuế nhập khẩu. Đến năm 2006, có 10.283 dòng thuế chiếm 99,43% biểu thuế nhập khẩu ASEAN có thuế suất chỉ ở mức 0 - 5%, nhưng các ngành sản xuất của ta vẫn phát triển với tốc độ cao. Trong nhiều năm qua, sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15 - 16%/năm, kim ngạch xuất khẩu tăng trung bình trên 20%/năm là nhân tố quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục, tạo thêm nhiều công ăn việc làm. Điều đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng lâu dài là tiến trình đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế đã từng bước xuất hiện lớp cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao, thông thạo ngoại ngữ, xuất hiện một đội ngũ những nhà doanh nghiệp mới, có kiến thức, năng động và tự tin, dám chấp nhận mạo hiểm, dám đối đầu với cạnh tranh. Đây là nguồn lực quý báu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, năm 1995 Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và kiên trì đàm phán và cải tổ để được gia nhập tổ chức này. 1.2.2 Các mốc đánh dấu chặng đường gia nhập WTO của Việt Nam 4-1-1995: Đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam được Đại hội đồng tiếp nhận. 31-1-1995: Ban xem xét công tác gia nhập (WP) của Việt Nam được thành lập với chủ tịch là ông Eirik Glenne, đại sứ Na Uy tại WTO. 24-8-1995: Việt Nam nộp bị vong lục về chế độ ngoại thương VN và gửi tới Ban thư ký WTO để luân chuyển đến các thành viên của ban công tác. 1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000. Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị trường. 7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ 12-2001: BTA có hiệu lực Đầu năm 2002: Việt Nam gửi bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ tới WTO và bắt đầu tiến hành đàm phán song phương với một số thành viên trên cơ sở bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ. 4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song phương. 9-10-2004: Việt Nam và EU đạt thỏa thuận về việc Việt Nam gia nhập WTO. 9-6-2005: Việt Nam và Nhật Bản đạt được thỏa thuận cơ bản về vấn đề mở đường cho Việt Nam sớm gia nhập WTO. 12-6-2005: Việt Nam cử một phái đoàn đàm phán hùng hậu sang Washington trước thềm chuyến thăm Mỹ chính thức của Thủ tướng Phan Văn Khải với quyết tâm đi đến kết thúc đàm phán song phương. 18-7-2005: Việt Nam và Trung Quốc đạt thỏa thuận về việc mở cửa thị trường để Việt Nam gia nhập WTO. 31-5-2006: Ký thỏa thuận kết thúc đàm phán song phương với Mỹ - nước cuối cùng trong 28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương. 26-10-2006: Việt Nam hoàn tất đàm phán đa phương tốt đẹp với các nước. Cuộc đàm phán trước đó diễn ra căng thẳng và tưởng chừng không thể kết thúc được cho đến phút chót. Ngày 07 tháng 11/2006, nước ta đã chính thức được kết nạp vào tổ chức này. PHẦN II: NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO 2.1 Những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đó khẳng định quá trỡnh đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nền kinh tế tăng tốc. Việc vào WTO sẽ mang lại những cơ hội, cũng như thách thức mới cho nước ta. 2.1.1 Cơ hội khi gia nhập WTO Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hoá này mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vỡ vậy sẽ cú cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, Việt Nam có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đó đề ra nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định Dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với mặt hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi ích này nếu có mối quan hệ thương mại "như thế nào đó" đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đó và đang đưa ra nhiều cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội mới cho những nước xuất khẩu nông sản như Việt Nam. Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng, Việt Nam đẩy nhanh quá trình hội nhập. Đường lối ở tầm vĩ mô không thể tránh khỏi đối với sự phát triển của quá trình tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách phát triển kinh tế đối ngoại. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá, tất nhiên ở các tầng lớp khác nhau phụ thuộc vào thực lực của mỗi lĩnh vực. Thứ hai, tham gia toàn cầu hóa chính là tranh thủ các điều kiện quốc tế để tranh thủ tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Việt nam là nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú không chỉ tạo ta điều kiện cho việc phát triển các ngành khai thác chế biến mà còn thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn, Việt nam có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu trị trường thế giới. Thứ ba: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền kinh tế trí tuệ, khoa học và công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nhưng cũng không thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, bản thân nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị mới và sử dụng chúng trong quá trình phát triển kinh tế. Trên thực tiễn nhièu công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lực lao động dồi dào, rẻ và có khả năng tiếp thu công nghệ mới của Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty Nhật Bản khi phân tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số các quốc gia (10 quốc gia) lớn hơn Lào, Campuchia và Myanma1. Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để nguồn lực của nước ta khai thông giao lưu với thế giơí bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động kỹ thuật công nghệ mới rất cần thiết. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và qúa trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động Việt Nam. Thứ tư: Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước hoà bình, chính trị-xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất quan trọng để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại. Với sự đổi mới phát triển hơn 17 năm qua Việt Nam đã thu được kết quả rất đáng tự hào. Sau gần hai thập kỷ tăng trưởng GDP đã tăng lên gấp 2 lần, từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước có mức xuất khẩu gạo lớn. Năm 2002 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 3,5 triệu tấn, năm 2001-3,55 triệu tấn, năm 2002-3,25 triệu tấn, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới2. Cùng với mức đó, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân được cải thiện. Thành qủa này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới. Thứ năm: mặc dù kinh tế Việt Nam chưa phát triển nhưng không phải hội nhập với hai bàn tay trắng, ngoài tài nguyên thiên nhiên nguồn lực cùng với sự ổn đinh về chính trị xã hội, Việt Nam cũng có kinh nghiệm nhất định sau hơn 17 năm đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cơ hội chỉ phát huy tác dụng khi chúng ta biết nắm bắt lấy nó. Nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ các cơ hội để khai thác triệt để sẽ giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển hơn bên cạnh các thuận lợi chung cho mọi thành phần kinh tế. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO sẽ giúp chúng ta có được một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Gia nhập WTO cũng là thông điệp hết sức rừ ràng về quyết tâm cải cách của nước ta, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào làm ăn tại Việt Nam. Ngoài ra, cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO khác một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO, cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước, sẽ phải vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó có thêm cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh không những ở trong nước mà còn trên thị trường quốc tế Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Môi trường thương mại quốc tế, sau này nhiều nỗ lực của WTO, đó trở nên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doanh nghiệp của nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại, trong đó có cả những rào cản trá hình núp bóng các công cụ được WTO cho phép như chống trợ cấp, chống bán phá giá… Tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phần thua thiệt thường rơi về phía nước ta, bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tiễn cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đó thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. 2.1.2 Thách thức của việc gia nhập WTO Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cùng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là: Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực dồi dào nhưng nói chung là có kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở chỗ năng lực tiếp cận khoa học công nghệ chủ yếu, khó phát huy lợi thế của nước đi sau trong việc tiếp cận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để nâng cao cơ sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành “bãi rác” của các công nghệ lạc hậu. Với quy mô vốn nhỏ như các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) thì khả năng nhập các công nghệ lạc hậu càng lớn. Thứ hai, sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp còn quá thấp do đó việt nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát triển các thị trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọ chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên việt nam sẽ bị áp lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa; việc mở rộng thị trường nội địa theo AFTA, WTO có thể biến việt nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài. Hàng hoá nước ngoài chất lượng cao lại được cắt giảm thuế, điều này khiến cho hàng hoá của các DNVVN bị cạnh tranh gay gắt. Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp còn thấp, cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ bị tổn thương và bị thao túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm; từ kinh nghiệm của các nước ngoài và quốc tế ngày càng tăng. Thứ tư, hệ thống thông tin viến thông toàn cầu hoá với tư cách là một thứ quyền lực siêu hàng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động tiêu cức trực tiếp đến an ninh kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng gây rối loạn và làm lợi cho các thế lực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do hoá thông tin, truyền thông như thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy cơ gây thiệt hại sảy ra. Thứ năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc gia có tiềm lực mạnh có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm hãm thậm chí gây sức ép buộc Việt Nam phải thay đổi định hướng, mục đích phát triển. Sức ép cạnh tranh Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ… sẽ khiến môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đó quen với "bầu vú bao cấp" của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối diện với thách thức này bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm hay muộn cũng sẽ đến. Riêng đối với khu vực nông nghiệp, việc gia nhập WTO có thể sẽ mang lại khó khăn nhiều hơn bởi chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp khó có thể diễn ra trong một sớm, một chiều. Chính phủ luôn lưu tâm đến yếu tố này trong đàm phán gia nhập WTO và hy vọng kết quả đàm phán cuối cùng sẽ là một kết quả chấp nhận được đối với lĩnh vực nông nghiệp. Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế Một trong những hệ quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu quả có thể sẽ phải mất đi để nhường chỗ cho một ngành khác có hiệu quả hơn. Quá trình này tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xó hội. Đây là thách thức hết sức to lớn. Chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn. Thách thức của việc hoàn thiện thể chế và cải cách nền hành chính quốc gia. Mặc dù đó có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế - thương mại, Việt Nam vẫn cũn nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi trường cạnh tra nh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Sau đó, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh, yếu tố quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí lại nguồn lực. Cuối cùng, những cam kết mở cửa thị trường của ta là cam kết theo lộ trính nên tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài. Một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hoá. Đây là thách thức to lớn đối với mọi nền hành chính quốc gia. Khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và doanh nhân, coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân hơn nữa, khắc phục "sức ỳ" của tư duy và khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các cơ hội do việc gia nhập WTO đem lại. Thách thức về nguồn nhân lực Để quản lý một cách nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ phỏp lý, tạo dựng mụi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cũng cần phải có một đội ngũ cán bộ thông thạo qui định và luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đó từng bước xây dựng được đội ngũ này, nhưng vẫn còn thiếu. Từ những cơ hội cũng như thách thức đó, hiện nay Việt Nam đang đẩy nhanh công tác chuẩn bị gia nhập WTO. Về chuẩn bị điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ thành viên, thời gian qua Quốc hội và các cơ quan Chính phủ đó khẩn trương đẩy nhanh chương trình xây dựng pháp luật. Quá trình rà soát văn bản pháp luật đó tiến hành ở Trung ương. Bộ Tư pháp đang tiếp tục hướng dẫn các tỉnh rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, có đối chiếu với quy định của WTO và cam kết của nước ta. Các địa phương cũng đang khẩn trương, nghiêm túc tiến hành rà soát, điều chỉnh các quy định, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại - đầu tư để đảm bảo tính thống nhất với các văn bản của Nhà nước và cam kết quốc tế. Đồng thời, chúng ta cũng đang đẩy mạnh triển khai các chương trỡnh hành động thực hiện các hiệp định của WTO như Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu (IL); Hiệp định về các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs); Hiệp định về kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS)… Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, chúng ta đó tập trung đầu tư phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất khẩu như nâng cao chất lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản; đầu tư công nghệ và quản lý để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dệt may, da giày…; khuyến khích các ngành hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học… Đồng thời, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế. Ngoài ra, nên tiếp tục củng cố hệ thống cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài và gắn kết hoạt động của các cơ quan này với các doanh nghiệp, hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để giúp các doanh nghiệp làm quen và ứng dụng rộng rói thương mại điện tử. Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế… Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển biến mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua những thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xó hội, nhất định đất Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, sớm đưa nước ta ra khỏi tính trạng nước kém phát triển vào năm 2010 và trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. 2.2 Tác động của gia nhập WTO đối với Doanh Nghiệp Việt Nam 2.2.1 Những thuận lợi và cơ hội, khó khăn và thách thức chung đối với DNVN a) Thuận lợi / cơ hội Nhiều cơ hội xuất khẩu do thị trường thế giới mở rộng, vị thế cạnh tranh bình đẳng hơn. Kinh tế trong nước phát triển ổn định. Hành lang pháp lý & môi trường kinh doanh được cải thiện, minh bạch, bình đẳng, cạnh tranh hơn. Cơ hội tiếp cận tín dụng, công nghệ, thông tin, các dịch vụ, thiết bị, vật tư đầu vào… tốt hơn. Cơ hội xây dựng chiến lược kinh doanh, liên kết mới để phát triển. Các tranh chấp TM quốc tế được giải quyết công bằng hơn. b) Khó khăn / thách thức Cạnh tranh quyết liệt hơn, cả ở thị trường trong nước Phải học hỏi, hiểu các quy định của WTO, các cam kết khu vực & luật lệ của các nước bạn hàng Phải áp dụng nhiều tiêu chuẩn trong nước và quốc tế Phải thận trọng hơn khi chọn lựa bạn hàng, thị trường, phương thức kinh doanh Nhiều ưu đãi, trợ cấp, bảo hộ của Nhà nước bị bãi bỏ Thị trường biến động nhanh, đòi hỏi khả năng thích ứng Nhiều vấn đề tồn tại không dễ khắc phục Một số ngành, sản phẩm, doanh nghiệp có thể bị thua thiệt 2.2.2 Tác động của gia nhập WTO đối với doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam a) Cơ hội: Sự quan tâm, môi trường pháp lý & chính sách đối với nông nghiệp tốt hơn, minh bạch, ổn định hơn Nhà nước sẽ điều chỉnh chiến lược, qui hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng thị trường hơn, bền vững hơn Các biện pháp, công cụ hỗ trợ mới của nhà nước đối với nông nghiệp & phát triển nông thôn công bằng, phù hợp hơn Các ngành dịch vụ, công nghệ, công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp sẽ phát triển, cơ sở hạ tầng ở nông thôn sẽ cải thiện Triển vọng tiếp cận thị trường xuất khẩu tốt hơn do vị thế mới của Việt Nam trong WTO, trong vòng đàm phán Doha Thị trường nội địa phát triển, hệ thống phân phối mở rộng, thuận lợi hơn cho tiêu thụ nông sản. Triển vọng mở rộng thị trường ở nông thôn cho các sản phẩm, dịch vụ của Doanh Nghiệp. Tiếp cận các nguồn lực cần thiết thuận lợi hơn Chi phí đầu vào có thể giảm do cạnh tranh (trong nước & nhập khẩu), xã hội hóa 1 số dịch vụ, tăng nguồn cung Cải cách Doanh nghiệp nhà nước, nông lâm trường quốc doanh tạo bình đẳng, giải phóng một số nguồn lực (đất, quyền kinh doanh…) Cơ cấu lại lao động nông nghiệp trong tư duy, cách làm ăn, năng suất, chất lượng lao động, khả năng tiếp cận thị trường của nông dân sẽ cải thiện Khả năng phát triển các liên kết 4 nhà, ngành, vùng thực chất hiệu quả, bền vững hơn trước sức ép cạnh tranh mới Triển vọng thu hút FDI, hợp tác quốc tế trong nông nghiệp & phát triển nông thôn tốt hơn. b) Thách thức Cạnh tranh tăng lên trên thị trường nông sản trong nước & quốc tế về chất lượng, tiêu chuẩn, giá cả, dịch vụ… Những tiêu chuẩn bắt buộc cao hơn về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm (trong nước & quốc tế) đối với nông sản có sự giám sát nghiêm ngặt hơn. Việc điều chỉnh hệ thống luật pháp, chính sách, chiến lược, qui hoạch, hạ tầng cho nông nghiệp & phát triển nông thôn cần thời gian & đầu tư mạnh, không dễ thực hiện. Các biện pháp hỗ trợ kinh doanh xuất khẩu nông sản không phù hợp WTO phải bãi bỏ, hệ thống mới chưa hình thành nhưng thách thức cạnh tranh sẽ đến ngay, doanh nghiệp khó đối phó. Tổ chức sản xuất, KD nông sản & các hoạt động liên quan còn nhiều bất cập: nhỏ lẻ, phân tán, chuyển đổi chậm & không đồng bộ, không đều, thiếu đầu tư các khâu tạo thêm giá trị gia tăng, chưa liên kết thành chuỗi Nông sản Việt Nam có những hạn chế về chất lượng, quy cách, tính ổn định & đồng đều, tiêu chuẩn an toàn Vệ sinh thực phẩm, môi trường, cách thu hoạch & bảo quản, mức chế biến thấp… chưa phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường đô thị nội địa & xuất khẩu, thiếu thương hiệu mạnh. Hệ thống tiêu thụ nông sản nội địa & hệ thống xuất khẩu đều cần cải thiện nhiều mặt (hạ tầng, vốn, tổ chức & phương thức kinh doanh chuyên nghiệp, marketing …) Doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam có những tồn tại chủ quan & khách quan hạn chế năng lực cạnh tranh không dễ khắc phục. Nhìn chung, đối với DN nông nghiệp VN, cơ hội là to lớn về lâu dài, không dễ nắm bắt ngay, nhưng thách thức là hiện hữu, không dễ khắc phục do: Cải cách, phát triển nông nghiệp đòi hỏi tầm nhìn chiến lược, sự phối hợp chiến lược & hành động của nhiều ngành, nhiều cấp, hệ thống quản lý và con người, công nghệ… mà Việt Nam chưa có đủ trong những năm trước mắt. Thị trường nông sản toàn cầu luôn luôn nhiều rủi ro, biến động, không công bằng, được bảo hộ cao ở các nước nhập khẩu lớn, thua thiệt cho các nước đang phát triển nhưng rất khó cải thiện; thị trường nội địa còn hạn hẹp, cạnh tranh mạnh. Kinh doanh nông sản rủi ro cao, lợi nhuận thấp; kinh doanh các ngành công nghiệp và dịch vụ liên quan cũng khó hơn so với các lĩnh vực khác do đặc thù của nông sản,nông dân. 2.2.3 Thách thức và cơ hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam khi gia nhập WTO a) Những lợi thế Có tính năng động cao, linh hoạt, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường. Có khả năng thích ứng cao với lý thuyết “kẽ hở thị trường”. Đáp ứng tốt những nhu cầu nhỏ, đặc biệt thị trường địa phương và nội địa. Có khả năng tận dụng được nguồn lực phong phú, có sẵn tại địa phương, tiếp thu được kỹ thuật và kinh nghiệm bí truyền. Am hiểu nhu cầu, thị hiếu, thói quen tiêu dùng, văn hóa, luật pháp của thi trường trong nước. b) Những hạn chế Doanh nghiệp nhỏ bé, nguồn lực hạn chế, dễ bị tổn thương với biến động môi trường. Thị trường nhỏ bé, chật chội, khó có khả năng mở rộng sản xuất và dịch vụ. Hạn chế trong tiếp cận với khoa học kỹ thuật và phương pháp sản xuất tiến bộ. Hạn chế trong tiếp cận với thị trường nước ngoài do ngôn ngữ bất đồng và điều kiện tiếp cận. c) Thời cơ của doanh nghiệp vừa và nhỏ Có cơ hội mở rộng thị trường không bị rào cản phi kinh tế. Được cạnh tranh bình đẳng (số lượng, chất lượng, giá cả và các hoạt động Marketing). Có cơ hội tiếp cận, tiếp nhận nhanh các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến. Có cơ hội tiếp nhận vốn đầu tư mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm tăng thu nhập cho doanh nghiệp và người lao động. Có cơ hội tiếp nhận với hệ thống luật pháp và thông lệ buôn bán quốc tế và hệ thống luật pháp của đất nước ngày càng tường minh. d) Thách thức Có nguy cơ bị mất thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Chịu sức ép cạnh tranh rất lớn (cạnh tranh về cả chất lượng và giá cả là rất gay gắt). Có nguy cơ phảo loại bỏ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, thói quen sản xuất không phù hợp. Có nguy cơ phải thu hẹp sản xuất thậm chí phá sản, một bộ phận lao động mất việc làm, giảm thu nhập do không thể cạnh tranh. Có nguy cơ vi phạm luật lệ các thị trường bên ngoài do ít hiểu biết và rào cản ngôn ngữ. 2.3 Những cơ hội và thách thức của nông dân Việt Nam Ngành chăn nuôi của Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. Một trong những thách thức đó là mức độ cạnh tranh trong ngành chăn nuôi hiện tại rất là thấp cả về năng suất, chất lượng, cũng như giá cả sản phẩm. Theo đánh giá của các cơ quan nghiên cứu, năng suất của Việt Nam hiện thấp hơn 30% so với mức sản xuất của thị trường quốc tế. Thách thức thứ 2 Việt Nam sẽ phải đối mặt là trợ cấp của các nước giàu, ví dụ một con bò của EU được hưởng trợ cấp một ngày là 2,62 USD. Đây là một ví dụ cho thấy trình độ phát triển chênh lệch quá lớn. Ngoài ra đối với những nước không còn dùng trợ cấp chăn nuôi như Australia, hoặc New Zealand thì ngành chăn nuôi Việt Nam sẽ phải đương đầu với hệ thống sản xuất rất tân tiến và hiệu quả của họ. Một thách thức nữa là Việt Nam sẽ không được tiếp cận với cơ chế tự vệ đặc biệt để chống lại những đột biến về nhập khẩu cho những mặt hàng chăn nuôi. Như vậy trong trường hợp Việt Nam mở cửa thị trường thì việc tăng số lượng nhập khẩu sẽ có nguy cơ tác động đến giá của các mặt hàng trong nước. Cuối cùng là với cam kết hội nhập, Chính phủ Việt Nam sẽ phải cắt giảm trợ cấp nông nghiệp trong đó có trợ cấp của ngành chăn nuôi, cắt giảm thuế quan và như vậy có tác động đối với người chăn nuôi, đặc biệt là người chăn nuôi nghèo. Khi hội nhập, những ngành hàng có lợi thế cạnh tranh sẽ phát triển, những ngành yếu kém sẽ suy giảm, giúp phân bổ lại các nguồn lực hiệu quả hơn. Như vậy xuất khẩu nông sản có lợi thế sẽ tăng trưởng mạnh do tiếp cận thị trường rộng mở, tạo điều kiện để “cải cách” các doanh nghiệp Nhà nước cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Đây là xu hướng quan trọng để thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản. Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh mạnh sẽ làm cho các doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn, xuất hiện xu hướng "phụ thuộc" vào các doanh nghiệp quốc tế. Người nghèo ở vùng sâu vùng xa ít chịu ảnh hưởng. Nhưng chính họ lại cũng không thể tận hưởng được những thành quả của sự hội nhập, và hậu quả là họ sẽ bị tụt hậu. Một chính sách công bằng là phải bảo đảm cho các cộng đồng phải được thừa hưởng các thành quả của sự phát triển. Đây là nhiệm vụ của chính phủ Việt Nam và các tổ chức xã hội khác. Khi Việt Nam là thành viên của WTO, một số các mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu truyền thống như chè, hạt điều, cà phê, tiêu có điều kiện tiếp cận được với thị trường mở rộng hơn nữa và có cơ hội phát huy thế mạnh cạnh tranh. Tuy nhiên, cái thách thức hiện tại của các mặt hàng xuất khẩu nông sản Việt Nam thì giá trị gia tăng còn rất thấp, và phụ thuộc nhiều vào yếu tố nhân công lao động rẻ. Điều này sẽ không bền vững về lâu dài. Nguy cơ Việt Nam sẽ tiếp tục phải đương đầu với các vụ kiện bán phá giá là hoàn toàn có thực, nhất là khi Việt Nam vẫn đang bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Các trợ giúp cho nông nghiệp của chúng ta vẫn còn thấp so với cả các nước đã là thành viên của WTO, ví dụ hỗ trợ "hộp hổ phách" của chúng ta còn thấp hơn cả Thái Lan. Nếu theo thông lệ của WTO, hỗ trợ phải thấp hơn 10%, tuy nhiên kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy chúng ta cũng không đủ tiền để hỗ trợ được mức này. Để đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại giữa các nước, WTO quy định một số điều cấm đối với các hình thức trợ cấp của Chính phủ như: trợ cấp, trợ giá cho xuất khẩu. Tuy nhiên, WTO không chống lại những hỗ trợ của nhà nước như: Hỗ trợ cho vùng nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, đào tạo giáo dục... Việt Nam nên chuyển hẳn sang sản xuất hàng hóa thay vì sản xuất nhỏ lẻ để nâng cao năng lực cạnh tranh. 2.4 Giải pháp để vượt qua thách thức Gia nhập WTO là bước vào một sân chơi mới vừa có những cơ hội lại vừa có những thách thức. Tuy nhiên, cơ hội không tự nhiên sẵn có và khó khăn thử thách luôn ở phía trước. Vì vậy, để các doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam có thể tận dụng mọi cơ hội, vượt qua các thách thức, trong thời gian tới cần chú ý tới một số giải pháp sau: Về nguyên tắc, WTO không cấm tất cả các hình thức hỗ trợ của Chính phủ. Nhà nước vẫn có thể tiếp tục đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, hỗ trợ nghiên cứu triển khai, khuyến nông, chuyển giao công nghệ, đào tạo giáo dục phát triển nguồn nhân lực. WTO cũng cho phép nhiều hình thức hỗ trợ vùng nghèo và một số khâu trong sản xuất nông nghiệp. Như vậy, Nhà nước cần giúp cho nông dân tiếp cận các thông tin về thị trường bên cạnh việc định hướng thị trường sản xuất gì và làm ở mức độ như thế nào. Điều này sẽ tạo nhiều cơ hội cho nông dân trong việc cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại. Do vậy, để phát triển nông nghiệp thời kỳ hội nhập vào WTO, việc tăng cường trang bị kiến thức, hỗ trợ kỹ thuật, cách thức sản xuất tiên tiến cho người dân nông thôn thông qua chính hoạt động của khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cần được đặt lên hàng đâu, có như thế mới bảo vệ được người nông dân trong sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường Để có thể phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh thực thi các cam kết gia nhập WTO, các ngành hàng và mỗi doanh nghiệp phải chủ động xây dựng và thực thi chiến lược đa dạng hóa thị trường. Bên cạnh việc tập trung vào các thị trường và sản phẩm chủ lực cần đa dạng hóa thị trường và mặt hàng để có thể chủ động phòng ngừa các biến động thường xuyên của thị trường Tăng cường hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu cho doanh nghiệp và nhãn hiệu sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa. Nhiều mặt hàng nông sản như cà phê, hồ tiêu, gạo và thủy sản hiện còn xuất khẩu ở dạng thô và hàng dệt may chủ yếu là hàng gia công nên không có thương hiệu ở trong hệ thống phân phối của nước ngoài. Việc không có thương hiệu đã dẫn tới giá bán thấp, nhưng để có được thương hiệu và duy trì được hình ảnh tốt đẹp đối với người mua buộc chúng ta phải tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế về chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm và những quy định về bảo vệ môi trường. Nâng cao vai trò và năng lực hoạt động của các hiệp hội nhằm đáp ứng tốt nhất các yêu cầu ngày càng cao và nhiệm vụ ngày càng lớn. Một hiệp hội nông nghiệp hữu hiệu cho nhà nông chính là lối ra. . Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững trong thời kỳ hội nhập ngày nay là yêu cầu cấp thiết, bởi vật, hơn lúc nào hết cần phát huy hơn nữa vai trò “đầu tàu” của hội nông dân các cấp để thúc đẩy sự nghiệp phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, nâng cao đời sống nông dân theo tinh thần Nếu nông dân được tham gia vào những hiệp hội có tổ chức hợp lý để qua đó họ được nhanh chóng trang bị đầy đủ kỹ thuật công nghệ cao, thì việc cạnh tranh tốt với hàng ngoại tại sân nhà và chỉ tiêu đạt 4 tỉ đô la Mỹ xuất khẩu nông lâm sản vào năm 2010 không phải là điều vượt quá tầm tay. Phổ biến thông tin về WTO cho doanh nghiệp không chỉ các cam kết của Việt Nam mà các dự báo tác động nhập khẩu và cơ hội về mở rộng thị trường – giảm thuế thị trường nhập khẩu của các nước đối với hàng Việt Nam. Nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá nông, lâm sản, nhất là sản phẩm, hàng hoá nôg, lâm sản xuất khẩu nhằm thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội cũng như về thương mại của đất nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của ngành nông nghiệp và PTNT trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay. Một mặt quá trình này trược tiếp mang lại khả năng canh tranh cũng như giá cả cao hơn so với các mặt hàng cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhưng mặt khác còn góp phần vào việc tạo ra uy tín và thương hiệu cho sản phẩm hàng hoá Việt Nam nói chung và sản phẩm, hàng hoá nông lâm sản ché biến nói riêng trên trường quốc tế. Ngoài những nhóm giải pháp trên, Nhà nước cũng cần tập trung vào công tác quy hoạch, hoàn thiện chính sách và thể chế kinh doanh theo hướng minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp cũng như các ngành hàng trong khuôn khổ các biện pháp hỗ trợ cho phép của WTO. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để tham gia hội nhập một cách hiệu quả nhất. Với những giải pháp đồng bộ và nỗ lực của các bộ, ngành, doanh nghiệp chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện thành công chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước. Doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của kinh tế thị trường khi chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang, lại càng là nhân vật trung tâm trong mở cửa hội nhập. Khi Việt Nam gia nhập WTO, trong rất nhiều công việc phải làm, các doanh nghiệp cần tập trung làm bốn việc chủ yếu sau đây: Thứ nhất, doanh nghiệp chủ động tỡm hiểu luật chơi của WTO, nghiên cứu kỹ những thỏa thuận về việc gia nhập WTO khi được phổ biến. Luật chơi cơ bản của WTO là cắt giảm thuế quan, xóa bỏ các hàng rào phi thuế quan (như hạn ngạch, cấp phép xuất - nhập khẩu), xóa bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường, tạo "sân chơi" bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, tài sản trí tuệ và bản quyền. Luật chơi đó tạo thuận lợi cho các nước thành viên mở rộng thị trường, thâm nhập thị trường các nước và tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ năng quản lý của nước ngoài; tham gia vào quá trỡnh thiết lập cỏc luật chơi mới, xử lý tranh chấp thương mại; thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh; đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Những thỏa thuận về việc gia nhập WTO trong cuộc đàm phán song phương với Mỹ và đàm phán đa phương tới đây sẽ được phổ biến rộng rói, cần được các doanh nghiệp nghiên cứu kỹ để hiểu rừ những thuận lợi và khú khăn hậu WTO. Ngoài những điểm cơ bản như trên cũn cú những thỏa thuận cụ thể về ngành, lĩnh vực, sản phẩm; về tỷ lệ nắm giữ cổ phần; về lộ trình với những thời hạn cụ thể... Thứ hai, rà soát, sắp xếp lại sản xuất, kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp được quyết định bởi việc giảm thiểu chi phí sản xuất, kinh doanh. Muốn giảm chi phí sản xuất kinh doanh, phải đổi mới kỹ thuật, thiết bị - công nghệ, tiết giảm chi phí nguyên nhiên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu chi phí quản lý, chi phí ngoài sản xuất, chi phí lưu thông... Thứ ba, coi trọng việc nắm bắt, cập nhật thông tin, đặc biệt là thông tin liên quan đến tiêu thụ, nhất là sự biến động của thị trường thế giới, coi thông tin là lực lượng sản xuất trực tiếp. Khắc phục tình trạng chỉ chú tâm đẩy mạnh sản xuất đôi khi những sản phẩm mà thị trường không cần hoặc cần nhưng với số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả, thị hiếu phù hợp hơn. Thứ tư, đào tạo và nâng cao trỡnh độ nguồn nhân lực, yếu tố nội lực có tầm quan trọng hàng đầu để hội nhập. Việt Nam có lợi thế về số lượng lao động dồi dào, giá cả rẻ, nhưng lợi thế rẻ đang giảm dần, trong khi tỷ lệ lao động đó qua đào tạo cũn rất thấp (mới được một phần tư, cũn ba phần tư chưa qua đào tạo); cơ cấu đào tạo chưa hợp lý; chất lượng đào tạo cũn nhiều bất cập. Doanh nghiệp cần phối hợp với cỏc cơ sở đào tạo để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phù hợp. KẾT LUẬN Trong bất cứ một nền kinh tế nào thì việc hình thành DNNN cũng là một yếu tố khách quan. DNNN ở nước ta có một vai trò rất to lớn từ trước đến nay. Việc chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra các vấn đề bức xúc của các DNNN cần được giải quyết để các DNNN tiếp tục góp phần thúc đẩy đất nước phát triển. Yêu cầu đặt ra đối với các DNNN ta hiện nay là phải sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp sao cho phù hợp với lực lượng của nó trong nền kinh tế quốc dân. Mặt khác lại phải xây dựng được cơ chế kinh doanh phù hợp với thể chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để đảm bảo cho DNNN thực sự là một chủ thể độc lập về quản lý, bảo đảm sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong nền kinh tế mở. Đổi mới hệ thống DNNN là một công việc vô cùng khó khăn nó liên quan tới các lĩnh vực trong xã hội… do đó giải pháp đặt ra phải đồng bộ, mức độ đặt ra phải phù hợp với điều kiện đất nước. Để tồn tại và phát triển bền vững trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình bằng các biện pháp chủ yếu là cải tiến đổi mới, công nghệ bên cạnh việc kết hợp hài hoà, chọn lọc các biện pháp bổ sung thích hợp. Hy vọng rằng trong tương lai không xa, các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các sản phẩm của doanh nghiệp nói riêng sẽ chiếm lĩnh được thị trường trong nước và có vị thế ở thị trường nước ngoài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.doc
Luận văn liên quan