Trong bối cảnh Việt Nam vừa ra nhập WTO, nền kinh tế nước ta tương lai
sẽ có những biến đổi thần tốc. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ đưa
Việt Nam vào tình thế vừa có những cơ hội mà cũng có những thách thức rất lớn.
Việc Kinh doanh theo mạng du nhập vào Việt Nam cũng chính là một phần
trong số đó. Chính vì kinh doanh đa cấp mang nhiều màu sắc nên có rất nhiều
ngộ nhận. Đây là một mô hình phân phối mang tính sáng tạo cao. Do đó, việc
cần thiết hiểu biết một cách toàn diện về nó là vô cùng cấp thiết.
Một người bình thường không thể trong ngày một ngày hai có thể hiểu hết
được về kinh doanh đa cấp. Để kinh doanh theo mạng có thể tồn tại và phát triển
và đi vào quỹ đạo hoàn thiện thì đối với các cơ quan có chức năng, các cơ quan
truyền thông, các công ty kinh doanh đa c ấp, và đối với mỗi người dân phải có
sự phối hợp để đưa ra cái nhìn khách quan, đúng đắn về kinh doanh theo mạng
có được sự chấp nhận của toàn xã hội và đem lại lợi ích cho toàn xã hội.
92 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4258 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những tình huống bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bò, bán trâu để mua hàng vào
làm HTV Sinh Lợi vì những tưởng chỉ cần như vậy thì mỗi tháng sẽ được nhận
lương. Hai đại lý đang "nằm vùng" tại đây là CS Phúc Hưng (Pleiku, Gia Lai) và
CS Khang Thịnh (Buôn Ma Thuột, Đắc Lắc). Mỗi tháng, công ty đều tổ chức
những buổi hội thảo, tạo cơ hội cho những người có thu nhập cao trình bày thành
tích với những người mới, nhằm lôi kéo thêm nhiều hợp tác viên vào mạng lưới.
“Kết quả, Sinh Lợi đã thu nạp gần 500.000 hợp tác viên trên khắp cả nước. Nếu
theo con số này, chỉ tính mỗi HTV mua một máy ozone thì Sinh Lợi đã thu vào
1.500 tỉ đồng, một con số khổng lồ”.()
Sinh Lợi là một trong những công ty lừa đảo bán hàng đa cấp bất chính
đầu tiên, và cũng là quy mô nhất tại Việt Nam. Trong quá trình hoạt động, họ đã
có những sai phạm nghiêm trọng nhưng luôn khôn khéo tìm cách né tránh những
điều khoản của Luật Cạnh Tranh.
()
Theo báo Tuổi trẻ số ra ngày 28/02/2006
58
- Sinh Lợi không yêu cầu những hợp tác viên đóng những khoản phí để đăng ký
vào mạng lưới của công ty. Thay vào đó, họ sử dụng hệ thống điểm PV, và yêu
cầu hợp tác viên phải mua hàng của công ty để có được điểm tích lũy này. Về bề
ngoài thì hình thức này rất hợp pháp và không hề vi phạm quy định nào của Luật
Cạnh tranh, nhưng những hàng hóa mà Sinh Lợi bán ra có giá rất xa so với giá trị
thực, và hầu như không có giá trị sử dụng. Công ty sử dụng một phần số chênh
lệch này để trả thưởng cho hợp tác viên và chiếm dụng phần còn lại.
- Công ty cũng có những điều khoản về việc mua lại hàng hóa đã bán cho hợp
tác viên, tuy nhiên trên thực tế, việc trả lại hàng hóa rất khó khăn. Khách hàng
mang hàng hóa đến trả thường bị công ty từ chối vì nhiều lý do ( quá thời hạn trả
hàng, hàng hóa không nguyên vẹn,…)
Như vậy là, vẻ bề ngoài của Sinh Lợi được ngụy trang rất khéo, hầu như
không hề vi phạm pháp luật. Chính vì vậy công ty này đã được các cơ quan chức
năng cấp cho giấy phép hoạt động hợp pháp. Tuy vậy công ty này vẫn để lộ ra
những sai phạm nghiêm trọng, vi phạm Luật Cạnh tranh 2005:
- Công ty cung cấp những thông tin sai lệch cho các hợp tác viên về sản phẩm.
Giá thành sản phẩm cấp cho hợp tác viên cao một cách vô lý, nguồn gốc xuất xứ
bị bưng bít, nhiều sản phẩm sản xuất trong nước nhưng lại được đóng mác nhập
khẩu. Nhiều người đã ngộ nhận về chất lượng cũng như giá thành của sản phẩm
mà bị lừa đảo, lôi kéo vào mạng lưới.
- Công ty trả thưởng cho hợp tác viên bằng tiền chiếm dụng của người vào sau,
chứ không phải từ giá trị của hàng hóa mang lại. Bản thân các hợp tác viên nhiều
người cũng không hiểu rõ giá trị sử dụng của sản phẩm mà chỉ tìm cách bán cho
người vào sau càng nhanh càng tốt, càng nhiều càng tốt nhằm thu hoa hồng của
công ty.
Với những sai phạm của mình, sau một thời gian hoạt động, Sinh Lợi đã bị
59
xã hội lên án mạnh mẽ, và các cơ quan chức năng đã tham gia vào cuộc. Tháng
6/2006, các cấp lãnh đạo ra quyết định thanh tra công ty Sinh Lợi. Và sau khi có
kết luận, ngày 22/6, Công ty cổ phần Sinh Lợi đã bị Sở Thương mại Thành phố
Hồ Chí Minh rút giấy phép hoạt động. Tuy vậy một vài tháng sau đó, công ty
này vẫn hoạt động tiếp tục ở Hà Nội và lừa đảo thêm nhiều hợp tác viên ở miền
Bắc. Việc công ty Sinh Lợi đóng cửa đã gây ra những xáo trộn nhất định trong
xã hội, nhiều người dân khi phát hiện ra bị lừa đảo thì cũng đã mất nhiều tiền bạc
cũng như công sức. Giấc mơ làm giàu tan vỡ kéo theo những quan hệ anh em,
bạn bè rạn nứt cũng vì công ty kinh doanh đa cấp bất chính Sinh Lợi.
60
CHƢƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ
HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH TẠI
VIỆT NAM
1. Xu hƣớng phát triển của hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam
Thói quen mua hàng của người tiêu dùng đang có những sự biến chuyển
rõ rệt trong những thập niên gần đây. Hàng hóa, thay vì nằm nguyên trong các
cửa hàng, hay những hệ thống siêu thị, giờ đây đã chủ động tự tìm đến người
tiêu dùng. Ngành bán hàng trực tiếp (direct selling) hiện là một trong những lĩnh
vực kinh tế phát triển mạnh nhất trong nền kinh tế thế giới. Hàng tỷ USD đã và
đang chuyển từ hệ thống bán lẻ truyền thống sang hệ thống bán hàng qua
catalogue, mua hàng qua tivi (television home shopping), thương mại điện tử,…
và kinh doanh theo mạng cũng là một trong những hệ thống đóng vai trò chủ
chốt trong cuộc cách mạng này. Trong khi mức tăng trưởng của ngành kinh
doanh bán lẻ truyền thống ở Mỹ chỉ đạt 3% mỗi năm, thì chỉ số này của lĩnh vực
kinh doanh theo catalogue và gửi thư chào hàng trực tiếp (direct mail) là 7% mỗi
năm. Riêng mức tăng trưởng doanh số của ngành KDTM đạt tốc độ đáng kinh
ngạc: 20-30% mỗi năm.(
Có được thành công đó là do xã hội, các cơ quan ngôn luận đã có những
cái nhìn tích cực hơn đối với bán hàng đa cấp. Trước đây, KDTM luôn là đối
tượng công kích của báo chí và xã hội, thường xuyên bị nhầm lẫn với mô hình
“hình tháp ảo” và bị đồng nghĩa với những hình thức kinh doanh “chộp giật”,
(
Nguồn:
61
“lừa đảo”… của những người hám tiền, cả tin và liều lĩnh. Tuy nhiên giờ đây, tất
cả đều nói về ngành kinh doanh này với thái độ khác hẳn. Quả thật, trong bối
cảnh hàng triệu người mất việc làm hoặc gia nhập đội ngũ những người làm việc
tạm thời hoặc bán thời gian, tư vấn tự do hoặc kinh doanh đơn lẻ trong thập niên
vừa qua sau những đợt sáp nhập, chuyển nhượng, giảm biên chế hoặc đóng cửa
của các tập đoàn hoặc là nạn nhân của sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công
nghệ và tự động hóa, ngành KDTM đã chứng tỏ mình như một giải pháp việc
làm tối ưu trong nền kinh tế hiện đại, là cơ hội kiếm việc làm cho những lao
động bị thải hồi từ những công ty, tập đoàn, nhà máy… Bên cạnh đó, kiểu quảng
cáo và tiếp thị thông thường ngày càng trở nên kém hiệu quả. Theo các số liệu
thống kê, mỗi người dân Mỹ hiện là đối tượng mục tiêu của ít nhất 145 thông
điệp quảng cáo mỗi ngày. Song rõ ràng là cơ hội tiếp cận mục tiêu của các nhà
quảng cáo đã giảm hẳn so với trước kia bởi khán giả xem truyền hình ngày càng
mệt mỏi với quảng cáo trực tiếp và có chiều hướng né tránh chúng. Thêm vào
đó, do số lượng quảng cáo và các kênh quảng cáo ngày càng tăng, từ truyền hình
đến Internet, nên các thông điệp quảng cáo ngày càng có nguy cơ bị chìm trong
mớ hỗn độn thông tin mà người tiêu dùng nhận được mỗi ngày. Và vì vậy, ngày
càng có nhiều công ty đã phải nhờ đến KDTM như một giải pháp tiếp cận người
tiêu dùng hiệu quả nhất.
Tại Việt Nam, theo ông Trần Đáng, Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh
Thực phẩm nhận định: “Kinh doanh đa cấp và thực phẩm chức năng là tương lai
của thế kỷ 21”(. Tuy trước đây có nhiều trường hợp sai phạm dẫn đến những
Nguồn:
(
Nguồn:
62
định kiến đối với ngành kinh doanh này, nhưng đến những năm gần đây, nhiều
đơn vị kinh doanh đa cấp đã khôi phục danh tiếng cũng như thương hiệu nhờ
chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng thông tin truyền miệng.
Như vậy, phù hợp với xu hướng phát triển toàn cầu, kinh doanh theo mạng
tại Việt Nam cũng sẽ phát triển bùng nổ trong thời gian tới. Sau đây là một số xu
hướng phát triển của bán hàng đa cấp tại Việt Nam:
Xu hƣớng mở rộng
Đối mặt với đang bị bão hòa tại những thành phố lớn, trong tương lai,
kinh doanh theo mạng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động ra khắp các tỉnh thành
trong cả nước, nơi có một số lương đông đảo lực lượng hợp tác viên tiềm năng.
Đặc biệt là tại các vùng nông thôn, tính chất công việc theo mùa vụ sẽ tạo điều
kiện cho người dân ở đây có nhiều thời gian tham gia vào các hoạt động của
mạng lưới kinh doanh. Song song với đó là việc đa dạng hóa sản phẩm kinh
doanh đa cấp, tìm ra những sản phẩm phù hợp với phân đoạn thị trường có mức
thu nhập trung bình này. Đây được nhận định là một khu vực thị trường rất tiềm
năng do những mối quan hệ thân thiết lẫn nhau của người dân ở khu vực nông
thôn.
Xu hƣớng nhƣợng bộ
Đây là điểm mấu chốt của hầu hết những thay đổi trong chính sách trả
thưởng của các công ty kinh doanh đa cấp trong tương lai. Các công ty cần nhận
rõ rằng, muốn thu nạp được nhiều nhà phân phối hơn, họ cần thiết phải cắt giảm
những điều kiện bắt buộc để tham gia mạng lưới. Đồng thời cũng phải điều
chỉnh tỉ lệ hoa hồng sao cho hợp lý, vẫn khích lệ các nhà phân phối mở rộng hệ
thống mạng lưới cấp dưới và bảo đảm người tiêu dùng được hưởng mức giá hấp
dẫn.
Xu hƣớng thƣơng mại điện tử
63
Internet sẽ trở thành công cụ hàng đầu về truyền thông, đào tạo và đặt
hàng cho những nhà phân phối kinh doanh theo mạng. Việc tuyển mộ và đào tạo
thêm các nhà phân phối có thể thực hiện từ xa nhờ mạng internet, cho phép thúc
đẩy nhanh việc mở rộng quy mô mạng lưới, tạo điều kiện liên lạc truyền thông
tức thì giữa công ty và những nhà phân phối.
Những nhà phân phối sẽ đặt hàng trực tuyến, không cần người điều hành
trực tiếp. Các công ty sẽ trả hoa hồng bằng tín dụng trực tiếp vào tài khoản ngân
hàng hoặc tài khoản thẻ tín dụng. Kinh doanh theo mạng điện tử sẽ thực hiện
toàn bộ các khâu của một mô hình bán hàng đa cấp thông qua mạng Internet.
Xu hƣớng “hình tháp ảo” trên mạng Internet
Kinh doanh theo mạng điện tử sẽ sớm đi vào hiện thực, tuy nhiên nguy cơ
xuất hiện “hình tháp ảo” cũng là một vấn đề đáng lo ngại. Tại các nước có nền
kinh tế phát triển như Mỹ, Canada,… mô hình “hình tháp ảo” điện tử đã xuất
hiện và gây ra nhiều thiệt hại đáng kể cho ngành kinh doanh theo mạng nói riêng
và cả nền kinh tế nói chung. Tại Việt Nam, hành lang pháp lý quản lý hoạt động
thương mại điện tử vẫn còn chưa hoàn thiện, đây sẽ là cơ hội cho những hình
thức lừa đảo giả danh kinh doanh đa cấp phát triển, chiếm đoạt tài sản của người
dân, gây thiệt hại cho xã hôi.
Như vậy, có thể thấy Internet là một công cụ truyền thông cực kỳ hiệu quả
cho ngành kinh doanh theo mạng. Việc tận dụng phương tiện này hiệu quả, ngăn
chặn kịp thời những hình thức lừa đảo, sẽ quyết định sự thành công của các
doanh nghiệp trong tương lai.
2. Bài học rút ra từ những tình huống bán hàng đa cấp bất chính tại Việt
Nam
2.1. Nguyên nhân của tình trạng bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam
* Nhận thức chƣa đúng đắn của xã hội về bán hàng đa cấp và bán hàng đa
64
cấp bất chính
Nhận thức của những hợp tác viên tiềm năng: Bán hàng đa cấp là hình
thức kinh doanh mới mẻ tại Việt Nam. Do đó, người dân vẫn chưa có nhận thức
đầy đủ về phương thức này, dẫn đến có những cách nhìn nhận phiến diện, chủ
quan. Nhiều người cho rằng bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh
thần kỳ, giúp mọi người làm giàu một cách nhanh chóng. Để thành công trong
việc kinh doanh đa cấp phải có quan hệ rộng cùng với một khả năng thuyết phục
cao, điều không hề dễ dàng đặc biệt là với những người lao động nghèo, thiếu
những quan hệ có lợi để tạo cơ hội xây dựng mạng lưới cho riêng mình. Tuy vậy,
bị hấp dẫn bởi những khoản lợi nhuận khổng lồ, nhiều người đã tham gia vào
mạng lưới một cách mù quáng, thậm chí phải thế chấp tài sản, vay mượn ngược
xuôi để trở thành hợp tác viên, và không ít người đã không thể thu hồi được số
vốn đầu tư ban đầu.
Nhận thức của phân phối viên hàng đa cấp: Trong tất cả các hình thức
kinh doanh, yếu tố hàng đầu luôn là yếu tố con người. Đối với kinh doanh đa
cấp, vai trò của các hợp tác viên lại càng quan trọng hơn nữa. Chính họ là người
nắm giữ tương lai, vận mệnh cũng như tiềm năng, uy tín của công ty. Đây lại là
một điểm yếu của bán hàng đa cấp, vì doanh nghiệp không thể cùng lúc kiểm
soát được ngôn từ, hành động cùa hàng trăm, hàng nghìn hợp tác viên trong
mạng lưới. Không ít trường hợp, để bán được hàng, để lôi kéo thêm thành viên
vào mạng lưới, các hợp tác viên sẵn sàng phóng đại, cung cấp những thông tin
sai lệch, thiếu sự thật về hàng hóa. Việc công ty không quảng cáo trên các
phương tiện truyền thông càng tạo cơ hội cho các phân phối viên quảng cáo theo
cách riêng của họ vì không hề có cơ sở để so sánh. Như vậy, trực tiếp hay gián
tiếp, chính các hợp tác viên đã gây ra yếu tố bất chính cho hoạt động bán hàng đa
cấp mà họ đang tham gia.
65
Nhận thức của người tiêu dùng cuối cùng: Mặc dù giá của các hàng hóa
cung cấp theo hình thức bán hàng đa cấp bất chính thường ở mức cao, nhưng
người tiêu dùng những sản phẩm này lại không chỉ giới hạn ở những người có
thu nhập cao. Thực tế, có rất nhiều người tiêu dùng là người có thu nhập thấp, bị
mê hoặc bởi những lời mời chào hấp dẫn cùa những nhà phân phối mà sẵn sàng
bỏ nhiều tiền để mua về những sản phẩm mà bản thân họ cũng chưa hiểu rõ về
công dụng. Người tiêu dùng cần phải tỉnh táo, cân nhắc và chứng thực về những
thông tin mà các nhà phân phối đưa ra.
* Môi trƣờng pháp lý điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp chƣa hoàn
thiện
Hành lang pháp lý cho hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam còn phức
tạp và rắc rối. Nhà nước đã ban hành các quy phạm điều chỉnh lĩnh vực này
nhưng vẫn còn nằm trong các văn bản khác nhau: Luật Cạnh tranh (3/12/2004);
Nghị định 110/2005/ND-CP (24/8/2005); Nghị định 120/2005/ND-CP
(30/9/2005)… và các thông tư liên quan của Bộ Thương mại.
Pháp luật về kinh doanh theo mạng ở Việt Nam vẫn còn có phạm vi áp
dụng hẹp. Luật Cạnh tranh mới chỉ đưa ra khái niệm về bán hàng đa cấp, tuy đã
khá đầy đủ nhưng vẫn chỉ gói gọn trong hoạt động mua bán hàng hóa. Trong khi
đó, kinh doanh đa cấp đã mở rộng phạm vi ứng dụng lên cả lĩnh vực tài chính,
cung ứng dịch vụ,…
Quy định về mức ký quỹ: Nghị định 110/2005/ND-CP quy định mỗi
doanh nghiệp phải ký quỹ 5% vốn điều lệ nhưng không được thấp hơn 1 tỷ đồng.
Điều này không thực sự hợp lý vì thực tế, các doanh nghiệp muốn tận dụng lợi
thế tiết kiệm chi phí trung gian của bán hàng đa cấp thường là những doanh
nghiệp vừa và nhỏ, và việc ký quỹ một số tiền lớn như vậy là không khả thi.
Bồi thường thiệt hại: Vấn đề đối tượng nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
66
thiệt hại khi có sai phạm xảy ra cũng là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Theo
Điều 12, Nghị định 110/2005/ND-CP có quy định ràng buộc trách nhiệm giữa
doanh nghiệp kinh doanh đa cấp và hợp tác viên. Theo đó, nếu lỗi thuộc về ai thì
người đó sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp quy định như vậy dẫn đến tình trạng quy kết, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau,
khiến cho việc xử lý trở nên vô cùng khó khăn.
Chế tài xử phạt: Điều 23 Nghị định 110/2005/ND-CP có quy định việc xử
phạt vi phạm trong hoạt động bán hàng đa cấp, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ
bồi thường thiệt hại hoặc xử lý hành chính. Rõ ràng, xử phạt như vậy là không
thỏa đáng nếu đem so sánh với những thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu nếu một
mạng lưới sụp đổ. Nghị định 120/2005/ND-CP quy định hành vi kinh doanh đa
cấp bất chính có thể bị xử phạt từ 50 đến 70 triệu đồng, sai phạm ở quy mô lớn
có thể bị phạt tới 100 triệu đồng. Mức độ xử lý hành chính chưa đủ sức răn đe,
nếu đem so sánh với lợi nhuận mà “hình tháp ảo” mang lại, trong khi thiếu
những biện pháp xử lý hình sự thỏa đáng đã góp phần làm trầm trọng thêm tình
trạng kinh doanh đa cấp bất chính tại Việt Nam.
* Công tác quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam chƣa theo kịp
đà phát triển của ngành kinh doanh này
Trách nhiệm quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam trong một
thời gian dài bị bỏ ngỏ, các cơ quan chức năng thường tránh né đụng vào vấn đề
này. Chỉ đến khi Nghị định 110/2005/ND-CP và Thông tư số 19/2005/TT-
BTM của Bộ Thương mại được ban hành vào năm 2005, trách nhiệm này mới
chính thức thuộc về Cục Quản lý cạnh tranh. Tuy vậy, mặc dù đã có nhiều nỗ lực
nhằm triển khai các hình thức quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, tăng cường
phối hợp với các sở Thương mại tại các địa phương để theo dõi, cập nhật diễn
biến thực tế, hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật, phổ biến kinh nghiệm
67
của các địa phương trọng điểm, nhưng công tác này vẫn còn rất chậm chạp và
thiếu hiệu quả.
Tới năm 2006, Cục Quản lý cạnh tranh mới thực hiện được một số hoạt
động để giám sát hoạt động bán hàng đa cấp, như phối hợp với Cục An toàn vệ
sinh thực phẩm và Vụ Pháp chế - Bộ Y tế về việc hướng dẫn cấp giấy chứng
nhận kinh doanh cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp kinh doanh thực phẩm
chức năng theo yêu cầu của Sở Thương mại TP Hồ Chí Minh, điển hình là
trường hợp xử lý sai phạm của công ty Sinh Lợi. Tuy nhiên, ngay cả trong việc
xử lý các sai phạm của công ty này, Cục Quản lý cạnh tranh cũng tỏ ra rất chậm
chạp. Những dấu hiệu về kinh doanh đa cấp bất chính của Sinh Lợi đã được các
phương tiện truyền thông đề cập đến từ năm 2003, nhưng đến tận giữa tháng
3/2006, Cục mới tiến hành thanh tra và xử lý công ty này. Sau đó, việc giám sát
chấp hành quyết định thu hồi giấy phép kinh doanh của công ty Sinh Lợi đã
không được thực hiện một cách nghiêm túc, dẫn tới việc công ty này vẫn tiếp tục
hoạt động với vỏ bọc công ty Thiên Ngọc Minh Uy tại cùng địa điểm, thậm chí
các hợp tác viên còn quảng cáo rằng công ty Sinh Lợi đã phát triển thành tập
đoàn, và Thiên Ngọc Minh Uy là một trong những công ty con.
Tháng 8/2007, Cục Quản lý cạnh tranh phối hợp với Sở Thương mại và du
lịch Hậu Giang mới tổ chức được một khóa tập huấn nghiệp vụ quản lý bán hàng
cho các sở thương mại và quản lý thị trường các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Cục cũng đa phát hành một số tài liệu, ấn bản phục vụ công tác tuyên truyền
pháp luật liên quan đến quản lý kinh doanh theo mạng. Tuy nhiên, đối tượng tiếp
nhận chủ yếu là các cán bộ quản lý chứ chưa thực sự hướng đến người dân, đối
tượng cần được cung cấp những thông tin đầy đủ và chính xác về kinh doanh đa
cấp này để có được nhận thức cũng như thái độ đúng đắn về hình thức này.
68
2.2. Kinh nghiệm rút ra từ những tình huống bán hàng đa cấp bất chính đã
xuất hiện tại Việt Nam
2.2.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều nỗ lực nhằm quản lý hoạt động bán hàng đa
cấp và ngăn chặn bán hàng đa cấp bất chính, như việc thanh tra kiểm tra các tổ
chức kinh doanh theo mạng, hay ban hành Luật cạnh tranh, các nghị định
110/NĐ-CP hướng dẫn thi hành bán hàng đa cấp, nghị định 120/NĐ-CP về
hướng dẫn thi hành luật cạnh tranh trong đó quy định về mức phạt doanh nghiệp
bán hàng đa cấp làm ăn bất chính… Tuy vậy, những khoản luật này chỉ có tác
dụng về mặt pháp lý, để hoạt động kinh doanh theo mạng trở nên hợp pháp, chứ
chưa có tác dụng nhiều trong việc ngăn chặn kinh doanh đa cấp bất chính. Mặc
dù các điều khoản về kinh doanh theo mạng bất chính đã được quy định rất rõ
ràng trong các điều khoản của Luật Cạnh tranh, nhưng vẫn tồn tại nhiều sơ hở để
các công ty bất chính lách luật. Một thực tế rằng, ít trường hợp có thể áp dụng
Luật cạnh tranh để xử lý các sai phạm công ty bán hàng đa cấp bất chính.
Vấn đề bán hàng đa cấp đã và đang nhận được sự quan tâm của Nhà nước,
tuy nhiên việc quản lý hệ thống này còn có nhiều bất cập và chậm trễ. Bán hàng
đa cấp có sức lan toả rất lớn. Chỉ trong thời gian ngắn, một công ty bán hàng đa
cấp bất chính có thể phát triển thành cả một hệ thống đồ sộ, với hàng chục nghìn
hợp tác viên, lừa đảo nhiều tỷ đồng. Việc chậm trễ của các cơ quan chức năng đã
tạo điều kiện cho những công ty này ngày càng mở rộng mạng lưới, cũng như
gây thiệt hại nặng cho xã hội. Cần thiết phải có một đơn vị chuyên biệt có chức
năng quản lý hoạt động này, theo dõi sát sao, phát hiện và xử lý những biểu hiện
vi phạm ngay từ đầu, tránh gây ra những thiệt hại lớn. Quản lý tốt sẽ làm giảm
thiểu số sai phạm, làm trong sạch thị trường kinh doanh đa cấp.
Bán hàng đa cấp thường được sử dụng để tiêu thụ các sản phẩm nhập khẩu
69
từ nước ngoài như Hoa Kỳ, Trung Quốc,… là những sản phẩm mà người tiêu
dùng Việt Nam chưa từng biết đến trước đó. Các thông tin về công dụng, về
thành phần, về nguồn gốc của sản phẩm gần như chưa từng được kiểm định
trong thói quen sử dụng và trong các kết luận của giới chuyên môn. Thậm chí, có
những sản phẩm mà các cơ quan chức năng chưa biết xếp vào loại nào, thực
phẩm hay thuốc chữa bệnh, hoặc chưa có một tên gọi thống nhất để có thể nêu rõ
được công dụng hoặc tác hại của nó. Các cơ quan chức năng thường tốn nhiều
công sức cũng như thời gian để kiểm định cả về chất lượng cũng như nguồn gốc
của những sản phẩm này.
Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp tại Việt Nam hiện nay chỉ là những
doanh nghiệp phân phối sản phẩm được sản xuất từ nước ngoài. Nói cách khác,
các công ty nước ngoài sản xuất sản phẩm tổ chức mạng lưới đa cấp và thực hiện
việc truyền tiêu đa cấp thông qua các công ty trong nước. Thông thường, các
công ty trong nước sẽ ký các hợp đồng phân phối độc quyền với công ty nước
ngoài, sau đó dưới sự hướng dẫn của chuyên gia nước ngoài do doanh nghiệp
sản xuất gửi đến, công ty phân phối của Việt Nam sẽ thiết lập mạng lưới đa cấp
và đào tạo đội ngũ người tham gia cũng như thúc đẩy sự vận hành của mạng lưới
này. Cách thức tổ chức theo kiểu liên kết như trên đã giúp cho các nhà sản xuất
nước ngoài thoát được mọi trách nhiệm về chất lượng sản phẩm khi tiêu thụ cũng
như các trách nhiệm khác đối với mạng đa cấp.
Tính độc lập trong hoạt động của người tham gia đặt ra một vài vấn đề cho
việc xác định trách nhiệm. Trong bán hàng đa cấp, người tham gia tiến hành tiếp
thị để bán lẻ sản phẩm một cách độc lập. Người tiêu dùng cuối cùng sẽ chỉ biết
đến người đã trực tiếp giới thiệu và bán sản phẩm cho họ, là người tham gia. Do
đó, việc đổ trách nhiệm qua lại giữa người tham gia và doanh nghiệp bán hàng
đa cấp rất dễ xảy ra. Khi xảy ra sai phạm, các công ty thường phủ nhận toàn bộ
70
trách nhiệm và đổ lỗi cho các hợp tác viên đã tự tạo ra các thông tin không chính
xác.
Hành vi bán hàng đa cấp bất chính thường sử dụng các thủ đoạn tác động
đến bản tính hám lợi của người tham gia, thông thường là những khu vực dân cư
có đời sống khó khăn, ít thông tin, trình độ dân trí không cao, những tầng lớp
dân cư có thời gian nhàn rỗi nhiều, là những đối tượng dễ tác động và có nhiều
cơ hội thực hiện việc truyền tiêu bằng biện pháp rỉ tai. Là một quốc gia có tỷ lệ
nông nghiệp chiếm đa số trong cơ cấu kinh tế cũng như việc phân bố dân cư,
những đối tượng nói trên chủ yếu tập trung ở nông thôn, có thu nhập không cao,
đa số còn nghèo. Do đó, hậu quả xảy ra khi có sự bất chính trong bán hàng đa
cấp sẽ là rất lớn đối với đời sống kinh tế – xã hội.
2.2. Đối với ngƣời tiêu dùng và ngƣời lao động trong xã hội
Phần lớn các công ty kinh doanh theo mạng bất chính đều ngụy trang dưới
mác của những công ty có yếu tố nước ngoài. Điều này giúp tạo thêm lòng tin
cho người dân, dễ dàng lôi kéo họ tham gia vào mạng lưới. Tuy vậy, những công
ty nước ngoài này, hoặc là không hề tồn tại, hoặc là cũng không có uy tín tại thị
trường nội địa nước đó. Các công ty kinh doanh đa cấp bất chính đánh vào tâm
lý ưa thích đồ ngoại của người Việt Nam để kinh doanh sản phẩm vừa không bảo
đảm chất lượng, vừa có giá rất xa so với thực tế.
Đối tượng người dân mà những công ty kinh doanh đa cấp hướng tới là
những người còn thiếu kiến thức về kinh tế, không hề có khái niệm về bán hàng
đa cấp. Những công ty này thường tổ chức những buổi hội thảo, trao thưởng,…
để tạo ra cho những hợp tác viên sự ảo tưởng về một hình thức kinh doanh siêu
lợi nhuận, không hề tốn kém, vẽ ra một viễn cảnh hoàn hảo khi không cần lao
động mà vẫn được hưởng tiền hoa hồng. Kết quả là, hàng nghìn người đã bị lôi
71
kéo, mà phần đông trong đó là những người lao động, sinh viên,… Họ phải vay
mượn hoặc rút hết tiền để mua hàng của công ty kinh doanh đa cấp bất chính,
trước khi lâm vào cảnh khó khăn vì bị lừa đảo, giấc mơ làm giàu tan vỡ. Như
vậy, cần thiết phải trang bị những kiến thức về bán hàng đa cấp cho mọi người,
hạn chế việc người dân bị lôi kéo vì chiêu bài của những công ty bất chính.
Sản phẩm mà những công ty bán hàng đa cấp bất chính cung cấp thường
không rõ ràng, những thông tin như giá cả, nguồn gốc xuất xứ, chất lượng sản
phẩm… đều bị tẩy xóa, mập mờ. Tuy vậy, nhiều người khi tham gia vào mạng
lưới chỉ mong muốn đạt được quyền kinh doanh cùng với công ty chứ không hề
quan tâm đến yếu tố quan trọng nhất là sản phẩm. Tâm lý này chính là điều kiện
lý tưởng để các công ty bất chính hoạt động, thậm chí còn khiến cho những công
ty kinh doanh đa cấp chân chính biến tướng thành bất chính.
Một điều nữa khiến những công ty bất chính tồn tại trong thời gian dài,
gây thiệt hại lớn chính là ý thức tự giác của người dân. Khi một hợp tác viên phát
hiện ra công ty kinh doanh theo mạng mình đang tham gia là bất chính, thay vì
trình báo cho cơ quan chức năng, anh ta lại tìm cách lôi kéo thêm nhiều người
cùng tham gia với mình, mục đích là thu lại hoa hồng nhằm bù lại khoản tiền đã
bỏ ra. Cứ như vậy, những công ty bán hàng đa cấp bất chính phát triển rất nhanh,
thậm chí nhanh gấp nhiều lần so với những công ty chân chính, và rất khó để cho
các cơ quan chức năng phát hiện và xử lý kịp thời.
3. Các giải pháp ngăn chặn và phòng chống bán hàng đa cấp bất chính.
Bán hàng đa cấp là một hình thức kinh doanh khó quản lý, và khi luật
pháp ở Việt Nam còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ như vậy thì càng khó kiểm soát và
quản lý. Đây cũng là vấn đề làm nhức nhối các nhà quản lý và đáng quan tâm đối
72
với toàn xã hội. Cả bốn bên công ty kinh doanh đa cấp, người dân, Chính phủ và
toàn xã hội đều phải có cái nhìn khách quan và rõ ràng hơn về kinh doanh theo
mạng, phải đưa ra những biện pháp quản lý hiệu quả hơn. Dưới đây là một số
khuyến nghị đối với các bên có liên quan để giúp việc quản lý kinh doanh theo
mạng được hiệu quả.
3.1. Đối với doanh nghiệp
Liên kết nội bộ ngành: Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp cần liên kết
với nhau, thành lập ra một tổ chức đại diện cho họ như “Hiệp hội bán hàng đa
cấp Việt Nam”. Thông qua đó để hợp tác với các cơ quan truyền thông, các cơ
quan quản lý nhằm nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn các công ty hoạt động theo
mô hình “hình tháp ảo”. Có như vậy mới có thể tạo được niềm tin, sự đồng thuận
của cả xã hội đối với mô hình bán hàng đa cấp. Việc tham gia vào hiệp hội sẽ
làm tăng uy tín của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc phải tuân thủ các quy
chế của hội sẽ hạn chế hoàn toàn những sai phạm mà các doanh nghiệp cố tình
hoặc vô tình mắc phải. Bên cạnh đó, nhờ có Hiệp hội, người tiêu dùng cũng sẽ
yên tâm và có cái nhìn thiện cảm hơn đối với hình thức bán hàng đa cấp.
Đối với Nhà nƣớc và xã hội: Các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ
Nghị định 110/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và Luật cạnh tranh.
Các doanh nghiệp cần phải đảm bảo tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt
Nam khi đi vào hoạt động. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã được quy định như
nộp thuế, tổ chức đào tạo các nhà phân phối về sản phẩm… Đồng thời, doanh
nghiệp cũng phải có trách nhiệm quản lý và thu hộ thuế thu nhập cá nhân của các
hợp tác viên cho cơ quan thuế. Để tồn tại vững mạnh, doanh nghiệp cần phải
thực hiện tốt trách nhiệm đối với xã hội như góp phần giải quyết nạn thất nghiệp,
xóa đói giảm nghèo, tiến hành các hoạt động từ thiện,…
73
Về sản phẩm: Các công ty cần luôn trung thực trong việc cung cấp thông
tin cho khách hàng, cho các nhà phân phối độc lập và cho các cơ quan quản lý.
Sản phẩm phải được ghi rõ ngày tháng sản xuất, các chỉ tiêu chất lượng, hướng
dẫn sử dụng, đồng thời phải được công khai về đặc tính và công dụng. Các sản
phẩm nên được nghiên cứu để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, kèm với đó
là chính sách hậu mãi tốt. Các doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cao chất
lượng sản phẩm, khiến các hợp tác viên và người tiêu dùng hài lòng, từ đó càng
lúc càng củng cố mạng lưới và nâng cao doanh số. Giá cả phải được xác định
dựa trên giá gốc của hàng hóa, từ đó định ra giá bán lẻ và mức hoa hồng cho các
hợp tác viên. Giá cả phù hợp là yếu tố hàng đầu quyết định thành công hay thất
bại của một doanh nghiệp kinh doanh theo mạng chân chính.
Về kế hoạch kinh doanh:
Việc tuyển mộ hợp tác viên phải được tiến hành bài bản, tránh việc dụ dỗ,
lôi kéo hàng loạt. Hợp tác viên phải hiểu rõ tính năng, công dụng của sản phẩm
để hướng dẫn cho khách hàng. Hệ thống hợp tác viên có chất lượng sẽ bảo đảm
mạng lưới phân phối tồn tại bền vững.
Chính sách trả thưởng, hoa hồng phải được thực hiện hợp lý, dựa trên giá
gốc của hàng hóa, doanh số của hợp tác viên và khả năng, quy mô của doanh
nghiệp, đặc điểm sản phẩm và điều kiện thực tế của thị trường Việt Nam. Tuyệt
đối không đưa ra những mức hoa hồng quá cao so với thực tế nhằm thu hút thêm
hợp tác viên vì đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hoạt động kinh
doanh đa cấp bất chính.
Về phương thức thanh toán, doanh nghiệp nên có sự minh bạch, rõ ràng và
mềm dẻo. Trong một số trường hợp cụ thể, việc chấp nhận cho hợp tác viên
thanh toán tiền hàng chậm sẽ tạo dựng thêm niềm tin của xã hội đối với doanh
nghiệp, cũng như tạo cơ hội cho những người muốn tham gia vào mạng lưới
74
nhưng chưa có đủ vốn. Tuy nhiên việc này cũng phải được tính toán cụ thể dựa
trên điều kiện của doanh nghiệp và đặc tính của sản phẩm. Thời hạn thanh toán
cũng phải được nghiên cứu để tránh rủi ro nếu hợp tác viên không thanh toán
đúng hạn hoặc từ chối thanh toán.
Về chế độ bảo hành, doanh nghiệp nên có chế độ cụ thể với từng loại sản
phẩm, nhất là những sản phẩm công nghệ, máy móc. Chính sách bảo hành minh
bạch rõ ràng sẽ xóa tan thái độ nghi ngờ của xã hội đối với hình thức kinh doanh
đa cấp, đem lại lòng tin của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp
cũng cần phải có chính sách mua lại sản phẩm của các hợp tác viên nhằm phù
hợp với quy định của pháp luật, đồng thời tạo dựng niềm tin cho những người
tham gia, giúp họ yên tâm hoạt động.
Doanh nghiệp nên mở một quỹ dự phòng để chi trả các khoản hoa hồng,
tiền thưởng hay mua lại hàng hóa từ người tham gia trong trường hợp doanh
nghiệp ngừng hoạt động. Điều này giúp bảo đảm quyền lợi của hợp tác viên, tạo
dựng lòng tin của xã hội đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho mạng lưới phát
triển rộng khắp. Quy mô của quỹ dự phòng cũng cần phải được tăng trưởng phù
hợp với mạng lưới. Việc duy trì quỹ giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín, đồng
thời giải quyết kịp thời những sự việc phát sinh.
Về việc quản lý mạng lƣới: Các công ty cần luôn tuyên truyền, nhắc nhở
các nhà phân phối độc lập về nguyên tắc nghề nghiệp, triết lý kinh doanh…
Nhằm tạo ra một đội ngũ những nhà phân phối độc lập tuân thủ đúng những
nguyên tắc của bán hàng đa cấp và quy định của pháp luật. Doanh nghiệp cần
quản lý chặt chẽ vấn đề người nước ngoài tham gia vào mạng lưới. Có rất nhiều
doanh nghiệp đã vi phạm khi cho phân phối viên nước ngoài tham gia khi họ
chưa có giấy phép lao động tại Việt Nam. Doanh nghiệp cũng nên có các biện
pháp để thường xuyên khích lệ tinh thần của các hợp tác viên, tránh tình trạng
75
chán nản, dẫn đến chất lượng mạng lưới suy giảm.
Các công ty cần có những quy định bắt buộc đối với những nhà phân phối
độc lập như:
+ Có hợp đồng lao động hợp pháp.
+ Tham gia lớp đào tạo và huấn những luyện những kỹ năng cơ bản đối với nhà
phân phối..
+ Cấp thẻ lưu hành cho mỗi nhà phân phối.
+ Có hình phạt nghiêm khắc nếu nhà phân phối vi phạm nguyên tắc của bán
hàng đa cấp và những quy định của công ty.
3.2. Đối với ngƣời tham gia
Người tiêu dùng nên tìm hiểu kỹ những thông tin có liên quan tới công ty,
sản phẩm trước khi ra quyết định mua hàng.
Khi là nhà phân phối phải tuyệt đối trung thực với khách hàng và thực
hiện đúng các quy định của công ty cũng như quy định của pháp luật. Những
hợp tác viên cần phải nhận thức rằng: chính họ là người hoạt động kinh doanh
độc lập, nhân danh chính họ chứ không phải đại diện cho công ty, và họ phải tự
chịu trách nhiệm về hành động của mình. Hợp tác viên cũng nên xác định vai trò
của mình như một đối tác đối với doanh nghiệp, có quyền yêu cầu công ty cung
cấp những thông tin xác thực về phương thức kinh doanh đa cấp, về công ty và
sản phẩm của họ.
Đối với những người muốn tham gia thì nên tìm hiểu về bán hàng đa cấp.
Một điều hết sức quan trọng đó là họ cần phân biệt được đâu là mô hình bán
hàng đa cấp chân chính và mô hình “hình tháp ảo” trước khi quyết định tham
gia. Dưới đây là ba tiêu chí quan trọng nhất để tiện cho việc phân biệt mô hình
bán hàng đa cấp chân chính với mô hình “hình tháp ảo” và lựa chọn công ty để
76
tham gia:
Về lịch sử công ty:
Công ty được chọn lựa phải có thâm niên hoạt động trên thế giới tối thiểu
từ 8 năm trở lên
Công ty được chọn (hoặc đối tác sản xuất) nên có cơ sở vật chất đầy đủ:
có nhà máy sản xuất ra sản phẩm, quy trình công nghệ sản xuất hiện đại, có viện
nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm.
Pháp lý công ty và pháp lý sản phẩm thật đầy đủ. Nếu người dân cứ lao
vào những công ty mà chưa được nhà nước cho phép thì rất nguy hiểm, vì vậy
công ty được lựa chọn nhất thiết phải có giấy phép thành lập và giấy đăng ký
kinh doanh đầy đủ, ngoài ra sản phẩm mà công ty phân phối cũng phải có giấy
phép lưu hành của nhà nước cho phép.
Về chính sách hoa hồng:
Người tham gia không bắt buộc phải bỏ ngay một lần một số tiền lớn. Nên
chọn những công ty mà bạn có điều kiện được học tập, được đào tạo thật kỹ về
sản phẩm rồi mới quyết định mua sử dụng.
Công ty lựa chọn phải có mạng lưới Quốc tế. nên chọn những công ty phải
có tầm nhìn Quốc tế tức là hoạt động trên toàn thế giới.
Quyền lợi tham gia được chi trả công khai đầy đủ. Nên chọn những công
ty phải thật đảm bảo quyền lợi cho người tham gia, hoa hồng phải được nhận
đúng ngày giờ quy định hàng tháng.
Chính sách công ty phải cho phép người vào sau nếu làm việc tích cực vẫn
có khả năng có thu nhập cao hơn người vào trước. Có những công ty hình tháp
ảo mà người vào sau chỉ làm lợi cho những người vào trước, thu nhập của người
vào sau nếu có tích cực cũng không cao hơn được người vào trước, thậm chí có
công ty mà những người vào trước không cần làm gì nhưng hàng tháng vẫn
77
hưởng hoa hồng.
Chính sách hoa hồng của công ty phải có khả năng cho thu nhập lớn.
Về sản phẩm: Sản phẩm đánh giá sự tồn tại lâu dài của một công ty kinh
doanh theo mạng do đó phải đảm bảo những tiêu chuẩn sau:
Độc đáo: sản phẩm đặc biệt, khó bắt trước, khó làm giả
Độc quyền: sản phẩm chỉ bán tại công ty và các chi nhánh công ty, không
bán rộng rãi trên thị trường.
Dễ sử dụng: chỉ cần hướng dẫn qua là có thể dùng được
Chất lượng tốt: Do sản phẩm được lan truyền từ người này đến người
khác, nếu chất lượng thực sự không tốt thì sẽ không có sức lan truyền.
Có thị trường tiêu thụ rộng lớn: sản phẩm ai cũng có thể dùng được từ
người già, người trẻ, người bệnh tật, người khỏe mạnh, thanh thiếu niên, đàn
ông, phụ nữ.
Có nhu cầu sử dụng thường xuyên:
Giá bán sản phẩm phải được thị trường chấp nhận bằng hoặc cao hơn giá
mua sỉ tại công ty.
Việc người tiêu dùng và người tham gia tự nâng cao hiểu biết là yếu tố
then chốt để ngăn chặn “hình tháp ảo”. Có nhận thức đúng đắn, người dân sẽ có
sự lựa chọn chính xác và tỉnh táo, không thành nạn nhân của những hình thức lừa
đảo. Từ đó, các công ty bán hàng đa cấp bất chính sẽ không thể tồn tại được nữa,
chỉ còn lại những công ty kinh doanh chân chính.
3.3. Từ phía chính phủ
Đối với hành lang pháp lý: Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp lý đối với hình thức kinh doanh đa cấp. Các quy phạm pháp luật điều
chỉnh trong lĩnh vực này đã được Nhà nước ban hành, nhưng lại nằm rải rác
78
trong nhiều văn bản luật khác nhau, chưa có được sự thống nhất cao. Việc cấm
hoàn toàn hình thức bán hàng đa cấp là trái với quy luật tự nhiên của kinh tế, đi
ngược lại xu hướng hội nhập. Vì vậy, cần thiết phải xác nhận tính hợp pháp của
hình thức kinh doanh này, đồng thời các chính sách pháp luật của Nhà nước cần
phải tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh doanh theo mạng chân chính phát triển,
bảo đảm về lợi ích kinh tế cho những đối tượng tham gia vào bán hàng đa cấp.
Về phạm vi áp dụng: Nhiều trường hợp kinh doanh đa cấp bất chính đã
lợi dụng sự thiếu hiểu biết của đa số người dân về hàng hóa, đặc biệt là những
hàng hóa mới như các loại máy chăm sóc sức khỏe, thực phẩm chức năng,… để
cung cấp thông tin sai lệch về chất lượng, giá thành nhằm lừa đảo người tiêu
dùng. Nhà nước cần có những quy định cụ thể, rõ ràng cho phép bán hàng đa cấp
được áp dụng đối với loại hàng hóa nào, trên lĩnh vực nào để tránh tạo sơ hở cho
các công ty bất chính trục lợi. Phạm vi áp dụng của Luật Cạnh tranh 2004 cần
phải được mở rộng, không chỉ gói gọn trong hoạt động mua bán hàng hóa mà
còn phải điều chỉnh cả lĩnh vực tài chính, cung ứng dịch vụ. Kinh doanh theo
mạng có khả năng mở rộng trên mọi lĩnh vực của nên kinh tế, vì vậy cần phải có
sự chuẩn bị hành lang pháp lý kỹ càng và toàn diện, tránh tình trạng thiếu hụt tạo
cơ hội cho kinh doanh đa cấp bất chính xuất hiện.
Về bồi thƣờng thiệt hại : Điều 12, Nghị định 110/2005/ND-CP có quy
định ràng buộc trách nhiệm giữa doanh nghiệp kinh doanh đa cấp và hợp tác
viên. Theo đó, doanh nghiệp sẽ phải bồi thường cho hợp tác viên hoặc người tiêu
dùng nếu hợp tác viên gây ra thiệt hại khi thực hiện theo quy chế hoạt động và
chương trình bán hàng của doanh nghiệp hoặc không được thông tin đầy đủ về
hàng hóa. Hợp tác viên chịu trách nhiệm nếu thực hiện những hành vi bị cấm,
không hoàn thành nhiệm vụ và gây thiệt hại cho người tiêu dùng hay các hợp tác
viên khác.Tuy nhiên trong bán hàng đa cấp, các hợp tác viên thường bán lẻ sản
79
phẩm một cách độc lập. Vì vậy, khi xảy ra sai phạm, các doanh nghiệp thường
đổ lỗi cho các hợp tác viên đã tự ý thực hiện những hành vì này, trong khi các
hợp tác viên luôn cho rằng họ hành động theo chính sách của doanh nghiệp. Sự
quy kết, đùn đẩy trách nhiệm lần nhau giữa hai phía gây rất nhiều khó khăn cho
công tác xử lý sai phạm. Do đó, Nhà nước cần có những quy định thật cụ thể về
những trường hợp nào trách nhiệm thuộc về doanh nghiệp, trường hợp nào thuộc
về hợp tác viên và trường hợp nào thì cả hai phía cùng phải chịu trách nhiệm liên
đới.
Về chế tài xử phạt: Cần thiết phải có những biện pháp nghiêm khắc đối
với những công ty sử dụng mô hình bán hàng đa cấp để lừa đảo. Hình thức xử lý
hiện tại mới chỉ dừng lại ở việc tịch thu giấy phép kinh doanh hoặc bắt buộc
đóng cửa công ty. Những biện pháp xử lý hình sự đều phải dẫn từ những nguồn
luật khác. Việc xử lý không nghiêm làm cho những công ty bất chính xuất hiện
ngày càng nhiều. Vì vậy việc đề khoản luật cụ thể, quy định những hình thức
phạt nặng đối với những hành vi bất chính là rất quan trọng. Bán hàng đa cấp bất
chính cần phải được nhìn nhận là một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và tùy
theo mức độ vi phạm mà có thể áp dụng các hình thức xử lý khác nhau như cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù. Hình phạt tù mà các nước đang áp
dụng với hành vi này là không quá 5 năm. Ở Việt Nam, mức hình phạt bảo đảm
tính ngăn ngừa và răn đe đối với những hành vi sai phạm, có thể áp dụng trong
thực tế.
Về công tác quản lý hoạt động bán hàng đa cấp: Để tăng cường quản
lý hoạt động kinh doanh đa cấp tại Việt Nam cần thiết phải nâng cao trách nhiệm
và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các cơ quan chức năng có liên
quan như Bộ Công thương, Bộ Y tế, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,…
nhằm ngăn chặn và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động kinh
80
doanh này đối với thị trường.
Bộ Công thương cần thực hiện tốt trách nhiệm kiểm tra, giám sát và cấp
giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Một số giải pháp
có thể thực hiện là:
- Hướng dẫn cụ thể để các Sở thương mại các tỉnh, thành phố thực hiện tốt
chức năng quản lý hoạt động kinh doanh đa cấp. Thường xuyên đào tạo nâng cao
trình độ cán bộ thanh tra, quản lý để thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả.
- Phối hợp và sử dụng những phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài,
truyền hình, internet,…) nhằm tuyên truyền cho người dân về kinh doanh đa cấp,
cảnh báo về những trường hợp sai phạm nhằm hạn chế những thiệt hại đáng tiếc
có thể xảy ra.
- Thường xuyên tiến hành khảo sát thị trường, thu thập ý kiến của các
doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu sai phạm để
kịp thời có biện pháp xử lý. Mặt khác việc có một kênh kết nối giữa Bộ, các
doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ giúp cho cơ quan Nhà nước thu nhận thêm
nhiều ý kiến đóng góp quý báu từ xã hội, góp phần hoàn thiện khung pháp lý về
bán hàng đa cấp tại Việt Nam.
- Yêu cầu doanh nghiệp phải giải trình rõ ràng về hàng hóa trước khi quyết
định cho phép đưa vào kinh doanh đa cấp, đồng thời cũng chủ động thành lập
một bộ phận có chức năng thẩm định và khảo sát các thông tin liên quan đến sản
phẩm được đăng ký. Việc này sẽ giúp giảm thiểu việc các doanh nghiệp tự động
nâng giá, hoặc gian lận các thông tin về sản phẩm nhằm trục lợi. Thông tin về
các sản phẩm đã được phép lưu hành cần phải được công khai trên các kênh
thông tin của Bộ, giúp người dân có được thêm cơ sở để kiểm tra, đối chiếu
trước khi có quyết định mua hàng hay tham gia vào mạng lưới.
Đối với những loại sản phẩm đặc biệt, có khả năng gây ảnh hưởng lớn đối
81
với đời sống xã hội, như thực phẩm, thuốc chữa bệnh, chế phẩm hỗ trợ dinh
dưỡng,… Bộ Y tế cần có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn kỹ thuật, về chất
lượng của sản phẩm; đồng thời thông tin kịp thời cho xã hội về công dụng, chất
lượng và những khả năng gây hại của sản phẩm. Đối với những người tham gia,
khi phân phối những sản phẩm có ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, họ
không chỉ đơn giản là người bán hàng. Thực tế cho thấy, để bán được sản phẩm
những người tham gia đã kiêm luôn chức năng tư vấn cho khách hàng về công
dụng và cách thức sử dụng sản phẩm. Do đó, trong quản lý các lĩnh vực nhạy
cảm đó, cần thiết phải đặt ra điều kiện về trình độ chuyên môn cho những hợp
tác viên.
Tổng cục Thuế cần theo dõi việc đóng thuế đầy đủ của các doanh nghiệp,
đồng thời đưa ra quy định về thuế thu nhập cá nhân đối với người tham gia kinh
doanh đa cấp, nhằm tránh tình trạng trốn thuế thu nhập của những hợp tác viên
có thu nhập cao.
Tổng cục Hải quan cần theo dõi tình hình nhập khẩu của các hàng hóa
thuộc diện kinh doanh đa cấp, nhằm nắm rõ giá nhập khẩu thực tế, trên cơ sở đó
xác định giá bán lẻ của sản phẩm trên thị trường. Do đặc điểm hàng hóa được
phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng cuối cùng, không thông qua các hệ thống
cửa hàng nên dễ xảy ra hành vi trốn thuế thu nhập của các doanh nghiệp.
3.4. Từ phía xã hội
Có cái nhìn khách quan hơn, chính xác hơn, thông thoáng hơn về bán hàng
đa cấp. Bán hàng đa cấp đã tồn tại và phát triển tốt tại những quốc gia phát triển,
và những ưu điểm của nó đối với nền kinh tế cũng như quan hệ xã hội là không
thể phủ nhận. Nếu như mọi người không có sự nhận định đúng đắn, chỉ nhìn vào
những trường hợp phát triển sai lệch của kinh doanh theo mạng, từ đó có thành
82
kiến, ác cảm sẽ làm mất đi của xã hội một ngành kinh doanh chân chính, đem lại
lợi ích về nhiều mặt: giải quyết việc làm, mang lại cơ hội làm giàu cho số lượng
lớn người tham gia, tiết kiệm chi phí cho những khâu trung gian,…Bởi vậy, cần
có những biện pháp thiết thực để làm cho công chúng hiểu rõ bản chất và lợi ích
của hình thức bán hàng đa cấp.
Thứ nhất, nên đưa hình thức này vào giảng dạy trong các trường Đại học.
Một lượng không nhỏ những nạn nhân của hình thức bán hàng đa cấp bất chính
là sinh viên, vì đây là những người trẻ tuổi, năng động, dễ bị lôi kéo và không
tỉnh táo trước những cơ hội làm giàu không tưởng. Tại các trường Đại học, kể cả
các trường kinh tế, vẫn chưa có một chương trình giảng dạy nào về bán hàng đa
cấp, điều này khiến cho các sinh viên không được trang bị những kiến thức tối
thiểu để nhận diện những hình thức lừa đảo của những công ty bất chính. Mặt
khác, bằng sự năng động của mình, nếu có sự hiểu biết rõ ràng, sinh viên cũng
chính là một trong những lực lượng tiên phong trong việc bài trừ những hình
thức kinh doanh đa cấp bất chính, bảo vệ kinh doanh đa cấp chân chính.
Thứ hai, người dân cần tự nâng cao hiểu biết và nhận thức của mình, nhận
ra bản chất thật sự của bán hàng đa cấp. Hiện nay, thông tin về bán hàng đa cấp,
các khoản luật, các nghị định về kinh doanh theo mạng của Nhà nước được đăng
tải rất nhiều trên báo chí và các phương tiện truyền thông khác như truyền hình,
internet,… Việc tìm hiểu về bán hàng đa cấp đã không còn quá khó khăn, thậm
chí người dân còn có thể tìm được những lời khuyên củ a những chuyên gia,
những luật sư, những nhà phân tích… giúp họ có sự lựa chọn đúng đắn trước khi
bắt đầu sự nghiệp kinh doanh đa cấp của mình. Nếu người dân có sự hiểu biết
đầy đủ thì hoàn toàn không có một cơ hội nào để bán hàng đa cấp bất chính tồn
tại.
83
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh Việt Nam vừa ra nhập WTO, nền kinh tế nước ta tương lai
sẽ có những biến đổi thần tốc. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ đưa
Việt Nam vào tình thế vừa có những cơ hội mà cũng có những thách thức rất lớn.
Việc Kinh doanh theo mạng du nhập vào Việt Nam cũng chính là một phần
trong số đó. Chính vì kinh doanh đa cấp mang nhiều màu sắc nên có rất nhiều
ngộ nhận. Đây là một mô hình phân phối mang tính sáng tạo cao. Do đó, việc
cần thiết hiểu biết một cách toàn diện về nó là vô cùng cấp thiết.
Một người bình thường không thể trong ngày một ngày hai có thể hiểu hết
được về kinh doanh đa cấp. Để kinh doanh theo mạng có thể tồn tại và phát triển
và đi vào quỹ đạo hoàn thiện thì đối với các cơ quan có chức năng, các cơ quan
truyền thông, các công ty kinh doanh đa cấp, và đối với mỗi người dân phải có
sự phối hợp để đưa ra cái nhìn khách quan, đúng đắn về kinh doanh theo mạng
có được sự chấp nhận của toàn xã hội và đem lại lợi ích cho toàn xã hội.
Kinh doanh đa cấp đã xuất hiện khá lâu trên thế giới và được các nhà
chuyên môn coi như đã trải qua 3 giai đoạn. Và hiện nay Việt Nam đang tham
gia vào trào lưu này, làn sóng thứ 3 của kinh doanh theo mạng. Các nhà chuyên
môn tại Việt Nam cũng đang bắt tay vào những kế hoạch nghiên cứu sâu hơn về
phương thức kinh doanh này.
Dù sao Kinh doanh đa cấp vẫn là một vấn đề rất mới mẻ ở Việt Nam.
Trong phạm vi khóa luận này, em chỉ có thể đưa ra phần nào các vần đề được coi
là cốt yếu. Ngoài ra có đề xuất một số giải pháp có thể áp dụng tại Việt Nam cho
mô hình kinh doanh mới này.
Hy vọng rằng, đề tài này cung cấp một cái nhìn khách quan về bán hàng
84
đa cấp và có thể giúp mọi người phân biệt được các công ty kinh doanh chân
chính với những mô hình “ảo” trong bán hàng đa cấp trước khi đưa ra quyết định
tham gia vào một công ty kinh doanh theo mạng.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách tham khảo:
1. Don Failla, 2005, Kinh doanh theo mạng từ A đến Z, NXB Văn hóa thông tin
2. Don Failla, 2005, Mười bài học trên chiếc khăn ăn, NXB Văn hóa thông tin
3. Richard Poe, 2005, Làn sóng thứ ba: kỷ nguyên mới trong ngành kinh doanh
theo mạng, NXB Văn hóa thông tin
4. Jeffrey Babener và David Stewart, 1990, The Network Marketer's Guide to
Success
4. Như Hằng, 2006, „Trong vòng xoáy đa cấp: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”‟,
Báo Tuổi trẻ, 28/02/2006
5. Minh Tiến, 2007, „Sự thật về tập đoàn Colony Invest Management Inc‟, Báo
Công An Nhân Dân, 10/11/2007
6. Ngô Chí Tùng, 2005, „Biến tướng trò lừa đảo kinh doanh đa cấp ở Công ty
Sao Việt‟, Báo Lao Động, 18/5/2005
7. Luật cạnh tranh do quốc hội Việt Nam ban hành, có hiệu lực từ ngày1/7/2005.
Trong đó, khoản 1 điều 3 quy định về các quy tắc bán hàng đa cấp, điều 48 nêu
rõ các trường hợp bán hàng đa cấp bất chính. Nghị đinh 110/NĐ-CP, ngày
24/8/2005, hướng dẫn thi hành bán hàng đa cấp. Nghị định 120/NĐ-CP, ngày
30/9/2005, hướng dẫn thi hành luật cạnh tranh.
Website tham khảo:
1.
2.
86
3.
4.
5.
6.
Sách tham khảo mở rộng:
1. Randy Gage, 2005, Làm cách nào để xây dựng một doanh nghiệp kinh doanh
theo mạng sản sinh lợi nhuận, NXB Văn hóa thông tin
2. John Milton Fogg, 2007, Nhà kinh doanh theo mạng vĩ đại nhất thế giới, NXB
Văn hóa thông tin
3. Tom Shriter , 2005, “EL lớn” hé mở các bí quyết, NXB Văn hóa thông tin
4. Phạm Thu Hương, 2007, „Các tình huống marketing đa cấp “biến tướng” tại
Việt Nam‟, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 25/2007
5. Lê Lam Sơn, 2003, „Bản chất của kiểu bán hàng truyền tiêu‟, Báo Thanh Niên,
8/10/2003
87
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
HÌNH VẼ VÀ SƠ ĐỒ
Hình 1: Sơ đồ phản ứng dây truyền theo cấp số nhân ....................................... 14
Hình 2: Mô hình minh họa bản chất sao chép trong BHĐC .............................. 15
Hình 3: Mô hình các kênh phân phối truyền thống ........................................... 16
Hình 4: Mô hình các kênh phân phối trong BHĐC .......................................... 17
Hình 5: Mô hình nguyên lý trả thưởng của các công ty BHĐC......................... 21
Sơ đồ 1: Hình thức phân phối hàng nhập khẩu thông qua hệ thống phân phối
truyền thống ..................................................................................................... 18
Sơ đồ 2: Hình thức phân phối hàng sx nội địa qua hệ thống PPTT ................... 19
Sơ đồ 3: Hình thức phân phối hàng hóa qua hệ thống KDTM .......................... 19
BẢNG BIỂU
Bảng 1: Một số công ty bán hàng đa cấp đã và đang hoạt động tại Việt Nam ... 34
Bảng 2: Một số mặt hàng thuộc danh mục kinh doanh của công ty Sinh Lợi .... 59
Trang
88
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MLM: Multi Level Marketing
KTDM: Kinh doanh theo mạng
BHĐC: Bán hàng đa cấp
Nhà SX: Nhà sản xuất
Ngƣời TD: Người tiêu dùng
Nhà PP: Nhà phân phối
Công ty KD: Công ty kinh doanh
CS: Cơ sở
TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh
Công ty TNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn
HĐQT: Hội đồng quản trị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5168_7479.pdf