Đề tài Những tình huống bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam

Trong bối cảnh Việt Nam vừa ra nhập WTO, nền kinh tế nước ta tương lai sẽ có những biến đổi thần tốc. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ đưa Việt Nam vào tình thế vừa có những cơ hội mà cũng có những thách thức rất lớn. Việc Kinh doanh theo mạng du nhập vào Việt Nam cũng chính là một phần trong số đó. Chính vì kinh doanh đa cấp mang nhiều màu sắc nên có rất nhiều ngộ nhận. Đây là một mô hình phân phối mang tính sáng tạo cao. Do đó, việc cần thiết hiểu biết một cách toàn diện về nó là vô cùng cấp thiết. Một người bình thường không thể trong ngày một ngày hai có thể hiểu hết được về kinh doanh đa cấp. Để kinh doanh theo mạng có thể tồn tại và phát triển và đi vào quỹ đạo hoàn thiện thì đối với các cơ quan có chức năng, các cơ quan truyền thông, các công ty kinh doanh đa c ấp, và đối với mỗi người dân phải có sự phối hợp để đưa ra cái nhìn khách quan, đúng đắn về kinh doanh theo mạng có được sự chấp nhận của toàn xã hội và đem lại lợi ích cho toàn xã hội.

pdf92 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4308 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những tình huống bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bò, bán trâu để mua hàng vào làm HTV Sinh Lợi vì những tưởng chỉ cần như vậy thì mỗi tháng sẽ được nhận lương. Hai đại lý đang "nằm vùng" tại đây là CS Phúc Hưng (Pleiku, Gia Lai) và CS Khang Thịnh (Buôn Ma Thuột, Đắc Lắc). Mỗi tháng, công ty đều tổ chức những buổi hội thảo, tạo cơ hội cho những người có thu nhập cao trình bày thành tích với những người mới, nhằm lôi kéo thêm nhiều hợp tác viên vào mạng lưới. “Kết quả, Sinh Lợi đã thu nạp gần 500.000 hợp tác viên trên khắp cả nước. Nếu theo con số này, chỉ tính mỗi HTV mua một máy ozone thì Sinh Lợi đã thu vào 1.500 tỉ đồng, một con số khổng lồ”.() Sinh Lợi là một trong những công ty lừa đảo bán hàng đa cấp bất chính đầu tiên, và cũng là quy mô nhất tại Việt Nam. Trong quá trình hoạt động, họ đã có những sai phạm nghiêm trọng nhưng luôn khôn khéo tìm cách né tránh những điều khoản của Luật Cạnh Tranh. () Theo báo Tuổi trẻ số ra ngày 28/02/2006 58 - Sinh Lợi không yêu cầu những hợp tác viên đóng những khoản phí để đăng ký vào mạng lưới của công ty. Thay vào đó, họ sử dụng hệ thống điểm PV, và yêu cầu hợp tác viên phải mua hàng của công ty để có được điểm tích lũy này. Về bề ngoài thì hình thức này rất hợp pháp và không hề vi phạm quy định nào của Luật Cạnh tranh, nhưng những hàng hóa mà Sinh Lợi bán ra có giá rất xa so với giá trị thực, và hầu như không có giá trị sử dụng. Công ty sử dụng một phần số chênh lệch này để trả thưởng cho hợp tác viên và chiếm dụng phần còn lại. - Công ty cũng có những điều khoản về việc mua lại hàng hóa đã bán cho hợp tác viên, tuy nhiên trên thực tế, việc trả lại hàng hóa rất khó khăn. Khách hàng mang hàng hóa đến trả thường bị công ty từ chối vì nhiều lý do ( quá thời hạn trả hàng, hàng hóa không nguyên vẹn,…) Như vậy là, vẻ bề ngoài của Sinh Lợi được ngụy trang rất khéo, hầu như không hề vi phạm pháp luật. Chính vì vậy công ty này đã được các cơ quan chức năng cấp cho giấy phép hoạt động hợp pháp. Tuy vậy công ty này vẫn để lộ ra những sai phạm nghiêm trọng, vi phạm Luật Cạnh tranh 2005: - Công ty cung cấp những thông tin sai lệch cho các hợp tác viên về sản phẩm. Giá thành sản phẩm cấp cho hợp tác viên cao một cách vô lý, nguồn gốc xuất xứ bị bưng bít, nhiều sản phẩm sản xuất trong nước nhưng lại được đóng mác nhập khẩu. Nhiều người đã ngộ nhận về chất lượng cũng như giá thành của sản phẩm mà bị lừa đảo, lôi kéo vào mạng lưới. - Công ty trả thưởng cho hợp tác viên bằng tiền chiếm dụng của người vào sau, chứ không phải từ giá trị của hàng hóa mang lại. Bản thân các hợp tác viên nhiều người cũng không hiểu rõ giá trị sử dụng của sản phẩm mà chỉ tìm cách bán cho người vào sau càng nhanh càng tốt, càng nhiều càng tốt nhằm thu hoa hồng của công ty. Với những sai phạm của mình, sau một thời gian hoạt động, Sinh Lợi đã bị 59 xã hội lên án mạnh mẽ, và các cơ quan chức năng đã tham gia vào cuộc. Tháng 6/2006, các cấp lãnh đạo ra quyết định thanh tra công ty Sinh Lợi. Và sau khi có kết luận, ngày 22/6, Công ty cổ phần Sinh Lợi đã bị Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh rút giấy phép hoạt động. Tuy vậy một vài tháng sau đó, công ty này vẫn hoạt động tiếp tục ở Hà Nội và lừa đảo thêm nhiều hợp tác viên ở miền Bắc. Việc công ty Sinh Lợi đóng cửa đã gây ra những xáo trộn nhất định trong xã hội, nhiều người dân khi phát hiện ra bị lừa đảo thì cũng đã mất nhiều tiền bạc cũng như công sức. Giấc mơ làm giàu tan vỡ kéo theo những quan hệ anh em, bạn bè rạn nứt cũng vì công ty kinh doanh đa cấp bất chính Sinh Lợi. 60 CHƢƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP BẤT CHÍNH TẠI VIỆT NAM 1. Xu hƣớng phát triển của hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam Thói quen mua hàng của người tiêu dùng đang có những sự biến chuyển rõ rệt trong những thập niên gần đây. Hàng hóa, thay vì nằm nguyên trong các cửa hàng, hay những hệ thống siêu thị, giờ đây đã chủ động tự tìm đến người tiêu dùng. Ngành bán hàng trực tiếp (direct selling) hiện là một trong những lĩnh vực kinh tế phát triển mạnh nhất trong nền kinh tế thế giới. Hàng tỷ USD đã và đang chuyển từ hệ thống bán lẻ truyền thống sang hệ thống bán hàng qua catalogue, mua hàng qua tivi (television home shopping), thương mại điện tử,… và kinh doanh theo mạng cũng là một trong những hệ thống đóng vai trò chủ chốt trong cuộc cách mạng này. Trong khi mức tăng trưởng của ngành kinh doanh bán lẻ truyền thống ở Mỹ chỉ đạt 3% mỗi năm, thì chỉ số này của lĩnh vực kinh doanh theo catalogue và gửi thư chào hàng trực tiếp (direct mail) là 7% mỗi năm. Riêng mức tăng trưởng doanh số của ngành KDTM đạt tốc độ đáng kinh ngạc: 20-30% mỗi năm.( Có được thành công đó là do xã hội, các cơ quan ngôn luận đã có những cái nhìn tích cực hơn đối với bán hàng đa cấp. Trước đây, KDTM luôn là đối tượng công kích của báo chí và xã hội, thường xuyên bị nhầm lẫn với mô hình “hình tháp ảo” và bị đồng nghĩa với những hình thức kinh doanh “chộp giật”, ( Nguồn: 61 “lừa đảo”… của những người hám tiền, cả tin và liều lĩnh. Tuy nhiên giờ đây, tất cả đều nói về ngành kinh doanh này với thái độ khác hẳn. Quả thật, trong bối cảnh hàng triệu người mất việc làm hoặc gia nhập đội ngũ những người làm việc tạm thời hoặc bán thời gian, tư vấn tự do hoặc kinh doanh đơn lẻ trong thập niên vừa qua sau những đợt sáp nhập, chuyển nhượng, giảm biên chế hoặc đóng cửa của các tập đoàn hoặc là nạn nhân của sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ và tự động hóa, ngành KDTM đã chứng tỏ mình như một giải pháp việc làm tối ưu trong nền kinh tế hiện đại, là cơ hội kiếm việc làm cho những lao động bị thải hồi từ những công ty, tập đoàn, nhà máy… Bên cạnh đó, kiểu quảng cáo và tiếp thị thông thường ngày càng trở nên kém hiệu quả. Theo các số liệu thống kê, mỗi người dân Mỹ hiện là đối tượng mục tiêu của ít nhất 145 thông điệp quảng cáo mỗi ngày. Song rõ ràng là cơ hội tiếp cận mục tiêu của các nhà quảng cáo đã giảm hẳn so với trước kia bởi khán giả xem truyền hình ngày càng mệt mỏi với quảng cáo trực tiếp và có chiều hướng né tránh chúng. Thêm vào đó, do số lượng quảng cáo và các kênh quảng cáo ngày càng tăng, từ truyền hình đến Internet, nên các thông điệp quảng cáo ngày càng có nguy cơ bị chìm trong mớ hỗn độn thông tin mà người tiêu dùng nhận được mỗi ngày. Và vì vậy, ngày càng có nhiều công ty đã phải nhờ đến KDTM như một giải pháp tiếp cận người tiêu dùng hiệu quả nhất. Tại Việt Nam, theo ông Trần Đáng, Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm nhận định: “Kinh doanh đa cấp và thực phẩm chức năng là tương lai của thế kỷ 21”(. Tuy trước đây có nhiều trường hợp sai phạm dẫn đến những  Nguồn: ( Nguồn: 62 định kiến đối với ngành kinh doanh này, nhưng đến những năm gần đây, nhiều đơn vị kinh doanh đa cấp đã khôi phục danh tiếng cũng như thương hiệu nhờ chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng thông tin truyền miệng. Như vậy, phù hợp với xu hướng phát triển toàn cầu, kinh doanh theo mạng tại Việt Nam cũng sẽ phát triển bùng nổ trong thời gian tới. Sau đây là một số xu hướng phát triển của bán hàng đa cấp tại Việt Nam: Xu hƣớng mở rộng Đối mặt với đang bị bão hòa tại những thành phố lớn, trong tương lai, kinh doanh theo mạng sẽ mở rộng phạm vi hoạt động ra khắp các tỉnh thành trong cả nước, nơi có một số lương đông đảo lực lượng hợp tác viên tiềm năng. Đặc biệt là tại các vùng nông thôn, tính chất công việc theo mùa vụ sẽ tạo điều kiện cho người dân ở đây có nhiều thời gian tham gia vào các hoạt động của mạng lưới kinh doanh. Song song với đó là việc đa dạng hóa sản phẩm kinh doanh đa cấp, tìm ra những sản phẩm phù hợp với phân đoạn thị trường có mức thu nhập trung bình này. Đây được nhận định là một khu vực thị trường rất tiềm năng do những mối quan hệ thân thiết lẫn nhau của người dân ở khu vực nông thôn. Xu hƣớng nhƣợng bộ Đây là điểm mấu chốt của hầu hết những thay đổi trong chính sách trả thưởng của các công ty kinh doanh đa cấp trong tương lai. Các công ty cần nhận rõ rằng, muốn thu nạp được nhiều nhà phân phối hơn, họ cần thiết phải cắt giảm những điều kiện bắt buộc để tham gia mạng lưới. Đồng thời cũng phải điều chỉnh tỉ lệ hoa hồng sao cho hợp lý, vẫn khích lệ các nhà phân phối mở rộng hệ thống mạng lưới cấp dưới và bảo đảm người tiêu dùng được hưởng mức giá hấp dẫn. Xu hƣớng thƣơng mại điện tử 63 Internet sẽ trở thành công cụ hàng đầu về truyền thông, đào tạo và đặt hàng cho những nhà phân phối kinh doanh theo mạng. Việc tuyển mộ và đào tạo thêm các nhà phân phối có thể thực hiện từ xa nhờ mạng internet, cho phép thúc đẩy nhanh việc mở rộng quy mô mạng lưới, tạo điều kiện liên lạc truyền thông tức thì giữa công ty và những nhà phân phối. Những nhà phân phối sẽ đặt hàng trực tuyến, không cần người điều hành trực tiếp. Các công ty sẽ trả hoa hồng bằng tín dụng trực tiếp vào tài khoản ngân hàng hoặc tài khoản thẻ tín dụng. Kinh doanh theo mạng điện tử sẽ thực hiện toàn bộ các khâu của một mô hình bán hàng đa cấp thông qua mạng Internet. Xu hƣớng “hình tháp ảo” trên mạng Internet Kinh doanh theo mạng điện tử sẽ sớm đi vào hiện thực, tuy nhiên nguy cơ xuất hiện “hình tháp ảo” cũng là một vấn đề đáng lo ngại. Tại các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Canada,… mô hình “hình tháp ảo” điện tử đã xuất hiện và gây ra nhiều thiệt hại đáng kể cho ngành kinh doanh theo mạng nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Tại Việt Nam, hành lang pháp lý quản lý hoạt động thương mại điện tử vẫn còn chưa hoàn thiện, đây sẽ là cơ hội cho những hình thức lừa đảo giả danh kinh doanh đa cấp phát triển, chiếm đoạt tài sản của người dân, gây thiệt hại cho xã hôi. Như vậy, có thể thấy Internet là một công cụ truyền thông cực kỳ hiệu quả cho ngành kinh doanh theo mạng. Việc tận dụng phương tiện này hiệu quả, ngăn chặn kịp thời những hình thức lừa đảo, sẽ quyết định sự thành công của các doanh nghiệp trong tương lai. 2. Bài học rút ra từ những tình huống bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam 2.1. Nguyên nhân của tình trạng bán hàng đa cấp bất chính tại Việt Nam * Nhận thức chƣa đúng đắn của xã hội về bán hàng đa cấp và bán hàng đa 64 cấp bất chính Nhận thức của những hợp tác viên tiềm năng: Bán hàng đa cấp là hình thức kinh doanh mới mẻ tại Việt Nam. Do đó, người dân vẫn chưa có nhận thức đầy đủ về phương thức này, dẫn đến có những cách nhìn nhận phiến diện, chủ quan. Nhiều người cho rằng bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh thần kỳ, giúp mọi người làm giàu một cách nhanh chóng. Để thành công trong việc kinh doanh đa cấp phải có quan hệ rộng cùng với một khả năng thuyết phục cao, điều không hề dễ dàng đặc biệt là với những người lao động nghèo, thiếu những quan hệ có lợi để tạo cơ hội xây dựng mạng lưới cho riêng mình. Tuy vậy, bị hấp dẫn bởi những khoản lợi nhuận khổng lồ, nhiều người đã tham gia vào mạng lưới một cách mù quáng, thậm chí phải thế chấp tài sản, vay mượn ngược xuôi để trở thành hợp tác viên, và không ít người đã không thể thu hồi được số vốn đầu tư ban đầu. Nhận thức của phân phối viên hàng đa cấp: Trong tất cả các hình thức kinh doanh, yếu tố hàng đầu luôn là yếu tố con người. Đối với kinh doanh đa cấp, vai trò của các hợp tác viên lại càng quan trọng hơn nữa. Chính họ là người nắm giữ tương lai, vận mệnh cũng như tiềm năng, uy tín của công ty. Đây lại là một điểm yếu của bán hàng đa cấp, vì doanh nghiệp không thể cùng lúc kiểm soát được ngôn từ, hành động cùa hàng trăm, hàng nghìn hợp tác viên trong mạng lưới. Không ít trường hợp, để bán được hàng, để lôi kéo thêm thành viên vào mạng lưới, các hợp tác viên sẵn sàng phóng đại, cung cấp những thông tin sai lệch, thiếu sự thật về hàng hóa. Việc công ty không quảng cáo trên các phương tiện truyền thông càng tạo cơ hội cho các phân phối viên quảng cáo theo cách riêng của họ vì không hề có cơ sở để so sánh. Như vậy, trực tiếp hay gián tiếp, chính các hợp tác viên đã gây ra yếu tố bất chính cho hoạt động bán hàng đa cấp mà họ đang tham gia. 65 Nhận thức của người tiêu dùng cuối cùng: Mặc dù giá của các hàng hóa cung cấp theo hình thức bán hàng đa cấp bất chính thường ở mức cao, nhưng người tiêu dùng những sản phẩm này lại không chỉ giới hạn ở những người có thu nhập cao. Thực tế, có rất nhiều người tiêu dùng là người có thu nhập thấp, bị mê hoặc bởi những lời mời chào hấp dẫn cùa những nhà phân phối mà sẵn sàng bỏ nhiều tiền để mua về những sản phẩm mà bản thân họ cũng chưa hiểu rõ về công dụng. Người tiêu dùng cần phải tỉnh táo, cân nhắc và chứng thực về những thông tin mà các nhà phân phối đưa ra. * Môi trƣờng pháp lý điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp chƣa hoàn thiện Hành lang pháp lý cho hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam còn phức tạp và rắc rối. Nhà nước đã ban hành các quy phạm điều chỉnh lĩnh vực này nhưng vẫn còn nằm trong các văn bản khác nhau: Luật Cạnh tranh (3/12/2004); Nghị định 110/2005/ND-CP (24/8/2005); Nghị định 120/2005/ND-CP (30/9/2005)… và các thông tư liên quan của Bộ Thương mại. Pháp luật về kinh doanh theo mạng ở Việt Nam vẫn còn có phạm vi áp dụng hẹp. Luật Cạnh tranh mới chỉ đưa ra khái niệm về bán hàng đa cấp, tuy đã khá đầy đủ nhưng vẫn chỉ gói gọn trong hoạt động mua bán hàng hóa. Trong khi đó, kinh doanh đa cấp đã mở rộng phạm vi ứng dụng lên cả lĩnh vực tài chính, cung ứng dịch vụ,… Quy định về mức ký quỹ: Nghị định 110/2005/ND-CP quy định mỗi doanh nghiệp phải ký quỹ 5% vốn điều lệ nhưng không được thấp hơn 1 tỷ đồng. Điều này không thực sự hợp lý vì thực tế, các doanh nghiệp muốn tận dụng lợi thế tiết kiệm chi phí trung gian của bán hàng đa cấp thường là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, và việc ký quỹ một số tiền lớn như vậy là không khả thi. Bồi thường thiệt hại: Vấn đề đối tượng nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường 66 thiệt hại khi có sai phạm xảy ra cũng là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Theo Điều 12, Nghị định 110/2005/ND-CP có quy định ràng buộc trách nhiệm giữa doanh nghiệp kinh doanh đa cấp và hợp tác viên. Theo đó, nếu lỗi thuộc về ai thì người đó sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp quy định như vậy dẫn đến tình trạng quy kết, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, khiến cho việc xử lý trở nên vô cùng khó khăn. Chế tài xử phạt: Điều 23 Nghị định 110/2005/ND-CP có quy định việc xử phạt vi phạm trong hoạt động bán hàng đa cấp, tuy nhiên chỉ dừng lại ở mức độ bồi thường thiệt hại hoặc xử lý hành chính. Rõ ràng, xử phạt như vậy là không thỏa đáng nếu đem so sánh với những thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu nếu một mạng lưới sụp đổ. Nghị định 120/2005/ND-CP quy định hành vi kinh doanh đa cấp bất chính có thể bị xử phạt từ 50 đến 70 triệu đồng, sai phạm ở quy mô lớn có thể bị phạt tới 100 triệu đồng. Mức độ xử lý hành chính chưa đủ sức răn đe, nếu đem so sánh với lợi nhuận mà “hình tháp ảo” mang lại, trong khi thiếu những biện pháp xử lý hình sự thỏa đáng đã góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng kinh doanh đa cấp bất chính tại Việt Nam. * Công tác quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam chƣa theo kịp đà phát triển của ngành kinh doanh này Trách nhiệm quản lý hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam trong một thời gian dài bị bỏ ngỏ, các cơ quan chức năng thường tránh né đụng vào vấn đề này. Chỉ đến khi Nghị định 110/2005/ND-CP và Thông tư số 19/2005/TT- BTM của Bộ Thương mại được ban hành vào năm 2005, trách nhiệm này mới chính thức thuộc về Cục Quản lý cạnh tranh. Tuy vậy, mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhằm triển khai các hình thức quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, tăng cường phối hợp với các sở Thương mại tại các địa phương để theo dõi, cập nhật diễn biến thực tế, hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật, phổ biến kinh nghiệm 67 của các địa phương trọng điểm, nhưng công tác này vẫn còn rất chậm chạp và thiếu hiệu quả. Tới năm 2006, Cục Quản lý cạnh tranh mới thực hiện được một số hoạt động để giám sát hoạt động bán hàng đa cấp, như phối hợp với Cục An toàn vệ sinh thực phẩm và Vụ Pháp chế - Bộ Y tế về việc hướng dẫn cấp giấy chứng nhận kinh doanh cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp kinh doanh thực phẩm chức năng theo yêu cầu của Sở Thương mại TP Hồ Chí Minh, điển hình là trường hợp xử lý sai phạm của công ty Sinh Lợi. Tuy nhiên, ngay cả trong việc xử lý các sai phạm của công ty này, Cục Quản lý cạnh tranh cũng tỏ ra rất chậm chạp. Những dấu hiệu về kinh doanh đa cấp bất chính của Sinh Lợi đã được các phương tiện truyền thông đề cập đến từ năm 2003, nhưng đến tận giữa tháng 3/2006, Cục mới tiến hành thanh tra và xử lý công ty này. Sau đó, việc giám sát chấp hành quyết định thu hồi giấy phép kinh doanh của công ty Sinh Lợi đã không được thực hiện một cách nghiêm túc, dẫn tới việc công ty này vẫn tiếp tục hoạt động với vỏ bọc công ty Thiên Ngọc Minh Uy tại cùng địa điểm, thậm chí các hợp tác viên còn quảng cáo rằng công ty Sinh Lợi đã phát triển thành tập đoàn, và Thiên Ngọc Minh Uy là một trong những công ty con. Tháng 8/2007, Cục Quản lý cạnh tranh phối hợp với Sở Thương mại và du lịch Hậu Giang mới tổ chức được một khóa tập huấn nghiệp vụ quản lý bán hàng cho các sở thương mại và quản lý thị trường các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Cục cũng đa phát hành một số tài liệu, ấn bản phục vụ công tác tuyên truyền pháp luật liên quan đến quản lý kinh doanh theo mạng. Tuy nhiên, đối tượng tiếp nhận chủ yếu là các cán bộ quản lý chứ chưa thực sự hướng đến người dân, đối tượng cần được cung cấp những thông tin đầy đủ và chính xác về kinh doanh đa cấp này để có được nhận thức cũng như thái độ đúng đắn về hình thức này. 68 2.2. Kinh nghiệm rút ra từ những tình huống bán hàng đa cấp bất chính đã xuất hiện tại Việt Nam 2.2.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc Mặc dù Nhà nước đã có nhiều nỗ lực nhằm quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và ngăn chặn bán hàng đa cấp bất chính, như việc thanh tra kiểm tra các tổ chức kinh doanh theo mạng, hay ban hành Luật cạnh tranh, các nghị định 110/NĐ-CP hướng dẫn thi hành bán hàng đa cấp, nghị định 120/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành luật cạnh tranh trong đó quy định về mức phạt doanh nghiệp bán hàng đa cấp làm ăn bất chính… Tuy vậy, những khoản luật này chỉ có tác dụng về mặt pháp lý, để hoạt động kinh doanh theo mạng trở nên hợp pháp, chứ chưa có tác dụng nhiều trong việc ngăn chặn kinh doanh đa cấp bất chính. Mặc dù các điều khoản về kinh doanh theo mạng bất chính đã được quy định rất rõ ràng trong các điều khoản của Luật Cạnh tranh, nhưng vẫn tồn tại nhiều sơ hở để các công ty bất chính lách luật. Một thực tế rằng, ít trường hợp có thể áp dụng Luật cạnh tranh để xử lý các sai phạm công ty bán hàng đa cấp bất chính. Vấn đề bán hàng đa cấp đã và đang nhận được sự quan tâm của Nhà nước, tuy nhiên việc quản lý hệ thống này còn có nhiều bất cập và chậm trễ. Bán hàng đa cấp có sức lan toả rất lớn. Chỉ trong thời gian ngắn, một công ty bán hàng đa cấp bất chính có thể phát triển thành cả một hệ thống đồ sộ, với hàng chục nghìn hợp tác viên, lừa đảo nhiều tỷ đồng. Việc chậm trễ của các cơ quan chức năng đã tạo điều kiện cho những công ty này ngày càng mở rộng mạng lưới, cũng như gây thiệt hại nặng cho xã hội. Cần thiết phải có một đơn vị chuyên biệt có chức năng quản lý hoạt động này, theo dõi sát sao, phát hiện và xử lý những biểu hiện vi phạm ngay từ đầu, tránh gây ra những thiệt hại lớn. Quản lý tốt sẽ làm giảm thiểu số sai phạm, làm trong sạch thị trường kinh doanh đa cấp. Bán hàng đa cấp thường được sử dụng để tiêu thụ các sản phẩm nhập khẩu 69 từ nước ngoài như Hoa Kỳ, Trung Quốc,… là những sản phẩm mà người tiêu dùng Việt Nam chưa từng biết đến trước đó. Các thông tin về công dụng, về thành phần, về nguồn gốc của sản phẩm gần như chưa từng được kiểm định trong thói quen sử dụng và trong các kết luận của giới chuyên môn. Thậm chí, có những sản phẩm mà các cơ quan chức năng chưa biết xếp vào loại nào, thực phẩm hay thuốc chữa bệnh, hoặc chưa có một tên gọi thống nhất để có thể nêu rõ được công dụng hoặc tác hại của nó. Các cơ quan chức năng thường tốn nhiều công sức cũng như thời gian để kiểm định cả về chất lượng cũng như nguồn gốc của những sản phẩm này. Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp tại Việt Nam hiện nay chỉ là những doanh nghiệp phân phối sản phẩm được sản xuất từ nước ngoài. Nói cách khác, các công ty nước ngoài sản xuất sản phẩm tổ chức mạng lưới đa cấp và thực hiện việc truyền tiêu đa cấp thông qua các công ty trong nước. Thông thường, các công ty trong nước sẽ ký các hợp đồng phân phối độc quyền với công ty nước ngoài, sau đó dưới sự hướng dẫn của chuyên gia nước ngoài do doanh nghiệp sản xuất gửi đến, công ty phân phối của Việt Nam sẽ thiết lập mạng lưới đa cấp và đào tạo đội ngũ người tham gia cũng như thúc đẩy sự vận hành của mạng lưới này. Cách thức tổ chức theo kiểu liên kết như trên đã giúp cho các nhà sản xuất nước ngoài thoát được mọi trách nhiệm về chất lượng sản phẩm khi tiêu thụ cũng như các trách nhiệm khác đối với mạng đa cấp. Tính độc lập trong hoạt động của người tham gia đặt ra một vài vấn đề cho việc xác định trách nhiệm. Trong bán hàng đa cấp, người tham gia tiến hành tiếp thị để bán lẻ sản phẩm một cách độc lập. Người tiêu dùng cuối cùng sẽ chỉ biết đến người đã trực tiếp giới thiệu và bán sản phẩm cho họ, là người tham gia. Do đó, việc đổ trách nhiệm qua lại giữa người tham gia và doanh nghiệp bán hàng đa cấp rất dễ xảy ra. Khi xảy ra sai phạm, các công ty thường phủ nhận toàn bộ 70 trách nhiệm và đổ lỗi cho các hợp tác viên đã tự tạo ra các thông tin không chính xác. Hành vi bán hàng đa cấp bất chính thường sử dụng các thủ đoạn tác động đến bản tính hám lợi của người tham gia, thông thường là những khu vực dân cư có đời sống khó khăn, ít thông tin, trình độ dân trí không cao, những tầng lớp dân cư có thời gian nhàn rỗi nhiều, là những đối tượng dễ tác động và có nhiều cơ hội thực hiện việc truyền tiêu bằng biện pháp rỉ tai. Là một quốc gia có tỷ lệ nông nghiệp chiếm đa số trong cơ cấu kinh tế cũng như việc phân bố dân cư, những đối tượng nói trên chủ yếu tập trung ở nông thôn, có thu nhập không cao, đa số còn nghèo. Do đó, hậu quả xảy ra khi có sự bất chính trong bán hàng đa cấp sẽ là rất lớn đối với đời sống kinh tế – xã hội. 2.2. Đối với ngƣời tiêu dùng và ngƣời lao động trong xã hội Phần lớn các công ty kinh doanh theo mạng bất chính đều ngụy trang dưới mác của những công ty có yếu tố nước ngoài. Điều này giúp tạo thêm lòng tin cho người dân, dễ dàng lôi kéo họ tham gia vào mạng lưới. Tuy vậy, những công ty nước ngoài này, hoặc là không hề tồn tại, hoặc là cũng không có uy tín tại thị trường nội địa nước đó. Các công ty kinh doanh đa cấp bất chính đánh vào tâm lý ưa thích đồ ngoại của người Việt Nam để kinh doanh sản phẩm vừa không bảo đảm chất lượng, vừa có giá rất xa so với thực tế. Đối tượng người dân mà những công ty kinh doanh đa cấp hướng tới là những người còn thiếu kiến thức về kinh tế, không hề có khái niệm về bán hàng đa cấp. Những công ty này thường tổ chức những buổi hội thảo, trao thưởng,… để tạo ra cho những hợp tác viên sự ảo tưởng về một hình thức kinh doanh siêu lợi nhuận, không hề tốn kém, vẽ ra một viễn cảnh hoàn hảo khi không cần lao động mà vẫn được hưởng tiền hoa hồng. Kết quả là, hàng nghìn người đã bị lôi 71 kéo, mà phần đông trong đó là những người lao động, sinh viên,… Họ phải vay mượn hoặc rút hết tiền để mua hàng của công ty kinh doanh đa cấp bất chính, trước khi lâm vào cảnh khó khăn vì bị lừa đảo, giấc mơ làm giàu tan vỡ. Như vậy, cần thiết phải trang bị những kiến thức về bán hàng đa cấp cho mọi người, hạn chế việc người dân bị lôi kéo vì chiêu bài của những công ty bất chính. Sản phẩm mà những công ty bán hàng đa cấp bất chính cung cấp thường không rõ ràng, những thông tin như giá cả, nguồn gốc xuất xứ, chất lượng sản phẩm… đều bị tẩy xóa, mập mờ. Tuy vậy, nhiều người khi tham gia vào mạng lưới chỉ mong muốn đạt được quyền kinh doanh cùng với công ty chứ không hề quan tâm đến yếu tố quan trọng nhất là sản phẩm. Tâm lý này chính là điều kiện lý tưởng để các công ty bất chính hoạt động, thậm chí còn khiến cho những công ty kinh doanh đa cấp chân chính biến tướng thành bất chính. Một điều nữa khiến những công ty bất chính tồn tại trong thời gian dài, gây thiệt hại lớn chính là ý thức tự giác của người dân. Khi một hợp tác viên phát hiện ra công ty kinh doanh theo mạng mình đang tham gia là bất chính, thay vì trình báo cho cơ quan chức năng, anh ta lại tìm cách lôi kéo thêm nhiều người cùng tham gia với mình, mục đích là thu lại hoa hồng nhằm bù lại khoản tiền đã bỏ ra. Cứ như vậy, những công ty bán hàng đa cấp bất chính phát triển rất nhanh, thậm chí nhanh gấp nhiều lần so với những công ty chân chính, và rất khó để cho các cơ quan chức năng phát hiện và xử lý kịp thời. 3. Các giải pháp ngăn chặn và phòng chống bán hàng đa cấp bất chính. Bán hàng đa cấp là một hình thức kinh doanh khó quản lý, và khi luật pháp ở Việt Nam còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ như vậy thì càng khó kiểm soát và quản lý. Đây cũng là vấn đề làm nhức nhối các nhà quản lý và đáng quan tâm đối 72 với toàn xã hội. Cả bốn bên công ty kinh doanh đa cấp, người dân, Chính phủ và toàn xã hội đều phải có cái nhìn khách quan và rõ ràng hơn về kinh doanh theo mạng, phải đưa ra những biện pháp quản lý hiệu quả hơn. Dưới đây là một số khuyến nghị đối với các bên có liên quan để giúp việc quản lý kinh doanh theo mạng được hiệu quả. 3.1. Đối với doanh nghiệp Liên kết nội bộ ngành: Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp cần liên kết với nhau, thành lập ra một tổ chức đại diện cho họ như “Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam”. Thông qua đó để hợp tác với các cơ quan truyền thông, các cơ quan quản lý nhằm nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn các công ty hoạt động theo mô hình “hình tháp ảo”. Có như vậy mới có thể tạo được niềm tin, sự đồng thuận của cả xã hội đối với mô hình bán hàng đa cấp. Việc tham gia vào hiệp hội sẽ làm tăng uy tín của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc phải tuân thủ các quy chế của hội sẽ hạn chế hoàn toàn những sai phạm mà các doanh nghiệp cố tình hoặc vô tình mắc phải. Bên cạnh đó, nhờ có Hiệp hội, người tiêu dùng cũng sẽ yên tâm và có cái nhìn thiện cảm hơn đối với hình thức bán hàng đa cấp. Đối với Nhà nƣớc và xã hội: Các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ Nghị định 110/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và Luật cạnh tranh. Các doanh nghiệp cần phải đảm bảo tuân thủ mọi quy định của pháp luật Việt Nam khi đi vào hoạt động. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã được quy định như nộp thuế, tổ chức đào tạo các nhà phân phối về sản phẩm… Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải có trách nhiệm quản lý và thu hộ thuế thu nhập cá nhân của các hợp tác viên cho cơ quan thuế. Để tồn tại vững mạnh, doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt trách nhiệm đối với xã hội như góp phần giải quyết nạn thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo, tiến hành các hoạt động từ thiện,… 73 Về sản phẩm: Các công ty cần luôn trung thực trong việc cung cấp thông tin cho khách hàng, cho các nhà phân phối độc lập và cho các cơ quan quản lý. Sản phẩm phải được ghi rõ ngày tháng sản xuất, các chỉ tiêu chất lượng, hướng dẫn sử dụng, đồng thời phải được công khai về đặc tính và công dụng. Các sản phẩm nên được nghiên cứu để phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, kèm với đó là chính sách hậu mãi tốt. Các doanh nghiệp phải thường xuyên nâng cao chất lượng sản phẩm, khiến các hợp tác viên và người tiêu dùng hài lòng, từ đó càng lúc càng củng cố mạng lưới và nâng cao doanh số. Giá cả phải được xác định dựa trên giá gốc của hàng hóa, từ đó định ra giá bán lẻ và mức hoa hồng cho các hợp tác viên. Giá cả phù hợp là yếu tố hàng đầu quyết định thành công hay thất bại của một doanh nghiệp kinh doanh theo mạng chân chính. Về kế hoạch kinh doanh: Việc tuyển mộ hợp tác viên phải được tiến hành bài bản, tránh việc dụ dỗ, lôi kéo hàng loạt. Hợp tác viên phải hiểu rõ tính năng, công dụng của sản phẩm để hướng dẫn cho khách hàng. Hệ thống hợp tác viên có chất lượng sẽ bảo đảm mạng lưới phân phối tồn tại bền vững. Chính sách trả thưởng, hoa hồng phải được thực hiện hợp lý, dựa trên giá gốc của hàng hóa, doanh số của hợp tác viên và khả năng, quy mô của doanh nghiệp, đặc điểm sản phẩm và điều kiện thực tế của thị trường Việt Nam. Tuyệt đối không đưa ra những mức hoa hồng quá cao so với thực tế nhằm thu hút thêm hợp tác viên vì đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hoạt động kinh doanh đa cấp bất chính. Về phương thức thanh toán, doanh nghiệp nên có sự minh bạch, rõ ràng và mềm dẻo. Trong một số trường hợp cụ thể, việc chấp nhận cho hợp tác viên thanh toán tiền hàng chậm sẽ tạo dựng thêm niềm tin của xã hội đối với doanh nghiệp, cũng như tạo cơ hội cho những người muốn tham gia vào mạng lưới 74 nhưng chưa có đủ vốn. Tuy nhiên việc này cũng phải được tính toán cụ thể dựa trên điều kiện của doanh nghiệp và đặc tính của sản phẩm. Thời hạn thanh toán cũng phải được nghiên cứu để tránh rủi ro nếu hợp tác viên không thanh toán đúng hạn hoặc từ chối thanh toán. Về chế độ bảo hành, doanh nghiệp nên có chế độ cụ thể với từng loại sản phẩm, nhất là những sản phẩm công nghệ, máy móc. Chính sách bảo hành minh bạch rõ ràng sẽ xóa tan thái độ nghi ngờ của xã hội đối với hình thức kinh doanh đa cấp, đem lại lòng tin của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng cần phải có chính sách mua lại sản phẩm của các hợp tác viên nhằm phù hợp với quy định của pháp luật, đồng thời tạo dựng niềm tin cho những người tham gia, giúp họ yên tâm hoạt động. Doanh nghiệp nên mở một quỹ dự phòng để chi trả các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay mua lại hàng hóa từ người tham gia trong trường hợp doanh nghiệp ngừng hoạt động. Điều này giúp bảo đảm quyền lợi của hợp tác viên, tạo dựng lòng tin của xã hội đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho mạng lưới phát triển rộng khắp. Quy mô của quỹ dự phòng cũng cần phải được tăng trưởng phù hợp với mạng lưới. Việc duy trì quỹ giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín, đồng thời giải quyết kịp thời những sự việc phát sinh. Về việc quản lý mạng lƣới: Các công ty cần luôn tuyên truyền, nhắc nhở các nhà phân phối độc lập về nguyên tắc nghề nghiệp, triết lý kinh doanh… Nhằm tạo ra một đội ngũ những nhà phân phối độc lập tuân thủ đúng những nguyên tắc của bán hàng đa cấp và quy định của pháp luật. Doanh nghiệp cần quản lý chặt chẽ vấn đề người nước ngoài tham gia vào mạng lưới. Có rất nhiều doanh nghiệp đã vi phạm khi cho phân phối viên nước ngoài tham gia khi họ chưa có giấy phép lao động tại Việt Nam. Doanh nghiệp cũng nên có các biện pháp để thường xuyên khích lệ tinh thần của các hợp tác viên, tránh tình trạng 75 chán nản, dẫn đến chất lượng mạng lưới suy giảm. Các công ty cần có những quy định bắt buộc đối với những nhà phân phối độc lập như: + Có hợp đồng lao động hợp pháp. + Tham gia lớp đào tạo và huấn những luyện những kỹ năng cơ bản đối với nhà phân phối.. + Cấp thẻ lưu hành cho mỗi nhà phân phối. + Có hình phạt nghiêm khắc nếu nhà phân phối vi phạm nguyên tắc của bán hàng đa cấp và những quy định của công ty. 3.2. Đối với ngƣời tham gia Người tiêu dùng nên tìm hiểu kỹ những thông tin có liên quan tới công ty, sản phẩm trước khi ra quyết định mua hàng. Khi là nhà phân phối phải tuyệt đối trung thực với khách hàng và thực hiện đúng các quy định của công ty cũng như quy định của pháp luật. Những hợp tác viên cần phải nhận thức rằng: chính họ là người hoạt động kinh doanh độc lập, nhân danh chính họ chứ không phải đại diện cho công ty, và họ phải tự chịu trách nhiệm về hành động của mình. Hợp tác viên cũng nên xác định vai trò của mình như một đối tác đối với doanh nghiệp, có quyền yêu cầu công ty cung cấp những thông tin xác thực về phương thức kinh doanh đa cấp, về công ty và sản phẩm của họ. Đối với những người muốn tham gia thì nên tìm hiểu về bán hàng đa cấp. Một điều hết sức quan trọng đó là họ cần phân biệt được đâu là mô hình bán hàng đa cấp chân chính và mô hình “hình tháp ảo” trước khi quyết định tham gia. Dưới đây là ba tiêu chí quan trọng nhất để tiện cho việc phân biệt mô hình bán hàng đa cấp chân chính với mô hình “hình tháp ảo” và lựa chọn công ty để 76 tham gia: Về lịch sử công ty: Công ty được chọn lựa phải có thâm niên hoạt động trên thế giới tối thiểu từ 8 năm trở lên Công ty được chọn (hoặc đối tác sản xuất) nên có cơ sở vật chất đầy đủ: có nhà máy sản xuất ra sản phẩm, quy trình công nghệ sản xuất hiện đại, có viện nghiên cứu nâng cao chất lượng sản phẩm. Pháp lý công ty và pháp lý sản phẩm thật đầy đủ. Nếu người dân cứ lao vào những công ty mà chưa được nhà nước cho phép thì rất nguy hiểm, vì vậy công ty được lựa chọn nhất thiết phải có giấy phép thành lập và giấy đăng ký kinh doanh đầy đủ, ngoài ra sản phẩm mà công ty phân phối cũng phải có giấy phép lưu hành của nhà nước cho phép. Về chính sách hoa hồng: Người tham gia không bắt buộc phải bỏ ngay một lần một số tiền lớn. Nên chọn những công ty mà bạn có điều kiện được học tập, được đào tạo thật kỹ về sản phẩm rồi mới quyết định mua sử dụng. Công ty lựa chọn phải có mạng lưới Quốc tế. nên chọn những công ty phải có tầm nhìn Quốc tế tức là hoạt động trên toàn thế giới. Quyền lợi tham gia được chi trả công khai đầy đủ. Nên chọn những công ty phải thật đảm bảo quyền lợi cho người tham gia, hoa hồng phải được nhận đúng ngày giờ quy định hàng tháng. Chính sách công ty phải cho phép người vào sau nếu làm việc tích cực vẫn có khả năng có thu nhập cao hơn người vào trước. Có những công ty hình tháp ảo mà người vào sau chỉ làm lợi cho những người vào trước, thu nhập của người vào sau nếu có tích cực cũng không cao hơn được người vào trước, thậm chí có công ty mà những người vào trước không cần làm gì nhưng hàng tháng vẫn 77 hưởng hoa hồng. Chính sách hoa hồng của công ty phải có khả năng cho thu nhập lớn. Về sản phẩm: Sản phẩm đánh giá sự tồn tại lâu dài của một công ty kinh doanh theo mạng do đó phải đảm bảo những tiêu chuẩn sau: Độc đáo: sản phẩm đặc biệt, khó bắt trước, khó làm giả Độc quyền: sản phẩm chỉ bán tại công ty và các chi nhánh công ty, không bán rộng rãi trên thị trường. Dễ sử dụng: chỉ cần hướng dẫn qua là có thể dùng được Chất lượng tốt: Do sản phẩm được lan truyền từ người này đến người khác, nếu chất lượng thực sự không tốt thì sẽ không có sức lan truyền. Có thị trường tiêu thụ rộng lớn: sản phẩm ai cũng có thể dùng được từ người già, người trẻ, người bệnh tật, người khỏe mạnh, thanh thiếu niên, đàn ông, phụ nữ. Có nhu cầu sử dụng thường xuyên: Giá bán sản phẩm phải được thị trường chấp nhận bằng hoặc cao hơn giá mua sỉ tại công ty. Việc người tiêu dùng và người tham gia tự nâng cao hiểu biết là yếu tố then chốt để ngăn chặn “hình tháp ảo”. Có nhận thức đúng đắn, người dân sẽ có sự lựa chọn chính xác và tỉnh táo, không thành nạn nhân của những hình thức lừa đảo. Từ đó, các công ty bán hàng đa cấp bất chính sẽ không thể tồn tại được nữa, chỉ còn lại những công ty kinh doanh chân chính. 3.3. Từ phía chính phủ Đối với hành lang pháp lý: Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý đối với hình thức kinh doanh đa cấp. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực này đã được Nhà nước ban hành, nhưng lại nằm rải rác 78 trong nhiều văn bản luật khác nhau, chưa có được sự thống nhất cao. Việc cấm hoàn toàn hình thức bán hàng đa cấp là trái với quy luật tự nhiên của kinh tế, đi ngược lại xu hướng hội nhập. Vì vậy, cần thiết phải xác nhận tính hợp pháp của hình thức kinh doanh này, đồng thời các chính sách pháp luật của Nhà nước cần phải tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh doanh theo mạng chân chính phát triển, bảo đảm về lợi ích kinh tế cho những đối tượng tham gia vào bán hàng đa cấp. Về phạm vi áp dụng: Nhiều trường hợp kinh doanh đa cấp bất chính đã lợi dụng sự thiếu hiểu biết của đa số người dân về hàng hóa, đặc biệt là những hàng hóa mới như các loại máy chăm sóc sức khỏe, thực phẩm chức năng,… để cung cấp thông tin sai lệch về chất lượng, giá thành nhằm lừa đảo người tiêu dùng. Nhà nước cần có những quy định cụ thể, rõ ràng cho phép bán hàng đa cấp được áp dụng đối với loại hàng hóa nào, trên lĩnh vực nào để tránh tạo sơ hở cho các công ty bất chính trục lợi. Phạm vi áp dụng của Luật Cạnh tranh 2004 cần phải được mở rộng, không chỉ gói gọn trong hoạt động mua bán hàng hóa mà còn phải điều chỉnh cả lĩnh vực tài chính, cung ứng dịch vụ. Kinh doanh theo mạng có khả năng mở rộng trên mọi lĩnh vực của nên kinh tế, vì vậy cần phải có sự chuẩn bị hành lang pháp lý kỹ càng và toàn diện, tránh tình trạng thiếu hụt tạo cơ hội cho kinh doanh đa cấp bất chính xuất hiện. Về bồi thƣờng thiệt hại : Điều 12, Nghị định 110/2005/ND-CP có quy định ràng buộc trách nhiệm giữa doanh nghiệp kinh doanh đa cấp và hợp tác viên. Theo đó, doanh nghiệp sẽ phải bồi thường cho hợp tác viên hoặc người tiêu dùng nếu hợp tác viên gây ra thiệt hại khi thực hiện theo quy chế hoạt động và chương trình bán hàng của doanh nghiệp hoặc không được thông tin đầy đủ về hàng hóa. Hợp tác viên chịu trách nhiệm nếu thực hiện những hành vi bị cấm, không hoàn thành nhiệm vụ và gây thiệt hại cho người tiêu dùng hay các hợp tác viên khác.Tuy nhiên trong bán hàng đa cấp, các hợp tác viên thường bán lẻ sản 79 phẩm một cách độc lập. Vì vậy, khi xảy ra sai phạm, các doanh nghiệp thường đổ lỗi cho các hợp tác viên đã tự ý thực hiện những hành vì này, trong khi các hợp tác viên luôn cho rằng họ hành động theo chính sách của doanh nghiệp. Sự quy kết, đùn đẩy trách nhiệm lần nhau giữa hai phía gây rất nhiều khó khăn cho công tác xử lý sai phạm. Do đó, Nhà nước cần có những quy định thật cụ thể về những trường hợp nào trách nhiệm thuộc về doanh nghiệp, trường hợp nào thuộc về hợp tác viên và trường hợp nào thì cả hai phía cùng phải chịu trách nhiệm liên đới. Về chế tài xử phạt: Cần thiết phải có những biện pháp nghiêm khắc đối với những công ty sử dụng mô hình bán hàng đa cấp để lừa đảo. Hình thức xử lý hiện tại mới chỉ dừng lại ở việc tịch thu giấy phép kinh doanh hoặc bắt buộc đóng cửa công ty. Những biện pháp xử lý hình sự đều phải dẫn từ những nguồn luật khác. Việc xử lý không nghiêm làm cho những công ty bất chính xuất hiện ngày càng nhiều. Vì vậy việc đề khoản luật cụ thể, quy định những hình thức phạt nặng đối với những hành vi bất chính là rất quan trọng. Bán hàng đa cấp bất chính cần phải được nhìn nhận là một hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và tùy theo mức độ vi phạm mà có thể áp dụng các hình thức xử lý khác nhau như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù. Hình phạt tù mà các nước đang áp dụng với hành vi này là không quá 5 năm. Ở Việt Nam, mức hình phạt bảo đảm tính ngăn ngừa và răn đe đối với những hành vi sai phạm, có thể áp dụng trong thực tế. Về công tác quản lý hoạt động bán hàng đa cấp: Để tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh đa cấp tại Việt Nam cần thiết phải nâng cao trách nhiệm và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các cơ quan chức năng có liên quan như Bộ Công thương, Bộ Y tế, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan,… nhằm ngăn chặn và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động kinh 80 doanh này đối với thị trường. Bộ Công thương cần thực hiện tốt trách nhiệm kiểm tra, giám sát và cấp giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Một số giải pháp có thể thực hiện là: - Hướng dẫn cụ thể để các Sở thương mại các tỉnh, thành phố thực hiện tốt chức năng quản lý hoạt động kinh doanh đa cấp. Thường xuyên đào tạo nâng cao trình độ cán bộ thanh tra, quản lý để thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu quả. - Phối hợp và sử dụng những phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, truyền hình, internet,…) nhằm tuyên truyền cho người dân về kinh doanh đa cấp, cảnh báo về những trường hợp sai phạm nhằm hạn chế những thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra. - Thường xuyên tiến hành khảo sát thị trường, thu thập ý kiến của các doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhằm phát hiện sớm những dấu hiệu sai phạm để kịp thời có biện pháp xử lý. Mặt khác việc có một kênh kết nối giữa Bộ, các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ giúp cho cơ quan Nhà nước thu nhận thêm nhiều ý kiến đóng góp quý báu từ xã hội, góp phần hoàn thiện khung pháp lý về bán hàng đa cấp tại Việt Nam. - Yêu cầu doanh nghiệp phải giải trình rõ ràng về hàng hóa trước khi quyết định cho phép đưa vào kinh doanh đa cấp, đồng thời cũng chủ động thành lập một bộ phận có chức năng thẩm định và khảo sát các thông tin liên quan đến sản phẩm được đăng ký. Việc này sẽ giúp giảm thiểu việc các doanh nghiệp tự động nâng giá, hoặc gian lận các thông tin về sản phẩm nhằm trục lợi. Thông tin về các sản phẩm đã được phép lưu hành cần phải được công khai trên các kênh thông tin của Bộ, giúp người dân có được thêm cơ sở để kiểm tra, đối chiếu trước khi có quyết định mua hàng hay tham gia vào mạng lưới. Đối với những loại sản phẩm đặc biệt, có khả năng gây ảnh hưởng lớn đối 81 với đời sống xã hội, như thực phẩm, thuốc chữa bệnh, chế phẩm hỗ trợ dinh dưỡng,… Bộ Y tế cần có những quy định cụ thể về tiêu chuẩn kỹ thuật, về chất lượng của sản phẩm; đồng thời thông tin kịp thời cho xã hội về công dụng, chất lượng và những khả năng gây hại của sản phẩm. Đối với những người tham gia, khi phân phối những sản phẩm có ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, họ không chỉ đơn giản là người bán hàng. Thực tế cho thấy, để bán được sản phẩm những người tham gia đã kiêm luôn chức năng tư vấn cho khách hàng về công dụng và cách thức sử dụng sản phẩm. Do đó, trong quản lý các lĩnh vực nhạy cảm đó, cần thiết phải đặt ra điều kiện về trình độ chuyên môn cho những hợp tác viên. Tổng cục Thuế cần theo dõi việc đóng thuế đầy đủ của các doanh nghiệp, đồng thời đưa ra quy định về thuế thu nhập cá nhân đối với người tham gia kinh doanh đa cấp, nhằm tránh tình trạng trốn thuế thu nhập của những hợp tác viên có thu nhập cao. Tổng cục Hải quan cần theo dõi tình hình nhập khẩu của các hàng hóa thuộc diện kinh doanh đa cấp, nhằm nắm rõ giá nhập khẩu thực tế, trên cơ sở đó xác định giá bán lẻ của sản phẩm trên thị trường. Do đặc điểm hàng hóa được phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng cuối cùng, không thông qua các hệ thống cửa hàng nên dễ xảy ra hành vi trốn thuế thu nhập của các doanh nghiệp. 3.4. Từ phía xã hội Có cái nhìn khách quan hơn, chính xác hơn, thông thoáng hơn về bán hàng đa cấp. Bán hàng đa cấp đã tồn tại và phát triển tốt tại những quốc gia phát triển, và những ưu điểm của nó đối với nền kinh tế cũng như quan hệ xã hội là không thể phủ nhận. Nếu như mọi người không có sự nhận định đúng đắn, chỉ nhìn vào những trường hợp phát triển sai lệch của kinh doanh theo mạng, từ đó có thành 82 kiến, ác cảm sẽ làm mất đi của xã hội một ngành kinh doanh chân chính, đem lại lợi ích về nhiều mặt: giải quyết việc làm, mang lại cơ hội làm giàu cho số lượng lớn người tham gia, tiết kiệm chi phí cho những khâu trung gian,…Bởi vậy, cần có những biện pháp thiết thực để làm cho công chúng hiểu rõ bản chất và lợi ích của hình thức bán hàng đa cấp. Thứ nhất, nên đưa hình thức này vào giảng dạy trong các trường Đại học. Một lượng không nhỏ những nạn nhân của hình thức bán hàng đa cấp bất chính là sinh viên, vì đây là những người trẻ tuổi, năng động, dễ bị lôi kéo và không tỉnh táo trước những cơ hội làm giàu không tưởng. Tại các trường Đại học, kể cả các trường kinh tế, vẫn chưa có một chương trình giảng dạy nào về bán hàng đa cấp, điều này khiến cho các sinh viên không được trang bị những kiến thức tối thiểu để nhận diện những hình thức lừa đảo của những công ty bất chính. Mặt khác, bằng sự năng động của mình, nếu có sự hiểu biết rõ ràng, sinh viên cũng chính là một trong những lực lượng tiên phong trong việc bài trừ những hình thức kinh doanh đa cấp bất chính, bảo vệ kinh doanh đa cấp chân chính. Thứ hai, người dân cần tự nâng cao hiểu biết và nhận thức của mình, nhận ra bản chất thật sự của bán hàng đa cấp. Hiện nay, thông tin về bán hàng đa cấp, các khoản luật, các nghị định về kinh doanh theo mạng của Nhà nước được đăng tải rất nhiều trên báo chí và các phương tiện truyền thông khác như truyền hình, internet,… Việc tìm hiểu về bán hàng đa cấp đã không còn quá khó khăn, thậm chí người dân còn có thể tìm được những lời khuyên củ a những chuyên gia, những luật sư, những nhà phân tích… giúp họ có sự lựa chọn đúng đắn trước khi bắt đầu sự nghiệp kinh doanh đa cấp của mình. Nếu người dân có sự hiểu biết đầy đủ thì hoàn toàn không có một cơ hội nào để bán hàng đa cấp bất chính tồn tại. 83 KẾT LUẬN Trong bối cảnh Việt Nam vừa ra nhập WTO, nền kinh tế nước ta tương lai sẽ có những biến đổi thần tốc. Quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ đưa Việt Nam vào tình thế vừa có những cơ hội mà cũng có những thách thức rất lớn. Việc Kinh doanh theo mạng du nhập vào Việt Nam cũng chính là một phần trong số đó. Chính vì kinh doanh đa cấp mang nhiều màu sắc nên có rất nhiều ngộ nhận. Đây là một mô hình phân phối mang tính sáng tạo cao. Do đó, việc cần thiết hiểu biết một cách toàn diện về nó là vô cùng cấp thiết. Một người bình thường không thể trong ngày một ngày hai có thể hiểu hết được về kinh doanh đa cấp. Để kinh doanh theo mạng có thể tồn tại và phát triển và đi vào quỹ đạo hoàn thiện thì đối với các cơ quan có chức năng, các cơ quan truyền thông, các công ty kinh doanh đa cấp, và đối với mỗi người dân phải có sự phối hợp để đưa ra cái nhìn khách quan, đúng đắn về kinh doanh theo mạng có được sự chấp nhận của toàn xã hội và đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Kinh doanh đa cấp đã xuất hiện khá lâu trên thế giới và được các nhà chuyên môn coi như đã trải qua 3 giai đoạn. Và hiện nay Việt Nam đang tham gia vào trào lưu này, làn sóng thứ 3 của kinh doanh theo mạng. Các nhà chuyên môn tại Việt Nam cũng đang bắt tay vào những kế hoạch nghiên cứu sâu hơn về phương thức kinh doanh này. Dù sao Kinh doanh đa cấp vẫn là một vấn đề rất mới mẻ ở Việt Nam. Trong phạm vi khóa luận này, em chỉ có thể đưa ra phần nào các vần đề được coi là cốt yếu. Ngoài ra có đề xuất một số giải pháp có thể áp dụng tại Việt Nam cho mô hình kinh doanh mới này. Hy vọng rằng, đề tài này cung cấp một cái nhìn khách quan về bán hàng 84 đa cấp và có thể giúp mọi người phân biệt được các công ty kinh doanh chân chính với những mô hình “ảo” trong bán hàng đa cấp trước khi đưa ra quyết định tham gia vào một công ty kinh doanh theo mạng. 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách tham khảo: 1. Don Failla, 2005, Kinh doanh theo mạng từ A đến Z, NXB Văn hóa thông tin 2. Don Failla, 2005, Mười bài học trên chiếc khăn ăn, NXB Văn hóa thông tin 3. Richard Poe, 2005, Làn sóng thứ ba: kỷ nguyên mới trong ngành kinh doanh theo mạng, NXB Văn hóa thông tin 4. Jeffrey Babener và David Stewart, 1990, The Network Marketer's Guide to Success 4. Như Hằng, 2006, „Trong vòng xoáy đa cấp: “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”‟, Báo Tuổi trẻ, 28/02/2006 5. Minh Tiến, 2007, „Sự thật về tập đoàn Colony Invest Management Inc‟, Báo Công An Nhân Dân, 10/11/2007 6. Ngô Chí Tùng, 2005, „Biến tướng trò lừa đảo kinh doanh đa cấp ở Công ty Sao Việt‟, Báo Lao Động, 18/5/2005 7. Luật cạnh tranh do quốc hội Việt Nam ban hành, có hiệu lực từ ngày1/7/2005. Trong đó, khoản 1 điều 3 quy định về các quy tắc bán hàng đa cấp, điều 48 nêu rõ các trường hợp bán hàng đa cấp bất chính. Nghị đinh 110/NĐ-CP, ngày 24/8/2005, hướng dẫn thi hành bán hàng đa cấp. Nghị định 120/NĐ-CP, ngày 30/9/2005, hướng dẫn thi hành luật cạnh tranh. Website tham khảo: 1. 2. 86 3. 4. 5. 6. Sách tham khảo mở rộng: 1. Randy Gage, 2005, Làm cách nào để xây dựng một doanh nghiệp kinh doanh theo mạng sản sinh lợi nhuận, NXB Văn hóa thông tin 2. John Milton Fogg, 2007, Nhà kinh doanh theo mạng vĩ đại nhất thế giới, NXB Văn hóa thông tin 3. Tom Shriter , 2005, “EL lớn” hé mở các bí quyết, NXB Văn hóa thông tin 4. Phạm Thu Hương, 2007, „Các tình huống marketing đa cấp “biến tướng” tại Việt Nam‟, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 25/2007 5. Lê Lam Sơn, 2003, „Bản chất của kiểu bán hàng truyền tiêu‟, Báo Thanh Niên, 8/10/2003 87 DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU HÌNH VẼ VÀ SƠ ĐỒ Hình 1: Sơ đồ phản ứng dây truyền theo cấp số nhân ....................................... 14 Hình 2: Mô hình minh họa bản chất sao chép trong BHĐC .............................. 15 Hình 3: Mô hình các kênh phân phối truyền thống ........................................... 16 Hình 4: Mô hình các kênh phân phối trong BHĐC .......................................... 17 Hình 5: Mô hình nguyên lý trả thưởng của các công ty BHĐC......................... 21 Sơ đồ 1: Hình thức phân phối hàng nhập khẩu thông qua hệ thống phân phối truyền thống ..................................................................................................... 18 Sơ đồ 2: Hình thức phân phối hàng sx nội địa qua hệ thống PPTT ................... 19 Sơ đồ 3: Hình thức phân phối hàng hóa qua hệ thống KDTM .......................... 19 BẢNG BIỂU Bảng 1: Một số công ty bán hàng đa cấp đã và đang hoạt động tại Việt Nam ... 34 Bảng 2: Một số mặt hàng thuộc danh mục kinh doanh của công ty Sinh Lợi .... 59 Trang 88 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT  MLM: Multi Level Marketing  KTDM: Kinh doanh theo mạng  BHĐC: Bán hàng đa cấp  Nhà SX: Nhà sản xuất  Ngƣời TD: Người tiêu dùng  Nhà PP: Nhà phân phối  Công ty KD: Công ty kinh doanh  CS: Cơ sở  TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh  Công ty TNHH: Công ty trách nhiệm hữu hạn  HĐQT: Hội đồng quản trị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5168_7479.pdf
Luận văn liên quan