Nhượng quyền phân phối sản phẩm là hình thức nhượng quyền phát 
triển đầu tiên trên thế giới, đóng vai trò ngày càng lớn trong ngành kinh 
doanh bán lẻ. Tại các thị trường phát triển như Mỹ và châu Âu, nhượng quyền 
phân phối sản phẩm chiếm một tỷ trọng cao trong doanh thu của ngành phân 
phối trong khi tại thị trường các nước châu Á, mô hình này ngày càng phát 
triển mạnh mẽ, với tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới hiện nay. Nhận thức 
được sự hiệu quả và nhiều ưu thế vượt trội của mô hình kinh doanh này, chính 
phủ các nước trên thế giới đã và đang nỗ lực để đưa ra những chính sách, 
chương trình hỗ trợ hiệu quả cho mô hình này phát triển.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 93 trang
93 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2932 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhượng quyền phân phối sản phẩm trên thế giới và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường Việt Nam.Trong chương tiếp theo, chúng ta sẽ nhìn 
nhận những cơ hội và thách thức đặt ra cho mô hình nhượng quyền này, để từ 
đó nhìn nhận xu hướng phát triển của mô hình và đưa ra một số giải pháp 
thúc đẩy phương thức này phát triển tại Việt Nam. 
 59 
CHƢƠNG III 
DỰ BÁO XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NHƢỢNG 
QUYỀN PHÂN PHỐI SẢN PHẨM VÀ MỘT SỐ GIẢI 
PHÁP THÚC ĐẨY MÔ HÌNH NÀY TẠI VIỆT NAM 
I. ĐÁNH GIÁ NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆC 
TRIỂN KHAI PHƢƠNG THỨC NHƢỢNG QUYỀN PHÂN PHỐI 
SẢN PHẨM TẠI VIỆT NAM 
1. Cơ hội 
1.1 Đời sống người dân Việt Nam ngày càng được nâng cao 
Hiện nay, nền kinh tế của Việt nam đang phát triển với tốc độ khá, thu 
nhập của ngƣời dân ngày càng đƣợc cải thiện, trình độ dân trí cũng tăng cao 
làm thay đổi thói quen tiêu dùng của ngƣời Việt Nam. Ngƣời dân bắt đầu có 
thói quen chuyển sang sử dụng các sản phẩm có thƣơng hiệu, chất lƣợng và 
nguồn gốc rõ ràng. Thói quen mua sắm hiện đại ( mua sắm tại siêu thị, trung 
tâm thƣơng mại, cửa hàng chuyên dụng…) của ngƣời Việt Nam tăng từ 9% 
(2005) lên 14% vào năm 2007 và dự kiến sẽ tăng lên 24% vào năm 2010. 
Riêng thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, tỷ lệ tƣơng ứng là 15%, 24% và 
37%. [18] 
 Ngoài ra, tỷ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam hiện nay đƣợc xét 
thuộc loại cao so với nhiều nƣớc trong khu vực (>70%), trong khi của 
Singapore là 55,9%, Thái Lan là 67,7% [3]. Tầng lớp “ngƣời tiêu dùng trẻ” 
cũng nhƣ ngƣời tiêu dùng có thu nhập cao tăng lên, thúc đẩy hoạt động bán lẻ 
 60 
cao cấp. Năm 2005, AT Kearney-một trong những công ty tƣ vấn quản lý lớn 
nhất thế giới lập ra chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu (GRDI) năm 2005 đã xếp 
Việt Nam vào hàng thứ 8 trong số 30 thị trƣờng bán lẻ phát triển nhanh nhất 
toàn cầu [15]. 
Sự thay đổi này sẽ là một trong những điều kiện quan trọng tạo thị 
trƣờng cho mô hình nhƣợng quyền phân phối sản phẩm phát triển. Đời sống 
của ngƣời dân nâng cao, thói quen tiêu dùng thay đổi kéo theo xu hƣớng phát 
triển mới cho thị trƣờng bán lẻ của Việt Nam. Ngƣời dân có xu hƣớng tìm tới 
những cửa hàng trong hệ thống nhƣợng quyền phân phối có dịch vụ phân phối 
tốt và có khả năng bảo đảm chắc chắn uy tín và chất lƣợng của sản phẩm. 
Đồng thời, khi thƣơng hiệu ngày càng đóng vai trò cốt yếu làm nên chỗ đứng 
của một sản phẩm trên thị trƣờng thì mô hình nhƣợng quyền phân phối sản 
phẩm với sự thống nhất cao về hình ảnh thƣơng hiệu và chiến lƣợc quảng bá 
của toàn hệ thống sẽ ngày càng trở thành công cụ kinh doanh chiến lƣợc cho 
các doanh nghiệp. 
1.2 Thị trường mới đầy tiềm năng 
Kinh doanh theo mô hình nhƣợng quyền phân phối mới chỉ trong giai 
đoạn khởi động, chƣa phát huy đƣợc hết tiềm năng của mình nên cơ hội phát 
triển trong lĩnh vực này còn rất lớn và chắc chắn sẽ tăng trƣởng mạnh mẽ 
trong những năm tới đây. Khi các doanh nghiệp nhìn ra cơ hội lớn để theo kịp 
xu thế phát triển hiện đại của ngành phân phối sản phẩm trên thế giới trong 
khi mức tiêu dùng của thị trƣờng Việt Nam gia tăng mạnh, kinh doanh 
nhƣợng quyền phân phối có cơ hội phát triển bùng nổ. Hiệp hội kinh doanh 
nhƣợng quyền Việt Nam và Trung tâm kinh doanh Hàn Quốc cho biết, năm 
1996 doanh thu của kinh doanh nhƣợng quyền tại Việt Nam chỉ tăng 15%, đạt 
1,5 triệu đô la Mỹ; 5 năm sau đã tăng 21% đạt hơn 3 triệu đô la Mỹ, và đến 
 61 
năm 2005 đã tăng 26%, đạt 9 triệu đô la Mỹ. Theo dự báo của các chuyên gia, 
tốc độ tăng trƣởng của ngành kinh doanh nhƣợng quyền sẽ tiếp tục đƣợc duy 
trì và đạt doanh thu dự kiến là 36,68 triệu đô la Mỹ, với mức tăng trƣởng 35% 
vào năm tới. 
1.3 Điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị lý tưởng 
Ngoài những điều kiện trên thì thị trƣờng Việt Nam còn có nhiều đặc 
điểm lý tƣởng để nhƣợng quyền phân phối phát triển, đặc biệt là dƣới con mắt 
các nhà nhƣợng quyền nƣớc ngoài nhƣ: 
Thứ nhất, Việt Nam có một môi trƣờng kinh tế, chính trị ổn định, an 
toàn, không có xung đột tôn giáo; do vậy chắc chắn sẽ là điểm đến ƣu tiên cho 
nhiều thƣơng hiệu nƣớc ngoài. 
Thứ hai, với dân số tƣơng đối lớn (khoảng 84 triệu ngƣời), nền kinh tế 
tăng trƣởng cao và đặc biệt là cơ cấu dân số trẻ, năng động (hiện nay có 57% 
dân số có độ tuổi dƣới 30, sau 15 năm nữa tỷ lệ này có vẫn là 50%, Việt Nam 
đƣợc các nhà nhƣợng quyền thế giới đánh giá là “mảnh đất tiềm năng” cho thị 
trƣờng nhƣợng quyền phân phối trong thời gian tới. 
Thứ ba, với việc nhận thức ngày càng sâu sắc về lợi ích mà mô hình 
nhƣợng quyền thƣơng mại nói chung và nhƣợng quyền phân phối sản phẩm 
nói riêng có thể mang lại cho nền kinh tế, chính phủ Việt Nam chắc chắn sẽ 
triển khai nhiều chƣơng trình hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho mô hình 
nhƣợng quyền phân phối phát triển ở Việt Nam. 
1.4 Hệ thống pháp luật về nhượng quyền thương mại nói chung đã và đang 
được xây dựng và hòa thiện 
 62 
Theo Luật thƣơng mại năm 2005, nhƣợng quyền thƣơng mại là hoạt 
động thƣơng mại, chịu sự điều chỉnh chính thức của Luật thƣơng mại. Luật 
Thƣơng mại 2005 đã dành nguyên Mục 8 Chƣơng VI để quy định về hoạt 
động nhƣợng quyền thƣơng mại, trong đó xác định về khái niệm về nhƣợng 
quyền thƣơng mại, hợp đồng thƣơng mại, quyền và nghĩa vụ của các bên 
trong nhƣợng quyền, việc đăng ký nhƣợng quyền thƣơng mại với Bộ Thƣơng 
mại. 
Ngày 31/3/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP 
quy định chi tiết Luật Thƣơng mại. Các vấn đề liên quan đến điều kiện hoạt 
động nhƣợng quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động nhƣợng 
quyền, quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động nhƣợng quyền đƣợc thể hiện 
tƣơng đối đầy đủ trong Nghị định này. 
Sau đó, ngày 25/5/2006, Bộ Thƣơng mại ban hành Thông tƣ số 
09/2006/TT-BTN để hƣớng dẫn đăng ký hoạt động nhƣợng quyền thƣơng 
mại. Thông tƣ này quy định cụ thể thủ tục tiến hành đăng ký hoạt động 
nhƣợng quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền tiếp nhận 
đăng ký , thƣơng nhân thực hiện đăng ký nhƣợng quyền. 
Những văn bản này đã xác lập một khung pháp lý khá cơ bản cho hoạt 
động nhƣợng quyền, nhằm đảm bảo cho thƣơng nhân Việt Nam và thƣơng 
nhân nƣớc ngoài khi tham gia vào hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại trên 
lãnh thổ Việt Nam. Đây là công cụ pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền và lợi 
ích hợp pháp của bên nhƣợng quyền, bên nhận quyền và ngƣời tiêu dùng, 
cũng nhƣ lợi ích của nền kinh tế nói chung. Các quy định này đã tƣơng đối 
phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế về nhƣợng quyền nhƣ quy định 
hoạt động nhƣợng quyền là hoạt động thƣơng mại; cơ quan quản lý nhà nƣớc 
 63 
về nhƣợng quyền là Bộ Thƣơng mại, quy định về trách nhiệm cung cấp thông 
tin của bên nhƣợng quyền và bên nhận quyền… 
2. Thách thức 
2.1 Đối với các doanh nghiệp Việt Nam 
Thứ nhất, doanh nghiệp Việt Nam chƣa đánh giá đúng vai trò của 
thƣơng hiệu, chƣa coi việc xây dựng thƣơng hiệu là chiến lƣợc quan trọng 
hàng đầu của doanh nghiệp. Theo một cuộc nghiên cứu về xây dựng và quảng 
bá thƣơng hiệu do báo Sài Gòn tiếp thị và Câu lạc bộ hàng Việt nam chất 
lƣợng cao thực hiện, thì chỉ có 4,2% doanh nghiệp cho rằng thƣơng hiệu là vũ 
khí trong cạnh tranh và 5,4% cho rằng thƣơng hiệu là một thứ tài sản của 
doanh nghiệp. Thƣơng hiệu là nền tảng của nhƣợng quyền thƣơng mại nói 
chung và nhƣợng quyền phân phối nói riêng, có thƣơng hiệu mới có sự 
chuyển nhƣợng việc kinh doanh thƣơng hiệu đó. Ngƣợc lại, nhƣợng quyền là 
một hoạt động hữu hiệu làm tăng giá trị thƣơng mại. Các doanh nghiệp chƣa 
nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của thƣơng hiệu tất yếu dẫn tới việc chƣa 
quan tâm đến việc xây dựng thƣơng hiệu mạnh, ngay cả với một biện pháp 
nhanh chóng và hiệu quả nhƣ nhƣợng quyền phân phối. Hiện nay, doanh 
ngiệp Việt Nam có rất ít thƣơng hiệu mạnh đủ để làm nhƣợng quyền thƣơng 
mại và hầu nhƣ không có thƣơng hiệu mang tầm cỡ quốc tế. 
Thứ hai, Ngay cả khi sở hữu một thƣơng hiệu mạnh, chƣa có nhiều 
doanh nghiệp Việt Nam có đầy đủ sự hiểu biết và kinh nghiệm để áp dụng 
nhƣợng quyền thƣơng mại. Mô hình kinh doanh nhƣợng quyền là một quá 
trình phức tạp để đi tới thỏa thuận giữa ngƣời chủ thƣơng hiệu và ngƣời đƣợc 
nhƣợng quyền. Quá trình này đòi hỏi phải có sự hiểu biết chặt chẽ cả từ hai 
phía (luật pháp, các loại hợp đồng ràng buộc, về kinh nghiệm kinh doanh, 
kinh nghiệm điều hành quản lý…). Trên thực tế, ngƣời chủ một thƣơng hiệu 
 64 
khi muốn nhƣợng quyền cho đối tác nhận quyền, thì ngoài yếu tố đó phải là 
một thƣơng hiệu mạnh, phải có một hệ thống điều hành cũng đủ mạnh để đảm 
bảo việc kiểm soát sự hoạt động hiệu quả của hệ thống. Điều này cũng có 
nghĩa chủ thƣơng hiệu trƣớc tiên phải là ngƣời hiểu rõ về hệ thống luật pháp 
và hệ thống các loại hợp đồng để nhƣợng quyền, sau đó là các cách thức tiến 
hành nhƣợng quyền…để xây dựng cho mình một hệ thống quản lý chặt chẽ 
và đồng bộ áp dụng cho cả mạng lƣới kinh doanh. Đối với đại đa số doanh 
nghiệp Việt Nam, nhƣợng quyền phân phối sản phẩm vẫn là một hình thức rất 
mới mẻ. Ngay cả nhiều thƣơng hiệu mạnh cũng vẫn đứng ngoài cuộc. Để áp 
dụng mô hình nhƣợng quyền phân phối, thì ngoài một thƣơng hiệu đủ mạnh, 
yếu tố quan trọng nhất là phải đủ năng lực quản lý. Nhƣng đây là khâu yếu 
nhất của các doanh ngiệp trong nƣớc. 
Thứ ba, trên thực tế, chƣa có nhiều bài học thành công về nhƣợng 
quyền phân phối sản phẩm ở Việt Nam để hấp dẫn doanh nghiệp. Nếu xét về 
tổng thể thực trạng của các doanh nghiệp áp dụng nhƣợng quyền phân phối 
sản phẩm tại Việt Nam hiện nay thì chỉ có một số doanh nghiệp khá thành 
công còn nhìn chung là các doanh nghiệp hoạt động chƣa thực sự hiệu quả. 
Thực tế, để có thể kinh doanh nhƣợng quyền thành công thì các nhà nhƣợng 
quyền phải có ít nhất hai yếu tố: Một là thƣơng hiệu đủ mạnh để hấp dẫn các 
nhà đầu tƣ nhận quyền, hai là phải có đủ khả năng quản lý để đảm bảo hợp tác 
hiệu quả với hệ thống nhƣợng quyền. Tuy nhiên, ở Việt Nam, số doanh 
nghiệp hội đủ 2 yếu tố này lại không nhiều. Chính bởi thực trạng này mà 
trong khi các vũ khí nhƣợng quyền phân phối sản phẩm trên thế giới đƣợc áp 
dụng nhiều mà vẫn chƣa đƣợc các doanh nghiệp trong nƣớc lƣu tâm. Thậm 
chí, tâm lý e ngại áp dụng hình thức này cũng tồn tại trong một số không nhỏ 
các doanh nghiệp Việt Nam. 
 65 
2.2 Đối với các thương hiệu nước ngoài 
Ngoài lý do doanh nghiệp Việt Nam chƣa có đầy đủ sự hiểu biết, kinh 
nghiệm và sự tin tƣởng để nhận quyền, tồn tại một số nguyên nhân khiến họ 
chƣa ồ ạt vào thị trƣờng Việt Nam: 
Thứ nhất, về cơ sở pháp lý, tuy đã tƣơng đối đầy đủ, nhƣng các văn bản 
luật chƣa thể hiện đƣợc sự khuyến khích của Nhà nƣớc đối với mô hình kinh 
doanh nhƣợng quyền này, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhƣợng quyền. 
Nhiều khía cạnh của nhƣợng quyền thƣơng mại mà Nghị định số 35/NĐ-CP 
nói riêng và hệ thống pháp luật về nhƣợng quyền nói chung chƣa đề cập đến. 
Về kỹ thuật lập pháp, một số nội dung trong văn bản luật chƣa thực sự phù 
hợp với tình hình phát triển hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại hiện nay tại 
Việt Nam, cũng nhƣ việc kết nối giữa các đạo luật liên quan vẫn chƣa thể liên 
thông. Do đó, một số vƣớng mắc đã và đang phát sinh trong việc tổ chức thực 
hiện các quy định pháp luật về nhƣợng quyền thƣơng mại nhƣ sau: 
Về thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại: 
Ở một số nƣớc trên thế giới, quy định này cũng có thể là bắt buộc hoặc 
khuyến khích tự nguyện đăng ký với mục đích để Nhà nƣớc có thể thu thập 
thông tin về hoạt động nhƣợng quyền để xây dựng các chính sách, cơ chế 
pháp lý có nội dung khuyến khích, phát triển hoạt động nhƣợng quyền, đồng 
thời đảm bảo lợi ích hợp pháp của ngƣời nhận quyền. Ví dụ nhƣ ở Malaysia, 
từ năm 1992, với Chƣơng trình phát triển nhƣợng quyền thƣơng mại, Chính 
phủ nƣớc này đã có những chính sách hỗ trợ cụ thể cho Doanh nghiệp trong 
việc tƣ vấn pháp lý, xây dựng hệ thống nhƣợng quyền và quy định khá cởi mở 
trong việc đăng ký hoặc khai báo việc nhƣợng quyền ra nƣớc ngoài. 
 66 
Theo Điều 291 Luật Thƣơng mại 2005, Điều 17 và 18 Nghị định 
35/NĐ-CP, bất kỳ doanh nghiệp nào trƣớc khi tiến hành nhƣợng quyền 
thƣơng mại phải thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động nhƣợng quyền thƣơng 
mại tại Bộ Thƣơng mại hoặc Sở Thƣơng mại. Hồ sơ đăng ký hoạt động 
nhƣợng quyền bao gồm: Đơn đề nghị đăng ký, Bản giới thiệu về nhƣợng 
quyền thƣơng mại do doanh nghiệp soạn thảo theo mẫu và các văn bản khác 
để xác nhận tƣ cách pháp lý của bên dự kiến nhƣợng quyền, quyền sở hữu trí 
tuệ của đối tƣợng liên quan đến hoạt động nhƣợng quyền…do Bộ Thƣơng 
mại quy định tại mục II.1 Thông tƣ 09. Bộ Thƣơng mại hoặc Sở Thƣơng mại 
là cơ quan có quyền xem xét, thẩm định hồ sơ đăng ký hoạt động nhƣợng 
quyền thƣơng mại, các điều kiện để đƣợc nhƣợng quyền (Điều 5, Nghị định 
35/2006/NĐ-CP) để quyết định việc chấp thuận đăng ký hoạt động nhƣợng 
quyền thƣơng mại của doanh nghiệp. Do vẫn chƣa có chế tài ràng buộc cụ thể 
đối với trƣờng hợp bị từ chối đăng ký nhƣợng quyền, nên trong thực tế, 
những doanh nghiệp bị xét không đủ điều kiện nhƣợng quyền nhƣng vẫn có 
thể tiếp tục thực hiện nhƣợng quyền bằng cách lách luật thông qua việc ký kết 
hợp đồng đại lý với đối tác, trong đó có thỏa thuận cho phép đối tác đƣợc sử 
dụng thƣơng hiệu và tổ chức kinh doanh theo phƣơng thức hoạt động của 
mình. 
Một số vấn đề đăng ký nhƣợng quyền cũng chƣa đƣợc đề cập trong các 
văn bản pháp luật nhƣ: trƣờng hợp nhƣợng quyền từ khu chế xuất, khu phi 
thuế quan…ra nƣớc ngoài và ngƣợc lại, doanh nghiệp sẽ phải đăng ký hoạt 
động tại cơ quan nào. Pháp luật cũng chƣa có quy định cụ thể về cơ chế giải 
quyết khiếu nại trong trƣờng hợp thƣơng nhân bị từ chối đăng ký hoạt động 
nhƣợng quyền. 
 67 
Với điều kiện đăng ký hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại, tại điều 5, 
Nghị định số 35/2006/NĐ-CP có quy định “phải hoạt động kinh doanh theo 
phƣơng thức nhƣợng quyền ít nhất 01 năm ở Việt Nam” chỉ áp dụng đối với 
Bên nhƣợng quyền thứ cấp nếu Bên nhƣợng quyền ban đầu là thƣơng nhân 
nƣớc ngoài. Vậy trong trƣờng hợp Bên nhƣợng quyền ban đầu là thƣơng nhân 
Việt Nam thì Bên nhƣợng quyền thứ cấp có cần phải áp dụng điều kiện nêu 
trên không ? Việc quy định thời hạn nhƣ trên, nhằm đảm bảo hệ thống 
nhƣợng quyền đƣợc triển khai có hiệu quả kinh doanh, tránh tình trạng lừa 
đảo đối với bên nhận quyền. Nhƣng mặt khác, điều này cũng làm mất đi đáng 
kể cơ hội cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trƣờng của các thƣơng hiệu nƣớc ngoài, 
làm giảm sức hấp dẫn của thị trƣờng Việt Nam. Ngoài ra, hiện tại, Bộ Tài 
chính vẫn chƣa có văn bản cụ thể quy định mức phí đăng ký hoạt động 
nhƣợng quyền thƣơng mại, do đó có thể dẫn đến lúng túng đối với cơ quan 
tiếp nhận đăng ký. 
Vấn đề xây dựng, cung cấp Bản giới thiệu về nhượng quyền thương 
mại: 
Về nguyên tắc, việc yêu cầu doanh nghiệp dự kiến nhƣợng quyền 
thƣơng mại xây dựng Bản giới thiệu về nhƣợng quyền thƣơng mại là hoàn 
toàn phù hợp với quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của Bên 
nhƣợng quyền. Bản giới thiệu về nhƣợng quyền thƣơng mại của doanh nghiệp 
thuật ngữ chuyên môn gọi là UFOC (Uniform Franchise Offering Circular) là 
một tài liệu rất quan trọng trong hoạt động franchise. Theo đó, Bên nhƣợng 
quyền phải cung cấp cho Bên dự kiến nhận quyền nghiên cứu trƣớc khi ký 
hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại. Do đó, bản giới thiệu nhƣợng quyền 
thƣơng mại phải thể hiện đầy đủ, trung thực, chính xác mọi thông tin về Bên 
nhƣợng quyền, về hệ thống nhƣợng quyền và các vấn đề cơ bản liên quan đến 
 68 
việc ký kết hợp đồng nhƣợng quyền. Ở một số quốc gia nhƣ Hoa Kỳ, việc xây 
dựng và cung cấp tài liệu UFOC là bắt buộc theo luật định, tài liệu này luôn 
đảm bảo 02 chức năng cơ bản: Cung cấp chính xác thông tin liên quan đến 
nội dung nhƣợng quyền thƣơng mại, quảng bá cho Bên nhƣợng quyền. 
Tại Việt Nam, Bộ Thƣơng mại cũng ban hành mẫu Bản giới thiệu 
nhƣợng quyền thƣơng mại kèm Thông tƣ 09, có nội dung khá chi tiết gồm 02 
phần và 13 mục. Tuy nhiên, bản giới thiệu hơi cứng nhắc, các thông tin yêu 
cầu cung cấp có vẻ nhƣ chủ yếu để phục vụ cho hoạt động thống kê, quản lý 
nhà nƣớc, mà không tính đến yếu tố thể hiện sự quảng bá cho Bên dự kiến 
nhƣợng quyền. 
Những Quy định đối kháng, “dẫm chân” giữa các văn bản pháp luật 
liên quan 
Khái niệm nhƣợng quyền thƣơng mại trong Bộ luật dân sự 2005 đƣợc 
hiểu là “cấp phép đặc quyền kinh doanh”, và đƣợc xếp vào nhóm đối tƣợng 
chuyển giao công nghệ quy định tại Điều 755 của Bộ luật. Tuy nhiên, theo 
Điều 7 Luật chuyển giao công nghệ 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2007) thì 
cấp phép đặc quyền kinh doanh không thuộc phạm vi đối tƣợng chuyển giao 
công nghệ. Đây chính là điểm mâu thuẫn nghiêm trọng giữa Luật chuyển giao 
công nghệ và Bộ Luật dân sự. 
Mặt khác, theo quy định tại Điều 10 Nghị định 35, nếu việc nhƣợng 
quyền có liên quan đến việc chuyển giao quyền sử dụng các đối tƣợng sở hữu 
công nghiệp thì phần chuyển giao đó có thể đƣợc thành một phần riêng trong 
hợp đồng thƣơng mại và chịu sự điều chỉnh của pháp luật sở hữu công nghiệp. 
Theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005 thì việc chuyển giao quyền sử dụng quyền sở 
hữu công nghiệp phải đƣợc thực hiện bằng hình thức hợp đồng sử dụng đối 
 69 
tƣợng sở hữu công nghiệp (Khoản 2 Điều 141 Luật sở hữu trí tuệ). Nhƣ vậy, 
quy định nêu trên của Nghị định 35 chƣa phù hợp với luật. Đồng thời, Luật 
thƣơng mại năm 2005 cũng không có bất kỳ quy định nào để nối kết một cách 
hợp lý với Luật sở hữu trí thệ 2005, Luật chuyển giao công nghệ 2006. Do đó, 
đã dẫn đến tình trạng chồng chéo lên nhau giữa các văn bản luật liên quan. 
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật về thuế hiện tại vẫn chƣa có quy 
định chính thức trong việc xác định các khoản chi phí, khoản thu là phí 
nhƣợng quyền, doanh thu từ nhƣợng quyền thƣơng mại để hạch toán, tính 
thuế cho doanh nghiệp. Ngoài ra, về vấn đề xử lý vi phạm trong hoạt động 
nhƣợng quyền thƣơng mại, Điều 24 Nghị định 35 đã liệt kê các hành vi vi 
phạm cụ thể và quy định việc xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, hiện 
nay, chính phủ vẫn chƣa ban hành Nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh 
vực nhƣợng quyền thƣơng mại. 
Ngoài ra, hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại còn gắn mật thiết với hệ 
thống pháp luật về sở hữu trí tuệ vì bảo vệ thƣơng hiệu là điều quan trọng 
nhất, mang tính sống còn với doanh nghiệp nhƣợng quyền. Các doanh nghiệp 
sẽ không thực hiện hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại khi tài sản thƣơng 
hiệu và tài sản trí tuệ khác liên quan không đƣợc đảm bảo. Trong khi đó, ở 
Việt Nam có rất ít chính sách về hệ thống bảo hộ quyền và quản lý sở hữu trí 
tuệ. Đặc biệt là hệ thống thực thi chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về sở 
hữu trí tuệ còn yếu. Cục sở hữu trí tuệ chỉ là cơ quan quản lý Nhà nƣớc đơn 
thuần, không phải là cơ quan dịch vụ hành chính công, thiếu nguồn nhân lực 
và tài chính dẫn đến chậm trễ trong việc thực hiện đăng ký và quản lý đối 
tƣợng, làm chậm quá trình phát triển các thị trƣờng liên quan trong đó có thị 
trƣờng nhƣợng quyền. Mặc dù Việt Nam đã cam kết WTO về thực thi quyền 
sở hữu trí tuệ nhƣng nếu triển khai và thực hiện cũng cần nhiều thời gian. 
 70 
Thứ hai, bản thân ngƣời tiêu dùng Việt Nam rất ít ngƣời biết đến các 
thƣơng hiệu nổi tiếng trên thế giới. Khi dùng nhƣợng quyền ở Việt Nam, chƣa 
chắc ngƣời nhận nhƣợng quyền đã có sẵn một lƣợng khác hàng ngay lập tức, 
mà cũng sẽ phải trải qua một quá trình marketing để quảng bá sản phẩm, dịch 
vụ. Điều này gây ra sự “ngại ngùng” của các thƣơng hiệu quốc tế khi thâm 
nhập vào thị trƣờng Việt Nam. 
Thứ ba, mặc dù đã cải thiện nhƣng đại đa số thu nhập của ngƣời dân 
Việt Nam rất thấp so với mức sống trung bình trên thế giới. Các sản phẩm 
mang thƣơng hiệu nổi tiếng thế giới thƣờng có mức giá rất cao. Vì thế, khả 
năng thu nhập của khách hàng Việt tiêu dùng những sản phẩm của các thƣơng 
hiệu này có phần bị hạn chế. 
Với những nguyên nhân như trên, nhượng quyền phân phối ở Việt Nam 
vẫn ở tầm nhỏ bé. Tuy nhiên, đây chỉ là giai đoạn khởi đầu của một trào lưu 
mới, mạnh mẽ trong nền kinh tế. 
II. DỰ BÁO XU HƢỚNG PHÁT TRIỂN CỦA NHƢỢNG QUYỀN 
PHÂN PHỐI SẢN PHẨM TẠI VIỆT NAM VÀ NGUYÊN NHÂN 
Trong tƣơng lai gần, nhƣợng quyền phân phối sản phẩm có xu hƣớng 
phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam bởi những nguyên nhân sau: 
1. Xu hƣớng toàn cầu hóa 
Kết quả thực tiễn sự phát triển mạnh mẽ của mô hình nhƣợng quyền 
phân phối trên thế giới trong nhiều năm qua đã chứng tỏ vai trò quan trọng 
của mô hình này với sự phát triển của các nền kinh tế thế giới. Ngay cả Trung 
Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia có thị trƣờng to lớn, trƣớc đây luôn có thái độ 
thăm dò, phát triển cầm chừng đối với mô hình nhƣợng quyền thì nay đã thay 
đổi cách nhìn, thậm chí còn mở rộng cửa đối với mô hình này. Tại Trung 
 71 
Quốc, cách đây 4 năm nhiều doanh nghiệp không hề biết đến nhƣợng quyền 
nhƣng chỉ sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc giờ đây là một trong những thị 
trƣờng nhƣợng quyền nói chung và nhƣợng quyền phân phối nói riêng nóng 
bỏng nhất thế giới với sự có mặt của hầu hết các thƣơng hiệu nổi tiếng. Xu 
hƣớng toàn cầu hóa, cùng với việc mở cửa thị trƣờng và hội nhập sâu hơn vào 
nền kinh tế thế giới với phƣơng thức kinh doanh hiệu quả này đang thâm nhập 
mạnh mẽ vào Việt Nam. Điều đó mở ra cơ hội phát triển đầy tiềm năng cho 
mô hình nhƣợng quyền phân phối tại Việt Nam. 
2. Mô hình nhƣợng quyền phân phối rất phù hợp với các doanh nghiệp 
vừa và nhỏ chiếm đa số tại Việt Nam hiện nay 
Với đặc điểm của thị trƣờng Việt Nam hiện nay, chúng ta hầu nhƣ đã có 
đủ các loại hình doanh nghiệp. Trong số này, có rất nhiều doanh nghiệp có 
quy mô vừa và nhỏ. Đối với những công ty này việc kiếm đƣợc chỗ đứng trên 
thị trƣờng là đặc biệt khó khăn vì nhiều hạn chế về nguồn vốn và nhân lực. 
Với quy mô nhỏ nhƣ vậy thì nhƣợng quyền phần phối là một mô hình đầu tƣ 
hiệu quả vì chủ thƣơng hiệu sẽ tạo dựng đƣợc thƣơng hiệu của sản phẩm trên 
thị trƣờng và duy trì đƣợc chất lƣợng của sản phẩm một cách ổn định, củng cố 
thƣờng xuyên niềm tin của khách hàng. Đối với nền kinh tế, điều này sẽ giảm 
bớt thiệt hại cho nền kinh tế nói chung gây ra bởi những doanh nghiệp thất bại 
trong việc sản xuất các sản phẩm chất lƣợng tốt, hay gây dựng tên tuổi của 
sản phẩm ra thị trƣờng. Hơn nữa, bằng cách liên kết sức mạnh của bên 
nhƣợng quyền và bên nhận quyền, mô hình này mở ra một giải pháp giúp các 
doanh nghiệp Việt Nam hợp sức cạnh tranh với các công ty lớn trong cùng 
lĩnh vực hoạt động. Do vậy, hình thức này rất phù hợp với Việt Nam cũng 
nhƣ các nƣớc đang phát triển nói chung, vốn là những quốc gia đang rất cần 
 72 
tập hợp nguồn lực từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao sức cạnh tranh 
của nền kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 
3. Công cụ hữu hiệu để xâm nhập các thị trƣờng lớn 
Nhƣợng quyền phân phối sản phẩm với những ƣu điểm của nó sẽ là 
một cơ hội kinh doanh mới cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các 
doanh nghiệp có tham vọng mở rộng thị trƣờng nƣớc ngoài nhƣng chƣa đủ 
lực (vốn, nhân lực) tấn công vào các thị trƣờng lớn nhƣ Mỹ, Nhật, Châu Âu. 
Mô hình nhƣợng quyền thƣơng mại sẽ giúp họ xâm nhập một cách gián tiếp 
vào các thị trƣờng này với chi phí thấp, đồng thời đây cũng là cách hữu hiệu 
để bảo vệ nhãn hiệu của doanh nghiệp tại thị trƣờng nƣớc ngoài. Ngoài ra, 
nhƣợng quyền phân phối sản phẩm ở nƣớc ngoài cũng đồng nghĩa với việc 
doanh nghiệp sẽ xuất khẩu đƣợc sản phẩm, thƣơng hiệu của mình đồng thời 
kéo theo sự phát triển của những thƣơng hiệu của các sản phẩm liên quan. 
4. Sự cạnh tranh khốc liệt ở thị trƣờng bán lẻ 
Từ ngày 1/1/2007, các doanh nghiệp Mỹ đƣợc quyền mở công ty liên 
doanh bán lẻ tại VN và 1/1/2009 đƣợc phép thành lập bán lẻ 100% vốn nƣớc 
ngoài [16]. Khi đó, nguy cơ về việc các “đại gia” bán lẻ sẽ là ngƣời quyết 
định "cuộc chơi" đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho các những nhà 
phân phối ở Việt Nam cũng nhƣ những chủ thƣơng hiệu Việt. Những thƣơng 
hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng đang thay thế dần các thƣơng hiệu trong nƣớc. 
Không chỉ mất chỗ trong các nhà phân phối nƣớc ngoài, đƣờng vào siêu thị 
"nội" đối với các nhà sản xuất trong nƣớc cũng không hề đơn giản. Nhiều 
chuyên gia cho rằng, nếu cứ tiếp tục tình trạng nhƣ hiện nay, cộng thêm với 
việc các doanh nghiệp phân phối nƣớc ngoài đƣợc quyền nhập khẩu và sản 
xuất hàng hóa tại thị trƣờng nội địa trong thời gian tới thì không chỉ các nhà 
phân phối mà cả các nhà sản xuất cũng không còn chỗ ở sân nhà. 
 73 
Tình trạng này sẽ vô hình chung thúc đẩy doanh nghiệp xây dựng và 
triển khai kế hoạch đầu tƣ, phát triển nhanh hệ thống phân phối hiện đại (siêu 
thị, trung tâm thƣơng mại, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh) theo 
phƣơng thức nhƣợng quyền ; nhân rộng, nhanh thƣơng hiệu của mình để giữ 
thị phần nội địa trƣớc cuộc cạnh tranh sắp tới. 
Với những cơ hội hứa hẹn phía trước, những nhân tố nội tại thúc đẩy, 
nhượng quyền phân phối sản phẩm sẽ dần trở thành một hướng phát triển 
mạnh mẽ và hiệu quả của các doanh nghiệp mới xâm nhập và đang tồn tại 
trên thị trường Việt Nam. 
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ XUẤT NHẰM PHÁT TRIỂN MÔ 
HÌNH NHƢỢNG QUYỀN PHÂN PHỐI SẢN PHẨM TẠI VIỆT 
NAM 
1. Về phía nhà nƣớc 
1.1 Xây dựng hệ thống pháp luật 
Qua phân tích ở trên, về mặt giải pháp, Nhà nƣớc cần phải xem xét, 
làm rõ các khái niệm, phạm vi điều chỉnh giữa các văn bản luật, văn bản pháp 
quy có liên quan, từ đó có sự điều chỉnh, sửa đổi phù hợp, ban hành các quy 
định mới để kịp thời đáp ứng công tác quản lý nhà nƣớc. Cụ thể nhƣ sau: 
- Phải làm rõ nội hàm nhƣợng quyền thƣơng mại với chuyển giao công 
nghệ. Nếu xác định rõ nhƣợng quyền thƣơng mại là hành vi thƣơng mại, chịu 
sự điều chỉnh trực tiếp của Luật thƣơng mại thì phải điều chỉnh lại Bộ luật dân 
sự, Luật chuyển giao công nghệ. Thống nhất hóa và tạo sự liên thông giữa 4 
luật: Bộ luật dân sự, Luật thƣơng mại, Luật chuyển giao công nghệ và Luật sở 
hữu trí tuệ. 
 74 
- Thay đổi chính sách quản lý, thay vì bắt buộc đăng ký nhƣợng quyền 
thì chỉ yêu cầu thông báo, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhƣợng quyền. 
Đồng thời, có chính sách giảm thuế để khuyến khích doanh nghiệp nhƣợng 
quyền ra nƣớc ngoài. 
- Sửa đối những sai sót về mặt kỹ thuật lập pháp nhƣ trên nhằm hoàn 
thiện hệ thống phát luật về nhƣợng quyền nói chung và nhƣợng quyền phân 
phối nói riêng. Ví dụ nhƣ việc trùng lặp tiêu đề tại Mục I Phần A và Mục I 
Phần B. Theo nội dung đƣợc nêu, Mục I Phần A nhằm giới thiệu tổng quát về 
vị trí pháp lý, chức năng kinh doanh của Bên nhƣợng quyền, Mục I Phần B 
cung cấp thông tin cơ bản về bộ máy, tổ chức kinh doanh nhƣợng quyền. Vì 
vậy, nên chăng có thể sửa đổi tiêu đề Mục I Phần A thành “Giới thiệu tƣ cách 
pháp lý của Bên nhƣợng quyền”, tiêu đề Mục I Phần B thành “Thông tin về tổ 
chức, hoạt động của Bên nhƣợng quyền”. 
Bên cạnh đó, điểm 2 Mục V Phần B nói về “khả năng cho phép Bên 
nhận quyền có đƣợc chỉnh sửa những quy định của hệ thống kinh doanh 
nhƣợng quyền”. Thực chất đây chính là quyền của Bên nhƣợng quyền quy 
định, thế nhƣng lại đƣợc sắp xếp vào nhóm nghĩa vụ của Bên nhận quyền. 
Điểm 3,4,5,6,7,8 Mục IX Phần B yêu cầu phải công khai chi tiết số lƣợng và 
tình trạng ký kết, thực hiện, gia hạn, chấm dứt hợp đồng nhƣợng quyền. Đối 
với các doanh nghiệp nhƣợng quyền, dƣờng nhƣ đây là quy định can thiệp 
quá sâu vào bí mật kinh doanh của Bên nhƣợng quyền và có thể gây rủi ro 
cho Bên nhƣợng quyền nếu Bên dự kiến nhận quyền không ký kết hợp đồng 
nhƣợng quyền. Ở đây chỉ cần Bên nhƣợng quyền cung cấp thông tin về số 
lƣợng cơ sở kinh doanh trong hệ thống nhƣợng quyền đang hoạt động hoặc đã 
chấm dứt trong thời hạn 03 năm gần nhất, đối với trƣờng hợp nào đã ký kết 
 75 
hợp đồng mà vẫn chƣa triển khai thực hiện thì phải trình bày lý do cụ thế là 
đủ. 
Mục X Phần B yêu cầu Bên nhƣợng quyền phải cung cấp nội dung báo 
cáo tài chính là hợp lý, tuy nhiên, yêu cầu phải có kiểm toán chƣa phù hợp với 
tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay. Tại Hoa Kỳ, chỉ có một số tiểu bang 
mới đòi hỏi báo cáo tài chính của bên nhƣợng quyền phải có kiểm toán xác 
nhận. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là các doanh ngiệp vừa 
và nhỏ, chƣa quen với việc kiểm toán. Do đó, pháp luật chỉ nên yêu cầu cung 
cấp bản sao Báo cáo tài chính, quyết toán thuế đã đƣợc cơ quan thuế kiểm tra, 
xác nhận. 
Mục XI Phần B có tiêu đề “Phần thƣởng, sự công nhận sẽ nhận đƣợc 
hoặc tổ chức cần phải tham gia” hoàn toàn không phù hợp với nội dung thông 
tin thể hiện sự cam kết của Bên nhƣợng quyền về tính chính xác, trung thực 
của Bản giới thiệu nhƣợng quyền thƣơng mại, Do đó, tiêu đề này đề xuất nên 
sửa lại là “Sự cam kết, chế tài và cơ quan tài phán đƣợc lựa chọn để đảm bảo 
thực hiện”. 
Hoạt động nhƣợng quyền còn là một hoạt động thƣơng mại hay xảy ra 
tranh chấp – đặc biệt là tranh chấp về bản quyền, doanh thu. Chúng ta cần xây 
dựng một cơ sở pháp lý chặc chẽ, đảm bảo có thể hạn chế tranh chấp xảy ra, 
có thể gây ra thiệt hại cho bên nhƣợng quyền hoặc bên nhận quyền. Tuy 
nhiên, nhiều khi tranh chấp là điều không tránh khỏi khi một bên cố tình vi 
phạm, lúc đó, việc khiếu kiện là để đảm bảo quyền lợi cho bên kia. Trình tự, 
thủ tục giải quyết kiện ở Việt Nam còn rất phức tạp và tốn thời gian. Cho đến 
nay, tranh chấp về nhƣợng quyền chƣa xảy ra ở Việt Nam nhƣng cùng với sự 
phát triển của hoạt động nhƣợng quyền nói chung và nhƣợng quyền phân phối 
nói riêng, thì tranh chấp là điều khó tránh khỏi. Việc phát triển các công ty tƣ 
 76 
vấn nhƣợng quyền và các luật sƣ chuyên về nhƣợng quyền cũng nhƣ việc 
chuẩn bị một đội ngũ thẩm phán đủ trình độ chuyên môn và đơn giản hóa các 
thủ tục tố tụng là những việc cần thiết cho sự phát triển hoạt động nhƣợng 
quyền thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay. 
Tóm lại, về phía Nhà nước, việc xây dựng một hệ thống pháp luật đầy 
đủ và đồng bộ là việc rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển 
của hoạt động nhượng quyền thương mại nói chung và nhượng quyền phân 
phối nói riêng. Ngoài tính chất đầy đủ và đồng bộ, hệ thống pháp luật liên 
quan đến hoạt động nhượng quyền nên có tính chất khuyến khích mô hình 
kinh doanh hiệu quả này, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực nhượng quyền phân phối sản phẩm. 
1.2 Xây dựng chương trình phát triển 
Nhƣ đã nói ở trên, thấy đƣợc tầm quan trọng và xu thế phát triển của 
nhƣợng quyền thƣơng mại, chính phủ nhiều nƣớc trên thế giới đã có nhiều 
chính sách và chiến lƣợc để khuyến khích mô hình nhƣợng quyền kinh doanh 
nói chung và nhƣợng quyền phân phối sản phẩm nói riêng nhằm thúc đẩy nền 
kinh tế quốc gia. Các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á nhƣ Malaysia, 
Thái Lan, Singapore… cũng xây dựng những chiến lƣợc cụ thể phát triển 
nhƣợng quyền và đã thu đƣợc nhƣng thành công lớn từ những chƣơng trình 
hỗ trợ trên. 
Chính phủ Việt Nam cũng nên xây dựng một chiến lƣợc có tầm nhìn xa 
và một chƣơng trình mang tầm quốc gia cụ thể để khuyến khích sự phát triển 
của hoạt động nhƣợng quyền này. Mục tiêu của chƣơng trình là vừa gia tăng 
phát triển số lƣợng doanh nghiệp mua và bán quyền phân phối sản phẩm, vừa 
thúc đẩy phát triển những sản phẩm nội địa đặc thù thông qua hình thức 
 77 
nhƣợng quyền. Để đạt đƣợc mục tiêu này đòi hỏi sự phối hợp, tham gia tổng 
lực của các bộ, ngành cơ quan nhà nƣớc cũng nhƣ các doanh nghiệp và doanh 
nhân. Chƣơng trình phát triển hoạt động nhƣợng quyền phân phối sản phẩm 
có thể bao gồm một số nội dung cơ bản sau: 
1.2.1 Tuyên truyền và hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao ý thức xây 
dựng và bảo vệ thương hiệu 
Một trong những khó khăn làm hạn chế khả năng áp dụng mô hình kinh 
doanh nhƣợng quyền phân phối sản phẩm đối với các doanh nghiệp Việt Nam 
đó là họ chƣa có ý thức phát triển và bảo vệ thƣơng hiệu của mình. Nguyên 
nhân của vấn đề này nhƣ đã đề cập ở trên là do từ ý thức và khó khăn từ nội 
tại của doanh nghiệp. Tuy nhiên còn nhiều chính sách của nhà nƣớc chƣa 
khuyến khích doanh nghiệp đẩy mạnh việc phát triển thƣơng hiệu thậm chí 
còn trói buộc doanh nghiệp. Chẳng hạn nhƣ quy định khống chế doanh nghiệp 
chỉ đƣợc dành 7%-10% cho quảng cáo, khuyến mãi. Hoặc trong nhiều trƣờng 
hợp doanh nghiệp mất rất nhiều công sức cho biệc đăng ký và phát triển 
thƣơng hiệu nhƣng sau khi có rồi lại không bảo vệ nghiêm túc. Điều này cũng 
mang tới cho doanh nghiệp rủi ro rất cao bởi một thƣơng hiệu khi đã có tên 
tuổi sẽ nhanh chóng bị làm giả hoặc nhái thƣơng hiệu. Chính phủ đã có nghị 
định 12/1999/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ 
nhƣng thực ra vẫn còn rất nhẹ và không có tác dụng răn đe. Do vậy, thời gian 
tới nhà nƣớc cần xây dựng nhiều chƣơng trình tuyên truyền và hỗ trợ các 
doanh nghiệp hơn nữa trong việc xây dựng, phát triển và bảo vệ thƣơng hiệu 
nhƣ: 
Thứ nhất, phát động chƣơng trình xây dựng thƣơng hiệu nhằm thay đổi 
nhận thức của xã hội, của doanh nghiệp về ý nghĩa, vai trò của thƣơng hiệu. 
Có thể bằng cách: xây dựng trang web về thƣơng hiệu; tổ chức các buổi tọa 
 78 
đàm, hội thảo trên truyền hình về thƣơng hiệu, tổ chức cuộc thi sáng tạo về 
thƣơng hiệu 
Thứ hai, hỗ trợ phát triển thƣơng hiệu chẳng hạn nhƣ: tổ chức các khóa 
đào tạo, tƣ vấn về xây dựng, quảng bá và bảo vệ thƣơng hiệu; lựa chọn những 
lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao nhƣ dệt may, giầy da, thủ công, mỹ nghệ, 
nội thất… để hỗ trợ doanh nghiệp lên các phƣơng tiện thông tin đại chúng hay 
tham gia các chƣơng trình xúc tiến thƣơng mại, hội chợ trong nƣớc và quốc 
tế, bên cạnh các chƣơng trình này nhà nƣớc cần thực thi nghiêm minh có các 
biện pháp xử lý thích đáng nạng hàng lậu, hàng giả, hàng nhái… 
Thứ ba, để tăng cƣờng nhận thức và phổ biến kiến thức về nhƣợng 
quyền phân phối cho các doanh nghiệp thì cách tốt nhất và nhanh nhất hiện 
nay là các cơ quan chức năng của nhà nƣớc phối hợp với các tổ chức, công ty 
tƣ vấn quốc tế tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn miễn phí hay các cuộc hội 
thảo, nói chuyện chuyên đề về nội dung cũng nhƣ các kỹ thuật hoặc kinh 
nghiệm để triển khai hình thức kinh doanh này. Chẳng hạn nhƣ cuộc hội thảo 
vào tháng 6 năm 2006 về “Nhƣợng quyền thƣơng mại Việt Nam” đã phần nào 
tuyên truyền đến các doanh nhân Việt Nam nhƣng mới chỉ dừng lại ở mức 
giới thiệu chƣa đi sâu vào nội dung và cách thức triển khai. 
Do vậy ngoài việc phổ biến thông qua huấn luyện, hội thảo, hội nghị, 
kiến thức về nhƣợng quyền phân phối sản phẩm cũng nên chính thức đƣa vào 
nội dung chƣơng trình giảng dạy về kinh tế, quản trị kinh doanh trong các 
chƣơng trình đào tạo khối kinh tế. Tại Australia từ năm 1999, chính phủ nƣớc 
này đã tổ chức các chƣơng trình giáo dục chính quy về nhƣợng quyền đƣợc 
thiết kế đặc biệt cho các chủ thƣơng hiệu, các nhà quản lý trung và cao cấp, 
nhân viên làm việc trong các hệ thống nhƣợng quyền của nƣớc Australia. 
Tƣơng tự nhƣ vậy tại Mỹ và rất nhiều quốc gia khác, nhƣợng quyền đã thật sự 
 79 
trở thành một môn học chính quy nhƣ bất kỳ một môn học bình thƣờng nào 
nằm trong chƣơng trình đào tạo hệ đại học. Hiệp hội Franchise quốc tế còn có 
hẳn một chƣơng trình đào tạo cao học về quản trị Franchise phối hợp tổ chức 
tại trƣờng Đại học Nova Southern University của Mỹ. Bằng các đó nhà nƣớc 
sẽ đào tạo đƣợc một nguồn nhân lực chuyên nghiệp, có kiểu biết sâu sắc về 
nhƣợng quyền phân phối nói riêng và nhƣợng quyền thƣơng mại nói chung để 
phục vụ cho các doanh nghiệp kinh doanh mô hình này. 
1.2.2 Đưa ra các chính sách, định hướng khuyến khích doanh nghiệp 
kinh doanh nhượng quyền phân phối sản phẩm 
Để có thể đƣa ra một định hƣớng phát triển nhƣợng quyền phân phối 
hiệu quả thì các cơ quan chức năng cần nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm 
phát triển nhƣợng quyền thƣơng mại của các nƣớc trong khu vực và trên thế 
giới nhƣ chƣơng trình “Khuyến khích và quảng bá kinh doanh nhƣợng quyền” 
của Thái Lan… 
Theo quy định của Luật Thƣơng mại, bất cứ doanh nghiệp nào kinh 
doanh nhƣợng quyền thì phải đăng ký với Bộ Thƣơng mại hoặc Sở thƣơng 
mại vừa để quản lý vừa hỗ trợ các doanh nghiệp nhƣợng quyền. Các cơ quan 
chuyên trách này sẽ có những cán bộ, chuyên viên đƣợc đào tạo sâu về kỹ 
thuật triển khai Franchise, kiến thức quản lý về hợp đồng Franchise hoặc nắm 
rõ những ràng buộc pháp lý điều chỉnh mối quan hệ của các bên… để có thể 
tƣ vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp khi cần thiết. 
Cuối cùng, nhà nƣớc có thể có những chính sách cụ thể hơn để khuyến 
khích các doanh nghiệp tham gia nhƣợng quyền và nhận quyền nhƣ các chính 
sách ƣu đãi về thủ tục hành chính, về thuế, về ngân hàng… hay các dịch vụ 
 80 
khác liên quan đến kinh doanh nhƣợng quyền thƣơng mại nói chung và 
nhƣợng quyền phân phối sản phẩm nói riêng. 
2. Về phía Doanh nghiệp 
2.1. Đối với doanh nghiệp nhượng quyền phân phối sản phẩm 
2.1.1. Có chiến lược xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu 
Nhƣ đã đề cập trong phần những thách thức trong việc phát triển mô 
hình nhƣợng quyền phân phối tại Việt Nam, một trong những hạn chế lớn 
nhất là khả năng xây dựng và phát triển thƣơng hiệu của các doanh nghiệp 
Việt Nam còn tồn tại nhiều yếu kém. Do vậy điều quan trọng đầu tiên các 
doanh nghiệp muốn nhƣợng quyền cần phải làm nếu muốn bán quyền phân 
phối là xây dựng một thƣơng hiệu có tên tuổi và chỗ đứng trên thị trƣờng. Để 
xây dựng một thƣơng hiệu vững mạnh thì trƣớc hết bản thân doanh nghiệp 
phải có nhận thức đúng đắn về giá trị của nó đối với sự phát triển của công ty. 
Khi đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của thƣơng hiệu, doanh 
nghiệp cần phải xây dựng một chiến lƣợc phát triển thƣơng hiệu cụ thể và bền 
bỉ. Đồng thời, doanh nghiệp cũng cần đầu tƣ một cách nghiêm túc cho chiến 
lƣợc này từ nhân lực, tài chính đến quản lý. Doanh nghiệp cũng có thể thành 
lập hẳn một bộ phận hoặc phòng ban chuyên trách về phát triển thƣơng hiệu. 
Hoặc trong trƣờng hợp cần thiết có thể thuê chuyên gia tƣ vấn về thƣơng hiệu. 
Để xây dựng một thƣơng hiệu có uy tín và chỗ đứng lâu dài trên thị 
trƣờng đòi hỏi phải là chiến lƣợc dài hạn và liên tục củng cố hình ảnh của 
thƣơng hiệu đối với khách hàng. Củng cố hình ảnh của thƣơng hiệu có thể 
bằng cách lựa chọn những phƣơng thức tiếp thị và quảng cáo phù hợp nhƣng 
quan trọng hơn nữa là doanh nghiệp phải nâng cao chất lƣợng hàng hóa, dịch 
vụ, nghiên cứu hạ giá thành… 
 81 
Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng và phát triển thƣơng hiệu thì bảo vệ 
thƣơng hiệu cũng là một công việc mà doanh nghiệp phải lƣu tâm, đặc biệt là 
bảo vệ thƣơng hiệu ở thị trƣờng nƣớc ngoài. Ở trong nƣớc thì doanh nghiệp 
Việt Nam có thể đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ. Còn ở các thị trƣờng nƣớc 
ngoài, do đa số các doanh nghiệp Việt Nam bị hạn chế về tài chính không thể 
đăng ký ở hầu hết các nƣớc thì có thể thực hiện chiến lƣợc là đăng ký dần các 
nƣớc láng giềng. Đây là điều bắt buộc đối với các doanh nghiệp có kế hoạch 
mở rộng nhƣợng quyền ra nƣớc ngoài, không nên chờ đến khi sản phẩm có 
tên tuổi rồi mới lo đăng ký. Thực tế rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam mất 
thƣơng hiệu ở nƣớc ngoài đã cho thấy những bài học đắt giá. 
2.1.2. Lựa chọn đối tác thích hợp để nhượng quyền 
Việc lựa chọn đối tác để bán quyền phân phối là một bƣớc vô cùng 
quan trọng trong quá trình triển khai nhƣợng quyền. Lựa chọn sai đối tác rất 
dễ dẫn đến tranh chấp và khiếu kiện sau này, thâm chí gây ảnh hƣởng xấu 
hoặc đổ bể thƣơng hiệu. Doanh nghiệp có thể dựa vào một số tiêu chí chính 
để lựa chọn đối tác. 
Thứ nhất, đối tác phải hiểu biết sâu sắc về thƣơng hiệu nhƣ định vị thị 
trƣờng, ý nghĩa biểu trƣng, hình ảnh xây dựng trong tâm chí ngƣời tiêu 
dùng…Đây là một đặc điểm đặc biệt quan trọng vì chỉ khi có đƣợc tiêu chí 
này thì những hoạt động và chiến lƣợc phân phối, kinh doanh sản phẩm của 
đối tác mới phục vụ cho không chỉ mục tiêu đạt doanh số cao mà còn phối 
hợp để tiếp tục xây dựng và khẳng định thƣơng hiệu. Bên cạnh đó, đối tác 
cũng cần có kiến thức về nhƣợng quyền phân phối và ít nhiều kinh nghiệm 
trong lĩnh vực nhƣợng quyền. Điều này sẽ giúp bên nhƣợng quyền có thể tin 
tƣởng, an tâm hơn về đối tác và giúp cho vấn đề hợp tác đƣợc diễn ra một 
cách tốt đẹp. 
 82 
Một điều cũng hết sức cần thiết để có thể hợp tác thành công giữa hai 
bên là đối tác nhận quyền phải am hiểu thị trƣờng địa phƣơng bao gồm: Tập 
quán văn hóa, thói quen tiêu dùng, ngân hàng, luật pháp, bất động sản… Điều 
này đặc biệt quan trọng trong trƣờng hợp bán quyền phân phối độc quyền. 
Bởi vì khi bán Franchise độc quyền doanh nghiệp sẽ không có quyền khai 
thác khu vực đó nữa. Trong trƣờng hợp này doanh nghiệp có thể yêu cầu bên 
mua Franchise ký hợp đồng hợp tác thử nghiệm từ 1-2 năm trƣớc khi chính 
thức cấp quyền đại lý độc quyền. Ngoài ra, khả năng tài chính cũng đóng vai 
trò quan trong vì nếu không thì khó có thể phát triển tối đa hệ thống 
Franchise. 
2.1.3. Xây dựng chương trình quảng cáo để bán quyền phân phối rộng 
rãi và tìm kiếm đối tác mua quyền phân phối sản phẩm 
Trên thực tế, khi một thƣơng hiệu sản phẩm của doanh nghiệp có chỗ 
đứng trên thị trƣờng thì tự động sẽ có các đối tác chủ động đến tìm hiểu mua 
Franchise. Tuy nhiên, để có thể nhƣợng quyền rộng rãi doanh nghiệp cần phải 
xây dựng các chƣơng trình quảng cáo, tiếp thị để cung cấp các thông tin cần 
thiết đến các khách hàng mua franchise tiềm năng. Đặc biệt, đối với những 
thƣơng hiệu mới đƣợc khẳng định trên thị trƣờng thì vấn đề vai trò của chiến 
lƣợc quảng cáo cũng nhƣ nhân viên kinh doanh trong việc chào bán quyền 
phân phối sản phẩm càng quan trọng. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì 
có thể xây dựng các chƣơng trình quảng cáo phù hợp trên báo chí, truyền 
hình, Internet hay đăng ký bán Franchise qua các công ty tƣ vấn về Franchise, 
hoặc thông qua các buổi tiếp xúc với khách hàng, tại các cuộc hội thảo hay 
đặc biệt hội chợ về nhƣợng quyền thƣơng mại trong và ngoài nƣớc. 
2.2. Đối với doanh nghiệp nhận quyền phân phối sản phẩm 
 83 
2.2.1. Cân nhắc kỹ trước khi mua Franchise 
 Trƣớc khi quyết định mua quyền phân phối, ngƣời mua nên cân nhắc 
kỹ để có những quyết định đúng đắn có nên lựa chọn loại hình kinh doanh 
Franchise để đầu tƣ hay không và liệu họ có phù hợp với cách thức kinh 
doanh nhƣợng quyền không. Một doanh nhân giàu có, tích lũy nhiều kỹ năng 
quản trị nhƣng không thực sự tâm huyết với sản phẩm nhƣợng quyền hay 
hình ảnh thƣơng hiệu thì chƣa chắc đã phù hợp với một mô hình nhƣợng 
quyền phân phối sản phẩm cụ thể. Mary E.Tomzack, một nhà nghiên cứu về 
vấn đề này, sau hàng loạt cuộc phỏng vấn với các chủ thƣơng hiệu, đã phác 
họa chân dung một ngƣời mua Franchise nói chung nhƣ sau : tự tin và nhiệt 
tình đối với sản phẩm cung cấp cho khách hàng, không chỉ thuần túy nhắm tới 
lợi nhuận ; chƣa có kỹ năng doanh nghiệp và cần tới sự giúp đỡ của chủ 
thƣơng hiệu ; có khả năng học hỏi nhanh và đồng thời có khả năng động viên, 
huấn luyện ngƣời khác ; có ít nhất 5 năm kinh nghiệm quản lý hoặc dạy học ; 
có kinh nghiệm và kiến thức trong lĩnh vực muốn mua franchise. 
2.2.2. Tìm hiểu kỹ về phương thức kinh doanh nhượng quyền khi mua 
Franchise 
Do hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại còn khá mới mẻ ở thị trƣờng 
Việt Nam, chƣa có nhiều kinh nghiệm và bài học thực tiễn để các doanh 
nghiệp tìm hiểu. Do vậy trƣớc khi mua quyền phân phối sản phẩm, doanh 
nghiệp phải tự trang bị cho mình những kiến thức về hoạt động nhƣợng 
quyền, tìm hiểu pháp luật về nhƣợng quyền đặc biệt trong trƣờng hợp mua 
Franchise của các đối tác nƣớc ngoài. Doanh nghiệp có thể tìm hiểu các kiến 
thức về Franchise thông qua các tài liệu trên trang web quốc tế về nhƣợng 
quyền hay tham gia các khóa đào tạo trong nƣớc và quốc tế hoặc cũng có thể 
 84 
tìm kiếm sự tƣ vấn của các công ty chuyên về nhƣợng quyền hay các công ty 
tƣ vấn về thƣơng hiệu trong nƣớc và quốc tế. 
Ngoài ra, do mỗi phƣơng thức nhƣợng quyền phân phối đều có ƣu 
nhƣợc điểm riêng nên việc trang bị cho mình những kiến thức và hiểu biết về 
đặc điểm của các phƣơng thức nhƣợng quyền phân phối nhƣ nhận quyền phân 
phối độc quyền hay quyền phân phối đơn lẻ, phát triển vùng hay liên doanh sẽ 
giúp doanh nghiệp lựa chọn đƣợc hình thức nhận quyền phù hợp nhất và kinh 
doanh mô hình này hiệu quả. 
2.2.3. Tuân thủ các cam kết kinh doanh với bên nhượng quyền đồng 
thời biết tự bảo vệ lợi ích cho doanh nghiệp mình 
Muốn triển khai thành công mô hình nhƣợng quyền, các doanh nghiệp 
Việt Nam cần tuân thủ các cam kết đã thỏa thuận trong hợp đồng và những 
mục tiêu đã thống nhất với bên nhƣợng quyền. Bên cạnh đó, những chính 
sách hay bất kỳ một kế hoạch, yêu cầu nào mà bên nhƣợng quyền đƣa ra 
thƣờng với mục đích mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp nhận quyền, giúp 
doanh nghiệp nhận quyền khai thác tối đa mọi tiềm lực của mình. 
Tuy nhiên, không phải lúc nào những yêu cầu mà nhà nhƣợng quyền 
đƣa ra đều có thể đảm bảo rằng mang lại lợi ích tuyệt đối cho bên nhận 
quyền. Do vậy doanh nghiệp cần phải biết dung hòa những điểm khác biệt với 
nhà nhƣợng quyền đồng thời tự bảo vệ lấy lợi ích của doanh nghiệp mình. Vì 
ngoài ra điều đó còn đảm bảo về khả năng hợp tác lâu dài giữa hai bên. 
 85 
KẾT LUẬN 
Nhƣợng quyền phân phối sản phẩm là hình thức nhƣợng quyền phát 
triển đầu tiên trên thế giới, đóng vai trò ngày càng lớn trong ngành kinh 
doanh bán lẻ. Tại các thị trƣờng phát triển nhƣ Mỹ và châu Âu, nhƣợng quyền 
phân phối sản phẩm chiếm một tỷ trọng cao trong doanh thu của ngành phân 
phối trong khi tại thị trƣờng các nƣớc châu Á, mô hình này ngày càng phát 
triển mạnh mẽ, với tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới hiện nay. Nhận thức 
đƣợc sự hiệu quả và nhiều ƣu thế vƣợt trội của mô hình kinh doanh này, chính 
phủ các nƣớc trên thế giới đã và đang nỗ lực để đƣa ra những chính sách, 
chƣơng trình hỗ trợ hiệu quả cho mô hình này phát triển. 
Tại Việt Nam, mô hình kinh doanh này đƣợc phôi thai từ những năm 
90, nhƣng đến nay vẫn đang phát triển trong giai đoạn đầu nên còn chứa đựng 
nhiều tiềm năng đầy hứa hẹn. Với xu thế toàn cầu hóa, đồng thời đặc thù thị 
trƣờng cũng nhƣ các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều điểm phù hợp với hình 
thức kinh doanh độc đáo này, nhƣợng quyền phân phối sản phẩm đƣợc nhận 
định sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò ngày càng cao trong việc 
đƣa các thƣơng hiệu nƣớc ngoài đến Việt Nam cũng nhƣ đƣa những sản phẩm 
chất lƣợng cao ở Việt Nam ra trƣờng quốc tế. 
Để có thể thúc đẩy hình thức kinh doanh này, chính phủ cần cải thiện 
hệ thống pháp luật liên quan đến nhƣợng quyền thƣơng mại nói chung và 
nhƣợng quyền phân phối sản phẩm nói riêng nhằm tạo một hành lang pháp lý 
minh bạch và mang tính khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hình thức 
kinh doanh này. Đồng thời, một chƣơng trình mang tính chiến lƣợc lâu dài 
nhằm thúc đẩy nhƣợng quyền phân phối sản phẩm cũng cần đƣợc định hƣớng 
rõ ràng nhằm áp dụng thành công mô hình này trong chiến lƣợc phát triển 
chung của nền kinh tế nƣớc nhà. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam 
 86 
cần tìm hiểu sâu hơn hình thức nhƣợng quyền này đi cùng với những hiểu biết 
về pháp luật, những lợi ích và rủi ro mà mô hình kinh doanh này mang lại và 
đặc biệt là chú trọng và đẩy mạnh hơn việc xây dựng và phát triển thƣơng 
hiệu. Tóm lại, việc xây dựng một chiến lƣợc phát triển dài hạn với sự tham 
gia, nỗ lực đồng bộ của các cấp ban ngành và các doanh nghiệp là điều kiện 
tiên quyết để phát triển mô hình nhƣợng quyền phân phối sản phẩm tại Việt 
Nam. 
 Hy vọng rằng khoá luận này cùng với kinh nghiệm và đề xuất đã nêu 
sẽ giúp cho các doanh nghiệp có cái nhìn tổng quát về mô hình nhƣợng quyền 
phân phối và áp dụng hiệu quả mô hình này cho hoạt động kinh doanh; xây 
dựng, phát triển và bảo vệ thƣơng hiệu của mình trong xu thế hội nhập và 
toàn cầu hoá hiện nay. 
 87 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 Tài liệu tiếng Việt 
1. Albert kong (2005), phát triển nhƣợng quyền, tài liệu hội thảo tại hội thảo 
Franchising Vietnam 2005, Thành phố Hồ Chí Minh 
[2] Bích Nga, Thời cơ đến phải nắm bắt thật nhanh, báo Sài Gòn Tiếp Thị. 
[3] Đặng Nguyễn, Nhu cầu và thói quen tiêu dùng giai đoạn 2006-2010?, truy 
cập ngày 6-4-2010, trang web 
thoi-quen-tieu-dung-giai-doan-20062010.htm 
4. Ths. Lê Thị Thu Hà, Tạp chí Kinh Tế Đối Ngoại năm 2006, số 17 
5. Lý Quý Trung (2005), Mua Franchise cơ hội mới cho các doanh nghiệp 
Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 
[6] Lý, Quý Trung (2006), “Bí quyết thành công bằng mô hình nhƣợng quyền 
kinh doanh”, nhà xuất bản Trẻ, tr.27 
[7] Lý, Quý Trung(2006), Bí quyết thành công bằng mô hình nhƣợng quyền 
kinh doanh, Nhà xuất bản Trẻ, tr.30 
[8] Minh Tuấn, Châu Á sẽ đứng đầu thế giới sau 4 năm nữa?, truy cập ngày 
20-3-2010, trang web 
dung-dau-the-gioi-sau-4-nam-nua.chn 
 [9] Nguyễn, Hƣơng; Tiêu Phong, Hồ Thế Sơn - Thành công nhờ một quyết 
tâm và một chữ tâm, truy cập ngày 5-4-2010, trang web 
 88 
10. Bộ Thƣơng mại (2006), Thông tƣ số 09/2006/TT-BTM hƣớng dẫn đăng 
ký hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại 
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật 
Thƣơng Mại về hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại 
12. Chính phủ(1996), Nghị định số 63/1996/NĐ-CP quy định chi tiết về sở 
hữu công nghiệp 
13. Chính phủ (2005), Nghị định số 11/2005/NĐ-CP quy định chi tiết về 
chuyển giao công nghệ 
 [14] Thời báo kinh tế Sài Gòn, Kinh doanh nhƣợng quyền sẽ tăng 35%, truy 
cập này 5-4-2010, trang web  
[15] LantaBrand.com, Doanh nghiệp trong nƣớc lên tiếng, truy cập ngày 6-4-
2010, trang web  
[16] Vietbao.vn, Nhƣợng quyền thƣơng mại để giữ thị phần bán lẻ nội địa ?, 
truy cập ngày 15-4-2010, trang web 
thuong-mai-de-giu-thi-phan-ban-le-noi-dia/65056466/87/ 
[17] Tiền Phong, Thói quen tiêu dùng của ngƣời Việt thay đổi mạnh, truy cập 
ngày 20-4-2010, trang web 
dung-cua-nguoi-viet-thay-doi-manh 
 Tài liệu tiếng Anh 
18. Andrew j. Sherman (1991), Franchising & Licensing Two Ways to Build 
Your Business, Amacom, the United States. 
[19] Law Office of Bambi Faivre Walters, PC, Franchise, truy cập ngày 14-3-
2010, trang web  
 89 
[20] Leo-Paul, Dana; Brenda, M. Oldfield, Lublin Coca-Cola Bottlers Ltd, 
International Marketing Review, tr. 293 
22. Richiard Christou (1990), International Agency, Distribution & Licensing 
Agreement, Longman, London. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 5265_1273.pdf 5265_1273.pdf