Cổ phiếu ƣu đãi không tích luỹ: khác với cổ phiếu ƣu đãi tích luỹ ở chỗ
lãi cổ phần thiếu sẽ đƣợc bỏ qua và chi trả đủ cổ tức khi công ty làm ăn có lãi.
- Cổ phiếu ƣu đãi có chia phần: cổ đông của loại cổ phiếu này ngoà i
phần cổ tức đƣợc chia cố định, khi công ty làm ăn có lãi nhiều, sẽ đƣợc hƣởng
thêm một phần lợi tức phụ trội theo tỷ lệ quy định.
- Cổ phiếu ƣu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thƣờng: loại cổ phiế u
này theo quy định có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thƣờng theo một tỷ lệ đã
ấn định trƣớc.
- Cổ phiếu ƣu đãi có thể chuộc lại: một số công ty trong tình trạng khẩn
cấp cần một số vốn lớn trong một thời gian ngắn nên phát hành loại cổ phiếu
ƣu đãi với mức lãi suất cao để thu hút nhà đầu tƣ. Nhƣng loại cổ phiếu ƣu đã i
này theo quy định có thể đƣợc chuộc lại bởi công ty sau một thời gian ấn
định, khi tình hình tài chính công ty đã khá hơn. Khi chuộc lại công ty sẽ phải
tả một khoản tiền thƣởng nhất định theo một tỷ lệ trên mệnh giá cổ phiếu cho
chủ sở hữu.
100 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2019 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần trung quốc và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và mở rộng việc tham gia của các ngân
hàng nƣớc ngoài, tập đoàn tài chính quốc tế, các tập đoàn lớn trong nƣớc, mua
cổ phần, trở thành cổ đông chiến lƣợc của các ngân hàng thƣơng mại cổ phần
của Việt Nam là hết sức cần thiết, để thúc đẩy cải cách hơn nữa và minh bạch
thực sự các hoạt động quản lý, hoạt động kinh doanh của khối ngân hàng
thƣơng mại này.
68
2. THỰC TRẠNG THAM GIA NIÊM YẾT CỦA NHTMCP VIỆT NAM
Mặc dù việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng lên sàn giao dịch
mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho các ngân hàng, tuy nhiên do thị trƣờng
chứng khoán Việt Nam còn non trẻ cùng với những hạn chế về mặt nhận thức
của các nhà đầu tƣ đã gây ra tâm lý lo ngại cho các nhà quản trị ngân hàng khi
quyết định tiến hành niêm yết. Hiện nay trên thị trƣờng chứng khoán tập trung
tại trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh chỉ có duy nhất cổ phiếu
của ngân hàng Sài Gòn Thƣơng tín đƣợc niêm yết và giao dịch. Bên cạnh đó
ngân hàng thƣơng mại cổ phân Á Châu ACB cũng đang sắp sửa tiến hành
niêm yết cổ phiếu lên trung tâm giao dịch chứng khoán HCM. Đây có thể nói
là tín hiệu tốt cho các nhà đầu tƣ và cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của hệ
thống các NHTMCP.
Đối với trƣờng hợp của ngân hàng TMCP Sài Gòn Thƣơng Tín,
SACOMBANK đƣợc đánh giá là một trong những ngân hàng ngoài quốc
doanh hàng đầu Việt Nam, là ngân hàng đi tiên phong trong việc đƣa cổ phiếu
ngân hàng lên sàn giao dịch chính thức. Mặc dầu kết quả ban đầu đã không
đƣợc nhƣ dự kiến khi cổ phiếu của SACOM BANK liên tục giảm giá trong
thời gian đầu nhƣng sau gần một năm tiến hành niêm yết, SACOM BANK
vẫn thu đƣợc những thành công to lớn
Một số thành công có thể kể đến nhƣ :
• Năng lực tài chính của Ngân hàng đƣợc tăng cƣờng với mức vốn tự có
đạt trên 1.700 tỷ đồng, tăng 11 lần so với năm 2000.
• Mạng lƣới hoạt động với trên 100 điểm giao dịch, hiện diện 31/64 tỉnh,
thành cả nƣớc.
• Lợi nhuận tăng trƣởng đều qua các năm với tỷ lệ bình quân 67% / năm
cho cả thời kỳ 2001-2005, mức lợi nhuận 2005 tăng gần 12 lần so năm 2000.
• Thị giá cổ phiếu hiện đƣợc thị trƣờng chấp nhận cao hơn 5 lần so với
mệnh giá.
69
• Thƣơng hiệu Sacombank ngày càng trở nên quen thuộc và chiếm đƣợc
lòng tin nơi đông đảo khách hàng, của các nhà đầu tƣ, các định chế tài chính
trong và ngoài nƣớc.
Với định hƣớng đến năm 2010, Sacombank sẽ trở thành một ngân hàng
bán lẻ - đa năng – hiện đại và tốt nhất Việt Nam. Chặng đƣờng phía trƣớc còn
rất nhiều khó khăn và thách thức. Mặc dù vậy, Sacombank luôn xác định giá
trị cốt lõi trong định hƣớng hoạt động của mình gồm :
• Đặt khách hàng là hạt nhân hƣớng mới của mọi hoạt động kinh doanh
và quản lý.
• Xem đội ngũ nhân viên là tài sản quý giá, tạo ra thành công cho Ngân
hàng.
• Hƣớng đến mục tiêu tối đa hoá giá trị cho cổ đông Ngân hàng.
• Luôn luôn tìm tòi, sáng tạo, chấp nhận thách thức, không ngừng đổi
mới để Ngân hàng đạt đến sự hoàn thiện và phát triển bền vững.
Hiện tại SACOM BANK đã định phát hành thêm 18.994.729 cổ phiếu
STB ra công chúng theo phƣơng thức phát hành CP thƣởng cho cổ đông với
tỷ lệ 10:1. Ngày 21/9/2006, Sacombank đã công bố Nghị Quyết của Đại hội
cổ đông, quyết định hoãn kế hoạch phát hành hơn 30 triệu CP STB ra công
chúng thông qua đấu giá, nhƣng vẫn đề nghị Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà
Nƣớc cho phép phát hành một phần hoặc toàn bộ số CP này để tăng vốn điều
lệ vào một thời điểm thích hợp. Sacombank niêm yết ngày 12/7/2006 tại giá
là 78.000 đồng cùng với việc thị trƣờng xuống dốc trong thời gian này, thông
tin phát hành CP của Sacombank đã khiến CP STB giảm giá liên tiếp và
xuống mức thấp nhất 58.500 VNĐ vào ngày 2/8/2006.
Tuy nhiên, sau thời kỳ trên, giá STB phục hồi trở lại và lên tới 73.000
VNĐ. Vào ngày 5/10, thị trƣờng đã có sự điều chỉnh, khiến VN-Index giảm
mạnh (giảm 7,18 đểm), tuy nhiên STB chỉ giảm 500 đồng, tƣơng đƣơng
0,69% trong khi các loại CP khác giảm đồng loạt, với mức cao nhƣ CP SJS
70
giảm 11.000 đồng xuống còn 244.000 đồng; REE, BMP, KDC, AGF, CII,
GIL, GMD, TMS, BT6, TYA giảm 1.500 – 3.000 đồng
Chậm nhất là cuối năm nay, cổ phiếu của ACB sẽ chính thức đƣợc niêm
yết trên thị trƣờng chứng khoán. Mệnh giá cổ phiếu ACB khi niêm yết sẽ là
10.000 đồng/cổ phiếu, song giá giao dịch chính thức là 1 triệu đồng. Tổng số
chứng khoán đăng ký niêm yết sẽ tƣơng đƣơng với 100% vốn điều lệ của
ACB, tức vào khoảng 1.100 tỷ đồng, cộng với 1.650 tỷ đồng trái phiếu
chuyển đổi.
Saigonbank cũng cho biết, kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên thị trƣờng
chứng khoán, Saigonbank đã thỏa thuận các điều khoản hợp đồng với Công ty
chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thƣơng (VCBS) để tƣ vấn niêm yết cổ phiếu
của Saigonbank sau khi xem xét đáp ứng đủ các điều kiện niêm yết theo quy
định của Uỷ ban chứng khoán nhà nƣớc.
Nhƣ vậy, sau Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần Sài Gòn Thƣơng Tín
(Sacombank) và Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần á Châu (ACB), Saigonbank
là ngân hàng thứ 3 tiến hành các thủ tục niêm yết cổ phiếu trên thị trƣờng
chứng khoán Việt Nam.
3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI GIÁ CỔ PHIẾU CỦA CÁC
NHTMCP VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
Thời gian qua, cổ phiếu của các Ngân hàng thƣơng mại chƣa lên sàn
giao dịch chứng khoán nhƣng đã nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của các nhà
đầu tƣ. Các nhà đầu tƣ kỳ vọng lớn vào kết quả hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng thƣơng mại và thƣờng xuyên tìm mua loại cổ phiếu này. Vì vậy, đã
có các đợt “sốt” giá đột biết đối với cổ phiếu của các Ngân hàng thƣơng mại
trên thị trƣờng không chính thức (OTC). Tuy nhiên, hơn một tháng nay cho
dù có những thông tin rất khả quan về kết quả kinh doanh trong 6 tháng đầu
năm 2006 của các Ngân hàng thƣơng mại nhƣng giá cổ phiếu của các Ngân
hàng thƣơng mại đã có sự chững lại. Nếu tính riêng tuần đầu tiên của tháng
71
7/2006 giá cổ phiếu Ngân hàng thƣơng mại đã giảm 5% ngay cả đối với các
thƣơng hiệu lớn. Tìm hiểu về cổ phiếu NHTMCP, có thể đƣa ra một số nhân
tố tác động, ảnh hƣởng tới giá cổ phiếu này nhƣ sau:
Một là, mối quan hệ giữa giá cổ phiếu của các ngân hàng thƣơng mại
với thị trƣờng chứng khoán chính thức (OMO). Nhân tố này có tác động rất
lớn tới giá cổ phiếu của các Ngân hàng thƣơng mại. Khi chỉ số các loại chứng
khoán tăng điểm trên thị trƣờng chính thức sẽ tác động đến sự tăng giá của
các cổ phiếu cả trên thị trƣờng OTC. Tuy nhiên, thời gian qua, cổ phiếu của
các doanh nghiệp trên cả thị trƣờng chính thức và không chính thức đều
chững lại, thậm chí nhiều loại cổ phiếm giảm giá. Đã có dấu hiệu các nhà đầu
tƣ bán cổ phiếu của các doanh nghiệp để mua cổ phiếu của các ngân hàng
thƣơng mại với kỳ vọng giá cổ phiếu ngân hàng thƣơng mại sẽ tăng trong
tƣơng lai, điều đó làm cho giá cổ phiếu của các NHTM chƣa chính thức lên
san giao dịch đã tăng vọt ở thị trƣờng OTC (đây là nguyên nhân chính ).
Hai là, dù chƣa niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán nhƣng với tính
minh bạch rất cao trong hoạt động của các Ngân hàng thƣơng mại, kết hợp
với mức cổ tức hàng năm khá cao của các ngân hàng thƣơng mại (năm 2005
là 20-25%/năm) nên cổ phiếu ngân hàng có một sức hấp dẫn rất lớn đối với
các nhà đầu tƣ. Cộng với kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2006 của hầu
hết các NHTM đều ở mức cao, lợi nhuận trƣớc thuế đều vƣợt kế hoạch từ
20% - 30%. Cũng trong thời điểm này, hầu hết các NHTM đều đƣợc phép
tăng vốn điều lệ để mở rộng quy mô hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh. Với
kỳ vọng tốt đẹp và hiệu quả kinh doanh của các NHTM, nhiều nhà đầu tƣ đã
đổ xô tìm mua cổ phiếu của các Ngân hàng thƣơng mại nên giá cổ phiếu đƣợc
đẩy lên cao một cách không bình thƣờng.
Ba là, trong một thời gian dài thị trƣờng chứng khoán có sự giảm giá
mạnh, phần nào đã làm nản lòng các nhà đầu tƣ. Trong khi các ngân hàng
thƣơng mại là doanh nghiệp đặc biệt, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
72
tiền tệ ngân hàng có nhiều tiềm năng: lợi nhuận cao hàng năm, tăng vốn, tăng
quy mô hoạt động để đảm bảo an toàn họat động của ngân hàng và phát triển
mạng lƣới theo quy định của Ngân hàng Nhà nƣớc. Một số NHTMCP mặc dù
có thời gian gặp khó khăn, nhƣng với sự cố gắng của bản thân, sự trợ giúp của
Ngân hàng Nhà nƣớc và Chính phủ đã vƣợt qua cơn nguy khốn để làm ăn có
lãi. Điều đó làm cho các nhà đầu tƣ tin tƣởng vào chính sách của Việt nam
không làm cho các NHTM đổ vỡ ngoài sự kiểm soát. Đã có hiện tƣợng các
nhà đầu tƣ bán chứng khoán của các doanh nghiệp để mua chứng khoán của
các NHTM.
Bốn là, khi các ngân hàng thƣơng mại tăng vốn, mở rộng quy mô hoạt
động kinh doanh, các cổ đông hiện hữu thƣờng đƣợc quyền mua thêm cổ
phần với giá ƣu đãi. Việc tăng quy mô hoạt động trong điều kiện không (hoặc
rất ít) việc thành lập thêm NH mới là điều kiện tốt cho các NHTM tăng lợi
nhuận, đồng nghĩa với việc tăng phần chia cổ tức cho các cổ đông. Nhƣ vậy,
quyền lợi của cổ đông đƣợc đảm bảo ở mức độ cao. Đây cũng chính là nhân
tố khiến cho giá cổ phiếu của các ngân hàng thƣờng tăng.
Năm là, việc thành lập doanh nghiệp mới hoạt động trong các lĩnh vực sản
xuất kinh doanh khác là tƣơng đối dễ dàng. Do đó, trong một lĩnh vực, trên thị
trƣờng có nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động và cạnh tranh khốc liệt với nhau.
Doanh nghiệp nào không tồn tại đƣợc trong môi trƣờng cạnh tranh đó có thể bị
thua lỗ, phá sản và sẽ ảnh hƣởng tới quyền lợi của nhà đầu tƣ đang nắm giữ cổ
phiếu của doanh nghiệp đó. Trong khi đó, do đặc thù trong hoạt động Ngân
hàng, việc thành lập Ngân hàng thƣơng mại mới phải tuân thủ theo các điều kiện
khá chặt chẽ do Ngân hàng Nhà nƣớc ban hành. Vì vậy, việc thành lập Ngân
hàng thƣơng mại mới tại thời điểm này là hầu nhƣ không, ngoại trừ các NHTM
mở thêm chi nhánh. Trong một chừng mực nào đó, các NHTM chƣa thật sự chịu
áp lực canh tranh lớn nhƣ các ngành nghề khác, vì vậy mà nhà đầu tƣ lại càng
73
mặn mà hơn với cổ phiếu của các ngân hàng thƣơng mại mặc dù ở mức giá khá
cao.
Tuy nhiên, khi giá đã lên ở mức khá cao, cổ tức kỳ vọng khó có thể bù đắp
chênh lệch giá. Mặt khác, tiến trình gia nhập WTO đang đến rất gần, các NH
nƣớc ngoài đƣợc phép mở chi nhánh (kể cả NH 100% vốn nƣớc ngoài) tại Việt
nam; lúc đó lợi thế canh tranh của các NHTM Việt nam sẽ bị giảm đáng kể. Vì
vậy, nhiều nhà đầu tƣ chỉ cầm giữ cổ phiếu của các NHTM thời gian rất ngắn,
khi giá lên chút ít là họ đã bán để ăn chênh lệch. Hiện tƣợng đó đã làm giá cổ
phiếu của các NHTM giảm khoảng 5% trong nửa đầu tháng 7/2006 vừa qua.
4. ĐÁNH GIÁ VỀ KHẢ NĂNG THAM GIA NIÊM YẾT CỦA CÁC NHTMCP
TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
4.1. Những thuận lợi
Thứ nhất, TTCKVN bước đầu đã đi vào hoạt động ổn định và phát
triển là cơ sở cho việc đưa các NHTMCP lên niêm yết. Qua gần 5 năm đi
vào hoạt động TTCKVN đã đƣợc mở rộng về cả quy mô và chất lƣợng hoạt
động: Số lƣợng chủ thể tham gia thị trƣờng tăng, số chứng khoán niêm yết
tăng, các chủ thể trung gian thị trƣờng ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ cho
TTCK hơn. Các chủ thể cũng dần nâng cao chất lƣợng hoạt động, hiệu quả
hoạt động kinh doanh góp phần nâng cao chất lƣợng TTCK. Điều này tạo ra
một sự thuận lợi rất lớn cho các NHTMCP thực hiện niêm yết trên TTCK vì
chính sự sôi động tích cực tham gia thị trƣờng của các chủ thể đã tạo nên
niềm tin cho các NHTMCP thực hiện niêm yết, giảm bớt hiện tƣợng e ngại
khi tham gia niêm yết thƣờng xuất hiện ở các doanh nghiệp cũng nhƣ các
ngân hàng.
Thứ hai, việc tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK được
các cơ quan chức năng ủng hộ. Việc cho phép các NHTMCPVN phát hành
và niêm yết cổ phiếu trên thị trƣờng chứng khoán để huy động và tăng thêm
vốn điều lệ là một trong các giải pháp quan trọng đƣợc các chuyên gia ngân
74
hàng đƣa ra và tranh luận sôi nổi trong thời gian qua. Đƣợc biết UBCKNN
cũng mong muốn vấn đề này đƣợc thực thi vì nhƣ vậy sẽ thúc đẩy sự phát
triển của thị trƣờng, nâng cao uy tín hình ảnh cho TTCKVN. NHNN và Chính
phủ cũng rất ủng hộ chủ trƣơng trên. Ngay từ khi thị trƣờng chứng khoán Việt
Nam mới đi vào hoạt động thì cuối tháng 7 năm 2000, Phó thủ tƣớng chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng đã triệu tập một cuộc họp gồm các cơ quan nhƣ
UBCKNN, Bộ tài chính, NHNN nhằm tìm cách phát triển thêm hàng hoá cho
thị trƣờng này. Một trong những chỉ đạo đã đƣợc đƣa ra trong buổi họp đó là
NHNN phải ban hành văn bản hƣớng dẫn các NHTMCPVN niêm yết trong
quý 3 năm 2000. Tuy nhiên đến hết năm 2000 vẫn không có văn bản nào đƣợc
đƣa ra. Vào đầu năm 2001, một cuộc họp tƣơng tự lại diễn ra và chỉ thị trên
lại đƣợc Phó thủ tƣớng Nguyễn Tấn Dũng nhắc lại. Ngay từ năm 2000
UBCKNN đã thƣờng xuyên phối hợp cùng NHNN trong việc xây dựng quy
chế cho phép các ngân hàng đủ tiêu chuẩn ra niêm yết. Ngày 02/ 02/2004
UBCKNN đã có buổi làm việc với NHNN về vấn đề đƣa cổ phiếu của các
ngân hàng lên niêm yết trên TTGDCK, NHNN cho biết đã soạn thảo dự thảo
quyết định của thống đốc NHNN ban hành quy định tạm thời về việc
NHTMCPVN tham gia niêm yết và phát hành cổ phiếu trên TTGDCK và
trƣớc mắt có thể cho phép một hoặc hai Ngân hàng thí điểm lên niêm yết,
NHNN đã và đang sửa đổi bổ sung quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày
4 tháng 9 năm 2001 của Thống đốc NHNN ban hành quy chế cổ đông, cổ
phần, vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng nhà nƣớc và nhân dân liên quan
đến việc phát hành cổ phiếu của các NHTMCPVN không tham gia niêm yết
trên TTGD. Ngày 26/4/2004 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số
787/2004/QĐ-NHNN quy định tạm thời về việc NHTMCP đăng ký niêm yết
và phát hành cổ phiếu ra công chúng. Đây là một quyết định kịp thời đáp ứng
đƣợc các nhu cầu của các ngân hàng, nhà đầu tƣ và giới chuyên môn đã quan
tâm. Điều này sẽ tạo những thuận lợi mở đƣờng cho công tác tạo hàng hoá có
75
chất lƣợng cho TTCKViệt Nam hiện nay. Chính những động thái này đã tạo
lên sức nóng cho thị trƣờng tự do của cổ phiếu ngân hàng .
Thứ ba, nhiều NHTMCP có đủ điều kiện tham gia niêm yết trên
TTCK. Hiện nay trên thực tế có nhiều NHTMCP trong nƣớc đã làm ăn bài
bản có lãi lớn, hoạt động ổn định, hạch toán rõ ràng và đƣợc kiểm toán quốc
tế hoặc kiểm toán độc lập có uy tín trong nƣớc và quốc tế, tạo lòng tin cho
công chúng nhƣ: ACB, SACOMBANK, TECHCOMBANK…triển vọng của
việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP tƣơng đối tốt do tính hấp dẫn của
các cổ phiếu do các ngân hàng này phát hành bởi các yếu tố về tỷ lệ lợi nhuận
trƣớc thuế trên vốn chủ sở hữu và lợi nhuận trƣớc thuế/vốn điều lệ của các
ngân hàng này liên tục tăng, tốc độ tăng trƣởng lợi nhuận trƣớc thuế cao hơn
tốc độ tăng vốn chủ sở hữu và vốn điều lệ, một số cổ phiếu của NHTMCPVN
đã đƣợc bán với giá trị cao hơn mệnh giá rất nhiều. Có thể nói là một vài
trong số các NHTMCPVN đặc biệt là NHTMCP đô thị đáp ứng đủ tiêu chuẩn
niêm yết và sẵn sàng chuẩn bị tham gia niêm yết. Điều này thể hiện rất rõ qua
việc các nhà đầu tƣ đổ xô vào mua cổ phiếu của các NHTMCPVN trên TTCK
tự do trong thời gian qua. Hơn nữa, nhƣ ta đã thấy thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam đang rất khan hiếm về hàng hoá đặc biệt là hàng hoá có chất lƣợng
bởi vì nguồn cung chứng khoán chủ yếu cho thị trƣờng còn gặp rất nhiều bất
cập. Đó chính là tiến trình cổ phần hoá, qua hơn 10 năm thực hiện từ giai
đoạn mò mẫm thí điểm, mỗi năm cổ phần hoá đƣợc vài doanh nghiệp đến
giai đoạn mở rộng cổ phần hoá sang quy mô toàn quốc mỗi năm đƣợc hàng
trăm doanh nghiệp. Tuy nhiên, về số tuyệt đối các doanh nghhiệp nhà nƣớc cổ
phần hoá vẫn còn rất ít vì những khó khăn gặp phải trong tiến trình cổ phần
hoá nhƣ khó khăn trong việc xác định giá trị doanh nghiệp, phƣơng thức bán
cổ phần … Mặt khác, không phải cổ phần hoá đƣợc nhiều doanh nghiệp nhà
nƣớc thì có nghĩa là có nhiều cổ phiếu niêm yết trên TTCK bởi vì không phải
doanh nghiệp nào sau cổ phần hoá cũng sẵn sàng tham gia niêm yết do họ
76
chƣa nhận thức đƣợc những lợi ích mà chỉ có những doanh nghiệp niêm yết
mới có đƣợc, họ chỉ nhìn thấy những cái bất lợi khi tham gia niêm yết, đó là
phải công khai tài chính, phải kiểm toán hàng năm chịu sự quản lý giám sát
chặt chẽ của UBCKNN và NHNN. Mặc dù trong thời gian qua, UBCKNN đã
rất nhiều lần vận động các doanh nghiệp tham gia niêm yết nhƣng kết quả chỉ
có một vài doanh nghiệp niêm yết. Rõ ràng là việc gắn cổ phần hoá với niêm
yết trên TTCK còn là một vấn đề rất khó khăn và đƣợc triển khai rất chậm trễ.
Vì vậy, trong điều kiện một TTCK còn khan hiếm về hàng hoá và hàng hoá có
chất lƣợng chƣa cao nhƣ TTCKVN hiện nay thì việc đƣa cổ phiếu của các
NHTMCP lên niêm yết trên TTCK là một giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự phát triển của TTCKVN .
Từ khía cạnh chính sách, một văn bản hết sức quan trọng đã đƣợc ban
hành hồi đầu tháng 10 là Nghị định 108/2006/NĐ-CP hƣớng dẫn thi hành một
số điều của Luật Đầu tƣ. Nghị định đã quy định danh mục đầu tƣ có điều kiện
đối với NĐT nƣớc ngoài. Điều này có nghĩa là sẽ không giới hạn tỉ lệ nắm giữ
CP (hiện là 49%) của các công ty niêm yết có lĩnh vực kinh doanh nằm ngoài
danh sách này.
Nhƣ vậy, có thể nói đã chín muồi các điều kiện cần và đủ để các
NHTMCP phát hành và niêm yết chứng khoán trên TTCK. Vấn đề còn lại là
tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của Hội dồng quản trị của các NHTMCP này
vì niêm yết và phát hành trên TTGDCK thì họ phải chấp nhận sự giám sát
chặt chẽ của UBCKNN, NHNN, của công chúng đối với uy tín, tiếng tăm, và
mọi hoạt động tài chính của mình. Tuy nhiên, để đổi lại họ lại có những lợi
ích khi tham gia niêm yết nhƣ đƣợc giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm sau
khi niêm yết, thƣơng hiệu hình ảnh của ngân hàng sẽ đƣợc quảng bá miễn phí
trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, mở rộng khách hàng, đối tác làm ăn
đặc biệt là đối tác nƣớc ngoài, ngân hàng sẽ phải thực hiện kinh doanh có hiệu
quả hơn, đội ngũ cán bộ ngân hàng phải năng động sáng tạo hơn và phải luôn
77
luôn tự ngăn chặn mình khỏi những hành vi gian lận, tham ô tham
nhũng…đặc bịêt là tăng tính thanh khoản cho cổ phiếu của ngân hàng và giúp
ngân hàng định giá một cách chính xác nhất giá trị của mình...và rất nhiều lợi
ích khác.
4.2. Những khó khăn:
4.2.1. Nhiều NHTMCP không muốn phát hành thêm cổ phiếu và tham
gia niêm yết trên TTCK
Mặc dù hiện nay đã có một số ngân hàng có uy tín, làm ăn có hiệu quả,
có lãi ổn định và nếu phát hành cổ phiếu sẽ rất nhiều ngƣời muốn mua nhƣng
ngân hàng lại không muốn bán, không muốn có thêm cổ đông vì nếu có thêm
cổ đông thì các cổ đông cũ của ngân hàng sẽ bị loãng quyền sở hữu và rất có
thể ngân hàng sẽ bị cổ đông lớn thâu tóm. Đây có thể đƣợc coi là một hạn chế
rất lớn của TTCKVN vì rằng cổ phiếu của các NHTMCP là một loại cổ phiếu
có chất lƣợng tốt mà lại chƣa có mặt trên TTGDCK mà mới chỉ đƣợc giao
dịch trên TTCK tự do trong khi TTCK chính thức là một thị trƣờng mà hàng
hoá của nó thƣờng có chất lƣợng cao hơn so với hàng hoá trên thị trƣờng tự
do lại khan hiếm về hàng hoá đặc biệt là hàng hoá có chất lƣợng. Vì vậy, chỉ
để chứng khoán của các NHTMCP giao dịch trên thị trƣờng chứng khoán tự
do thôi thì quả thật là rất lãng phí. Hơn nữa, ở Việt Nam, thị trƣờng chứng
khoán OTC mới chỉ thành lập ở dạng sơ khai nên có thể nói TTGDCK là
nòng cốt của TTCKVN.
4.2.2. Hàng hoá mà các NHTMCP cung cấp cho TTCK chƣa đa
dạng
Thực tế cho thấy là hàng hoá mà các NHTMCP có thể cung cấp cho
TTCKVN vẫn chƣa đa dạng và phong phú. Mặc dù hàng hoá đƣợc coi là có
chất lƣợng cao song về chủng loại thì về trƣớc mắt các NHTMCPVN chỉ có
thể cung cấp cho TTCK những cổ phiếu hoặc trái phiếu còn chƣa có những
chứng khoán khác đặc biệt là các chứng khoán phái sinh. Một TTCK hoàn
78
chỉnh thì sự có mặt của các chứng khoán phái sinh là không thể thiếu trong
khi đó các ngân hàng đặc biệt là các NHTMCP là những chủ thể đầu tiên
trong nền kinh tế có thể có khả năng cung cấp loại hàng hoá này cho thị
trƣờng, vậy mà hiện nay mặc dù các giao dịch chứng khoán của các
NHTMCP trên TTCK tự do rất sôi động song vẫn chƣa có những giao dịch
chứng khoán phái sinh mà hàng hoá chủ yếu chỉ là các cổ phiếu, cổ phần. Vậy
thử hỏi làm sao các doanh nghiệp khác có khả năng cung cấp loại hàng hóa đa
dạng phong phú này cho thị trƣờng. Trong khi đó TTCKVN hiện nay mới chỉ
có 3 loại hàng hóa là cổ phiếu, trái phiếu, và chứng chỉ quỹ đầu tƣ trong đó
trái phiếu chính phủ - loại chứng khoán tƣơng đối an toàn lại chiếm tỷ lệ khá
lớn còn cổ phiếu - loại hàng hoá chính của TTCK và luôn là mối quan tâm
của các nhà đầu tƣ thì lại chiếm tỷ lệ quá nhỏ, các loại chứng khoán phái sinh
còn chƣa xuất hiện. Điều này cho thấy cơ cấu hàng hoá trên TTCK thực sự
chƣa phù hợp, chƣa thể tạo ra sức hấp dẫn cho TTCK. Trong điều kiện này
việc đƣa các chứng khoán phái sinh vào TTCK, gia tăng ngân hàng niêm yết
là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, các loại hàng hoá mà NHTMCP có
thể cung cấp cho TTCK hiện nay lại chƣa có sự khác biệt nào so với các
doanh nghiệp niêm yết. Vì vậy, nếu các NHTMCP lên niêm yết trên
TTCKVN thì sự đa dạng hoá về loại chứng khoán trên thị trƣờng vẫn chƣa
đƣợc cải thiện đáng kể do tính hạn chế trong chủng loại hàng hoá mà các
NHTMCP có thể cung cấp cho TTCK.
4.2.3. Uy tín, hình ảnh của một số NHTMCPVN chƣa cao
Thực tế cho thấy là bên cạnh một số NHTMCP có hiệu quả hoạt động
kinh doanh cao, có uy tín trên thị trƣờng nhƣ ACB, Sacombank,
Techcombank… thì còn nhiều NHTMCP chƣa thực sự có đƣợc vị thế trên thị
trƣờng thậm chí đến tên của ngân hàng còn rất mới lạ đối với quần chúng,
nhất là các NHTMCP nông thôn. Mà vấn đề uy tín của ngân hàng lại rất quan
trọng đối với ngân hàng vì nếu uy tín của ngân hàng chƣa cao, ngƣời dân
79
chƣa thể tin tƣởng tuyệt đối vào sự an toàn của ngân hàng, khi ngân hàng
tham gia niêm yết trên TTCK nếu có một sự thay đổi bất thƣờng nào đó trong
giá chứng khoán ngân hàng đó sẽ gặp khó khăn ngay lập tức mà khó khăn ấy
lại do chính khách hàng của ngân hàng ấy gây ra..
II- GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH TIẾN TRÌNH NIÊM YÊT CỔ PHIẾU
CỦA CÁC NHTMCP VIỆT NAM
Việc đƣa các NHTMCPVN lên niêm yết trên TTGDCK là một trong
những nội dung của định hƣớng chiến lƣợc phát triển TTCK đến 2010. Do
vậy, nó không phải là việc một sớm một chiều có thể thực hiện đƣợc mà nó
đòi hỏi phải có thời gian, phải đƣợc làm từng bƣớc một. Do tâm lý của ngƣời
dân, do đặc thù của hoạt động ngân hàng và những rủi ro có thể gặp phải đối
với ngân hàng khi tham gia niêm yết trên TTCK nên để có thể đƣa
NHTMCPVN lên niêm yết cần phải có những giải pháp mang tính chiến lƣợc,
Nghị quyết đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ các biện pháp của các cơ
quan ban ngành có liên quan.
1.1. Giải pháp vĩ mô
1.1.1. Đảm bảo môi trƣờng kinh tế vĩ mô ổn định và lành mạnh
Thông qua các chủ trƣơng chính sách phát triển kinh tế xã hội cụ thể
của Nhà nƣớc để tạo môi trƣờng vĩ mô ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho
NHTMCP tham gia niêm yết trên TTCK. Một nền kinh tế tăng trƣởng phát
triển sẽ mang lại cho ngƣời dân một mức thu nhập cao, sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho các NHTMCPVN huy động vốn trung dài hạn thông qua việc phát
hành và niêm yết cổ phiếu trên TTCK. Hơn nữa, với một nền kinh tế phát
triển, thu nhập của ngƣời dân cao thì nhu cầu an toàn và tiện lợi của ngƣời
dân sẽ cao. Đây là một điều kiện thuận lợi để các NHTMCPVN phát triển và
các sản phẩm dịch vụ phái sinh góp phần cung cấp cho TTCK một khối lƣợng
hàng hoá lớn, đa dạng phong phú về chủng loại.
1.1.2. Hoàn thiện khung pháp lý
80
Một điều đáng ghi nhận là Việt Nam rất thận trọng khi xây dựng cơ sở
pháp lý dựa trên sự sàng lọc và học hỏi kinh nghiệm vận hành TTCK của
nhiều nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên, khi vận dụng các kinh nghiệm đó vào
Việt Nam do điều kiện hoàn cảnh của nƣớc ta có khác với họ nên các văn bản
pháp lý đó cũng khó tránh khỏi những thiếu sót: Không đồng bộ, chƣa hợp lý,
sự phức tạp về thủ tục tham gia của các đoàn thể… Vì vậy, UBCKNN cần có
sự điều chỉnh kịp thời theo thực tế hoạt động của TTCK, tăng cƣờng kỷ luật
tài chính doanh nghiệp, công bố thông tin trên TTCK để đảm bảo công bằng
an toàn cho các đoàn thể, đặc biệt là với các NHTMCPVN vì nếu chỉ cần một
thông tin sai sự thật về ngân hàng cũng có thể làm cho ngân hàng đó sụp đổ
hoàn toàn và ảnh hƣởng cả đến cả hệ thống ngân hàng .
Một điều quan trọng nữa về khuôn khổ pháp lý là phải chuẩn hoá, thể
chế hoá các quy định hƣớng dẫn NHTMCP niêm yết trên TTCK đã đƣợc cơ
quan quản lý vĩ mô đề cập đến trong QĐ 787 quy định tạm thời về việc
NHTMCP phát hành và niêm yết trên TTGDCK. Tuy nhiên, đó mới chỉ là quy
định tạm thời khiến các NHTMCP không có đủ tự tin và yên tâm khi xem xét
quyết định tham gia hay không tham gia niêm yết trên TTCK. Vì vậy, vấn đề
đặt ra cho UBCKNN, NHNN và các cơ quan chức năng là phải có sự hợp tác
chặt trong việc ban hành các hƣớng dẫn cụ thể về niêm yết cổ phiếu NH, ban
hành các biểu mẫu công bố thông tin định kỳ quý, năm, xây dựng và điều
hành cơ sở kinh tế vĩ mô một cách đồng bộ và thống nhất. Các quyết định của
thống đốc NHNN nên bao quát chung cho tất cả các trƣờng hợp phát hành trái
phiếu ra công chúng của NHTM, các NHTMCPVN có thể giữ nguyên số vốn
hiện tại phát hành thêm từ 15 - 20% ra công chúng và niêm yết số mới phát
hành trên TTGDCK. Đặc biệt phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan
chức năng trong việc đƣa ra các quy chế xử lý khi các ngân hàng rơi vào tình
trạng khó khăn (nhƣ giá cổ phiếu giảm xuống hoặc tăng lên) hoặc những chế
tài xử phạt về việc đầu cơ cổ phiếu hoặc mua cổ phiếu để khống chế ngân
81
hàng, cung cấp danh sách cổ đông định kỳ, giám sát cổ đông lớn nhằm đảm
bảo an toàn cho hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng nói chung và của
NHTMCPVN nói riêng.
Đẩy nhanh tiến trình thông qua dự thảo quyết định thay thế Quyết định
36/2003/QĐ-TTg thống nhất quy định về việc góp vốn, mua cổ phần, mua lại
DN Việt Nam của NĐT nƣớc ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tƣ nƣớc ngoài tham gia hoạt động trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam. Việc
không hạn chế tỉ lệ góp vốn nƣớc ngoài trong nhiều lĩnh vực, đồng thời khả
năng Việt Nam gia nhập WTO trong thời gian ngắn nữa chắc chắn sẽ tạo ra
một làn sóng đầu tƣ mới trên TTCK
Cuối cùng cần phải nâng cao mức xử phạt đối trong Dự thảo nghị định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán do UBCKNN tổ
chức lấy ý kiến vừa qua quy định số tiền phạt đối với các hành vi vi phạm
Luật Chứng khoán quá nhẹ, không đủ sức ngăn chặn các hành vi gian lận của
các tổ chức niêm yết. Theo dự thảo Nghị định, mức phạt trong khung xử phạt
hành chính đƣợc dự kiến từ 10 đến 100 triệu đồng.
1.1.3. Tăng cƣờng các ƣu đãi cho NHTMCP tham gia niêm yết
Việc lên niêm yết của các ngân hàng nói chung và các NHTMCPVN nói
riêng sẽ đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích và những bất lợi khác nhau.
Do vậy, trƣớc khi lên niêm yết luôn luôn phải cân nhắc trong cái lợi và cái bất
lợi rồi mới quyết định có nên niêm yết hay không. Trong điều kiện thực tế
TTCKVN hiện nay thì có thể nói rất hiếm các doanh nghiệp thích thú với việc
niêm yết trên TTCK. Hơn nữa, với các NHTMCPVN thì việc niêm yết trên
TTCK là hoạt động khá mạo hiểm vì bản thân hoạt động ngân hàng đã chứa
rất nhiều rủi ro trong khi đó TTCK lại còn rất non trẻ, kinh nghiệm của nhà
đầu tƣ chƣa cao, sự biến động trên thị trƣờng nhiều khi không theo một quy
luật nào cả mà chỉ theo trào lƣu, thông tin thị trƣờng chƣa minh bạch…Mà hệ
thống NHTMCPVN lại chƣa xây dựng đƣợc cho mình uy tín đủ lớn để duy trì
82
lòng tin của ngƣời đầu tƣ với chứng khoán của ngân hàng khi xảy ra những sự
cố bất thƣờng trên TTCK. Do vậy, các ƣu đãi đối với doanh nghiệp niêm yết
sẽ là công cụ để UBCKNN kéo các NHTMCPVN lên niêm yết trên TTCK.
Một trong những biện pháp hiệu quả nhất trong phƣơng pháp là sửa đổi, tăng
cƣờng chính sách thuế ƣu đãi cho các ngân hàng niêm yết trên TTCK nói
chung và NHTMCPVN nói riêng vì chính sách thuế trên thị trƣờng có tác
động trên nhiều khía cạnh khác nhau. Chính sách thuế đối với TTCKVN
trong giai đoạn đầu vẫn hƣớng tới sự thu hút các nhà đầu tƣ, các tổ chức trung
gian tham gia thị trƣờng một cách tích cực, các thể chế tham gia phát hành,
niêm yết nhằm phát triển cung hàng hoá cho TTCK. Nhƣ áp dụng khung thuế
ƣu đãi luỹ thoái theo thời gian gia nhập TTCK sớm hay muộn để tạo nhu cầu
niêm yết chứng khoán của các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn: Niêm yết trƣớc
hoặc sau trong năm 2004 sẽ đƣợc miễn 100% thuế thu nhập doanh nghiệp,
niêm yết trong năm 2005 sẽ đƣợc hƣởng 50% của mức niêm yết năm trƣớc
và của năm 2004, niêm yết trong năm 2006 sẽ chỉ đƣợc hƣởng 30% và sẽ
không còn ƣu đãi cho DNNY trong năm 2007, đa dạng hoá các hình thức ƣu
đãi thuế, kéo dài thời gian ƣu đãi đối với ngân hàng niêm yết, tăng tính hiệu
quả và linh hoạt của công cụ ƣu đãi hơn. Giảm phí trong việc cấp phép và
phát hành và niêm yết chứng khóan trên TTCK góp phần giảm phí huy động
vốn cho các NHTMCP. Bên cạnh đó cần phải đơn giản hoá thủ tục hành
chính, hồ sơ niêm yết. Trên thực tế ở Việt Nam, việc lập và gửi hồ sơ phát
hành và niêm yết chứng khoán của các doanh nghiệp nói chung và các
NHTMCP nói chung rất phức tạp: Hồ sơ phải gửi trình lên nhiều nơi...Vì vậy,
để đƣợc lên niêm yết các NHTMCP phải mất một khoảng thời gian khá dài để
chuẩn bị bộ hồ sơ niêm yết. Sự phức tạp trong thủ tục hành chính này khiến
cho các NHTMCP rất e ngại khi tham gia niêm yết. Vì vậy, việc đơn giản hoá
hồ sơ, thủ tục niêm yết, chỉ thực hiện những thủ tục cần thiết là rất cần thiết
để thu hút các NHTMCP lên niêm yết.
83
1.1.4. Tiếp tục chấn chỉnh, cơ cấu lại hệ thống các NHTMCPVN
Để hình thành các NHTMCP mạnh về tài chính, chặt chẽ về cơ cấu tổ
chức, hoạt động kinh doanh hiệu qu góp phần cung cấp những hàng hoá có
chất lƣợng cao cho TTCK, NHNN cần tiếp tục thực hiện chấn chỉnh, sắp xếp
lại hệ thống NHTMCPVN thông qua các biện pháp nhƣ: Tăng VĐL thông qua
sát nhập, hợp nhất, phát hành cổ phiếu bổ sung vốn và xử lý dứt điểm nợ tồn
đọng của các NHTMCP nhằm làm lành mạnh hoá tài chính, nâng cao khả
năng cạnh tranh, giảm thiểu tối đa rủi ro. Đối với những NHTMCPVN quá
yếu kém không thể tăng VĐL và không khắc phục đƣợc những yếu kém về tài
chính thì tiến hành thu hồi giấy phép hoạt động. Xây dựng các quy chế về
quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế nhƣ quản trị rủi ro,
quản trị tài sản, quản trị vốn, kiểm tra kiểm toán nội bộ, xây dựng quy trình
tín dụng hiện đại và sổ tay tín dụng, xây dựng hệ thống kiểm toán và thiết lập
các chỉ tiêu báo cáo tài chính phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn và hiệu
quả kinh doanh ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt
Nam. Chuẩn hoá đội ngũ nhân viên ngân hàng đặc biệt là với các NHTMCP...
tạo điều kiện cho các giao dịch phái sinh phát triển.
1.1.5. Tăng cƣờng công tác tuyên truyền, đào tạo, bồi dƣỡng kiến
thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng
TTCK còn là một vấn đề rất mới mẻ đối với ngƣời dân Việt Nam, các
kiến thức về chứng khoán và TTCK lại rất khó hiểu và phức tạp. Để TTCK
phát triển và ổn định, an toàn cho các chủ thể tham gia thì đòi hỏi niềm tin
của công chúng vào thị trƣờng phải cao. Tuy nhiên, để có đƣợc lòng tin của
công chúng thì trƣớc hết công chúng phải am hiểu về chứng khoán và TTCK,
có cái nhìn đúng đắn và sâu sắc, khoa học, logic về các diễn biến trên thị
trƣờng. Khi có đƣợc những điều đó rồi thì mỗi sự thay đổi trên TTCK sẽ đƣợc
những nhà đầu tƣ phân tích theo đúng quy luật của nó, sẽ không có những cái
84
hiểu sai lầm ảnh hƣởng đến hoạt động của các tổ chức tham gia nhất là đối
với chủ thể phát hành. Khi NHTM tham gia niêm yết thì vấn đề này lại càng
trở lên cần thiết vì chỉ cần một cái hiểu sai lệch về mối quan hệ giữa hoạt
động ngân hàng với hoạt động của TTCK cũng có thể làm cho ngân hàng đó
sụp đổ. Vì một thực tế cho thấy là khi giá chứng khoán giảm xuống quá thấp
có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng vì ngƣời dân có thể kéo đến ngân hàng để
rút tiền hàng loạt trong một thời gian ngắn do họ chƣa nhận thức một cách
đúng đắn vê hoạt động của các ngân hàng cũng nhƣ mối quan hệ giữa hoạt
động ngân hàng và hoạt động của TTCK. Vì vậy, để giúp các NHTMCP tránh
đƣợc những rủi ro do thiếu sự hiểu biết của công chúng về chứng khoán và
TTCK, UBCKNN phối hợp với NHNN cùng các cơ quan tuyên truyền cần
phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK cho quần chúng nhân dân giúp
họ có cái nhìn toàn diện về TTCK và nắm bắt đƣợc những quy luật trên
TTCK thông qua hình thức phát triển trung tâm đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ
chứng khoán, tuyên truyền thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
1.1.6. Tạo điều kiện cho các tổ chức đứng ra bảo lãnh phát hành
chứng khoán cho các NHTMCP
NHNN và UBCKNN cần có quy chế hƣớng dẫn, quy định tổ chức đứng
ra bảo lãnh phát hành khi các NHTMCP có ý định phát hành và niêm yết trên
TTCK. Vì một thực tế cho thấy là vốn tự có của các NHTM rất cao trong khi
đó vốn tự có của các công ty chứng khoán lại thấp không đủ khả năng đứng ra
bảo lãnh cho đợt phát hành chứng khoán của các NHTMCP. Vì vậy, cần phải
có quy định rõ ràng, cụ thể về tổ chức bảo lãnh phát hành cho các đợt phát
hành chứng khoán để huy động vốn cho các NHTMCP.
1.1.7. Nâng cấp hệ thống quản lý thông tin thị trƣờng
Thông tin trên TTCK rất quan trọng đối với không chỉ nhà đầu tƣ mà
còn đối với các chủ thể phát hành chứng khoán. Thông tin minh bạch sẽ góp
85
phần đảm bảo tính công bằng cho thị trƣờng. Trên TTCK, khi có những thông
tin sai lệch có thể gây nên rủi ro cho nhà đầu tƣ và chủ thể phát hành. Với
ngƣời đầu tƣ có thể bị lỗ vốn, còn với các chủ thể phát hành có thể bị giảm uy
tín, hình ảnh, thậm chí có thể bị phá sản. Với các NHTMCP, uy tín và hình
ảnh rất quan trọng trong khi các ngân hàng rất dễ gặp phải những rủi ro đối
với các ngân hàng khi tham gia niêm yết trên TTCK. Vì vậy, thông tin thị
trƣờng phải minh bạch, công bằng, xác thực để ngân hàng dễ dàng nắm bắt
đƣợc diễn biến trên thị trƣờng để kịp thời đối phó. Mặt khác, hệ thống thông
tin thị trƣờng minh bạch, hiện đại sẽ giúp giảm bớt các tin đồn thất thiệt trên
TTCK.
1.2. Giải pháp vi mô
Để có thể có những chứng khoán có chất lƣợng cao do các NHTMCP
niêm yết trên TTGDCK không chỉ cần những giải pháp từ phía các cơ quan
quản lý vĩ mô về TTCK mà nó đòi hỏi phải có những giải pháp từ phía các
NHTMCP với các giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động
kinh doanh từ đó nâng cao uy tín, chất lƣợng chứng khoán cung cấp cho thị
trƣờng. Không phải ngân hàng nào muốn lên tham gia niêm yết thì đều đƣợc
chấp nhận và cũng không phải là bất cứ một NHTMCP nào đủ tiêu chuẩn
niêm yết đều muốn lên niêm yết trên TTGDCK. Do vậy các giải pháp từ phía
NHNN và uỷ ban chứng khoán nhà nƣớc là hết sức quan trọng.
1.2.1. Đối với NHNN
Thực tế cho thấy là mặc dù UBCKNN đã chấp thuận việc cho phép một
số NHTMCP làm ăn có hiệu quả tham gia niêm yết trên TTGDCK và đã có
một số ngân hàng sẵn sàng tham gia niêm yết nhƣ: Sacombank, ACB. Tuy
nhiên, các ngân hàng này vẫn còn đang chờ quyết định của NHNN cho phép.
Nhƣ vậy là trong các NHTMCP vẫn còn sự can thiệp quá sâu của thành phần
Nhà nƣớc mà đại diện là NHNN. Chính sự can thiệp quá sâu này đang cản trở
tiến trình tham gia niêm yết của các NHTMCP. Sở dĩ nhƣ vậy là vì NHNN lo
86
ngại các NHTMCP khi tham gia niêm yết có thể bị ảnh hƣởng bởi 2 nguyên
nhân (khi giá chứng khoán giảm ngƣời dân sẽ kéo đến rút tiền hàng loạt gây
rủi ro thanh khoản cho ngân hàng và tình trạng thâu tóm của các cổ đông lớn
trong ngân hàng). Tuy nhiên những lo ngại đó có thể đƣợc xoá bỏ nếu nhƣ
NHNN thực hiện :
- NHNN phải có sự giúp đỡ các NHTMCP khi rơi vào hoàn cảnh khó
khăn không thể khắc phục đƣợc: Khi giá cổ phiếu của ngân hàng giảm quá
mạnh, ngƣời dân đến rút tiền hàng loạt và ngân hàng đứng trƣớc nguy cơ mất
khả năng thanh toán thì NHNN có thể thực hiện vai trò là ngƣời cho vay cuối
cùng đối với các NHTM bằng cách cho các NHTMCP vay thông qua hình
thức chiết khấu …
- NHNN cần tăng cƣờng chế độ giám sát đặc biệt đối với NHTMCP niêm
yết. Hiện tại các NHTMCP chỉ chịu sự gíam sát của Thanh tra NHNN theo
quy chế về gíam sát từ xa theo hệ thống chỉ tiêu CAMEL. Khi tham gia vào
TTCK, hoạt động của các NHTMCP sẽ chịu ảnh hƣởng từ những thay đổi
trên thị trƣờng mà TTCK lại là một thị trƣờng rất nhạy cảm với thông tin
trung thực đƣợc tung ra thị trƣờng thì nhà đầu tƣ sẽ có thể bán tháo hoặc mua
vào ồ ạt cổ phiếu của ngân hàng. Khi đó rất có thể ngƣời gửi tiền sẽ kéo đến
rút tiền hàng loạt gây nên rủi ro cho ngân hàng. Do vậy, vấn đề đo lƣờng độ
nhạy cảm của ngân hàng niêm yết với rủi ro thị trƣờng là cần thiết để cảnh
báo trƣớc các nguy cơ rủi ro tiềm ẩn, giúp ngân hàng đề ra biện pháp phòng
tránh kịp thời nhằm tăng cƣờng sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Theo
đó Thanh tra NHNN cần đƣa thêm chỉ tiêu S (Sensibility to market) - sự nhạy
cảm đối với rủi ro thị trƣờng, vào hệ thống chỉ tiêu CAMEL.
- Thay đổi biểu phí bảo hiểm tiền gửi trong hệ thống ngân hàng thƣơng
mại. Bảo hiểm tiền gửi là hình thức bảo đảm an toàn và nâng cao uy tín trong
hoạt động của hệ thống ngân hàng và giảm thiểu rủi ro đạo đức khi ngân hàng
hoạt động bất cẩn. Việc đóng phí bảo hiểm tiền gửi theo tỷ lệ phân biệt sẽ
buộc các ngân hàng thi đua hoạt động tốt hơn vì trƣớc đây phí bảo hiểm tiền
87
gửi đƣợc áp dụng thống nhất cho toàn hệ thống ngân hàng mà không tính đến
mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng. Do vậy, việc thay đổi biểu phí bảo hiểm
tiền gửi sẽ giúp ta đánh giá chính xác hơn mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng.
Mà trên TTCK việc đánh gía đƣợc mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng là một
trong những yếu tố quyết định chất lƣợng hàng hoá. Đối với các NHTMCP
niêm yết nếu đƣợc áp dụng tỷ lệ phí thấp là một chỉ báo hấp dẫn ngƣời đầu tƣ
vì điều đó chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động an toàn và hiệu quả cao. Điều
này cũng khuyến khích các NHTMCP hoạt động một cách an toàn và hiệu
quả hơn rất nhiều.
- Nới lỏng và tiến tới loại bỏ các quy định về việc chấp thuận của NHNN
về việc tăng (giảm) vốn điều lệ, và phát hành giấy tờ có giá của các
NHTMCP. Tuy nhiên, các quy định về đảm bảo an toàn tài chính và hoạt
động của ngân hàng vẫn phải đƣợc đảm bảo.
- Tổ chức tốt công tác đánh giá, xếp hạng ngân hàng. Vì trên TTCK,
trƣớc khi một doanh nghiệp muốn lên niêm yết, doanh nghiệp đó cần phải
đƣợc định giá. UBCKNN sẽ căn cứ vào kết quả đánh giá của các tổ chức định
mức tín nhiệm để quyết định xem doanh nghiệp có đƣợc lên niêm yết hay
không. Với các NHTMCP, UBCKNN sẽ căn cứ vào kết quả xếp loại ngân
hàng do NHNN thực hiện để lựa chọn những ngân hàng đủ tiêu chuẩn lên
niêm yết. Vì vậy để đảm bảo an toàn cho ngân hàng khi lên niêm yết cũng
nhƣ sự an toàn, ổn định của TTCK, NHNN phải thực hiện tốt công tác đánh
giá, xếp hạng ngân hàng tức là công tác xếp hạng ngân hàng phải thực hiện
đúng quy tắc, trung thực, chính xác, và đảm bảo công bằng.
- NHNN cần tiếp tục chấn chỉnh sắp xếp lại hệ thống các NHTMCP nhằm
duy trì những ngân hàng có hiệu quả hoạt động tốt, ít rủi ro, có uy tín có khả
năng cung cấp những chứng khoán có chất lƣợng cao cho TTCK, giải thể, sáp
nhập các ngân hàng hoạt động yếu kém, không lành mạnh .
88
1.2.2. Đối với UBCKNN
UBCKNN là cơ quan quản lý TTCKVN do vậy UBCKNN cần phối hợp
với NHNN và các cơ quan chức năng khác để có thể đƣa cổ phiếu của các
NHTMCP lên sàn một cách nhanh nhất bắt đầu từ việc hoàn thiện cơ sở pháp
lý chuẩn bị cho việc tham gia niêm yết của một số ngân hàng đến việc lựa
chọn mốt số ngân hàng thƣơng mại cổ phần hoạt động kinh doanh hiệu quả,
an toàn thí điểm lên niêm yết trên TTGDCK, tiếp tục rút kinh nghiệm và hoàn
thiện các văn bản pháp lý, áp dụng rộng rãi trong toàn hệ thống. Cụ thể là:
Hoàn thiện cơ sở pháp lý
UBCKNN và NHNN cần thống nhất ban hành các văn bản hƣớng dẫn về
việc NHTMCP niêm yết chứng khoán trên TTGDCK một cách rõ ràng, cụ thể
về vốn, thời gian hoạt động kinh doanh, kết quả kinh doanh, hệ số cooke, tỷ lệ
nợ quá hạn và các quy định khác về cơ sở vật chất kĩ thuật, công nghệ, bộ
máy quản trị điều hành trong ngân hàng… Cụ thể nhƣ :
- Vốn điều lệ là 200 tỷ
- Thời gian hoạt động tối thiểu là 5 năm và liên tục trong 2 năm gần
nhất hoạt động kinh doanh có lãi
- Hệ số cooke >=8%
- Tỷ lệ nợ xấu /tổng dƣ nợ cho vay <5%
- Bộ máy quản trị, kiểm soát điều hành hoạt động có hiệu quả
- Không vi phạm pháp luật về tổ chức hoạt động ngân hàng
- Có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại
UBCKNN cần có quy định về chuyển nhƣợng cổ phiếu trong giai đoạn
đầu
89
Chƣa nên cho phép một số đối tƣợng đƣợc đăng kí giao dịch nhƣ cổ phiếu
của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc
trong thời gian đƣơng nhiệm, cổ phiếu ƣu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập
trong thời hạn 3 năm đầu kể từ khi thành lập.
UBCKNN cần có quy định về chuyển đổi mệnh giá cổ phiếu
Theo quy định của UBCKNN cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK đều có
mệnh giá là 10000VNĐ trong khi đó mỗi ngân hàng hiện nay phát hành một
loại cổ phiếu có mệnh giá khác nhau. Vì vậy, UBCKNN cần phải có quy định
về việc chuyển đổi các cổ phiếu ghi tên hiện hành thành một loại cổ phiếu có
mệnh giá phù hợp với yêu cầu niêm yết của UBCKNN và theo một mẫu
thống nhất để tiện cho việc chuyển nhƣợng. Mặt khác, hiện nay trên TTCK tự
do ta thấy rằng mệnh giá cổ phiếu của các ngân hàng thƣờng rất lớn nên việc
cơ hội mua cổ phiếu của ngân hàng chỉ có những tổ chức lớn hoặc những
ngƣời có nhiều tiền mới có đƣợc. Trong khi đó, ngƣời đầu tƣ trên TTCKVN
lại chủ yếu là các nhà đầu tƣ nhỏ lẻ, với thu nhập chƣa phải là cao nên việc
tiếp cận với cổ phiếu của ngân hàng với họ là rất khó. Vì vậy, UBCKNN cần
trao đổi với NHNN để chia nhỏ mệnh giá cổ phiếu của ngân hàng xuống tạo
điều kiện cho các nhà đầu tƣ cá thể có thể đầu tƣ vào cổ phiếu ngân hàng.
UBCKNN cần phối hợp với NHNN, và các cơ quan chức năng khác
để tổ chức quản lý tốt thị trƣờng đặc biệt là trong tổ chức quản lý thông tin
trên TTCK giúp cho thông tin trên thị trƣờng đƣợc minh bạch, xác thực để
các nhà đầu tƣ có đƣợc những thông tin chính xác nhất về chủ thể phát hành
chứng khoán từ đó tránh đƣợc những rủi ro do tin đồn thất thiệt trên thị
trƣờng gây ra cho ngân hàng. Cần phải có sự thống nhất trong chế độ báo cáo
thông tin giữa UBCKNN và NHNN để vừa đảm bảo tính minh bạch công
khai của TTCK vừa đảm bảo tính bảo mật thông tin trong công tác quản lý
của NHNN.
90
* Thu hút các nhà đầu tƣ có tổ chức, nhà đầu tƣ chuyên nghiệp tham
gia TTCK
Thông qua việc hình thành và phát triển các loại hình quỹ đầu tƣ, công ty
quản lý quỹ, mở rộng giới hạn tham gia của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài trên
TTCKVN...để phát triển cơ sở nhà đầu tƣ cho TTCKVN. Bởi vì với sự tham
gia của các tổ chức này, TTCKVN sẽ trở lên chuyên nghiệp hơn, hoạt động
theo đúng quy luật hơn và hiệu quả hoạt động của mỗi tổ chức niêm yết sẽ
đƣợc phản ánh chính xác hơn thông qua sự biến động của giá chứng khoán.
Hơn nữa, với sự tham gia của các tổ chức đầu tƣ này TTCKVN sẽ trở lên sôi
động hơn và an toàn hơn rất nhiều. Đây sẽ là một hấp dẫn lớn đối với các
NHTMCP.
UBCKNN phối hợp cùng với NHNN lựa chọn đƣa một số NHTMCP
đủ tiêu chuẩn tham gia niêm yết lên niêm yết trên TTGDCK
UBCKNN có thể dựa trên đánh gía xếp hạng các NHTM của NHNN
để lựa chọn ra những NHTMCP có quy mô lớn, hoạt động kinh doanh hiệu
quả, ít rủi ro, có uy tín và sẵn lòng tham gia niêm yết để niêm yết trên TTCK
tạo điều kiện cung cấp hàng hoá có chất lƣợng cho thị trƣờng, mở đƣờng cho
việc tham gia niêm yết của hệ thống các NHTMCP nói riêng và của các doanh
nghiệp nói chung góp phần tăng cung trên TTCK. Hiện nay có một số ngân
hàng có hiệu quả kinh doanh cao đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn niêm yết và cũng
đã sẵn sàng niêm yết trên TTCK nhƣ: ACB, Sacombank, Eximbank… NHNN
và UBCKNN cần phải nhanh chóng ban hành các quyết định cho phép các
NHTMCP này lên niêm yết trên TTCKVN.
91
KẾT LUẬN
Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam, nhu cầu vốn
để đầu tƣ phát triển kinh tế xã hội ngày càng lớn không thể chỉ đƣợc đáp ứng
bằng nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng. Vì vậy, việc xây dựng và phát
triển thị trƣờng tài chính trong đó có TTCK là vô cùng quan trọng và cần
thiết. Đây là một kênh huy động và phân bổ vốn trung dài hạn hiệu quả nhất
cho nền kinh tế. Giữa hoạt động ngân hàng và hoạt động cuả TTCK luôn có
mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Quá trình hội nhập kinh tế thế giới
luôn luôn đòi hỏi các ngân hàng phải luôn tích cực trong việc nâng cao vị thế,
hình ảnh của mình để có thể tồn tại trong một môi trƣờng cạnh tranh khốc
liệt. Đối thủ cạnh tranh của các ngân hàng ngày nay không chỉ bao gồm các
ngân hàng trong nƣớc mà còn có các ngân hàng nƣớc ngoài đặt ra nhiều thách
thức cho các NHTMCP. Và một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để thực
hiện nhiệm vụ này là các NHTMCP thực hiện phát hành và niêm yết chứng
khoán trên TTGDCK. Điều này không chỉ có ý nghĩa với riêng các NHTMCP
mà còn có ảnh hƣởng rất lớn tới sự phát triển của TTCKVN.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của vấn đề này, ngay từ khi
TTGDCKTPHCM mới đi vào hoạt động, Chính phủ đã cùng với UBCKNN
và NHNN thảo luận để tìm ra giải pháp nhằm nhanh chóng đƣa cổ phiếu của
các ngân hàng không chỉ bao gồm các NHTMCP mà còn có cả các ngân hàng
thƣơng mại nhà nƣớc lên sàn giao dịch chứng khoán. Việc học hỏi và tiếp thu
những bài học của một nền kinh tế lớn nhƣ Trung Quốc là một yêu cầu tất yếu
để đẩy nhanh tiến trình phát triển của hệ thống ngân hàng thƣơng mại Việt
Nam. Nhận thức và phát huy những bài học đầy ý nghĩa trong hoạt động niêm
yết chứng khoán của các NHTMCP Trung Quốc sẽ tạo ra cơ sở lý luận và
thực tiễn hết sức sâu sắc cho bƣớc đƣờng hội nhập và phát triển của cac
92
NHTMCP Việt Nam . Tuy nhiên, đây không phải là một việc mà một sớm
một chiều có thể thực hiện đƣợc mà nó đòi hỏi cần có thời gian để thực hiện
từng bƣớc. Xuất phát từ yêu cầu trên, khoá luận đã thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Thứ nhất, phân tích sự cần thiết tham gia niêm yết của các NHTMCP
trên TTCK.
- Thứ hai, đánh giá thực trạng tham gia niêm yết của các NHTMCP
trung Quốc và những thuận lợi cũng nhƣ khó khăn khi tham gia niêm yết trên
TTCK từ đó rút ra nhứng bài học để hoàn thiện TTCK cũng nhƣ những bài
học về nâng cao hiệu quả niêm yết đối với các NHTMCP Việt Nam .
- Thứ ba, đƣa ra đƣợc một hệ thống giải pháp nhằm cụ thể hoá những
bào học để thúc đảy việc đƣa các NHTMCP lên niêm yết trên TTCKVN.
Để hoàn thành khoá luận này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của
cô giáo: TS. Đặng Thị Nhàn - ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn em trong suốt thời
gian qua, cùng các anh chị làm việc tại Trung tâm nghiên cứu khoa học đào
tạo và bồi dƣỡng nghiệp vụ chứng khoán - UBCKNN. Do còn có sự hạn chế
về kiến thức thực tế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
em rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để
khoá luận đƣợc hoàn chỉnh hơn.
93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản luật và giáo trình
1) Luật chứng khoán Việt Nam
2) Luật Ngân hàng Nhà nƣớc và các tổ chức tín dụng Việt Nam.
3) Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng - Học viện Ngân hàng.
4) Giáo trình Ngân hàng Trung ƣơng- Học viện Ngân hàng.
5) Giáo trình Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng- Học viện Ngân hàng.
6) Đinh Xuân Trình, Nguyễn Thị Quy, “Giáo trình thị trƣờng chứng
khoán”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.Cẩm nang đầu tƣ chứng
khoán – Nhà xuất bản văn hoá thông tin
7) “Luật chứng khoán nƣớc Cộng hoà nhân dân Trung Hoa” (bản sửa đổi
năm 2005, doawload từ Website của CSRC)
II. Báo và tạp chí
1) "Một số suy nghĩ về việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP trên
TTCK ở nƣớc ta" - Ths. Ngô Minh Châu - Trang 27 -Thị trƣờng tài
chính tiền tệ 15/11/2005
2) "Niêm yết cổ phiếu của NHTMCP và cổ phần hoá NHTMNN - giải
pháp quan trọng phát triển TTCK" - TS. Hà Quang Đào -Trang 22 -
Thị trƣờng tài chính tiền tệ 15/5/2004
3) "Niêm yết cổ phiếu của các NHTMCPVN - cơ hội và thách thức" -
Đinh Anh Dũng - Trang 46 - Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng
số 6 (11+12/2005)
4) “Một số vấn đề về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng” ngân
hàng nhà nƣớc Việt Nam
5) "Niêm yết và phát hành cổ phiếu của NHTMCP trên TTGDCK:
điều kiện đã chín muồi" - Nguyễn Thị Kim Nhung - Trang 41 - Tạp
chí tài chính tháng 4/2003
94
6) "Kết quả bƣớc đầu của việc thực hiện chấn chỉnh, củng cố, sắp xếp
lại NHTMCP ở nƣớc ta" - Ths. Nguyễn Kiến Quân - Tạp chí ngân
hàng số 7/2003
7) "Công tác tạo hàng cho TTCKVN - một số tồn tại và kiến nghị" -
Vụ quản lý và phát hành chứng khoán - UBCKNN -Trang 19 -
Chứng khoán Việt Nam số 7/2004
8) "Thúc đẩy các NHTMCP tham gia niêm yết" - Tin UBCKNN -
Trang28- Chứng khoán Việt Nam số 2/2003
9) "Báo cáo tổng kết 3 năm hoạt động TTCK" - Trang 6 - Chứng
khoán Việt Nam số 7 tháng 7/2003
10) "Sẽ có 2 ngân hàng niêm yết - NHNN ban hành quy chế niêm yết
cổ phiếu ngân hàng" - Trần Kiên - Trang15 - Đầu tƣ chứng khoán
11) "Cơ hội mua cổ phiếu ngân hàng" - Dƣơng Nguyễn - Trang15 -
Đầu tƣ chứng khoán số 253 (11/10/2005)
12) "Những cú sốc thông tin" - Phúc Lân - Trang 17 - Đầu tƣ chứng
khoán số 215,216
III.Các Website:
1. (Website của Uỷ ban Chứng khoán Việt Nam)
2. (Website của Báo đầu tƣ)
3. (Báo điện tử Vietnamnet)
4. (Mạng thông tin chứng khoán Việt Nam)
5. (Báo điện tử tin nhanh Việt Nam)
6. (Website của Uỷ ban Giám quản Chứng khoán
Trung Quốc)
7. (Website của Mạng thông tin chứng khoán TQ)
8. (Website của Báo chứng khoán TQ)
9. (Websie của Thời báo chứng khoán TQ)
10. (Website của sở giao dịch chứng khoán Thƣợng Hải)
11.
12. (Website của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa)
95
13. (Website của Ngân hàng Trung Quốc)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3524_1469.pdf