Nền hội họa Việt Nam được khởi đầu tốt đẹp từ trường Mỹ thuật Đông
Dương, phát triển rực rỡ suốt năm tháng thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt
Nam thế kỷ 20 và đến giai đoạn này đang ở trên một tầm cao mới. Tư duy tạo
hình, ý định nghệ thuật, cảm xúc thẩm mỹ của các nghệ sĩ bay xa hơn, mang
đậm cá tính sáng tạo riêng. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, nhiều
gương mặt mới xuất hiện, nhiều cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống khác
nhau được công bố. Tuy đã có một đội ngũ nghệ sĩ tạo hình hùng hậu và
chính họ đã để lại cho xã hội một kho tàng di sản về mỹ thuật có giá trị cao có
thể kể trên nhưng vẫn còn thiếu nhiều tác phẩm đề tài chưa khai thác một
cách tích cực. Trong bối cảnh đất nước thay đổi như hiện nay, đời sống nông
nghiệp không còn là nền kinh tế chính yếu. Tuy nhiên nó vẫn đóng vai trò
trong đời sống xã hội, nhất là vùng nông thôn Việt Nam. Để khuyến khích và
phát huy anh em họa sĩ hăng hái tham gia nghiên cứu, thể hiện đề tài nông
nghiệp, thiết nghĩ Hội mỹ thuật Việt Nam cùng các sở, ban, ngành nên
khuyến khích mở trại, các cuộc thi về đề tài này với hy vọng đưa hình ảnh
người nông dân vào những tác phẩm thành công, chất lượng, kịp ca ngợi làm
phong phú cho mảng đề tài này, góp phần xây dựng và phát triển nền Mỹ
thuật Việt Nam hiện đại giàu bản sắc dân tộc.
110 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1555 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955 - 1985, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời phụ nữ nông thôn trung hậu, đảm đang, giỏi việc nước, đảm
việc nhà đang làm những công việc băm bèo, nấu cám, cho lợn ăn... Cũng
gam màu nóng nồng ấm làm chủ đạo, màu vàng đỏ chuyển sắc độ của áo,
vàng pha xanh rêu phong của tường rêu mốc, vài chú lợn con to khỏe với màu
đen đậm cùng với sự nhẹ nhàng tươi mát của xanh bầu trời như thấy cảnh
nông thôn thanh bình, mang những nét êm ả, nhẹ nhàng và đầy dung dị.
Hai tác phẩm Ruộng đồng (1962) [H 2.3; tr 88] của Quang Phòng, và
Hái cà phê (1964) [H 2.4; tr 88] của Lương Xuân Nhị là hai tác phẩm được
xếp cùng nhóm đồng nhất gam màu lạnh. Nếu màu nóng tạo cảm giác ấm áp,
sôi nổi; thì màu lạnh là màu gần tạo cảm giác trầm lắng, yên tĩnh. Trong loạt
tranh về nông thôn thời đó, tác phẩm Ruộng đồng là bức in khắc gỗ màu công
phu, có sắc độ. Ông vẽ người nông dân chăn trâu trên cánh đồng bao la xanh
ngắt, cả ruộng đồng, trâu và người được diễn tả khá kỹ về sắc độ như tranh vẽ
thuốc nước trong veo đến lạ thường. Màu sắc có vẻ đậm, nhạt, nông sâu đã
tạo ra ảo giác lung linh của ánh sáng. Trong tranh khắc gỗ để làm được như
55
vậy đòi hỏi tỉ mỉ và nhiều thời gian, in nhiều lớp màu chuyển nhạt sang đậm
khác nhau. Để khắc họa hai cô gái là nhân vật chính trong tác phẩm Hái cà
phê [H 2.4, tr 88] họa sĩ Lương Xuân Nhị đã dùng những mảng màu bẹt kết
hợp những đường cong mượt của nếp gấp áo quần đang đứng hái những quả
cà phê đỏ tươi quay lưng về phía mặt tranh. Hai mái tóc dài được thắt buộc
lỏng thật thướt tha, mềm mại gợi bằng mảng màu đen càng tôn thêm khuôn
mặt màu hồng nhạt thật nữ tính. Màu xanh mát mẻ của lá cà phê thật nhiều,
gợi không gian thoáng đãng, thanh bình càng làm nổi bật sắc độ trên nền màu
nền nâu nhẹ.
Màu sắc trong tranh khắc thường ít, nó đòi hỏi người nghệ sỹ phải chọn
lọc một cách sắc sảo và thường được thể hiện ở những mảng màu trầm sâu
lắng, tĩnh tại mà có sắc có nhị. Được lưu giữ tại BTMTVN, Hà Mỹ Lý có bức
Một buổi cấy [H 2.25; tr 100] cũng minh chứng thêm cho nhận xét trên. Sắc
trong tranh thường được thể hiện ở ba cấp độ chính là sáng, tối, trung gian
(tông ghi). Màu sắc đơn giản, không có màu choé, màu rực. Màu đậm trong
tranh là màu đen, hoặc xanh đen, nâu diễn tả núi, bờ ruộng, người quán
xuyến toàn bộ bố cục, hình khối trong tranh. Các tông ghi được bổ trợ làm
tăng sự hấp dẫn của sắc độ sáng trên vật thể dưới tác động của ánh sáng phía
xa xa. Kết hợp với những nét khắc khác nhau người họa sỹ đã đem lại cho
một buổi cấy trong tranh khắc hiện đại sự khỏe khoắn, nhưng cũng tràn đầy
tình cảm của mình. Tác phẩm có giá trị ở giai đoạn này được BTMT lưu giữ
đã chứng minh tình yêu thiên nhiên đất nước, con người, đồng thời phản ánh
tinh thần của thời đại với sự đồng cảm và trách nhiệm của người nghệ sỹ.
Trong hai yếu tố hình và sắc làm nên diện mạo một bức tranh thì sắc có
vai trò đem lại cảm hứng cho cả người sáng tác cũng như người thưởng thức.
Dù ở bất kỳ tác phẩm nào thì sắc trong tranh vẫn được thể hiện ở ba cấp độ
chính là sáng, tối, trung gian (tông ghi). Màu đậm trong tranh thường là màu
đen, hoặc xanh đen, nâu quán xuyến toàn bộ bố cục, hình khối trong tranh.
56
Các tông ghi được bổ trợ làm tăng sự hấp dẫn của sắc độ sáng trên vật thể
dưới tác động của ánh sáng. Có thể nói, màu sắc trên tranh cũng giống như
màu sắc trong đời sống và thiên nhiên vì độ chuyển màu của nó vô cùng
phong phú. Màu sắc tạo cảm giác trong sự chuyển động của hình ảnh, có thể
lùi ra sau hoặc tiến về phía trước trong không gian tạo nên chiều sâu trên mặt
phẳng hai chiều của tác phẩm, giúp người xem cảm nhận phần nào được chất
và độ xa gần hay tình hình của sự vật, hiện tượng mà tác giả muốn trình bày.
Tiểu kết
Chương 2 luận văn nghiên cứu về nội dung, hình thức đề tài nông nghiệp
trong khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 nhằm làm rõ giá trị nghệ thuật
của các tác phẩm cũng như lịch sử xã hội lúc bấy giờ mà nó phản ánh. Ngôn
ngữ tạo hình như đường nét, hình khối, màu sắc đều phóng khoáng, điển
hình, các tác phẩm mang đậm nét dân gian, đã truyền tải được tính nhân văn
sâu sắc. Kỹ thuật tạo hình ngày một hoàn thiện, tranh khắc gỗ đã có hình thức
mới bắt kịp sự yêu cầu thời cuộc. Có một số ít vẫn theo đuổi phong cách tạo
hình dân gian, nhưng vẫn tạo những hơi hướm riêng cho những họa sĩ. Trong
giai đoạn mở cửa, do được tự do phóng khoáng tiếp cận nhiều nền văn hóa
mới, tranh khắc gỗ đã có bước chuyển mình quan trọng, tạo ra sức sống tươi
mới, tham gia vào sự phát triển chung của nghệ thuật đương đại. Nghiên cứu
đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ ở các giai đoạn khác nhau, có thể thấy
được sự đa dạng trong phong cách, lối thể hiện, thấy được hoàn cảnh nông
thôn Việt Nam và đời sống thành phần nông dân qua các giai đoạn lịch sử đất
nước. Tất cả đều biểu thị niềm hạnh phúc, niềm vui của người nông dân làm
chủ công việc, làm chủ ruộng đồng với niềm vui hạnh phúc khôn tả, vững tin
tương lai. Có thể nói rằng tranh khắc gỗ của Việt Nam ở thời kỳ này đã được
các họa sĩ thể hiện nghiêm túc không kém gì các tác phẩm sơn dầu hay sơn
mài.
57
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1. Thành công và hạn chế đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ
Việt Nam giai đoạn 1955- 1985
Thành công của tranh khắc gỗ Việt Nam đề tài nông nghiệp giai đoạn
1955-1985
Nông nghiệp nói riêng hay nông thôn nói chung luôn là mảng đề tài gợi
cảm hứng sáng tác cho đông đảo đội ngũ văn nghệ sĩ. Có thể nói những bức
tranh khắc gỗ Việt Nam về đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-1985 nội dung
đã phản ánh sinh động hiện thực về sự phát triển của nền nông nghiệp nước
nhà giai đoạn thống nhất đất nước, xây dựng và phát triển. Các tác phẩm khá
thành công về đề tài nông nghiệp luôn được nhắc đến là những tác phẩm quý
về đề tài nông nghiệp mà hiện nay vẫn là những bài học vô giá cho lớp họa sĩ
sau noi theo: Ruộng đồng- Quang Phòng; Đôi bạn- Trịnh Thiệp; Ra đồng-
Huy Oánh; Cấy hết diện tích- Trịnh Phòng; Trục lúa- Phạm Văn Đôn; Con
trâu là đầu cơ nghiệp, Chăm học chăm làm- Trần Nguyên Đán; Phơi thóc-
Mạnh Hào; Chống hạn- Phùng Phẩm; Buổi sớm- Nguyễn Duyện; Những cô
thợ cấy Định Công- Văn Bình; Một buổi cấy- Hà Mỹ Lý
Sứ mệnh cao cả của nghệ thuật nói chung, một tác phẩm Mỹ thuật nói
riêng phải đề cập đúng, trúng và giải quyết những vấn đề hiện thực cuộc sống
của dân tộc, thời đại. Qua những sáng tác khắc gỗ về đề tài nông nghiệp cho
thấy những định hướng đúng đắn của Đảng, Nhà nước đã phát động sáng tác
trong văn nghệ sĩ trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động sáng tác văn nghệ
lúc bấy giờ. Nghệ thuật cũng như hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà
phải đứng cùng kinh tế, chính trị. Đó là việc chú trọng tập trung phát triển,
khai thác nguồn tài nguyên có sẵn của đất nước như đất đai, nguồn nước,
58
Văn hóa, văn nghệ phải nói lên được cái hay, cái đẹp của con người mới, xã
hội chủ nghĩa, ca ngợi những tấm gương điển hình trong chiến đấu và lao
động xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người cơ niềm tin vào tương lai tươi sáng
của dân tộc.
Đề tài nông nghiệp với những nội dung chủ đề xoay quanh nó (cấy cày,
trồng trọt, chăn nuôi, thu hoạch, xây dựng cơ sở nông nghiệp,) đã được
quan tâm và mở rộng trước những biến động mạnh mẽ của thực tiễn xã hội và
quan niệm nghệ thuật phản ánh chân thực cuộc sống. Năm 1954, Mỹ mở rộng
chiến tranh phá hoại miền Bắc nên giai đoạn này đòi hỏi các nghệ sĩ phải
thích ứng với mọi hoàn cảnh, vừa tham gia cuộc chiến, vừa sáng tác tranh
phục vụ tuyên truyền đường lối của Đảng: động viên mọi người vượt lên khó
khăn của cuộc chiến, tranh thủ tăng gia sản xuất ở các địa phương vì có sự
ủng hộ đồng tình của các nước trên thế giới. Họ hòa nhập cùng người nông
dân, không ít các anh em họa sĩ ban ngày đi làm cùng nông dân, gắn bó ăn ở
làm việc cùng nông dân, họ thực sự trải nghiệm và cảm nhận sâu sắc công
việc nặng nhọc ấy. Góc độ khai thác đề tài này khá phong phú dưới nhiều
hoạt động sinh hoạt dù ở cận cảnh hay toàn cảnh. Không khí hào hùng, sôi
động, niềm vui chiến thắng của dân tộc đã lan tỏa đến các họa sĩ, họ thấy
mình phải có trách nhiệm cống hiến hết mình cho đất nước, họ khao khát ca
ngợi hình ảnh người nông dân gần gũi, chịu thương chịu khó, hay lam hay
làm hằng ngày hiện diện trên cánh đồng. Khi xem tranh ta mới thấy tất cả đều
bắt nguồn từ cuộc sống đích thực của người nông dân. Người nông dân “chắc
tay súng, vững tay cày”, lao động cầu cù, chiến đấu dũng cảm. Hình tượng
người lao động ruộng đồng được đề cập một cách sâu sắc và hầu hết những
tác phẩm đều biểu hiện niềm say mê trong niềm vui lao động, xây dựng đất
nước. Hình tượng ấy hiện lên trong tranh tượng hiện đại một vẻ đẹp rắn rỏi, tự
chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn giản, trong sáng.
Thành công về đề tài nông nghiệp ngoài phản ánh trên khía cạnh về nội
59
dung chủ đề, còn thấy trên phương diện hình thức nghệ thuật. Sau năm 1955,
các họa sĩ có điều kiện để tập trung vào sáng tác, quay về với những quan tâm
riêng của nghệ thuật, cá nhân, xã hội, thực hiện những tác phẩm tâm huyết
của mình dựa trên những tư liệu và kinh nghiệm bản thân tích lũy ở giai đoạn
trước. Tranh khắc gỗ giai đoạn này có thể chia làm hai xu hướng: xu hướng
dựa trên cơ sở truyền thống để cách tân (kế thừa tranh khắc gỗ truyền thống ở
kỹ thuật, nét và màu, nhưng bớt đi sự ước lệ, thay vào đó tiến gần hơn với tả
thực ở tỷ lệ, hình thể, cấu trúc, nguyên tắc phối cảnh xa gần trong tranh) và
cách tân đổi mới hoàn toàn. Dù có cách tân ở mức độ nào thì việc kế thừa
nghệ thuật truyền thống là vô cùng quan trọng, bởi không có một nền nghệ
thuật nào phát triển khi không có những thành tựu làm điểm tựa trong quá
khứ. Trong giai đoạn 1955-1985, tranh khắc gỗ chiếm một vị trí đặc biệt trong
Mỹ thuật Việt Nam hiện đại. Nhiều họa sĩ trưởng thành trong kháng chiến,
được học tập nghệ thuật và ảnh hưởng trực tiếp lối tư duy tạo hình phương
Tây. Ngôn ngữ tạo hình phong phú, đa dạng: bố cục thường táo bạo, diễn tả
sáng tối đậm nhạt tương phản mạnh, đường nét cô đọng, tượng trưng, có phối
cảnh xa gần mang nhiều ấn tượng cho công chúng thưởng thức. Với những
đặc tính tranh khắc gỗ và những thay đổi về chất liệu, kỹ thuật, ở tranh đen
trắng, các họa sĩ đã tận dụng và khai thác hết những tính chất của nét, chấm,
mảng, trong tranh thật đa dạng. Khi không có màu, sự biến ảo của nét, chấm
với mật độ dày mỏng khác nhau sẽ tạo ra độ đậm nhạt, sáng tối, góp phần cho
sự liên tưởng màu sắc của vật thể. Đường nét bao ngoài xây dựng, giới hạn
hình ảnh, cũng có thể phân giải, chia cắt, biểu hiện bề mặt khối, chất, biểu
hiện sự sáng tối, thô mảnh, hay chất da thịt, vải vóc, kim loại, Tranh khắc
gỗ về đề tài nông nghiệp chủ yếu là đen trắng nhưng cũng đã thấy xuất hiện ở
đâu đó những tác phẩm có màu. Sự phối màu rực rỡ, trong sáng hay những
mảng đen khỏe khoắn, chắc nịch mang đầy tính tượng trưng, ước lệ theo phối
cảnh hiện thực đã làm nên những giá trị, sự hấp dẫn của một loạt các tác
60
phẩm thú vị. Bảng màu đẹp dung dị, gần gũi thị yếu thẩm mỹ người Việt, đã
tạo nên dấu ấn cá nhân bởi chính tình cảm chân thành của họa sĩ kết hợp niềm
say mê nghề nghiệp, những giây phút thăng hoa kỳ diệu của sáng tạo đã tạo
nên thành công ở thời kỳ này. Các tác phẩm mang đầy đủ yếu tố của nghệ
thuật hiện đại, từ nội dung đến cách truyền đạt, và điều quan trọng là những
tác phẩm đó phản ánh đầy đủ nhất tư duy tạo hình cũng như thẩm mỹ dân tộc
người Việt.
Có thể thấy việc kế thừa nghệ thuật truyền thống được các họa sĩ nhận
thức đúng đắn và coi đây là một việc vô cùng quan trọng. Mỗi họa sĩ đều có
con đường riêng tạo nên phong cách của mình nhưng phần lớn họa sĩ đồ họa
đều hứng thú với việc khai thác những đặc trưng tiêu biểu của tranh dân gian
Việt Nam từ chủ đề đến cách tạo hình ước lệ. Dù nắm bắt được những quy
luật của tạo hình hiện đại và phản ánh những vấn đề xã hội đương thời nhưng
họa sĩ luôn biết kết hợp tạo hình dân gian với tạo hình hiện đại. Để kế thừa
hiệu quả những tinh hoa nghệ thuật dân tộc, người nghệ sĩ cần phải có sự lao
động nghiêm túc, lòng say mê, sự kiên trì, tính sáng tạo trong mỗi cá nhân để
kết hợp hài hòa giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại.
Hạn chế của tranh khắc gỗ Việt Nam đề tài nông nghiệp giai đoạn 1955-
1985
Không phải vấn đề nào cũng đều tốt đẹp hoàn hảo, trải qua thời gian mọi
vấn đề đều có mặt được và mất, bởi không tránh khỏi sự tác động của ngoại
cảnh làm cho biến đổi. Vì thế mọi sự việc, sự vật luôn có bề dày lịch sử đầy
đặn cũng như sự thăng-trầm của nó. Đề tài nông nghiệp không nằm ngoại lệ,
nhất là giai đoạn đất nước sau khi giành được độc lập, tuy 95% dân ta làm
nông nhưng vẫn còn chìm trong nghèo đói, nền nông nghiệp còn non trẻ mới
đi ra từ cuộc chiến tả tơi nên ngoài những thành công nhất định kể trên còn
thấy le lói xuất hiện một số những hạn chế còn gặp phải trên cả hai phương
diện nội dung chủ đề và hình thức thể hiện:
61
- Bám sát vào mốc thời gian lịch sử, do thực tế ở miền Bắc, trước những
yêu cầu của nông dân, củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận
thống nhất; Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương đã ra quyết định: “Đẩy
mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất” với chủ trương lấy
người giàu chích cho người nghèo, mô hình tự làm tự hưởng có hiệu lực, khẩu
hiệu “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. Có thể nói việc “Cải cách
ruộng đất” năm 1954-1957 khi ấy gây được tiếng vang mạnh mẽ trong nông
nghiệp và vì thế là đề tài có tính thời sự cho nhiều họa sĩ thời bấy giờ. (trong
Điêu khắc có bức Cắm thẻ nhận ruộng- thạch cao (1956) của Trần Văn
Lắm)... Vậy mà ở thể loại tranh đồ họa- khắc gỗ không thấy đề cập đến sự
kiện lịch sử quan trọng này, hay nói cách khác chưa bám sát vào tình hình, sự
kiện lịch sử một cách triệt để; chưa thể hiện sự tham gia sáng tác đông đảo
của các họa sĩ. Ở đây chỉ đề cập đến vấn đề “Hợp tác xã nông nghiệp” theo
mô hình làm ăn tập thể.
- Những năm 1957, Việt Nam được sự ủng hộ của nước bạn như Nga,
Trung Quốc sang hỗ trợ về máy móc, trang thiết bị; ngoài khôi phục, xây
dựng nhà máy xí nghiệp cho công nghiệp ra thì thiết bị phục vụ nông nghiệp
cũng nằm trong số đó. Khi ấy ở mỗi huyện đều thành lập một đội máy kéo
tầm 15-30 máy, có nhiệm vụ đi cày bừa khắp nơi, từ xã nọ sang xã kia, huyện
nọ sang huyện kia để đảm bảo nơi đâu cũng được cấy cày bình đẳng. Tuy vậy,
khi nhìn lại tranh khắc gỗ ở đây chỉ đề cập đến dụng cụ thuần nông với lao
động chân tay như cuốc, xẻng, ít sự xuất hiện của máy móc, như xe kéo, máy
cày, trạm bơm,mà có chăng cũng chỉ manh nha xuất hiện chi tiết này ở một
số tác phẩm như Buổi sớm- Nguyễn Duyện; Trên vùng kinh tế mới- Hoàng
Hoan, Sáng tác chủ yếu miêu tả những thao tác lao động chân tay thuần
nông, người nông dân ít được bao bọc bởi những công cụ máy móc, nên thấy
ít được tính hiện đại, nhịp điệu hay tốc độ, sự năng động mà hơi hướm của
công nghiệp mang lại.
62
Ngoài ra, cùng với phát triển về máy móc, cũng thời kỳ này Đảng và nhà
nước ngoài tăng thêm đàn trâu bò gia súc, sắm thêm nông cụ, đã cho xây
dựng công trình thủy nông mới, mở rộng diện tích tưới và tiêu nước, mương
máng cho hợp lý, khoa học hơn nhưng vấn đề này cũng ít được nhắc đến, chỉ
là chi tiết nhỏ trong: Đôi bạn- Trịnh Thiệp; Buổi sớm- Nguyễn Duyện; Những
cô thợ cấy ở Định Công- Văn Bình;Điều này cho thấy những gì các họa sĩ
phản ánh góc nhìn còn hạn chế, bởi chưa phản ánh hết những gì thực tế lúc
bấy giờ trong khi thời kỳ này đất nước đã bắt đầu chuyển sang công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đề tài nông nghiệp được mở rộng, rất phong phú đa dạng thêm nhiều
chủ đề và mỗi chủ đề cũng có nhiều vấn đề nhỏ hơn để khai thác. Ví như chủ
đề Cấy cày gồm có những công đoạn: Cày bừa - gieo mạ - cấy- chăm bón,
nhổ cỏ - phân bón - gặt - thu hoạch thì ở đây các họa sĩ khắc gỗ chỉ tập trung
nhiều nhất vào công đoạn cấy và cày bừa, hay thu hoạch mà bỏ qua những
công đoạn khác có thể khai thác làm tranh. Như vậy nội dung tranh bị bó hẹp,
chỉ miêu tả lặp đi lặp lại tập trung ở những hành động qua đỗi quen thuộc,
phổ thông thường thấy.
- Có thể do hạn chế khó khăn của thời kỳ lúc bấy giờ, các họa sĩ chưa có
điều kiện làm những bức tranh khắc gỗ khổ lớn hoặc hoành tráng nên đa phần
chỉ dao động tầm 20-40 cm. Giai đoạn này có lúc vẫn còn chiến tranh nên
nguồn nguyên liệu sản xuất ra miếng khắc gỗ còn hạn chế, mang vác di
chuyển tranh khổ lớn là khó khăn, và phần vì phải đầu tư thời gian nhiều cho
dòng tranh này mới có thể có hiệu quả tốt nhất.
- Ngoài ra, do ảnh hưởng của cùng môi trường hoạt động nghệ thuật, sự
tiếp thu học hỏi là xung quanh lẫn nhau nên nhìn thoáng qua có thể thấy một
số bức tranh mang phong cách na ná gần giống nhau, mà nếu không xem tên
tác giả thì khó có thể nhận biết được do những người khác nhau làm.
- Tồn tại ở một số tác giả khi sáng tác để tài này chủ yếu tả phong cảnh
63
với khoảng không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn có mây, trời, đất, nước,
còn con người chỉ xuất hiện như mang ý nghĩa điểm xuyết cho cảnh thêm sinh
động. Cách xử lý bố cục ảnh hưởng nhiều của lối bố cục miêu tả phong cảnh
nông thôn, đồng ruộng Việt Nam. Vì vậy chưa phản ánh được hết và sâu hơi
thở bên trong, sự sôi động nhộn nhịp của người nông dân khôi phục nền nông
nghiệp sau khi đất nước hòa bình, có điều gì đó vẫn mang cảm giác bình lặng.
Một số họa sĩ đã cố gắng diễn tả những khung cảnh của hoạt động nông
nghiệp tại nhiều địa phương, địa hình của đất nước, nhưng do ảnh hưởng của
lối “trực họa”, ghi chép hiện trường nên chưa khai thác được chiều sâu của
nhịp điệu tạo hình.
Từ những thành công và hạn chế đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ
Việt Nam giai đoạn 1955-1985, luận văn xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến
đóng ý về việc sáng tác trong giai đoạn này:
- Trong bối cảnh đất nước thay đổi như hiện nay, đời sống nông nghiệp
không còn là nền kinh tế chính yếu. Tuy nhiên nó vẫn đóng vai trò quan trọng
trong đời sống xã hội, nhất là vùng nông thôn Việt Nam còn nhiều khó khăn.
Vì thế các họa sĩ cần thâm nhập, đi sâu vào nền nông nghiệp để hiểu rõ về
tâm tư, tình cảm, bản chất người nông dân sẽ thấy bản thân được đổi mới
trong tư tưởng, tình cảm, tâm lý và phương pháp sáng tác. Điều này cần có
một quá trình, và sự kiên trì, bền bỉ, tình yêu thực sự với người nông dân chân
lấm tay bùn cũng như những công việc vất vả. nhọc nhằn của họ.
- Khắc phục việc miêu tả phong cảnh (sông, nước, mây trời, không
gian,) nên hạn chế mà thay vào đó lựa chọn hoạt động tiêu biểu của người
nông dân để họ cũng như hoạt động sinh hoạt nghề nông là hình ảnh chính
trong tác phẩm. Chú trọng khai thác máy móc có trong nông nghiệp cũng như
cập nhập tình hình nông nghiệp đương thời. Ngoài ra, nên khai thác nhiều
khía cạnh, nhiều mặt cùng như những diễn biến tâm lý, sự biểu cảm tâm trạng
của họ trong các mối quan hệ, trong nhiều địa điểm khác nhau để nắm bắt
64
được cái động, thần sắc tinh vi, tuyệt đẹp của nhịp điệu nông nghiệp.
- Không chỉ dừng lại ở những bối cảnh trên cánh đồng, trên lưng trâu,
trong vườn thu hoạch hoa quả, của người nông dân, họa sĩ cần chú trọng
đến khai thác khía cạnh diễn biến tâm trạng của con người trong mối quan hệ
xã hội, quan hệ gia đình và các quan hệ khác trong sinh hoạt đời thường.
Người nông dân cần được khám phá về nhiều mặt. Tiếp đến, ở đây chưa thấy
tác phẩm nào xuất hiện về hình tượng người nông dân mà cụ thể đi sâu vào
khai thác mảng chân dung, đặc điểm trên khuôn mặt, cơ thể với sự vất vả,
nhọc nhằn lam lũ đêm ngày mà công việc mang lại. Điều đó phải được thể
hiện qua những tình tiết cụ thể làm rõ nét hình tượng người nông dân Việt
Nam, mang đặc điểm dân tộc và đặc trưng của giai cấp.
- Hầu hết những tác phẩm phân tích ở luận văn chỉ phản ánh người ảnh
nông dân với hoạt động cấy cày, trồng trọt, chăn nuôi, thu hoạch; chưa thấy
có sự xuất hiện bóng dáng của tầng lớp tri thức trong nông nghiệp như kỹ sư,
nhà nghiên cứu sinh học, những Giáo sư, Phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ kỹ
thuật, vẫn âm thầm ngày đêm góp công sức của mình bằng những công
trình nghiên cứu khoa học, hay những buổi đi khảo sát thực địa cùng nông
dân trên mọi địa hình. Như vậy cần chú ý khai thác thêm hình tượng những
người lao động tri thức phục vụ trong nông nghiệp bởi bất kỳ đề tài nào cũng
có nhiều khía cạnh đa dạng cần được nhắc đến.
- Ngày nay, do áp lực và cường độ công việc quá lớn, mà nhu cầu thẩm
mỹ của người xem hướng đến sự sảng khoái, thư thái, nhẹ nhàng nhưng vẫn
có sự chuyển động. Người họa sĩ cần tránh sử dụng bố cục, lối tạo hình tạo
cảm giác bình lặng. Cần sử dụng những lối bố cục mang tính vận động, có
đường hướng tạo nhịp điệu. Vận dụng hết khả năng sáng tạo về ngôn ngữ tạo
hình, màu sắc đẹp, sử dụng một cách linh hoạt, không ngừng đổi mới để
người nông dân hiện lên với dáng vẻ hiện đại, tạo bước nhảy vọt, làm chủ
cuộc đời.
65
3.2. Bài học về sự kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc
Nông nghiệp - nông dân luôn là mảng đề tài vô tận, gợi cảm hứng sáng
tác cho đông đảo đội ngũ văn nghệ sĩ. Quay ngược thời gian, đến gần hơn với
truyền thống dân tộc, thời phong kiến, hình ảnh về con người bình dị chỉ xuất
hiện như trong tranh dân gian, (ở tranh Đông Hồ ví như: Đàn gà, Đàn lợn âm
dương, Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đi cấy đổi công); chạm khắc gỗ,
trong đình làng, hay một số bức tranh tuyên truyền mang dáng dấp tranh dân
gian. Đây là dòng tranh gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp cổ
truyền, cuộc sống người lao động nông dân bình dị, chất phác, phong tục, tập
quán, sinh hoạt của người Việt. Trải qua thời gian, tiếp đến trước cách mạng
tháng Tám, kể từ khi trường Mỹ thuật Đông Dương thành lập, các họa sĩ đã
tìm thấy nguồn sáng tạo của mình trong hiện thực cuộc sống đặc biệt ở nông
thôn, trong gia đình, và một nền nghệ thuật hiện thực xuất phát. Đề tài sinh
hoạt nông nghiệp hay những hình ảnh thân thuộc về người nông dân xuất hiện
đầu có thể nhắc đến là họa sĩ Nguyễn Phan Chánh (Ra đồng, Lên đồng-
lụa,), Nguyễn Tiến Chung (Được mùa, Mùa gặt- lụa ) Hoàng Tích Chù
(Tổ đổi công miền núi- sơn mài), Nguyễn Đức Nùng (Bình minh trên nông
trang- sơn mài), Trần Đình Thọ (Ra đồng- sơn mài); Trần Văn Cẩn (Tát
nước đồng chiêm- sơn mài; Tát nước trên đồng- màu nước; Xuống đồng-
lụa;),Ngô Minh Cầu (Về nông thôn sản xuất- lụa;..) Lưu Công Nhân (Một
buổi cày- sơn dầu;)
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, hình ảnh người nông
dân là chủ đề nóng được nhiều họa sĩ lựa chọn khai thác; vì thế nhe nhóm ở
đâu đó ngoài phản ánh sự kiện đấu tranh kiên cường của quân dân ta, còn bắt
gặp những hình ảnh “con trâu đi trước, cái cày theo sau” với mục đích xây
dựng đất nước, cung cấp lương thực, thực phẩm để phục vụ chiến đấu trong
mưa bom bão đạn. Xã hội được phản ánh một cách chân thực và sôi động,
66
hình ảnh con người trong lao động sản xuất xuất hiện dưới nhiều vẻ khác
nhau, phong phú trong tác phẩm Mỹ thuật nói chung, với tranh khắc gỗ nói
riêng. Ở luận văn, đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ nhắc về một thời kỳ
quan trọng của nông nghiệp giai đoạn 1955-1985, những tác phẩm của họ
được coi là những viên gạch đầu tiên tạo dựng nền móng vững chắc cho mỹ
thuật dân tộc chúng ta phát triển sau này. Có được điều đó là nhờ dấu mốc sự
kiện đáng ghi nhớ khi từ năm 1925 trường Mỹ thuật Đông Dương thành lập,
trong chương trình học luôn có những bài học về vốn cổ cũng như những bài
giảng về phương pháp in khắc tranh của các nghệ nhân dân gian nhằm giúp
sinh viên hiểu nghệ thuật khắc gỗ truyền thống bởi Hiệu trưởng Victor
Tardieu luôn quán triệt phương châm: học Mỹ thuật theo phương pháp khoa
học, hiện đại đồng thời học hỏi để phát huy truyền thống. Kể từ đó, tranh khắc
gỗ Việt Nam dù đổi mới, cách tân đến đâu thì cũng vẫn là tạo hình Việt, hòa
sắc Việt. Mỗi người họa sĩ có con đường riêng tạo nên phong cách của mình,
nhưng phần lớn họa sĩ đồ họa đều hứng thú với việc khai thác đặc trưng tiêu
biểu của tranh dân gian Việt Nam từ chủ đề đến cách tạo hình ước lệ. Việc kế
thừa nghệ thuật truyền thống là một việc vô cùng quan trọng, bởi không một
nền nghệ thuật nào phát triển được khi không đi lên từ nền tảng nghệ thuật
trong quá khứ. Nói chung tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam là bước chuyển
tiếp của nghệ thuật tranh khắc gỗ truyền thống với đầy đủ biểu hiện để đại
diện cho nền nghệ thuật tạo hình nói chung và khắc gỗ nói riêng.
Khi miền Bắc được hòa bình, miền Nam ruột thịt vẫn phải đấu tranh ác
liệt với kẻ thù, tiếp tục sự nghiệp giải phóng đất nước. Người nông dân lại
một lần nữa hiện lên lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm, “chắc tay súng,
vững tay cày”. Hình tượng người lao động ruộng đồng được đề cập một cách
sâu sắc, hầu hết tác phẩm biểu hiện sự say mê trong niềm vui lao động, xây
dựng đất nước. Hình tượng ấy hiện lên trong tranh hiện đại mang vẻ đẹp rắn
rỏi, tự chủ được các nghệ sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật đơn giản,
67
trong sáng. Họa sĩ Trần Văn Cẩn bên cạnh những tác phẩm về chiến tranh
cách mạng thì hình ảnh người nông dân lao động được ông ưu ái, trân trọng.
Ta có thể nhắc đến: Xuống đồng, Tát nước đồng chiêm, là buổi lao động
quen thuộc của nông dân Việt Nam những năm miền Bắc hòa bình, người
nông dân làm chủ ruộng đồng. Những dáng người sinh động, nhảy múa trên
cánh đồng, những khuôn mặt vui vẻ kết hợp màu sắc thắm thiết đậm đà thê
hiện cảnh say sưa nhộn nhịp. Họa sĩ Dương Bích Liên trong Mùa gặt đã vẽ
nên những cô nông dân dáng hình khỏe khoắn, chất phác, đôn hậu trong ngày
vụ, những khuôn mặt xinh đẹp trên sắc vàng rực rỡ của cánh đồng lúa chín.
Hay Tổ đổi công miền núi của Hoàng Tích Chù đưa đến cho người xem cảm
xúc về sự hùng vĩ, hoành tráng của thiên nhiên. Con người hiện lên bé nhỏ
nhưng vẫn đủ cho ta sức mạnh và vẻ đẹp của con người lao động ruộng
đồng.
Hòa bình lập lại thống nhất đất nước, giang sơn quy về một mối, Đảng
và nhà nước ta có những chủ trương sát thực, cụ thể cho văn nghệ sĩ tiếp tục
sáng tác, trong đó có đề tài nông nghiệp phát huy sự nghiệp đấu tranh dựng
nước và giữ nước của nhân dân ta từ thời xa xưa cho đến nay, và phản ánh sự
đổi mới từng ngày của bộ mặt nông nghiệp trong quá trình hội nhập. Năm
1986, Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đổi mới toàn diện về kinh tế, văn hóa
xã hội của đất nước. Nghị quyết trung ương 5 về văn hóa văn nghệ của Bộ
chính trị như một luồng gió mới trong lành, Đảng và nhà nước tôn trọng cá
tính sáng tạo trong văn học nghệ thuật. Tôn trọng cá tính sáng tạo đồng thời
góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc hiện đại.
Hàng năm do Bộ văn hóa thể thao và du lịch, Cục Mỹ thuật nhiếp ảnh và triển
lãm; Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội văn học nghệ thuật các tỉnh, thường
xuyên tổ chức các trại sáng tác là điều kiện tốt cho anh em nghệ sĩ giao lưu
học hỏi. Ngoài ra, bản thân mỗi nghệ sĩ đã tự đi tìm hiểu, lắng nghe, ghi nhận,
lấy cảm hứng sáng tạo. “Trong thời gian này, các tác giả đồ họa cũng dần
68
hình thành và hoạt động gần như chuyên nghiệp, trong đó có những người
chuyên về đồ họa in khắc gỗ. Tranh đồ họa nói chung và tranh in khắc gỗ nói
riêng thấy xuất hiện nhiều hơn, cũng như có nhiều hình thức hơn so với trước
kia chỉ là phong cách dân gian và tả thực.” [28, tr 190]. “Tiên đoán” được
tương lai của tranh khắc gỗ truyền thống, thiết nghĩ nếu dòng tranh này muốn
hiện diện rõ nét trong đời sống văn hóa đương đại thì phải cần đến tổng lực
của những sự cố gắng không ngừng nghỉ, nhất là trong thời đại mà các giá trị
lai căng đang đe dọa văn hóa dân gian truyền thống của dân tộc. Các cuộc
triển lãm cá nhân và nhóm xuất hiện ngày càng nhiều. Qua đó, người xem có
cơ hội tiếp cận với tranh khắc gỗ mới ở các khía cạnh kỹ thuật, chất liệu, hình
thức trình bày cũng như quan niệm nghệ thuật. Người yêu nghệ thuật hiểu
rằng, dòng tranh khắc gỗ truyền thống hay tranh khắc gỗ hiện đại dù khác
nhau về cách thể hiện nhưng giá trị thẩm mỹ gần như không thay đổi. Sự đổi
mới căn bản đó là do đổi mới nhận thức và đổi mới quan niệm nghệ thuật.
Cách nhìn trong ngôn ngữ cũng không bị rập khuôn, cách miêu tả hiện thực
đã sang giai đoạn phát triển nhiều phong cách khác nhau.
Có thể nói đề tài nông nghiệp trong Mỹ thuật đã đạt được những thành
công nhất định trong kho tàng mỹ thuật nước nhà nói chung, song những
thành tựu đạt được và vấn đề phát triển đề tài luôn gắn liền với cuộc sống
nhân dân này lại là vấn đề cần quan tâm. Nhìn rộng hơn về tương lai, những
năm gần đây và có thể xa hơn nữa, phải nói sau những năm 1990 là thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các họa sĩ của chúng ta dần chuyển
sang đề tài mới là công nghiệp với những bức tranh được vẽ hoành tráng cỗ
máy đồ sộ, giàn giáo, giàn khoan, ốc vít, bu lông, ống khói cao ngút trời,
Hình ảnh các cô, bác nông dân lao động sản xuất trên cánh đồng, nông trại
đang vắng dần trong các tác phẩm được mang đến dự triển lãm. Hình ảnh
người công nhân trong tranh với áo mũ, ủng giầy đã thay thế hình dáng người
nông dân trên mặt trận nông nghiệp. Những năm đầu thế kỷ 21, do chính sách
69
mở cửa của Nhà nước, đất nước ta vào kỳ đổi mới, nhiều tập đoàn công
nghiệp tư bản xuất hiện đồng nghĩa với việc đất của người nông dân bị thu
hẹp, nhường chỗ cho khu công nghiệp, khu chế xuất, nhà máy, sân gôn,
resort, Ở nông thôn, ao hồ bị san lấp, cây cối bị chặt phá để nhường chỗ
cho những mái nhà, tường, ngõ, bê tông cứng nhắc. Tất cả chỉ còn lại trong ký
ức một thời phần nào làm mất đi nhiều cảm xúc sáng tác về nông thôn của
họa sĩ. Lớp họa sĩ trẻ ngày nay do xu hướng hội nhập thế giới phẳng mà ít
quan tâm đến đề tài nông thôn, mà nếu cần tái hiện họ chỉ cần ngồi trước máy
tính là có hàng trăm sự lựa chọn làm cho việc thực tế bị hời hợt, chốc lát; lại
thêm chịu ảnh hưởng của nhiều xu hướng nghệ thuật mới đặc biệt là Trung
Quốc nên tác phẩm đa số họa sĩ vẽ ra để kiếm sống trên quan điểm vẽ ra để
bán. Với động cơ như vậy việc sáng tác bị chi phối nhiều theo đơn đặt hàng,
sẽ làm mất dần bản sắc dân tộc, sự tự do tự tại trong sáng tạo. Chính vì những
lý do trên vẽ về đề tài nông nghiệp không phải dễ dàng gì đặc biệt làm rõ
được đặc sắc, cái riêng của nông nghiệp Việt Nam là một bài toán khó với
anh em họa sĩ trẻ hiện nay. Tuy vậy vẫn có một số còn sót lại theo đuổi đề tài
này ở nhiều chất liệu khác nhau được công chúng biết đến. Về đồ họa, với
dòng tranh khắc gỗ có thể bắt gặp ở đâu đó những hình ảnh thân thuộc về
người nông dân trong: Cho bò ăn (Phạm Nguyệt Nga) [H 3.1; tr 101]; Người
H’Mông làm lúa nước (Nguyễn Trọng Hợp) [H 3.2; tr 101]; Đôi bạn nhà
nông (Trần Văn Quân) [H 3.4; tr 102]; Trục lúa đêm trăng (Hồ Thiết Trinh)
[H 3.5; tr 103]; Được mùa (Phạm Hùng Cường) [H 3.3; tr 102]; Mặt trời trên
nương (Lê Thị Hiển) [H 3.8; tr 104]; Hè sang (Vũ Bạch Liên) [H 3.11; tr
106]; Cấy (Nguyễn Thị Hồng Duyên) [H 3.12; tr 106]... Được đồng hành
cùng đời sống bà con nông dân trong thời điểm mới, nhiều tác phẩm đã kịp
thời phản ánh sự phát triển của nông thôn thời kỳ hội nhập, những ảnh hưởng
đổi thay đến từng ngõ xóm. Tranh của họ đã cách tân nhiều hơn về kỹ thuật
và tạo hình cũng nhưng vẫn giữ được hồn Việt. Đặc biệt kỹ thuật khắc phá
70
bản mới du nhập đã được các họa sĩ thực hiện thành công một cách nhuần
nhuyễn. “Quy trình sáng tạo tranh khắc gỗ là kết quả của một quá trình lao
động công phu phức tạp; công việc khắc và in rất tỉ mỉ, khó khăn nhưng cũng
rất hứng thú với người sáng tác vì thớ gỗ chất màu tạo nên những hiệu quả bất
ngờ”- nữ họa sĩ Tố Uyên, giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật TP HCM nhận
xét.
Nền hội họa Việt Nam được khởi đầu tốt đẹp từ trường Mỹ thuật Đông
Dương, phát triển rực rỡ suốt năm tháng thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt
Nam thế kỷ 20 và đến giai đoạn này đang ở trên một tầm cao mới. Tư duy tạo
hình, ý định nghệ thuật, cảm xúc thẩm mỹ của các nghệ sĩ bay xa hơn, mang
đậm cá tính sáng tạo riêng. Đội ngũ sáng tác ngày càng đông đảo, nhiều
gương mặt mới xuất hiện, nhiều cách tiếp cận và phản ánh cuộc sống khác
nhau được công bố. Tuy đã có một đội ngũ nghệ sĩ tạo hình hùng hậu và
chính họ đã để lại cho xã hội một kho tàng di sản về mỹ thuật có giá trị cao có
thể kể trên nhưng vẫn còn thiếu nhiều tác phẩm đề tài chưa khai thác một
cách tích cực. Trong bối cảnh đất nước thay đổi như hiện nay, đời sống nông
nghiệp không còn là nền kinh tế chính yếu. Tuy nhiên nó vẫn đóng vai trò
trong đời sống xã hội, nhất là vùng nông thôn Việt Nam. Để khuyến khích và
phát huy anh em họa sĩ hăng hái tham gia nghiên cứu, thể hiện đề tài nông
nghiệp, thiết nghĩ Hội mỹ thuật Việt Nam cùng các sở, ban, ngành nên
khuyến khích mở trại, các cuộc thi về đề tài này với hy vọng đưa hình ảnh
người nông dân vào những tác phẩm thành công, chất lượng, kịp ca ngợi làm
phong phú cho mảng đề tài này, góp phần xây dựng và phát triển nền Mỹ
thuật Việt Nam hiện đại giàu bản sắc dân tộc.
Tiểu kết
Chương 3 của luận văn là sự tổng kết, đánh giá thành công, hạn chế đề
tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ giai đoạn 1955-1985 cũng như đóng góp
của đề tài trong tranh khắc gỗ đối với nghệ thuật đồ họa tranh in ở Việt Nam;
71
bài học phát huy truyền thống dân tộc rút ra sau mỗi hạn chế. Bằng sự phân
tích dưới góc nhìn cá nhân, luận văn đưa ra cái hay, ý nghĩa mà đề tài mang
lại phản ánh thông qua nội dung, hiệu quả chất liệu, ngôn ngữ tạo hình,
phương pháp nghệ thuật và giá trị nghệ thuật của tác phẩm hướng đến. Bên
cạnh đó cũng mạnh dạn chỉ ra nhận định những hạn chế, đồng thời đưa ra
những ý kiến góp ý góp phần làm sáng tỏ ý nghĩa của dòng tranh cũng như
với việc sáng tác đề tài nông nghiệp. Thể hiện thành công đề tài nông nghiệp
trên các chất liệu nói chung, tranh khắc gỗ nói riêng không những đóng góp
những giá trị nghệ thuật vào thành tựu chung của mỹ thuật, mà còn là biểu
hiện cho trình độ văn hóa, văn minh của con người Việt Nam, là vũ khí đấu
tranh cho tiến bộ xã hội, và đánh dấu sự phát triển mỹ thuật của đất nước.
72
KẾT LUẬN
Đề tài nông nghiệp trong các tác phẩm mỹ thuật nói chung đã đạt được
thành công nhất định trong kho tàng mỹ thuật nước ta. Đề tài nông nghiệp
không phải là đề tài được tranh khắc gỗ thể hiện nhiều nhất, song lại là đề tài
mô tả đúng và trọn vẹn những sinh hoạt về nhà nông, những thú vui, tình cảm
của con người đối với con vật, con người đối với con người, tình cảm về quê
hương đất nước Việt Nam một cách rõ nét. Qua những tác phẩm khắc gỗ đã
khẳng định được vị trí của nó với đông đảo người yêu nghệ thuật, đó là những
tác phẩm quý về đề tài nông nghiệp mà hiện nay vẫn là những bài học vô giá
cho lớp họa sĩ trẻ noi theo. Sự sáng tạo tìm tòi và nghiên cứu thúc đẩy thành
công của các họa sĩ Việt Nam đã cho thấy khắc gỗ có thể diễn tả được với
những khả năng thể hiện khác nhau qua nhiều tác phẩm và đổi mới trong
nhiều gam màu, tăng sự hấp dẫn và phong phú. Mỗi họa sĩ có một phong cách
khác nhau có thể thiên về tìm hình hay thiên về phối hợp màu, hay sự đơn
giản hình thể nhưng con đường tư duy, cách thức tìm tòi đã thể hiện tranh
khắc gỗ Việt Nam có đột phá và tiếp nối với truyền thống. Đề tài nông nghiệp
vừa phát huy giá trị chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sự nghiệp đấu tranh
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta từ xưa đến nay, vừa phản ánh sự đổi
mới từng ngày của bộ mặt nông thôn trong quá trình thay đổi.
Vấn đề mỹ thuật phục vụ nông nghiệp hiện nay là hết sức cần thiết. Nếu
chỉ riêng những hoạt động chuyên nghiệp thì khó có thể đáp ứng đầy đủ, mà
phải cùng với lực lượng không chuyên nghiệp, nhất là ở tại địa phương, và
với các phong trào mỹ thuật nói chung. Ngoài việc thỏa mãn một nhu cầu về
mỹ thuật, nó phải tác động thực sự vào tư tưởng tình cảm, lối sống và thị hiếu
của nông dân ta ngày nay. Nó đóng góp tích cực vào việc xây dựng con người
mới, nông thôn mới hiện nay. Hy vọng rằng anh em họa sĩ yêu thích hình ảnh
73
người nông dân sẽ gắn bó nhiều hơn nữa với đề tài nông nghiệp để có được
tác phẩm thành công, chất lượng, kịp ca ngợi làm phong phú cho mảng đề tài
này, góp phần xây dựng và phát triển nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại giàu
bản sắc dân tộc.
Trải qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian và những thăng trầm
của lịch sử, tranh khắc gỗ Việt Nam không chỉ đóng góp một vai trò quan
trọng trong sự nghiệp chính trị của quốc gia, trong đời sống kinh tế, ca ngợi
quê hương đất nước mà còn đóng góp những giá trị nghệ thuật và văn hóa làm
nên diện mạo, nét đặc sắc Việt Nam. Với những sáng tác khắc gỗ phản ánh về
hoạt động sản xuất nông nghiệp đã tạo nên hình tượng người nông dân Việt
Nam có vẻ đẹp thể chất, họ cần cù, thông minh, năng động trong ngành lao
động. Những hình tượng ấy đã đóng góp cho nền Mỹ thuật Việt Nam hiện đại
những hình tượng nghệ thuật mang hào khí cách mạng, những hình tượng
mang tính tượng trưng cao, đại diện cho lực lượng sản xuất xã hội. Có thể nói
các họa sĩ sáng tác với ý thức tìm tòi thực sự, góp phần bổ sung thêm những
trang khắc gỗ có giá trị vào nghệ thuật đồ họa nước nhà, góp phần không nhỏ
vào sự cách tân dòng tranh, đem lại cho nó tính hiện thực và hiện đại trên cơ
sở truyền thống dân tộc.
74
GHI CHÚ
Bảng thống kê tác phẩm khắc gỗ theo chủ đề
về đề tài nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 1955-1985
STT Chủ đề Tên tác phẩm,
tác giả
Chất liệu Kích thước Năm
sáng
tác
1 Cấy cày “Đi cấy”- Trần
Nguyên Đán
Khắc gỗ đen
trắng
15 x 25 cm. 1967
“Đôi bạn”-
Trịnh Thiệp
Khắc gỗ đen
trắng
35 x 24 cm. 1968
“Ra đồng”-
Huy Oánh
Khắc gỗ đen
trắng
30 x 40 cm. 1968
“Cấy hết diện
tích”-
Trịnh Phòng
Khắc gỗ đen
trắng
20 x 30 cm. 1969
“Nước bạc, cơm
vàng”-
Phùng Phẩm
Khắc gỗ đen
trắng
46 x 36 cm. 1970
“Chống hạn”-
Phùng Phẩm
Khắc gỗ đen
trắng
57 x 44 cm. 1975
“Xóm Tân Bồi”-
Phùng Phẩm
Khắc gỗ đen
trắng
1976
“Buổi sớm”-
Nguyễn Duyện
Khắc gỗ đen
trắng
51 x 41 cm. 1977
75
“Một buổi cấy”-
Hà Mỹ Lý
Khắc gỗ màu 28,5 x 40,2
cm.
1978
“Những cô thợ
cấy Định Công”-
Văn Bình
Khắc gỗ đen
trắng
31 x 23 cm. 1978
2 Trồng
trọt
“Rủ nhau đi
nương”- Đường
Ngọc Cảnh
Khắc gỗ đen
trắng
25 x 39 cm. 1959
“Bé yêu lao
động”-
Vi Kiến Minh
Khắc gỗ đen
trắng
14 x 23 cm. 1965
“Khai hoang”-
Tôn Đức Lượng
Khắc gỗ màu 1973
3 Chăn
nuôi
“Bé chăn trâu”-
Anh Thường
Khắc gỗ đen
trắng
24 x 16 cm.
1957
“Ruộng đồng”-
Quang Phòng
Khắc gỗ màu 35 x 50 cm. 1962
“Chăn nuôi”-
Ngô Duyên
Khắc gỗ màu 23 x 36 cm. 1965
“Người tốt việc
tốt”- Trần
Nguyên Đán
Khắc gỗ màu 20 x 30 cm. 1968
“Con trâu là đầu
cơ nghiệp”-
Trần Nguyên
Đán
Khắc gỗ đen
trắng
50 x 75 cm. 1970
76
“Chăm học chăm
làm”- Trần
Nguyên Đán
Khắc gỗ đen
trắng
46,8 x 36,5
cm.
1971
“Phong cảnh
miền núi”-
Cửu Cooc Khìn
Khắc gỗ đen
trắng
19 x 40 cm. 1974
4 Thu
hoạch
“Hái cà phê”-
Lương Xuân Nhị
Khắc gỗ màu 21 x 38 cm. 1964
“Trục lúa”-
Phạm Văn Đôn
Khắc gỗ đen
trắng.
46 x 29 cm. 1970
“Trục lúa”-
Vũ Duy Nghĩa
Khắc gỗ đen
trắng
1972
“Trên vùng kinh
tế mới”-
Hoàng Hoan
Khắc gỗ đen
trắng
36 x 26 cm. 1972
“Phơi thóc”-
Mạnh Hào
Khắc gỗ đen
trắng
29 x 47 cm 1974
“Hái quả”-
Phạm Đoàn
Thanh
Khắc gỗ đen
trắng
21 x 26 cm. 1976
77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên), Viện Mỹ thuật, (2005), Mỹ thuật Việt
Nam hiện đại, NXB Mỹ thuật.
2. Bộ Văn hóa thông tin- Vụ Mỹ thuật, Hội Mỹ thuật Việt Nam (2001), Triển
lãm Mỹ thuật toàn quốc 1996- 2000, NXB Mỹ thuật.
3. Bộ Văn hóa thông tin, Hội Mỹ thuật Việt Nam (2005), Triển lãm Mỹ thuật
toàn quốc 2001-2005, NXB Mỹ thuật.
4. Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, Hội Mỹ thuật Việt Nam (2010), Triển lãm
Mỹ thuật toàn quốc 2006- 2010, NXB Mỹ thuật.
5. Bộ Văn hóa thể thao và du lịch, Hội Mỹ thuật Việt Nam- Hà Nội (2012),
Cuộc thi và triển lãm tranh Đồ họa ASEAN 2012, NXB Mỹ thuật.
6. Nguyễn Văn Chung (2010), Những bài viết về Mỹ thuật, NXB Mỹ thuật.
7. Đỗ Văn Duẩn, (2008), Chất cảm trong tranh khắc gỗ Việt Nam hiện đại,
khóa luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
8. Vũ Ngọc Đăng (2008), Tính hiện thực trong tranh khắc gỗ Việt Nam, khóa
luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
9. Nguyễn Đức Hiền (1999), Những đột phá và tiếp nối của tranh khắc gỗ
Việt Nam đương đại, Tiểu luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
10. Dương Thị Hòa (2016), Tranh khắc gỗ màu hiện đại Việt Nam giai đoạn
1954-1975, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
11. Hội Mỹ thuật Việt Nam, Tạp chí Mỹ thuật, số 100, số 199, số 249, số 251,
số 255,256.
12. Hội Mỹ thuật Việt Nam (1997), Tranh khắc gỗ Việt Nam, NXB Mỹ thuật-
Hà Nội.
78
13. Hội Mỹ thuật Việt Nam (2010), Tác phẩm được giải thưởng Hội Mỹ thuật
Việt Nam và triển lãm Mỹ thuật khu vực năm 2006, NXB Mỹ thuật.
14. Hội Mỹ thuật Việt Nam (2014), Mỹ thuật Đồng bằng sông Hồng, NXB
Mỹ thuật.
15. Hội Mỹ thuật Việt Nam (1975), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam, NXB Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
16. Hội Mỹ thuật Việt Nam (1978), Tranh khắc gỗ Việt Nam. NXB Văn hóa,
Hà Nội.
17. Hội Văn học Nghệ thuật Hải Dương, (2008), Mỹ thuật Hải Dương 1954-
2008.
18. Trương Nguyễn Nguyên Kha (2013), “Tranh khắc gỗ Việt Nam với
những phát triển mới từ năm 1986 đến nay”- Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số
3 (47,T9/2013), Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Viện Mỹ thuật.
19. Nguyễn Thị Hiền Lương (2013), Đề tài sinh hoạt trong tranh khắc gỗ
màu Việt Nam, Tiểu luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
20. Kiều Hoàng Linh (2007), Tranh khắc gỗ hiện đại Việt Nam, tiểu luận tốt
nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
21. Nguyễn Loan (2014), “Trần Nguyên Đán, nét khắc ký ức và hiện tại”-
Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật số 1, T4/2014, [28] Trường Đại học Mỹ thuật
Việt Nam, Viện Mỹ thuật (Tr 46-49).
22. Trần Tiểu Lâm, Phạm Thị Chỉnh (2007), Giáo trình Mỹ thuật học, NXB
Đại học sư phạm.
23. Nguyễn Chí Nguyện (2012), Hình tượng người nông dân trong hội họa
Việt Nam thế kỷ XX, luận văn thạc sỹ Mỹ thuật, Trường Đại học Mỹ thuật
Việt Nam.
24. Hà Thị Quỳnh Nga (2015), Đặc điểm tạo hình trong tranh khắc gỗ của
Phạm Nguyệt Nga và Lê Mai Khanh, luận văn thạc sỹ Mỹ thuật, Trường Đại
học Mỹ thuật.
79
25. Đặng Bích Ngân (2002), Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, NXB
Giáo dục.
26. Hoàng Phê (1988), Từ điển Tiếng Việt, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam,
Viện ngôn ngữ học, NXB Khoa học xã hội- Hà Nội.
27. Quang Phòng - Quang Việt (2015), Trường Mỹ thuật Đông Dương- Lịch
sử và Nghệ thuật, NXB Mỹ thuật.
28. Hoàng Minh Phúc (2015), Đồ họa nghệ thuật tranh in, NXB Thế giới, Hà
Nội.
29. Nguyễn Nghĩa Phương (2011), Tranh khắc gỗ mới- phương tiện mở rộng
thực hành nghệ thuật đương đại - Tạp chí Mỹ thuật số 227 (Tr 42), 2011 [28],
Hội Mỹ thuật Việt Nam.
30. Trung tâm biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, Hội đồng quốc gia chỉ
đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam, (1995), Từ điển Bách khoa Việt
Nam 1.
31. Văn Tân (1994), Từ điển Tiếng Việt- NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Nguyễn Trân, (1995), Nghệ thuật Đồ họa, NXB Mỹ thuật, Hà Nội.
33. Xa Thị Minh Thúy (2013), Hiệu quả của nét trong tranh khắc gỗ đen
trắng Việt Nam, tiểu luận tốt nghiệp, Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
34. Viện nghệ thuật- Bộ Văn hóa, (1973), Về tính dân tộc của Nghệ thuật tạo
hình, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
35. Viện Mỹ thuật, (1979), Sáng tác Mỹ thuật, sách tư liệu, NXB Văn hóa
thông tin.
36. Viện Mỹ thuật, (1998), Tác giả, tác phẩm Mỹ thuật Việt Nam. NXB Văn
hóa thông tin.
37. Viện Mỹ thuật, (2003), Tranh khắc gỗ Phùng Phẩm. NXB Văn hóa thông
tin.
38. Nguyễn Bá Vân- Chu Quang Trứ (1984), Tranh dân gian Việt Nam, NBX
Văn hóa.
80
39. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt-Bộ Giáo dục và
Đào tạo- Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông tin.
81
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
ĐỖ THỊ THU THỦY
ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP
TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1955-1985
PHỤ LỤC ẢNH
Chuyên ngành: Mỹ thuật Tạo hình (Hội họa).
Mã số: 60 21 01 02
Khóa: 18 (2015-2017)
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS Bùi Thị Thanh Mai
HÀ NỘI- 2017
82
MỤC LỤC
PHẦN PHỤ LỤC
Trang
Phụ lục 1: Tranh khắc gỗ Việt Nam giai đoạn 1955-1985 79
Phụ lục 2: Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai
đoạn 1955-1985..
87
Phụ lục 3: Đề tài nông nghiệp trong tranh khắc gỗ Việt Nam giai
đoạn 1986-2015.
101
83
PHỤ LỤC 1
TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1955-1985
H 1.1. Văn Đa, Cảng Hòn Gai, (1956),
Khắc gỗ đen trắng, 35 x 24 cm. Nguồn: [16]
H 1.2. Lê Phả, Công nhân xe lửa Gia Lâm, (1958),
Khắc gỗ đen trắng, 40 x 31 cm. Nguồn: [16]
84
H 1.3. Nguyễn Tiến Chung, Ngày chủ nhật, (1960),
Khắc gỗ màu, 47 x 33 cm. Nguồn: [16]
H 1.4. Thế Vinh, Lớp học bổ túc văn hóa buổi trưa, (1960),
Khắc gỗ màu, 23 x 33 cm. Nguồn: [12]
85
H 1.5. Đinh Trọng Khang, Mẹ con, (1962),
Khắc gỗ màu, 33 x 61 cm. Nguồn: [12]
H 1.6. Giáng Hương, Cầu Hàm Rồng, (1967),
Khắc gỗ màu, 25 x 34 cm. Nguồn: [12]
86
H 1.7 . Huy Oánh, Ông và cháu, (1968),
Khắc gỗ đen trắng, 30 x 40 cm. Nguồn: [12]
H 1.8. Lê Thiệp, Cá về, (1969),
Khắc gỗ màu, 58 x 37 cm. Nguồn: [12]
87
H 1.9. Trịnh Quốc Thụ, Các lão dân quân, (1970),
Khắc gỗ màu, 42 x 86 cm. Nguồn: [12]
H 1.10. Hà Mỹ Lý, Các nữ dân quân, (1972),
Khắc gỗ màu, 31 x 48 cm. Nguồn: [12]
88
H 1.11. Trần Nguyên Đán, Nghệ nhân Hàng Trống, (1975),
Khắc gỗ màu, 58 x 50 cm. Nguồn: [12], [BTMTVN]
H 1.12. Đặng Thạc, Lên đường, (1976),
Khắc gỗ màu, 50 x 39 cm. Nguồn: [12]
89
H 1.13. Phạm Văn Đôn, Quang Trung- Đại thắng mùa xuân 1789, (1978),
Khắc gỗ màu, 52 x 40 cm. Nguồn: [12], [BTMTVN]
90
H 1.14. Hoàng Đạo Khánh, Lớp học miền núi Tây Bắc, (1980),
Khắc gỗ đen trắng, 32 x 45 cm. Nguồn: [12]
H 1.15. Nguyễn Nghĩa Duyện, Hà Nội năm bốn sáu, (1984),
Khắc gỗ màu, 45 x 55 cm. Nguồn: [12], [BTMTVN]
91
PHỤ LỤC 2
ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1955-1985
H 2.1. Anh Thường, Bé chăn trâu, (1957),
Khắc gỗ đen trắng, 24 x 16 cm. Nguồn: [16]
H 2.2. Đường Ngọc Cảnh, Rủ nhau đi nương, (1959),
Khắc gỗ đen trắng, 25 x 39 cm. Nguồn: [15]
92
H 2.3. Quang Phòng, Ruộng đồng, (1962),
Khắc gỗ màu, 35 x 50 cm. Nguồn: [12]
H 2.4. Lương Xuân Nhị, Hái cà phê, (1964),
Khắc gỗ màu, 21 x 38 cm. Nguồn: [16]
93
H 2.5. Vi Kiến Minh, Bé yêu lao động, (1965),
Khắc gỗ đen trắng, 14 x 23 cm, Nguồn: [16]
H 2.6. Ngô Duyên, Chăn nuôi, (1965),
Khắc gỗ màu, 23 x 36 cm. Nguồn: [15]
94
. H 2.7. Trần Nguyên Đán, Đi Cấy, (1967),
Khắc gỗ đen trắng, 15 x 25cm. Nguồn: Họa sĩ cung cấp
H 2.8. Trịnh Thiệp, Đôi bạn, (1968),
Khắc gỗ đen trắng, 35 x 24 cm. Nguồn: [16]
95
H 2.9. Huy Oánh, Ra đồng, (1968),
Khắc gỗ đen trắng, 30 x 40 cm. Nguồn: [16]
H 2.10. Trần Nguyên Đán, Người tốt việc tốt, (1968),
Khắc gỗ màu, 20 x 30 cm. Nguồn: Họa sĩ cung cấp
96
H 2.11. Trịnh Phòng, Cấy hết diện tích, (1969),
Khắc gỗ đen trắng, 20 x 30 cm. Nguồn: [16]
H 2.12. Phạm Văn Đôn, Trục lúa, (1970),
Khắc gỗ đen trắng, 46 x 29 cm. Nguồn: [16]
97
H 2.13. Phùng Phẩm, Nước bạc, cơm vàng, (1970),
Khắc gỗ đen trắng, 46 x 36 cm. Nguồn: [01]
H 2.14. Trần Nguyên Đán, Con trâu là đầu cơ nghiệp, (1970),
Khắc gỗ đen trắng, 50 x 75 cm. Nguồn: [36]
98
H 2.15. Trần Nguyên Đán, Chăm học chăm làm, (1971),
Khắc gỗ đen trắng, 46,8 x 36,5 cm. Nguồn: [BTMTVN]
H 2.16. Vũ Duy Nghĩa, Trục lúa, (1972),
Khắc gỗ đen trắng. Nguồn: [38]
99
H 2.17. Hoàng Hoan, Trên vùng kinh tế mới, (1972),
Khắc gỗ đen trắng, 36 x 26 cm. Nguồn: [16]
H 2.18. Tôn Đức Lượng, Khai hoang, (1973), Khắc gỗ màu,
Bộ sưu tập của Tira- Thái Lan. Nguồn: [27]
100
H 2.19. Mạnh Hào, Phơi thóc, (1974),
Khắc gỗ đen trắng, 29 x 47 cm. Nguồn: [16]
101
H 2.20. Cửu Coóc Khìn, Phong cảnh miền núi, (1974),
Khắc gỗ đen trắng, 19 x 40 cm. Nguồn: [16]
102
H 2.21. Phùng Phẩm, Chống hạn, (1975),
Khắc gỗ đen trắng, 57 x 44 cm. Nguồn: [37]
H 2.22. Phùng Phẩm, Xóm Tân Bồi, (1976),
Khắc gỗ đen trắng. Nguồn: [35]
103
H 2.23. Phạm Đoàn Thanh, Hái quả, (1976),
Khắc gỗ đen trắng, 21 x 26 cm. Nguồn: [16]
H 2.24. Nguyễn Duyện, Buổi sớm, (1977),
Khắc gỗ đen trắng, 51 x 41 cm. Nguồn: [16]
104
H 2.25. Hà Mỹ Lý, Một buổi cấy, (1978),
Khắc gỗ màu, 28,5 x 40,2 cm. Nguồn: [BTMTVN]
H 2.26. Văn Bình, Nhũng cô thợ cấy Định Công, (1978),
Khắc gỗ đen trắng, 31 x 23 cm. Nguồn: [16]
105
PHỤ LỤC 4
ĐỀ TÀI NÔNG NGHIỆP TRONG TRANH KHẮC GỖ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986-2015
H 3.1. Phạm Nguyệt Nga, Cho bò ăn, (1988),
Khắc gỗ màu, 30 x 40 cm. Nguồn: [23]
H 3.2. Nguyễn Trọng Hợp, Người H’mông làm lúa nước,
Khắc gỗ màu, 32 x 47 cm. Nguồn: [02]
106
H 3.3. Ngô Thanh Phong, Được mùa hành tím, (2001),
Khắc gỗ màu, 80 x 110 cm. Nguồn: [03]
H 3.4. Trần Văn Quân, Đôi bạn nhà nông, (2004),
Khắc gỗ đen trắng, 50 x 50 cm.. Nguồn: [17]
107
H 3.5. Lương Văn Thuận, Ra đồng, (2005),
Khắc gỗ đen trắng, 35 x 35 cm. Nguồn: [11]
H 3.6. Hồ Thiết Trinh, Trục lúa đêm trăng, (2006),
Khắc gỗ đen trắng, 80 x 80 cm. Nguồn: [12]
108
H 3.7. Phạm Hùng Cường, Được mùa,
Khắc gỗ đen trắng, 54 x 74cm. Nguồn: [04]
H 3.8. Lê Thị Hiển, Mặt trời trên nương, (2010),
Khắc gỗ đen trắng, 60 x 80 cm. Nguồn: [04]
109
H 3.9. Đỗ Đức, Ngày mùa, (2012),
Khắc gỗ màu, 50 x 70 cm. Nguồn: [05]
H 3.10. Nguyễn Thị May, Mùa vàng, (2012),
Khắc gỗ phá bản 60 x 80 cm. Nguồn: [05]
110
H 3.11. Vũ Bạch Liên, Hè sang, (2013),
Khắc gỗ đen trắng, 70 x 127 cm. Nguồn: [11]
H 3.12. Nguyễn Thị Hồng Quyên, Cấy, Khắc gỗ phá bản, 2015
Nguồn: Tác giả luận văn chụp tại triển lãm Đồ họa ASEAN 2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nong_805_2075319.pdf