Đề tài Ôn tập thi tuyển công chức ngành thuế năm 2010 Ngạch chuyên viên Kiểm soát viên

HỘI KẾ TOÁN TP.HỒ CHÍ MINH ÔN TẬP THI TUYỂN CÔNG CHỨC NGÀNH THUẾ NĂM 2010 Ngạch chuyên viên & Kiểm soát viên I. VĂN BẢN LUẬT 1. Luật số 22/2008/QH12 -Luật công chức (có hiệu lực từ ngày 01/01/2010); 2. Nghị định số 06/2010/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 15/3/2010); 3. Nghị định số 24/2010/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 01/5/2010); 4. Nghị định số 46/2010/NĐ-CP (có hiệu lực từ ngày 01/7/2010); 5. Luật số: 55/2005/QH11 - Luật phòng chống tham nhũng(có hiệu lực từ ngày 01/06/2006); II. GIỚI THIỆU LUẬT CÔNG CHỨC VÀ LUẬT PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Phần thứ nhất MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG I. KHÁI NIỆM CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, CÔNG VỤ 1. Khái niệm công vụ - Công vụ là loại lao động đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và phục vụ nhân dân của bộ phận nhân lực trong bộ máy nhà nước Là hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của công chức trong các công sở nhằm giải quyết quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với công dân. Hoạt động công vụ bao gồm: tổ chức công sở, trách nhiệm của công chức khi thi hành công vụ, quan hệ trong công vụ, thủ tục hành chính - Ở nước ta, công vụ được xem là một loại lao động đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, để thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống và để quản lý, sử dụng có hiệu quả công sản và ngân sách nhà nước phục vụ nhiệm vụ chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước giao. Hoạt động công vụ, do đó được định nghĩa là: "chức năng tổ chức và hoạt động quản lý nhằm ổn định và phát triển và đời sống nhân dân thông qua các công sở, đơn vị phục vụ và toàn thể cán bộ công nhân viên nhà nước. Theo nghĩa rộng, là toàn thể các công chức làm việc thường xuyên trong bộ máy nhà nước ở Trung ương và các cơ quan chính quyền địa phương. Theo nghĩa hẹp, là toàn bộ các quy chế công chức” - Công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực và pháp lý, do đội ngũ công chức, sử dụng ngân sách nhà nước để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong việc quản lý toàn diện các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của một quốc gia.

doc76 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3382 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ôn tập thi tuyển công chức ngành thuế năm 2010 Ngạch chuyên viên Kiểm soát viên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ quan, tổ chức với cấp phó được giao phụ trách các lĩnh vực; theo đó, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm chung và phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực do mình quản lý, cấp phép chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực được giao phụ trách. - Phân cấp trách nhiệm rõ ràng cho người đứng đầu đơn vị, phải chịu trách nhiệm trực tiếp khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị mình. Để tạo cơ sở xử lý trách nhiệm người đứng đầu, trong kết luận thanh tra, kiểm toán, điều tra phải có kết luận về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị xảy ra tham nhũng là yếu kém trong quản lý, buông lỏng quản lý hay bao che cho hành vi tham nhũng. 4. Phát hiện tham nhũng 4.1. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sátLuật phòng, chống tham nhũng quy định các hình thức hoạt động cụ thể để phát hiện hành vi tham nhũng. Theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thường xuyên hoặc đột xuất kiểm tra hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức nhằm chủ động phát hiện và kịp thời xử lý hành vi tham nhũng; cơ quan quản lý có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra hoạt động chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng. Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Quốc hội, Hội đồng nhân dân có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng thông qua công tác thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, kiểm sát, xét xử và giám sát. 4.2. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng Tố cáo là một nguồn tin quan trọng trong phát hiện hành vi tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định những nguyên tắc chung và nội dung cơ bản của tố cáo hành vi tham nhũng. Luật quy định cơ chế bảo vệ người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị trong việc tiếp nhận và xử lý tố cáo hành vi tham nhũng; khen thưởng người tố cáo hành vi tham nhũng.  5. Xử lý hành vi tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác 5.1. Xử lý kỷ luật, xử lý hình sự Luật quy định hai hình thức chế tài áp dụng đối với người có hành vi tham nhũng là xử lý kỷ luật hoặc xử lý hình sự. Theo đó, đối tượng bị áp dụng chế tài gồm: người có hành vi tham nhũng quy định tại Điều 3 của Luật; người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng; người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng; người có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; người thực hiện hành vi khác vi phạm quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 5.2. Xử lý tài sản tham nhũng Luật phòng, chống tham nhũng quy định về nguyên tắc tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu, trả lại cho chủ sử hữu, quản lý hợp pháp hoặc sung công quỹ nhà nước. Người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi hành vi đưa hối lộ bị phát hiện thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ. Theo Điều 71 về thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài thì trên cơ sở điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp. 6. Tổ chức, trách nhiệm và hoạt động phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong phòng, chống tham nhũng 6.1. Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Hiện nay, nhiệm vụ chống tham nhũng được giao cho nhiều cơ quan khác nhau, với nguyên tắc toàn bộ các cơ quan nhà nước, toàn thể hệ thống chính trị và cả xã hội có trách nhiệm tham gia đấu tranh chống tham nhũng. Tuy nhiên, do hoạt động chống tham nhũng của các cơ quan còn mang tính riêng lẻ, thiếu sự thống nhất và phối hợp nên hiệu quả của hoạt động phòng, chống tham nhũng chưa cao. Luật phòng, chống tham nhũng quy định việc thành lập Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng với tư cách là cơ quan tham mưu chính sách và phối hợp. Cơ quan này sẽ không trực tiếp can thiệp mà chỉ điều phối hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật sẵn có, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả chống tham nhũng chung của tất cả các cơ quan này. Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng là một cơ quan luật định, có bộ phận giúp việc chuyên trách. 6.2. Đơn vị chống tham nhũng chuyên trách Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là các cơ quan có vai trò, nhiệm vụ hết sức quan trọng trong phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng hiện đang được tiến hành trong tổng thể các nhiệm vụ phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự của các cơ quan này. Luật phòng, chống tham nhũng quy định thành lập các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng trong các cơ quan nêu trên nhằm tăng cường khả năng chuyên sâu, tính độc lập trong hoạt động từ đó nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. 6.3. Cơ chế phối hợp trong phòng, chống tham nhũng Luật phòng, chống tham nhũng quy định nhiều nội dung quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều  tra, Viện kiểm sát với những nội sung cơ bản sau: - Nhấn mạnh vai trò trách nhiệm của từng cơ quan trong phòng, chống tham nhũng và đặc biệt là trách nhiệm phối hợp. - Phân định rõ ràng hoạt động phối hợp chung nhằm ngăn ngừa tham nhũng và phối hợp phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng có dấu hiệu tội phạm. 7. Vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng Vai trò và sự tham gia của xã hội trong phòng, chống tham nhũng là một yếu tố quan trọng trong hệ thống phòng, chống tham nhũng hiệu quả. Luật phòng, chống tham nhũng tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý hiện hành nhằm khuyến khích và đảm bảo việc tham gia chủ động, tích cực và hiệu quả của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, gồm các nội dung sau: - Ghi nhận và đề cao vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể xã hội, báo chí, doanh nghiệp và công dân trong phòng, chống tham nhũng; có các quy định cụ thể nhằm khuyến khích và đảm bảo sự tham gia của xã hội. - Quy định rõ về quyền tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức và công dân; cơ chế cụ thể để thực hiện quyền này. - Quy định những nội dung cơ bản về tố cáo hành vi tham nhũng. Chế định về tố cáo hành vi tham nhũng là một phần quan trọng của Luạt phòng, chống tham nhũng. Đây cũng là cơ chế quan trọng nhất để công dân trực tiếp tham gia phát hiện các hành vi tham nhũng. 8. Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng Trên cơ sở ghi nhận nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi, Luật phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng như sau: - Thanh tra Chính phủ phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và các cơ quan hữu quan thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về nghiên cưú, đào tạo, xây dựng chính sách, trao đổi thông tin, hỗ trợ tài chính, trợ giúp kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm trong phòng, chống tham nhũng. - Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống tham nhũng.  IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN Để Luật phòng, chống tham nhũng được triển khai thực hiện có hiệu quả sớm đi vào cuộc sống, trước mắt cần tập trung một số công việc sau đây: 1. Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn giới thiệu Luật phòng, chống tham nhũng Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn giới thiệu Luật phòng, chống tham nhũng cho tất cả đối tượng có liên quan, bao gồm các bộ; cơ quan ngang bộ; cơ quan thuộc Chính phủ; Uỷ ban nhân dân các cấp và nhân dân về những nội dung quy định trong Luật. 2. Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật một cách sâu rộng đến với mọi tầng lớp nhân dân. 3. Xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng. III. ĐỌC THÊM Luật Phòng chống tham nhũng cũng bị treo  Luật Phòng chống tham nhũng đã được Quốc hội thông qua từ năm 2005 đã quy định khá nhiều biện pháp nhằm phòng và chống tham nhũng - một trong những quốc nạn ở nước ta hiện nay.  Tuy nhiên, 5 năm trôi qua, dù Luật Phòng chống tham nhũng vẫn có hiệu lực thi hành nhưng hiện tượng tham nhũng lại không hề giảm. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, song một trong những nguyên nhân quan trọng phải kể đến là khá nhiều quy định trong Luật Phòng chống tham nhũng đang… bị treo.  Trước hết công khai, minh bạch là nhân tố đặc biệt quan trọng để phòng ngừa tham nhũng. Vì vậy, Luật Phòng chống tham nhũng đã dành từ điều 11 đến điều 33 quy định về nguyên tắc và nội dung công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, về hình thức công khai, về các lĩnh vực phải công khai.  Quy định của pháp luật đã rõ và đầy đủ. Song, rất đáng tiếc, phần lớn những quy định đó chỉ tồn tại trên văn bản luật. Chẳng hạn, chưa bao giờ người dân được đọc một báo cáo công khai nào về việc mua sắm công và xây dựng cơ bản của các cơ quan công quyền. Cũng chưa bao giờ có một báo cáo công khai về việc sử dụng đất, về quản lý dự án đầu tư xây dựng. Việc công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của Nhà nước lại càng… xa vời hơn nữa. Sụ âm thầm đổ vỡ của Vinashin là một ví dụ sinh động nhất.  Thứ hai, điều 35 Luật Phòng chống tham nhũng quy định về kiểm tra và xử lý vi phạm về chế độ, định mức, tiêu chuẩn quy định: “Người có hành vi vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bị xử lý theo quy định của pháp luật” và “Người cho phép sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn phải bồi thường phần giá trị mà mình cho phép sử dụng vượt quá; người sử dụng vượt chế độ, định mức, tiêu chuẩn có trách nhiệm liên đới bồi thường phần giá trị được sử dụng vượt quá…”.  Trong thực tế, quy định này cũng bị… lãng quên. Từ năm 2006 đến nay, năm nào Kiểm toán Nhà nước cũng công bố kết quả kiểm toán và cho biết số tiền chi sai chế độ trong các bộ, ngành… lên tới hàng chục tỉ đồng. Nhưng cả người chi và người cho phép, chưa có ai bị “xử lý theo quy định của pháp luật”.  Thứ ba, những quy định về minh bạch tài sản, thu nhập được quy định từ điều 44 đến điều 53 cũng đã và đang được thực hiện “nửa vời”. Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tình trạng “nửa vời” trong thực hiện quy định về vấn đề này là việc kê khai tài sản và thu nhập của các quan chức, công chức, viên chức thuộc diện phải kê khai lại không được công khai.   Khoản 1 điều 50 Luật Phòng chống tham nhũng quy định: “Khi có yêu cầu và theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài sản được công khai tại các địa điểm sau đây...”. Như vậy, việc kê khai tài sản, thu nhập về thực chất không có tác dụng gì để nhân dân giám sát thu nhập của những đối tượng cần giám sát.  Hơn nữa, việc kê khai một cách hình thức cũng không cho biết được nguồn gốc những khoản thu nhập bất minh của những kẻ tham nhũng.  Thứ tư, quy định về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng cũng đang trong tình trạng “đánh trống, bỏ dùi”. Không ít vụ tham nhũng nghiêm trọng xảy ra nhưng người đứng đầu cơ quan vẫn ung dung tại vị.  Thứ năm, mục 6 chương II Luật Phòng chống tham nhũng quy định về cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán nhằm phòng ngừa tham nhũng. Cải cách hành chính là lĩnh vực được triển khai rầm rộ. Song, kết quả thực sự hãy còn rất khiêm tốn. Việc tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ trong quản lý cũng diễn ra rất chậm chạp.  Quan trọng hơn, điều 58 Luật Phòng chống tham nhũng quy định về đổi mới phương thức thanh toán với nội dung thanh toán qua tài khoản với các khoản chi ngân sách nhà nước. Kinh nghiệm từ các nước phát triển cho thấy, hạn chế thanh toán bằng tiền mặt là biện pháp đặc biệt quan trọng để phòng ngừa tham nhũng, trốn lậu thuế. Tuy nhiên, đã năm năm từ ngày Luật Phòng chống tham nhũng có hiệu lực, quy định nêu trên vẫn chỉ là… quy định trên giấy. Khi việc sử dụng tiền mặt còn tự do như hiện nay thì việc “kiên quyết đấu tranh phòng chống tham nhũng” sẽ mãi mãi chỉ là khẩu hiệu mà thôi.  Vấn đề quan trọng là, ai có đủ dũng khí để quyết định áp dụng các biện pháp cứng rắn này? (Theo Saigontimes 17/11) Chống tham nhũng thật!  Không phải ngẫu nhiên mà các nhà tài trợ chọn chủ đề cuộc đối thoại lần thứ 8 này là phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai.   GS-TSKH Đặng Hùng Võ, người được Ngân hàng Thế giới mời với tư cách tư vấn độc lập lý giải: Các nhà tài trợ nhắc việc chống tham nhũng trong lĩnh vực đất đai lúc này là rất hợp lý ở chỗ họ thấy chúng ta mới chỉ có quyết tâm trên những con chữ mà chưa có chuyển động nhiều trong thực tế, dân còn kêu ca, phàn nàn nhiều về tham nhũng đất đai.  Đây không phải là lần đầu tiên vấn đề tham nhũng trong quản lý và sử dụng đất đai được đề cập tới. Tham nhũng đất đai vẫn thường được đưa ra như một vấn đề nhức nhối. Các nghiên cứu khác nhau đều cho kết quả phát hiện về tham nhũng đất đai thống nhất, thống nhất đến mức đã 10 năm nay luôn được gọi là tham nhũng có mức độ lớn nhất, đứng đầu bảng các loại tham nhũng tại Việt Nam. Cũng như vậy, các giải pháp chống tham nhũng hoàn toàn giống nhau, dù được khuyến cáo bởi chuyên gia quốc tế hay Việt Nam, đó là công khai minh bạch các thông tin về quản lý, quy hoạch đất đai; đơn giản thủ tục hành chính…  Nhưng vấn đề là các giải pháp đó dù đã được thực hiện, nhưng không khi nào đến nơi đến chốn. Đơn cử, pháp luật về đất đai từ 2003 (sau nhiều lần sửa đổi) đều quy định phải công khai quy hoạch sử dụng đất, nhưng một nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy, website của nhiều tỉnh, mục về công khai quy hoạch sử dụng đất không hề có nội dung gì, có tỉnh thì cập nhật thông tin khác vào trang công khai quy hoạch.  Có lẽ chẳng có luật nào quy định chi tiết về thủ tục như Luật Đất đai, nhưng cũng không ở đâu việc vi phạm quy trình diễn ra phổ biến như với pháp luật về đất đai. Nó phổ biến đến mức, việc vi phạm trở nên…bình thường.   Khu vực dễ xảy ra tham nhũng lớn là giao đất, cho thuê đất, dù từ năm 2003 Luật Đất đai quy định khuyến khích đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án nhưng đến nay chưa có bất kỳ tỉnh nào đấu thầu dự án, việc đấu giá cũng chỉ được áp dụng với các lô nhỏ. Chủ yếu vẫn là giao đất chỉ định, với giá đất do UBND tỉnh quy định, do vậy nguy cơ tham nhũng luôn thường trực.  Điều này được hiểu là pháp luật cung cấp nhiều phương tiện để chống tham nhũng đất đai nhưng không được áp dụng.  Giáo sư Đặng Hùng Võ khẳng định việc chống tham nhũng đất đai không phải là “thiếu thể chế” mà chỉ là thiếu quyết tâm. “Vấn đề các cấp có thẩm quyền có muốn chống tham nhũng thật không mà thôi”, ông Võ nói. Tham nhũng đất đai  Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, 70% đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân năm 2009 tập trung vào lĩnh vực đất đai, và chủ yếu nhằm đến cán bộ có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong quản lý đất đai, tài chính…  Trong khi đó, một kết quả của nhóm nghiên cứu gồm Đại sứ quán Thụy Điển, Đan Mạch và Ngân hàng Thế giới (WB) công bố hôm qua tại hội nghị bàn tròn “Tăng cường minh bạch trong quản lý đất đai ở VN”, do Đại sứ quán Thụy Điển tại VN tổ chức với sự hỗ trợ của Tổ chức Minh bạch quốc tế và Tổ chức Hướng tới minh bạch, UNDP, WB cho biết dù có đến 90% tranh chấp, khiếu kiện, tố cáo ở tòa liên quan đến đất đai, nhưng chỉ 1% người khởi kiện thỏa mãn với kết quả giải quyết.  GS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ TN-MT, nhìn nhận: “Cơ chế đất đai đang tạo nên nguy cơ tham nhũng rất cao”.  Ở cấp độ vĩ mô là tình trạng quan chức quận, tỉnh tùy tiện sửa chữa, bổ sung quy hoạch, mỗi nhiệm kỳ là một lần quy hoạch mới, một tuyến đường mới làm giá đất tăng vọt.   Dư luận xã hội và cơ quan chức năng phanh phui ra được vụ lãnh đạo một số quận, huyện TP.HCM móc ngoặc doanh nghiệp bất động sản, đút túi hàng tỉ đồng nhờ bản quy hoạch “tùy hứng”. Nhưng đây mới chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Bởi ràng buộc trong luật quá thấp, ít ai phải chịu trách nhiệm về những bản quy hoạch làm theo tư duy nhiệm kỳ, hay việc định giá đất sai lệch hàng chục lần.  Còn người dân, để nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhanh chóng, hay những thủ tục nhỏ hơn, không ít người phải lót tay, hối lộ bôi trơn bộ máy ưa vòi vĩnh, làm luật của cán bộ địa chính từ cấp xã, phường đến cấp tỉnh, thành phố.  Chính sách quản lý đất đai hiện nay có tạo cơ hội tiềm năng cho tham nhũng? Câu trả lời là có. Người dân bị nhũng nhiễu, o ép, ngân sách nhà nước thất thu và hối lộ tồn tại như một thông lệ trong bất kỳ thủ tục hành chính nào liên quan đến đất đai.  Nhưng thay đổi tình trạng này lại không hề dễ dàng. Theo đánh giá, hệ thống quản lý đất đai đã có nhiều tiến bộ và hoàn thiện, nhưng quá nhiều kẽ hở vẫn còn tồn tại. UBND các cấp vẫn được quyết tất, từ ra quyết định sử dụng đất đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thậm chí xác định giá đất đền bù... Đất đai là sở hữu toàn dân, nhưng người dân không hề có tiếng nói trong quy hoạch, phân phối, sử dụng đất.  Người dân phải được giám sát việc thu hồi và sử dụng đất; quyền “tự quyết” của các quan chức xã, phường, tỉnh phải giảm bớt; tăng tính độc lập trong việc xác định giá trị đất, giá trị đền bù và phân đất… là những khuyến nghị được các chuyên gia trong và ngoài nước đưa ra trong hội nghị bàn tròn nêu trên. Vấn đề là những đề xuất này sẽ được những nhà làm luật, những người có thẩm quyền cân nhắc và thực hiện ra sao!  (Thanh Niên 19/11) Cải tiến lương công chức: Cần giải pháp đột phá!  Lâu nay, tiền lương cán bộ công chức vốn mang nặng tính bình quân, “cào bằng”, thấp không đủ sống... nhưng tại sao nhiều người cứ “đua vào” các hệ thống công vụ?   Bên cạnh đó, cũng không ít người có năng lực làm việc hiệu quả với mức lương khá, lại bỏ công chức để phát huy năng lực của mình ở một doanh nghiệp khác. Đó là nét nghịch lý ở nước ta hiện nay mà không dễ giải quyết một sớm, một chiều...  Kể từ năm 1985 đến nay, nước ta đã 3 lần cải cách tiền lương công chức nhưng vẫn chưa đáp ứng được mục tiêu trong chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 của Chính phủ. Tiền lương cho công chức hiện vẫn được đánh giá là còn quá nhiều bất cập, gây nên mâu thuẫn về tiền lương với giá trị lao động trên thị trường lao động.  Với thang bảng lương rất phức tạp như bây giờ, nếu một công chức mới vào nghề được xếp ngạch chuyên viên hành chính bậc 1, hệ số lương 2,34 sẽ có mức lương khoảng 1.700.000 đồng. Nếu 3 năm được nâng một bậc lương mà không có đột biến gì khác với mỗi lần tăng theo hệ số 0,3 thì sau 30 năm công tác lương công chức đó sẽ được tăng thêm khoảng 3 lần so với mức lương tối thiểu, tăng được gần 2.200.000 VND tức là được nhận mức lương là 3.900.000 VND.   Với mức lương đó, không một cán bộ, công chức nào dám nói là đủ lo được mức sống tối thiểu cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế lại cho thấy, lương chỉ chiếm khoảng 30% thu nhập trung bình của cán bộ công chức mà thôi. Số tiền còn lại sẽ bao gồm trợ cấp, thưởng, thu nhập bổ sung… Ngoài những công chức có thêm tiêu chuẩn nhà ở, cước điện thoại, xe phục vụ… thì hiện đang có 8 loại trợ cấp, cộng thêm với thưởng, hai loại này chiếm khoảng 10% thu nhập của cán bộ công chức.   Tóm lại, để đủ trang trải cho gia đình thì thu nhập chủ yếu của cán bộ công chức không phải là từ lương và chính điều này đang gây ảnh hưởng xấu đến tư cách đạo đức công chức, là trở ngại lớn nhất cho công cuộc cải cách hành chính của nhà nước. Đó là một nghịch lý. Tiền lương khiêm tốn mà nhiều công chức đều sống đàng hoàng, lý do có thể là do thu nhập từ nguồn ngoài lương là rất lớn.  Một vấn đề nữa không phải là vấn đề tiền lương nhưng nó liên quan mật thiết đến lương, đó là vấn đề nhân sự. Hiện đội ngũ cán bộ công chức nói chung của chúng ta quá lớn và tổ chức rất cồng kềnh. Công chức viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước bao gồm cả những người làm trong các tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang và an ninh; người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước. Số người hưởng lương từ ngân sách, theo thống kê của Bộ Nội vụ lên đến gần 6,1 triệu người trong cả nước. Con số này bao gồm 1,6 triệu người có công; 1,4 triệu hưu trí; 1,6 triệu viên chức sự nghiệp; 300 ngàn cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách cấp xã; 370 ngàn công chức cơ quan Đảng và đoàn thể...  Do đó, chỉ mới điều chỉnh nâng lương tối thiểu thôi thì ngân sách nhà nước cũng đã chi tốn đến hàng chục nghìn tỷ đồng rồi. Trong kỳ họp Quốc hội mới đây, Quốc hội đã có nghị quyết chi ngân sách 27.000 tỷ đồng cho năm 2011 để điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu từ 730.000 đồng lên 830.000 đồng/tháng vào 1/5/2011 tới. Trong khi đó đối với công chức thì việc điều chỉnh này tuy là một tin vui nhưng trên thực tế cũng chẳng thấm tháp gì so với mặt bằng giá cả ngày càng “leo thang”.  Vậy có giải pháp nào để giải quyết cho vấn đề đã, đang tồn tại quá lâu và gây ra nhiều hệ quả xấu đến đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội này không? Câu hỏi này đã được đưa ra tại diễn đàn "Cải cách tiền lương 2011 - 2020" vừa mới diễn ra tại Hà Nội do Viện Các vấn đề phát triển và UNDP tổ chức. Rất nhiều ý kiến tham gia thảo luận, phản biện cũng các giải pháp được đưa ra. Hầu hết các ý kiến đều thống nhất lương công chức phải đủ sống, đủ cho bản thân công chức và gia đình công chức; các bất cập của chế độ tiền lương hiện nay có thể tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến đạo đức, phẩm chất, chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức...  Tuy nhiên, đang có nhiều đề xuất khác nhau về giải pháp, thậm chí đòi hỏi tư duy mới về cải cách tiền lương, nghĩa là phải chú ý tới nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và theo đó cần nhìn vấn đề theo quan điểm hệ thống thì nền công vụ gắn liền với mô hình tổ chức nhà nước và mô hình kinh tế trong từng giai đoạn.   Trước mắt nên tiến hành tách tiền lương khu vực hành chính nhà nước thành hệ thống tiền lương riêng có nguồn từ ngân sách nhà nước, gắn với vị trí, chức danh, công việc trong hệ thống hành chính nhà nước và hiệu quả công tác, đồng thời có chính sách thu hút và giữ nhân tài cho khu vực này. Tiếp tục thực hiện tiền tệ hoá những khoản chi công vụ có thể đưa vào lương (đất ở, nhà ở, phương tiện đi lại, xăng xe…) nhằm xoá bao cấp, tiết kiệm chi tiêu công dù có thể làm tăng thêm khoảng cách về tiền lương giữa quan chức với công chức chuyên môn, nghiệp vụ.  Có thể, trước mắt, chưa thực hiện ngay cơ chế làm việc gì trả lương theo việc đó bởi trong thời gian qua chế độ bố trí, quản lý công chức, viên chức hoàn toàn theo chỉ tiêu biên chế mà ít chú ý tới công việc.   Vì thế trên cơ sở chương trình cải cách hành chính của Chính phủ nên đưa ra mốc thời gian để từ đó mạnh dạn trả lương cao cho một bộ phận công chức đáp ứng tốt được yêu cầu công việc theo từng vị trí  mà nhất là đối với các nhân tài và từ mốc đó trở về sau loại bỏ chế độ chỉ tiêu định biên. Kể từ đó có lộ trình cụ thể để sắp xếp lại nhân sự và dần dần đưa về một cách trả lương thống nhất. Đây là cách làm nhằm tránh sự kéo dài lê thê, rất khó cho việc cải cách tiền lương vì động chạm lớn đến toàn hệ thống.   Đây cũng là một tư duy đột phá chính sách về tiền lương cho cán bộ công chức, thể hiện bằng việc Nhà nước có thể ban hành những cơ chế đặc thù và có thể thực hiện thí điểm cho riêng từng lĩnh vực. Tất nhiên, nên chú ý tới lĩnh vực nào có thể thúc đẩy nhanh hơn sự phát triển của đất nước trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.  (Hà Nội Mới 23/11) Nguy cơ tham nhũng đất đai: Độc quyền kết hợp thiếu minh bạch  Một báo cáo toàn diện nhất từ trước đến nay đánh giá nguy cơ gây tham nhũng trong quản lý đất đai ở VN vừa được Đại sứ quán Đan Mạch, Đại sứ quán Thụy Điển và Ngân hàng Thế giới hoàn tất. Báo cáo này cho thấy, nguy cơ tham nhũng trong quản lý đất đai bắt nguồn từ việc độc quyền kết hợp thiếu minh bạch.  Trong chuỗi quy trình cấp giấy đỏ, kết quả khảo sát cho thấy, các hành vi không trung thực có xu hướng mở rộng trong khu vực đất ở và đất thương mại phi nông nghiệp. Trong đó, 34% số người được hỏi cho rằng ở khâu đầu tiên - phổ biến thông tin về thủ tục là không được công khai hoặc công khai nửa vời.   Như ở TP.HCM, người dân cho biết họ thường gặp khó khăn trong xác định, kê khai giấy tờ cần thiết. Còn ở Bắc Ninh, Bình Định, người dân nói họ thường không hiểu cách điền hồ sơ xin cấp giấy đỏ. Do vậy có nguy cơ cán bộ địa chính đặt ra yêu cầu trái pháp luật mà không biết, hoặc người nộp đơn thấy “oải” với thủ tục khó hiểu, dẫn tới phải lo lót để được cán bộ giúp đỡ.  Khâu tiếp theo là nộp hồ sơ, 22% số người được hỏi tin rằng gây khó khăn khi tiếp nhận hồ sơ xin cấp giấy đỏ là hình thức thường gặp. Ở TP.HCM có phản ánh là cán bộ địa chính cấp xã có xu hướng đòi thêm giấy tờ mà luật không yêu cầu, như chứng nhận kết hôn hoặc trích lục bản đồ địa chính. Tại Bình Định, người được khảo sát nói họ hay phải sử dụng “môi giới” để làm thủ tục xin cấp giấy đỏ và khi ấy mọi việc nhanh gọn hơn.  Bước tiếp theo là đánh giá hồ sơ, phê duyệt và giao giấy đỏ. Hỏi 10 người thì sáu người cho rằng người làm giấy đỏ thường gặp phải việc kéo dài thời gian đánh giá, phê duyệt. Còn một số chủ doanh ngiệp cho rằng nếu có “quan hệ tốt” thì thời gian sẽ được rút ngắn.  Chuỗi quy trình của hoạt động thu hồi, giao/cấp đất được bắt đầu bằng bước quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị. Ở khâu này, nghiên cứu tại TP.HCM cho thấy rõ khả năng nhà đầu tư câu kết với cán bộ để mua diện tích lớn đất nông nghiệp. Sau đó, họ tác động để sửa quy hoạch, chuyển diện tích này thành đất phi nông nghiệp với chênh lệch địa tô khổng lồ.  Luật Quy hoạch đô thị mới ban hành và Luật phòng chống tham nhũng, cũng như Pháp lệnh Dân chủ cơ sở có dự liệu tình huống này nên quy định phải lấy ý kiến công khai với người dân trước khi phê duyệt quy hoạch. Tuy nhiên, đáng lo là không có quy định nào buộc phải dân chủ, công khai, lấy ý kiến dân với hoạt động “điều chỉnh” kế hoạch sử dụng đất và đồ án quy hoạch.  Kết quả thu được nêu trên hoàn toàn phù hợp với kết quả điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2008. Theo đó, phần lớn hộ gia đình không hề được lấy ý kiến gì về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở địa phương cả.  Luật quy định địa điểm đầu tư chỉ được chấp thuận nếu phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt. Song thực tế cho thấy, lãnh đạo địa phương sẵn sàng chấp thuận đề xuất không tuân thủ quy hoạch. Tại Hà Nội, dự án khách sạn trong Công viên Thống Nhất là ví dụ điển hình. Quy hoạch TP không cho phép chuyển đất công cộng sang mục đích kinh doanh nhưng dự án vẫn được phê duyệt. Đến năm 2008, dư luận phản ứng gay gắt, chính quyền mới chuyển dự án đi nơi khác.  Khâu tiếp theo là quyết định thu hồi, giao/cấp đất. Theo luật, có ba hình thức: giao đất thông qua đấu giá; đấu thầu dự án sử dụng đất; và chỉ định trực tiếp cho chủ đầu tư được lựa chọn. Hầu hết dự án hiện nay chọn cách thức thứ ba, bởi có thể “nhờ” chính quyền cưỡng chế thu hồi, rồi trực tiếp giao đất cho mình. Chi phí để được cấp đất bằng cách thức này rẻ hơn nhiều cách đấu giá, đấu thầu nên chủ đầu tư sẵn sàng “phí ngoại giao”. Tuy nhiên, lý giải hiện tượng này, lãnh đạo một số địa phương lại cho rằng lý do lựa chọn là hai hình thức kia không hấp dẫn để thu hút đầu tư…  Từ các phân tích trên, báo cáo cho rằng nguy cơ tham nhũng ở từng khâu trong chuỗi các thủ tục, hoạt động quản lý đất đai là rất lớn. Nguy cơ này lại nghiêm trọng hơn do hoạt động giám sát của HĐND và các hội đoàn thiếu hiệu quả. Báo chí mặc dù được xác định là công cụ quan trọng để PCTN, song thực tế tác nghiệp của phóng viên gặp nhiều khó khăn.  Mặt khác, thẩm quyền ra quyết định về đất đai được phân cấp mạnh cho cấp tỉnh trong khi hệ thống trách nhiệm và kiểm soát công vụ lại kém hiệu quả. Biểu hiện của tính thiếu trách nhiệm thể hiện rõ qua ý kiến người dân ở Bình Định: Cán bộ địa chính thường đạt kết quả thấp trong các cuộc bỏ phiếu tín nhiệm…   (Pháp Luật TP.HCM 22/11) Thực thi luật phòng chống tham nhũng trong doanh nghiệp, thực trạng và giải pháp. Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, bởi đây là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Ở bất kỳ nhà nước nào, nếu công tác phòng, chống tham nhũng không thực hiện triệt để và hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, chính trị của đất nước.  Trong thực thi luật PCTN thì bộ phận doanh nghiệp có vai trò rất lớn bởi đây là bộ phận trụ cột của nền kinh tế đất nước. Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy nhưng đã có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp có những hành vi kinh doanh không lành mạnh, gian lận để trục lợi đồng thời có những dấu hiệu vi phạm các quy định Luật phòng chống, tham nhũng. Mặc dù nhà nước đã có nhiều biện pháp tích cực để hạn chế nhưng tệ nạn này vẫn có chiều hướng gia tăng và diễn biến theo chiều hướng phức tạp, tinh vi. 1. Vài nét về bức tranh tham nhũng trong doanh nghiệp Cần phải hiểu tham nhũng thường bắt nguồn từ cái gốc là quyền lực. Một cá nhân tham nhũng được là vì cá nhân đó có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy doanh nghiệp nói riêng. Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Như vậy, ba yếu tố cơ bản tạo nên tham nhũng là: yếu tố chức vụ, quyền hạn, yếu tố lợi dụng chức vụ quyền hạn và yếu tố vụ lợi. Luật cũng quy định về 12 hành vi tham nhũng là : Tham ô tài sản ; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi (Điều 3) Song song với việc ban hành Luật phòng chống tham nhũng, Chính phủ cũng đã hoàn thiện nhiều chính sách pháp luật để phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam hoạt động như Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật Đấu thầu, Luật Sở hữu trí tuệ 2005… và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi nên việc quản lý kinh tế còn nhiều tồn tại hạn chế. Lợi dụng điều này, một số cá nhân có chức vụ, quyền hạn và một số doanh nghiệp đã không bỏ qua cơ hội lợi dụng để tham nhũng, trục lợi bằng nhiều hình thức khác nhau. Thực tế cho thấy, hầu hết những vụ án tham nhũng lớn, nghiêm trọng được đưa ra xét xử trong thời gian vừa qua đều có liên quan đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Vậy tham nhũng trong doanh nghiệp phát sinh trong các trường hợp nào? Thứ nhất, tham nhũng phát sinh trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu của doanh nghiệp. Hình thức chủ yếu là người có chức vụ quyền hạn thực hiện các hành vi: cố tình kéo dài thời gian giải quyết công việc, hướng dẫn chung chung, cố tình soi xét, bắt lỗi, hoặc dựa vào các quy định không rõ ràng để gây khó khăn cho doanh nghiệp, đưa ra những thông tin mang tính hù doạ, gây sức ép, gợi ý trực tiếp hoặc gián tiếp để doanh nghiệp phải đưa hối lộ nếu muốn nhanh chóng được giải quyết …Thực tế cho thấy đa phần các doanh nghiệp chấp nhận yêu cầu trái pháp luật của các nhân có trách nhiệm giải quyết, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn chủ động thực hiện hành vi hối lộ trước khi trao đổi công việc với đại diện của cơ quan nhà nước. Đây là cách xử sự thường thấy nhất ở các doanh nghiệp và nó có tính chất hối lộ nhưng với mục đích là giải quyết công việc một cách nhanh chóng nên doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận điều đó như một điều đương nhiên. Thứ hai, tham nhũng phát sinh khi có sự móc ngoặc giữa các doanh nghiệp với người có chức vụ, quyền hạn của khu vực công. Điều này được thể hiện trong việc doanh nghiệp thực hiện các hành vi móc ngoặc với những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức để dành được những lợi thế cạnh tranh bất hợp pháp. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng, đấu thầu, xin cấp phép dự án đầu tư hoặc có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, vận chuyển hàng hoá thì tình trạng này chiếm tỉ lệ cao và thường có tính chất, mức độ vi phạm nghiêm trọng với giá trị tài sản lớn. Thứ ba, tham nhũng phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp Đây là tình trạng thường thấy hiện nay. Có thể nhận biết điều này thông qua một số hành vi cụ thể như : Doanh nghiệp câu kết, móc nối với nhân viên hải quan để buôn bán hàng cấm hoặc khai man số lượng hàng xuất, nhập khẩu;  Gian dối trong việc thực hiện các dự án đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài thông qua việc lập chứng từ khống để chiếm đoạt tài sản; lợi dụng tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp, tạo ra sự phá sản giả để hợp pháp hoá chứng từ, sổ sách kế toán nhằm thu lợi bất chính; lợi dụng chính sách cổ phần hoá, giao, bán, doanh nghiệp nhà nước để chiếm đoạt tài sản của nhà nước thông qua các hình thức như: Định giá tài sản doanh nghiệp thấp so với giá trị thực; bỏ tài sản của doanh nghiệp (tài sản cố định, bất động sản, tài sản cho thuê...) ra ngoài sổ sách kế toán; treo nợ khống; báo cáo sai lệch về tình hình tài chính của doanh nghiệp khi cổ phần hoá, trục lợi bất chính; Hiện nay, do cơ chế giám sát  hoạt động của doanh nghiệp chưa được thực hiện đồng bộ nên nhiều doanh nghiệp lợi dụng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh chưa được phản ánh đồng thời trong dữ liệu của cơ quan thuế. Các doanh nghiệp chưa phải thực hiện chế độ kiểm toán định kỳ, bắt buộc nên những biểu hiện của hành vi tham nhũng diễn ra thường xuyên và ngày càng tinh vi. Mục đích của những việc làm sai trái này nhằm làm giảm chi phí sản xuất, trốn tránh nghĩa vụ với cơ quan nhà nước để trục lợi. Đây là tình trạng thường gặp nhất trong phần lớn các vụ tham nhũng có liên quan tới doanh nghiệp. 2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng trong doanh nghiệp có chiều hướng gia tăng Tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp được biểu hiện rất đa dạng, tinh vi và luôn tồn tại trong hoạt động của doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân chính sau: Nhóm nguyên nhân thứ nhất thuộc về cơ chế chính sách cụ thể là: - Những chính sách bao cấp, bảo hộ, độc quyền bất hợp lý. Trong khi nước ta đã hội nhập với nền kinh tế thế giới, đồng thời quá trình thực hiện những cam kết của tổ chức thương mại thế giới WTO đã bước sang năm thứ hai thì ở Việt Nam vẫn có chính sách độc quyền đối với một số lĩnh vực. Điều này là không phù hợp bởi chế độ bao cấp, bảo hộ độc quyền diễn ra trong một thời gian dài sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh, không đạt được những hiệu quả về mặt kinh tế- xã hội mà còn làm cho doanh nghiệp nhà nước càng ỷ lại vào Nhà nước, tạo ra môi trường cho tham nhũng phát triển. - Quy định về thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà : Về nguyên tắc, thủ tục hành chính càng qua ít cửa càng hạn chế được nhũng nhiễu và tham nhũng. Kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhà nước ta cũng đã đơn giản hoá nhiều thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh tuy nhiên, tại một số cơ quan, cơ chế “xin – cho” - một điển hình của thủ tục hành chính hiện nay vẫn còn tồn tại gây nhũng nhiễu, yêu sách. Thực chất, cơ chế xin – cho là việc làm cần thiết nhằm bảo đảm quyền quản lý, giám sát của chủ sở hữu, nhằm hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp khi quyền này làm tổn hại đến lợi ích và trật tự xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế được tham nhũng gắn với cơ chế xin – cho đó bởi theo điều tra của Ban Nội chính Trung ương, cơ chế xin cho là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Cơ chế này có tác động trực tiếp đến lợi ích của cả hai bên nên rất dễ phát sinh tham nhũng. Nhận định này được 72,1% số cán bộ quản lý doanh nghiệp được hỏi đồng ý - một tỷ lệ cao nhất trong 8 nguyên nhân thuộc 4 nhóm (các nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách, pháp luật, các nguyên nhân liên quan đến công tác cán bộ, các nguyên nhân liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tham nhũng và các nguyên nhân mang tính xã hội). Nhóm nguyên nhân thứ hai là con người: Tham nhũng thường bắt nguồn từ quyền lực. Những người nắm giữ những quyền lực trong tay thường là nguyên nhân phát sinh hành vi tham nhũng. Một cá nhân khi đã không giữ được phẩm chất, tư cách, bị lợi ích vất chất chi phối thì thường tư lợi vì mục đích cá nhân nhất là trong điều kiện ở nước ta hiện nay chưa có chế độ giám sát chặt chẽ trong hoạt động thực thi công vụ của bộ phận cán bộ, cũng như chưa có cơ chế quản lý đối với lãnh đạo các doanh nghiệp trong tổ chức hoạt động. Do đó, tình trạng này ngày càng có chiều hướng gia tăng với tính chất phức tạp. Theo báo cáo điều tra tham nhũng ở Việt Nam do Ban Nội chính Trung ương thực hiện cuối năm 2005 thì có tới 56,6 cán bộ, công chức được lấy ý kiến cho rằng: cấp trên trực tiếp của mình tham nhũng ở các mức độ khác nhau. Và khi cấp trên có biểu hiện của hành vi tham nhũng thì việc chỉ đạo cấp dưới thực thi tốt luật PCTN là không có hiệu quả. Một nội dung nữa trong nhóm nguyên nhân này là vai trò của cá nhân trong việc tố cáo tham nhũng: Ở Việt Nam, công tác tố cáo tham nhũng còn bị hạn chế bởi tâm lý, thói quen và việc áp dụng cơ chế bảo vệ người tố cáo còn chưa được thực hiện triệt để dẫn đến tình trạng người phát hiện hành vi tham nhũng nhưng không dám tố cáo để tránh phiền hà, rắc rối. Nhóm nguyên nhân thứ ba thuộc về cơ chế kiểm tra, kiểm toán giám sát hoạt động của doanh nghiệp còn chưa chặt chẽ: Ở một số nước trên thế giới, ngoài việc giám sát nội bộ doanh nghiệp, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, họ còn đề cao vai trò giám sát của chủ nợ, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, các phương tiện thông tin đại chúng, cộng đồng doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp. Ngoài ra, chính sách đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, quản trị nội bộ doanh nghiệp đối với những doanh nghiệp mà nhà nước còn giữ 100% vốn được thực hiện theo chế độ công ty cổ phần nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của giám sát nội bộ. Với họ, việc giám sát nội bộ thị trường, nội bộ doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa đủ mà cần có đánh giá khách quan hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là tình hình tài chính. Do vậy, việc thực hiện kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp bởi một công ty độc lập là quy định bắt buộc. Công ty kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính độc lập, khách quan, trung thực về kết quả kiểm toán. Những quy định chặt chẽ được áp dụng đã hạn chế tối đa nạn tham nhũng trục lợi. Ở Việt Nam , đối với doanh nghiệp do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu thì cơ chế giám sát chưa được chặt chẽ. Chế độ kiểm toán đôi khi còn chưa được thực hiện thường xuyên, triệt để. Việc trốn thuế, khai khống chứng từ, lập chứng từ giả, vẫn tiếp diễn ở nhiều doanh nghiệp đặc biệt là trong một số doanh nghiệp đang tiến hành thủ tục cổ phần hoá. Ngoài ra, chúng ta cũng thiếu một cơ chế phù hợp trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách về phòng chống tham nhũng, thiếu một hệ thống giải pháp có tính chất căn bản, lâu dài, toàn diện, thiếu một lộ trình cụ thể, hợp lý để thực hiện tốt các chủ trương chính sách hiện hành về phòng chống tham nhũng. 3. Một số giải pháp phòng ngừa, phát hiện và đẩy lùi tham nhũng 3.1. Biện pháp phòng ngừa: Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, được đặt làm trọng tâm bởi hầu hết các nhóm giải pháp phòng ngừa, phát hiện tham nhũng được nêu ra trong Luật phòng chống tham nhũng đều có liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Cụ thể: công khai, minh bạch hoá hoạt động của bộ máy nhà nước; Xây dựng, hoàn thiện và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, định mức tiêu chuẩn;  Qui tắc ứng xử của cán bộ công chức; qui tắc đạo đức nghề nghiệp; chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức ; việc tặng quà và nhận quà tặng;  Minh bạch tài sản của cán bộ công chức; Trách nhiệm của người đứng đầu trong cơ quan, tổ chức đơn vị để xảy ra tham nhũng; Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán. Đó là 6 nhóm giải pháp chính được quy định trong Luật phòng chống tham nhũng. Tuy nhiên, tại báo cáo về công tác phòng chống tham nhũng từ tháng 10/2007 đến tháng 8/2008 của Thanh tra Chính phủ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì ngoài những chuyển biến tích cực trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thì các vụ việc tham nhũng có chiều hướng gia tăng. 3.2. Phát hiện tham nhũng Tham nhũng trong doanh nghiệp càng ngày càng có chiều hướng gia tăng về mức độ và tính chất. Muốn phát hiện cần phải thực hiện các biện pháp sau: Thứ nhất, tăng cường  công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, giám sát, xét xử: Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thường xuyên hoặc đột xuất kiểm tra nhằm chủ động phát hiện và kịp thời xử lý hành vi tham nhũng; cơ quan quản lý có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra hoạt động chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng. Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra... có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng thông qua thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao. Trong phát hiện tham nhũng của doanh nghiệp, cần tập trung vào công tác kế toán, đặc biệt là chứng từ kế toán. Đa số các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý tài chính, tham ô, tham nhũng, vụ lợi cho cán nhân hay tập thể ... trong các doanh nghiệp đều bắt nguồn từ việc làm sai lệnh chứng từ kế toán Thứ hai, tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng Tố cáo là một kênh quan trọng trong phát hiện hành vi tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định cơ chế bảo vệ người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong tiếp nhận và xử lý tố cáo hành vi tham nhũng, khen thưởng người tố cáo... 4. Giải pháp đẩy lùi tệ nạn tham nhũng 4.1. Về phía cơ quan nhà nước Bên cạnh việc thực hiện Luật PCTN,  cần đẩy mạnh việc thực hiện tốt chiến lược quốc gia về phòng chống tham nhũng giai đoạn 2010-2020 (được xây dựng năm 2007) Chiến lược này được Chính phủ giao cho Thanh tra Chính phủ phối hợp với văn phòng Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng xây dựng mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn và các giải pháp toàn diện, đồng bộ với kế hoạch hành động, lộ trình cụ thể xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong trong hệ thống chính trị xã hội với việc phòng chống tham nhũng với 5 nhóm giải pháp nhằm ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ các cơ hội điều kiện phát sinh tham nhũng góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch như sau: - Thứ nhất, tăng cường công khai minh bạch trong hoạt động công quyền, hạn chế điều kiện và cơ hội phát sinh tham nhũng trong việc hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật. - Thứ hai, kiểm soát việc thực thi quyền lực Nhà nước, hoàn thiện chế độ công vụ, công chức, nâng cao chất lượng thực thi công vụ. - Thứ ba, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch. - Thứ tư,  nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử trong phát hiện, xử lý tham nhũng. -  Thứ năm, nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong phòng chống tham nhũng. Trong năm nhóm giải pháp trên thì có thể thấy giải pháp thứ ba tập trung vào khu vực doanh nghiệp. Đây là một giải pháp quan trọng, thể hiện việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế đảm bảo tính minh bạch, công bằng và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Cơ quan quản lý Nhà nước khi thực hiện các chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp phải thực hiện một cách minh bạch và nhất quán nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh chiến lược phát triển, sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, cải cách hành chính nhà nước, cải cách lĩnh vực tài chính, ngân hàng, nâng cao chất lượng quy hoạch, đầu tư hạ tầng, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư... Xác định rõ tình trạng tham nhũng đến nhiều từ khu vực công, doanh nghiệp là một trong những nơi nuôi dưỡng tham nhũng nhiều nên trong chương trình thực hiện mà chiến lược đề ra các vấn đề pháp lý liên quan đến doanh nghiệp được đặc biệt chú trọng. Khi chiến lược này đi vào thực hiện thì bắt buộc các cơ quan Nhà nước phải hoàn thiện cơ chế để doanh nghiệp hoạch toán chính xác, trung thực các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh và được phản ánh đồng thời trong dữ liệu của cơ quan thuế. Các doanh nghiệp đều phải thực hiện chế độ kiểm toán định kỳ, bắt buộc. Đẩy mạnh công tác hoàn thiện pháp luật về thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường lao động. Các hành vi gian lận trong kinh doanh, trong đó cả hành vi hối hối lộ công chức phải được xử lý nghiêm và mang tính triệt để.  Việc nghiên cứu quy định bắt buộc đăng ký bất động sản, thuế tài sản, thực hiện việc đăng ký thuế thu nhập cá nhân, thanh toán tài khoản, xây dựng luật chống rửa tiền. Vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện nay cũng nảy sinh nhiều dấu hiệu tham nhũng dưới nhiều hình thức, do đó cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt chú trọng việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp và xử lý tài sản công trong quá trình thực hiện cổ phần hoá. Các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có hành vi tham nhũng phải bị công bố công khai danh tính. Đây sẽ là một biện pháp để hạn chế tham nhũng đến từ khu vực tư. 4. 2. Về phía doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề Phòng chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó, vai trò, trách nhiệm của của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề là rất quan trọng. Chính từ điều này mà Chính phủ rất kỳ vọng cộng đồng doanh nghiệp chủ động, tích cực có tính xây dựng trong phòng chống tham nhũng để góp phần kiến tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, công khai, minh bạch, không có tham nhũng và có tính cạnh tranh cao. Theo đó, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề cần phải đẩy mạnh tổ chức tuyên truyền pháp luật về phòng chống tham nhũng cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp, vận động họ thực hiện tốt Luật Phòng chống tham nhũng. Các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề cần động viên, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh phi tham nhũng và tổ chức các hình thức phù hợp động viên, giáo dục cán bộ, người lao động thực hiện các qui tắc ứng xử phòng ngừa tham nhũng. Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề phải có trách nhiệm thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục đã được pháp luật qui định. Khi nhận được yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề phải cung cấp thông tin mình có được về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, áp dụng các biện pháp cần thiết trong phạm vi quyền hạn của mình phối hợp với cơ quan có thẩm quyền xác minh, làm rõ. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ các văn bản pháp luật không phù hợp làm phát sinh tham nhũng hoặc cơ hội để tham nhũng góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước cũng như hiệu quả phòng chống tham nhũng. Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề là những kênh thông tin quan trọng giữa khu vực doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước trong công tác phòng chống tham nhũng. Thông qua kênh thông tin này, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý những cán bộ, công chức nhà nước thoái hoá, biến chất, nhũng nhiễu khi giải quyết các công việc liên quan đến doanh nghiệp; ngược lại, có thể phát hiện, ngăn chặn, xử lý các biểu hiện đưa hối lộ của doanh nghiệp với mục đích tạo lợi thế cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động kinh doanh, thương mại”. Như vậy, có thể nói các hoạt động không lành mạnh của doanh nghiệp là môi trường lý tưởng cho tham nhũng. Nếu doanh nghiệp làm ngơ hay tiếp tay cho tham nhũng (hối lộ), hậu quả của nó sẽ tác động rất xấu đến sự phát triển của nền kinh tế, của đất nước, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Còn nếu doanh nghiệp “nói không” với hối lộ và không tiếp tay cho tham nhũng thì chính họ đã chủ động tham gia tích cực vào “cuộc chiến” phòng chống tham nhũng, bảo đảm được uy tín doanh nghiệp không bị gặp các rủi ro, bất trắc. Muốn tham gia góp phần vào việc ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng trước tiên doanh nghiệp cần phải thực hiện quản lý công ty công khai, minh bạch, nâng cao được tính nhất quán và minh bạch trong quan hệ. Các hiệp hội đại diện cho doanh nghiệp có trách nhiệm phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các diễn đàn trao đổi, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp phục vụ công tác phòng chống tham nhũng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đấu tranh phòng chống tham nhũng. Sự tích cực chủ động tham gia chống tham nhũng, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh phi tham nhũng cũng là điều kiện tiền đề, là nền tảng để xây dựng văn hoá kinh doanh giúp doanh nghiệp phát triển bền vững./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docÔn tập thi tuyển công chức ngành thuế năm 2010 Ngạch chuyên viên & Kiểm soát viên.doc
Luận văn liên quan