LỜI MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài
Tại Việt Nam hiện nay, công nghiệp hỗ trợ không còn là thuật ngữ quá xa lạ với các nhà hoạch định chính sách cũng như những người làm kinh tế bởi tầm quan trọng của CNHT đã được khẳng định mạnh mẽ. Việt Nam cũng đã có một số bước tiến quan trọng trong việc tăng cường phát triển CNHT. Năm 2003, Chính phủ Việt Nam đã chỉ đạo xúc tiến “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản” nhằm cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó hạng mục đầu tiên được đề cập phát triển là CNHT. Tuy nhiên, CNHT Việt Nam vẫn bị đánh giá là một ngành chậm phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu của sản xuất lắp ráp. Là một nước đang phát triển, Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, theo đó nhiều ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của ngành sản xuất lắp ráp kéo theo nhu cầu lớn về các sản phẩm hỗ trợ, đặc biệt trong các ngành ô tô - xe máy, điện - điện tử, Điều này đặt ra cho Việt Nam bài toán khó trong việc giải quyết nhu cầu sản phẩm CNHT mà phần lớn hiện nay đang phải nhờ vào nhập khẩu. Với nguồn vốn hạn hẹp, trình độ nhân công tương đối thấp, Việt Nam nói riêng, các nước đang phát triển nói chung phải làm thế nào để có thể phát triển một ngành công nghiệp đòi hỏi kỹ thuật cao, vốn lớn như CNHT? Thực tế cho thấy,tại một số nước Đông Á rất thành công trong việc phát triển CNHT như Trung Quốc,Nhật Bản ,Hàn Quốc Vậy họ đã làm thế nào và bài học kinh nghiệm gì có thể rút ra cho Việt Nam trong việc phát triển CNHT chính là câu hỏi người viết muốn đi tìm câu trả lời khi chọn đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình: “Phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nước Đông Á và bài học cho Việt Nam”.
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 5
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 6
4. Phương pháp nghiên cứu. 6
5. Bố cục của khóa luận. 7
CHƯƠNG I 8
TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 8
I. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ. 8
1. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ của một số nước trên thế giới 8
2. Khái niệm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam 11
II. Phạm vi của ngành công nghiệp hỗ trợ. 13
III. Các giai đoạn phát triển của công nghiệp hỗ trợ. 15
IV. Đặc điểm ngành công nghiệp hỗ trợ. 17
1. Sản phẩm của công nghiệp hỗ trợ thường được sản xuất với quy mô nhỏ tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 17
2. Phạm vi của CNHT phụ thuộc vào chính sách. 17
3. CNHT bao phủ một diện rộng trong các ngành công nghiệp khác. 18
4. Công nghiệp hỗ trợ là ngành đòi hỏi đầu tư nhiều vốn và nguồn nhân lực có trình độ cao 18
5. Công nghiệp hỗ trợ có quan hệ mật thiết với đầu tư trực tiếp nước ngoài 19
6. Sản phẩm của công nghiệp hỗ trợ có thể được dùng trong nước hoặc xuất khẩu 21
V. Vai trò của ngành công nghiệp hỗ trợ. 21
1. Công nghiệp hỗ trợ phát triển giúp tăng cường thu hút vốn FDI 21
2. Công nghiệp hỗ trợ phát triển đẩy mạnh quá trình chuyên môn hóa và ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất 22
3. Công nghiệp hỗ trợ phát triển tạo công ăn việc làm và cải thiện cơ cấu lao động theo hướng tích cực. 23
4. Công nghiệp hỗ trợ giúp phát triển ngành công nghiệp nội địa. 23
5. Công nghiệp hỗ trợ phát triển tạo tiền đề cho phát triển bền vững. 24
CHƯƠNG II 26
KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG Á TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 26
I. Thực trạng phát triển CNHT tại một số nước Đông Á 26
1. Tại Nhật Bản. 26
2. Trung Quốc. 30
II. Kinh nghiệm phát triển CNHT tại một số nước Đông Á 31
1. Phát triển các SMEs. 32
2. Phát triển công nghệ và nguồn nhân lực. 35
2.1. Nhật Bản. 35
2.2. Trung Quốc. 36
2.3. Hàn Quốc. 39
2.4. Đài Loan. 41
3. Chuyên môn hóa và liên kết công nghiệp. 43
3.1. Xu hướng chuyên môn hóa theo chuỗi giá trị trong ngành công nghiệp điện tử Nhật Bản 43
3.2. Cụm công nghiệp ô tô Quảng Châu, Trung Quốc. 46
4. Chính sách yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa. 49
5. Thu hút đầu tư nước ngoài 50
CHƯƠNG III 52
VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC ĐÔNG Á TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TẠI VIỆT NAM . 52
I. Khái quát tình hình CNHT tại Việt Nam 52
1. Sự yếu kém về sản phẩm hỗ trợ của Việt Nam hiện nay. 53
2. Sự yếu kém về doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ tại Việt Nam 55
II. Một số vấn đề đặt ra cho ngành CNHT tại Việt Nam 57
1. Sự cần thiết phải phát triển CNHT tại Việt Nam 57
2. Các vấn đề Việt Nam phải đối mặt khi phát triển CNHT 58
III. Giải pháp phát triển ngành CNHT tại Việt Nam 62
1. Hình thành một chiến lược trợ cụ thể để phát triển CNHT. 63
1.1. Xây dựng khuôn khổ chính sách phát triển CNHT phù hợp. 63
1.2. Xây dựng chiến lược phát triển ngành CNHT phù hợp với chiến lược phát triển công nghiệp toàn diện. 63
1.3. Xác định trọng tâm phát triển CNHT. 64
2. Xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp hỗ trợ và sản phẩm hỗ trợ và phổ biến thông tin doanh nghiệp. 66
3. Phát triển các DNNVV trong ngành CNHT 68
3.1. Các biện pháp hỗ trợ về vốn. 69
3.2. Các biện pháp hỗ trợ về công nghệ. 70
3.3. Các biện pháp giải quyết khó khăn về mặt bằng xây dựng nhà xưởng sản xuất 71
4. Hoàn thiện và bổ sung các chính sách ưu đãi đầu tư vào phát triển công nghiệp hỗ trợ 71
5. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển. 73
6. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào CNHT 74
7.Thúc đẩy các mối liên kết công nghiệp. 74
8. Chính sách về tỷ lệ nội địa hóa. 77
9. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. 78
KẾT LUẬN 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
87 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3564 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nước Đông Á và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân chia giữa các doanh nghiệp trải rộng khắp thế giới. Ngày nay, quá trình phát triển kinh tế không thể tách rời khỏi các hệ thống toàn cầu này. CNHT sẽ giúp Việt Nam đa dạng hóa sản phẩm thương mại, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và liên kết chặt chẽ hơn với các doanh nghiệp FDI và các MNCs.
2. Các vấn đề Việt Nam phải đối mặt khi phát triển CNHT
Nhìn chung, đối với CNHT của Việt Nam hiện nay, có một số vấn đề được đặt ra như sau:
Thứ nhất là về các giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam. Có thể nói về mặt chủ trương, chính sách, chúng đã có những độngt thái tích cực. Các chính sách tổng thể chúng ta đều đã xây dựng. “Quy hoạch phát triển CNHT Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020” số 34/2007/QĐ-BCN của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) đã được phê duyệt ngày 31 tháng 7 năm 2007. Bản Quy hoạch tổng thể đưa ra sáu nhóm giải pháp cơ bản với định hướng tập trung vào một số ngành trọng điểm gồm dệt may, ô tô, điện tử-tin học, cơ khí chế tạo. Nhưng quan trọng là làm cách nào để thực hiện được các giải pháp đó thì chưa được cụ thể hóa. Các giải pháp mà Quy hoạch này xác định đều là những giải pháp đúng đắn, cần thiết. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai nhưng nhiều DNVVN sản xuất CNHT đều rất mơ hồ hoặc không biết. Trong khi đó, phía các cơ quan triển khai chính sách, kế hoạch hỗ trợ cho Quy hoạch phát triển CNHT cũng không biết phải làm gì để đẩy mạnh tình hình vì phải chờ trình duyệt các bước triển khai. Nghĩa là, chúng ta vẫn chỉ mạnh trên giấy tờ, mạnh về xây dựng kế hoạch tổng thể nhưng vấn đề thực thi như thế nào, xây dựng các kế hoạch chi tiết nhằm hiện thực hoá các chủ trương chính sách thì vẫn còn nhiều vấn đề đáng bàn.
Đơn cử như ngành CNHT điện tử Việt Nam, Bản quy hoạch phát triển công nghiệp điện tử VN đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 rất “hoành tráng” với doanh số sản xuất đạt 4-6 tỉ USD, xuất khẩu 3-5 tỉ USD… nhưng nhận xét về quy hoạch này, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương lại cho rằng đây chỉ là kế hoạch trên giấy bởi hơn hai năm kể từ khi quy hoạch được phê duyệt, không một kế hoạch hay chương trình hành động nào được đưa ra triển khai, còn ngành CNHT điện tử Việt Nam hiện vẫn đang trong tình trạng manh mún, kém phát triển.
Thứ hai, “nội lực” của chúng ta trong lĩnh vực phát triển công nghiệp hỗ trợ yếu. Như đã nói ở trên, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ là doanh nghiệp có vốn FDI. Trong số các doanh nghiệp nội địa tham gia vào sản xuất các sản phẩm hỗ trợ thì 99% là DNVVN. Ngay cả trong các lĩnh vực sản xuất có ngành CNHT phát triển hơn cả thì sự tham gia của khối doanh nghiệp trong nước vẫn chiếm vị trí khiêm tốn Sản xuất xe máy được coi là thành công hơn cả trong việc phát triển các ngành phụ trợ nhưng hiện nay, có hơn 80 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đầu tư trên 260 triệu USD trên tổng số 230 doanh nghiệp đang sản xuất linh kiện, phụ tùng cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp xe máy. Tuy nhiên, nếu xem xét những trường hợp cụ thể, có thể thấy tình hình không mấy khả quan. Trong 5 năm (1997-2002), tỷ lệ nội địa hoá của Công ty Honda tăng từ 10% lên 66%, nhưng phần lớn các bộ phận, linh kiện đều do Honda tự sản xuất trong nội bộ nhà máy hoặc mua từ các doanh nghiệp FDI khác (Phát triển CNHT: mũi đột phá chiến lược, Đối với ngành công nghiệp điện tử VN, tính đến nay mới chỉ có 1/4 số doanh nghiệp trong ngành sản xuất phụ tùng linh kiện, nhưng phần lớn lại là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (
. Do các doanh nghiệp tham gia phần lớn là DNVVN nên lại càng gặp nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, nhân lực có trình độ, khó khăn trong việc tiếp cận thị trường,... Những hạn chế này lại dẫn tới sự yếu kém về số lượng chất lượng sản phẩm hỗ trợ, giá thành sản xuất cao khiến sản phẩm không cạnh tranh được với sản phẩm nhập khẩu và những sản phẩm được sản xuất ra bởi khối doanh nghiệp có vốn FDI
Thứ ba là vấn đề tiêu chuẩn chất lượng trong CNHT nói riêng và công nghiệp nói chung. Khi nghiên cứu hành vi mua sắm của các doanh nghiệp lắp ráp FDI, các doanh nghiệp này luôn coi chất lượng sản phẩm là tiêu chí ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ đó mà mặc dù đầu tư vào Việt Nam hơn 10 năm nhưng số doanh nghiệp nội địa có khả năng cung cấp sản phẩm hỗ trợ cho những doanh nghiệp kì cựu này mới chỉ đếm trên đầu ngón tay. Họ vẫn phải nhập rất nhiều chi tiết từ nước ngoài. Không phải do họ khó tính trong việc lựa chọn, mà thực sự sản phẩm CNHT do các doanh nghiệp nội địa Việt Nam sản xuất không đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay, các khía cạnh pháp lý về quản lý chất lượng sản phẩm do cơ quan Tiêu chuẩn và Chất lượng (STAMEQ) thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành. Việc quản lý tiêu chuẩn, kiểm định chất lượng và phân tích mẫu do Trung tâm Quản lý và Kiểm định chất lượng (QUATEST) thực hiện dưới sự chỉ đạo của STAMEQ tại Hà nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, hiệu quả của QUATEST là không đáng kể vì phần lớn các doanh nghiệp trong nước đều chưa có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt nam chỉ coi việc kiểm tra chất lượng sản phẩm là trách nhiệm với người sử dụng sản phẩm của họ khi những sai sót của sản phẩm được phát hiện. Quan niệm này không thể chấp nhận được và cần phải thay đổi trước khi họ có thể trở thành nhà cung cấp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư là vấn đề nguồn nhân lực trong CNHT. Nguồn nhân lực là điều kiện hết sức quan trọng để phát triển CNHT cũng như thu hút FDI vào CNHT. Việt Nam có thể cung cấp một lượng lao động lớn nhưng lại lại thiếu trầm trọng lực lượng kỹ sư có trình độ từ trung cấp trở lên. Một phần của thực trạng này là do việc đào tạo thực hành khoa học và kỹ thuật (kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật điện, hoá ứng dụng….) trong các trường đại học còn rất yếu, và vì thế đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc trang thiết bị phục vụ cho hoạt động này cũng thiếu. Sự thiếu nhiệt tình trong quá trình tiếp thu những kiến thức thực tế cũng là một vấn đề nảy sinh từ phía sinh viên ở các trường. Hơn nữa, lao động Việt Nam thiếu sự tích lũy về trình độ công nghệ do sự chậm trễ trong chuyển giao công nghệ, yêu cầu về hiệu suất cao và về QCDSS (tức là thiếu sự tin cậy và nhận thức về chất lượng, chi phí, thời hạn giao hàng, dịch vụ và tốc độ) [34]. Đây là một bất lợi lớn cho Việt Nam khi muốn thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng như ngành CNHT.
Thứ năm là chúng ta rất cần vốn để phát triển công nghiệp hỗ trợ. Công nghiệp hỗ trợ có nhiều tầng, nấc. Tuỳ từng ngành, từng tầng, nhu cầu về vốn phát triển khác nhau. Vốn ở đây được hiểu không chỉ là nguồn lực tài chính, là tiền mà còn bao gồm cả công nghệ, cả nguồn vốn con người. Dường như, công nghiệp hỗ trợ của chúng ta cũng ở trong “cái vòng luẩn quẩn” và rất cần “cú huých” từ bên ngoài. FDI vào Việt Nam vẫn chủ yếu đầu tư vào các ngành lắp ráp chế tạo. Bản thân các nhà đầu tư cũng mong muốn chúng ta với tư cách là nước tiếp nhận đầu tư phải có sẵn các ngành công nghiệp hỗ trợ và coi đây là một yếu tố trong cơ sở hạ tầng thu hút đầu tư nước ngoài. Do sự yếu kém của ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước mà nhiều doanh nghiệp lắp ráp nước ngoài phải thiết lập hệ thống cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong nội bộ doanh nghiệp mình. Mặc dù chúng ta thấy phần lớn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam là các doanh nghiệp có vốn FDI nhưng chúng ta chưa tận dụng được khu vực này để phát triển công nghiệp hỗ trợ của mình bằng cách liên kết với các doanh nghiệp đó, kêu gọi chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý,...
Dường như CNHT của chúng ta vẫn đang ở trong “cái vòng luẩn quẩn”, bản thân các nhà đầu tư cũng mong muốn chúng ta với tư cách là nước tiếp nhận đầu tư phải có sẵn các ngành CNHT và coi đây là một yếu tố trong cơ sở hạ tầng thu hút đầu tư nước ngoài. Do sự yếu kém của ngành CNHT trong nước mà nhiều doanh nghiệp lắp ráp nước ngoài phải thiết lập hệ thống cung cấp sản phẩm hỗ trợ trong nội bộ doanh nghiệp mình hoặc phải nhập khẩu từ nước ngoài. Mặc dù rất muốn phát triển CNHT nhưng Việt Nam nói riêng và rất nhiều nước đang phát triển nói chung lại không có đủ vốn, vốn ở đây được hiểu không chỉ là nguồn lực tài chính mà còn bao gồm cả công nghệ và nguồn lực con người. Như vậy, chỉ có thông qua nguồn vốn FDI trực tiếp vào CNHT mới có thể tạo nên “cú huých” giúp Việt Nam thoát khỏi “cái vòng luẩn quẩn” đó.
III. Giải pháp phát triển ngành CNHT tại Việt Nam
Việc phát triển CNHT tại Việt Nam thực sự là một bài toán khó mà việc đưa ra những giải pháp thích hợp đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách không chỉ dựa vào kinh nghiệm của một số nước như các nước Đông Á mà còn phải có sự hiểu biết về tình hình và điều kiện của Việt Nam. Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đài Loan đều là những nước đã phát triển CNHT từ nhiều năm trước cho nên Việt Nam học hỏi được gì từ kinh nghiệm của họ là điều cần phải xem xét kỹ càng. Về phần Trung Quốc, mặc dù cũng là một nước đang phát triển nhưng có những đặc điểm và lợi thế so sánh khác với Việt Nam, cho nên vận dụng kinh nghiệm của họ cần phải có sự linh hoạt nhất định. Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước Đông Á trong việc phát triển CNHT, xét trong tình hình phát triển CNHT cũng như tình hình phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, người viết xin đưa ra một số giải pháp tổng thể để phát triển CNHT tại Việt Nam như trình bày sau đây.
1. Hình thành một chiến lược trợ cụ thể để phát triển CNHT
1.1. Xây dựng khuôn khổ chính sách phát triển CNHT phù hợp
Việc xây dựng một chính sách phát triển CNHT phù hợp là hết sức cần thiết cho Việt Nam, tạo định hướng cụ thể cho công cuộc phát triển CNHT tại Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu này, việc đầu tiên cần làm là phải làm rõ định nghĩa mang tính pháp lý về các ngành công nghiệp hỗ trợ – điều mà hiện nay Việt Nam chưa làm được. Ngoài việc đưa ra định nghĩa cụ thể, Chính phủ cũng cần cần nêu rõ cả quy mô, phạm vi của ngành CNHT trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, tầm quan trọng của ngành trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Hơn nữa, cũng cần phải liệt kê các ngành CNHT cũng như tầm quan trọng của từng ngành, định hướng phát triển thời gian tới để các doanh nghiệp có hướng phấn đấu cụ thể. Với một chính sách rõ ràng thể hiện mục tiêu phát triển CNHT, các doanh nghiệp cũng có thể cùng Chính phủ nỗ lực hết mình phấn đấu đạt mục tiêu kinh tế đề ra của đất nước.
1.2. Xây dựng chiến lược phát triển ngành CNHT phù hợp với chiến lược phát triển công nghiệp toàn diện
CNHT có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển của ngành công nghiệp chính cũng như tới mối liên kết công nghiệp trong nền kinh tế. Do dó, việc hoạch định chính sách phát triển CNHT phải được xem xét sao cho đồng bộ với chiến lược phát triển công nghiệp, hướng tới một nền công nghiệp toàn diện cho Việt Nam.
Đặc biệt, chính sách phát triển CNHT cần phải đi liền với chính sách phát triển các ngành công nghiệp sản xuất và lắp ráp, sao cho CNHT và ngành công nghiệp chính có thể tương hỗ cho nhau cùng phát triển. Hiện nay, sức tăng trưởng dồi dào của các ngành công nghiệp lắp ráp, đặc biệt là ngành ô tô và điện tử dân dụng, đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ. Việc dự thảo chính sách phát triển công nghiệp toàn diện, trong đó có ngành lắp ráp, là điều hết sức cần thiết. Chính sách này cần được thực hiện trong bối cảnh Việt nam phải thực hiện lộ trình Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) của Khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) vào năm 2006.
1.3. Xác định trọng tâm phát triển CNHT
Để phát triển CNHT tập trung và hiệu quả, Chính phủ cần đặt ra những ngành CNHT mục tiêu phát triển. Chia sẻ kinh nghiệm về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại Nhật bản, ông Noriyuki Yonemura, nguyên Chủ tịch hiệp hội tư vấn quản lý DNNVV cũng cho biết, việc xây dựng kế hoạch hành động khả thi để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cần phải tuân theo 3 nguyên tắc chính, đó là: phải kế hoạch thiết thực và minh bạch, sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực sẵn có, và phải có mục tiêu thiết thực, trong đó, đầu tiên là phải chọn ra lĩnh vực mục tiêu.
Tại Nhật bản, hạng mục thứ nhất sẽ là lĩnh vực kinh doanh của các nhà lắp ráp, các công ty thầu phụ Nhật; hạng mục thứ 2 sẽ là các lĩnh vực được chỉ định bởi Bộ Công thương. Tiếp sau đó xét đến cấp độ mục tiêu, trong đó đáp ứng nhu cầu của người mua; xem xét mục tiêu kinh doanh và kỹ thuật của từng loại sản phẩm. Các yếu tố khác cũng cần phải xem xét bao gồm: các ngành công nghiệp hỗ trợ tiềm năng, cơ chế hỗ trợ kinh doanh, công ty dẫn đầu, môi trường kinh doanh thuận lợi, hiệp hội kinh doanh, nền tảng pháp lý.
Tại cuộc hội thảo quốc gia lần thứ nhất “Chương trình hành động về phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) tổ chức tại Hà Nội vừa qua, Bản quy hoạch về phát triển CNHT tiếp tục được nhắc lại với 5 “đích ngắm” mà công nghiệp hỗ trợ phải hướng tới đó là CNHT cho các ngành điện tử - tin học, ôtô - xe máy, dệt may, da giày và cơ khí chế tạo.
Hơn nữa, để có thể phát triển một cách có hiệu quả nhất ngành CNHT phù hợp với Việt Nam, Chính phủ cần xác định một cách rõ ràng số lượng tương đối nhỏ những trụ cột cần ưu tiên trong định hướng phát triển CNHT tương lai gần, có thể là nỗ lực xây dựng các ngành tạo khuôn, dập khuôn, cán thép,… là những ngành hiện nay Việt Nam đang thiếu. Phát triển CNHT cho các ngành sản xuất linh kiện bằng nhựa hay kim khí hay các công đoạn như đúc, ép là hiện thực nhất đối với Việt Nam nhằm nâng cao năng lực của ngành CNHT. Bởi:
Thứ nhất, công nghệ sử dụng cho ngành này có thể áp dụng cho nhiều ngành khác. Ví dụ: công nghệ sử dụng trong ngành điện tử có thể khả dụng đối với các ngành sản xuất ô tô, xe máy, máy công nghiệp, máy phát điện,… Các sản phẩm cuối cùng có thể thay đổi thường xuyên và đặc biệt nhanh đối với ngành công nghiệp điện tử. Tuy nhiên các linh kiện nhựa kim khí cũng như các công đoạn liên quan sẽ luôn cần thiết cho dù có bất cứ sự thay đổi nào về sản phẩm cuối cùng, do vậy các quốc gia có đủ công nghệ để sản xuất các linh phụ kiện bằng nhựa hay kim khí sẽ có khả năng bảo vệ vị trí cạnh tranh của mình như là một trung tâm sản xuất dài hạn.
Thứ hai, sản xuất các linh kiện nhựa hay kim khí và các công cụ để sản xuất chúng không hoàn toàn là công nghệ thấp, mà đòi hỏi công nghệ sản xuất định hướng tương đối cao. Các sản phẩm điện tử được cấu thành bởi các linh kiện nhựa và kim khí được thiết kế hết sức công phu. Các nhà sản xuất phải có tay nghề cao bởi chỉ một khiếm khuyết dù rất nhỏ trong các linh kiện này có thể ảnh hưởng tới toàn bộ tính năng cơ học của sản phẩm cuối cùng.
Thứ ba, thêm một thuận lợi cho việc phát triển ngành CNHT này là chưa có một quốc gia nào trong khu vực ASEAN đã có sự tích tụ cần thiết trong việc phát triển ngành công nghiệp này và như vậy Việt Nam hoàn toàn có lợi thế so với các nước trong khu vực nếu xây dựng thành công các ngành CNHT trên.
Một ngành khác cũng cần phải chú trọng phát triển đó là ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu. Một khi Việt Nam còn phụ thuộc vào việc nhập khẩu thép mỏng, nguyên liệu nhựa, hóa chất công nghiệp, sơn, những sản phẩm lọc dầu như hiện nay thì khả năng cạnh tranh về giá thành và thời gian không thể so sánh được với các quốc gia có sẵn nguyên liệu này.
2. Xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp hỗ trợ và sản phẩm hỗ trợ và phổ biến thông tin doanh nghiệp
Thiết lập các cơ quan đầu mối, các tổ chức thông tin chuyên nghiệp về CNHT nhằm hỗ trợ các nhà cung cấp nội địa các thông tin cũng như mong muốn của các nhà lắp ráp FDI về các loại, dòng sản phẩm. Thông tin này phải mang tính hai chiều, đồng thời cũng thiết lập các hệ thống thông tin về các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa, khả năng và kinh nghiệm sản xuất. Hiện nay, ngành CNHT khu vực ASEAN đã có website: www.asidnet.org giới thiệu các doanh nghiệp hỗ trợ tại các nước thành viên, có phân loại theo ngành nghề, lĩnh vực sản xuất nhằm quảng bá hình ảnh các doanh nghiệp hỗ trợ trong khu vực này đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cần phải hoàn thiện hơn nữa trang web này, bởi nó mới chỉ ở dạng liệt kê các doanh nghiệp hỗ trợ theo ngành nghề, quốc gia mà chưa kèm theo đó những thông tin cụ thể hơn về sản phẩm, trình độ và năng lực sản xuất cũng như kinh nghiệm sản xuất của cá nhà cung cấp – điều mà các doanh nghiệp FDI vẫn luôn tìm kiếm.
Việc xây dựng cơ sở dữ liệu CNHT khác với danh bạ doanh nghiệp. Việt Nam hiện đã có một số danh bạ doanh nghiệp theo kiểu trang vàng, bao gồm một số lượng lớn các doanh nghiệp như: Trang vàng Việt Nam – dữ liệu 60.000 doanh nghiệp; Danh bạ doanh nghiệp Việt Nam của VCCI – dữ liệu của hơn 20.000 doanh nghiệp; Các danh bạ của các hiệp hội ngành nghề. Nhưng những cuốn danh bạ này mới chỉ nêu được tên công ty, địa chỉ, sản phẩm chính công ty đang sản xuất. Tuy nhiên các doanh nghiệp FDI cần thông tin cụ thể hơn nữa về tiềm năng sản xuất của các công ty.
Hiện nay chỉ có một vài tài liệu chính thức của các cuộc Triển lãm về CNHT đã tổ chức có những cuốn tạp chí giới thiệu cụ thể về từng công ty tham gia triển lãm. Những tài liệu này cũng mang lại nhiều thông tin bổ ích cho các nhà đầu tư đang tìm kiếm đối tác. Nếu như Chính phủ Việt Nam tiến hành tổng hợp và xây dựng một cuốn danh bạ các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất CNHT trong nước, chúng ta có thể sẽ đạt tới bước tiến lớn hơn về mảng thông tin trong quá trình phát triển CNHT của mình. Cơ sở dữ liệu Việt Nam xây dựng cũng cần thiết phải được xây dựng chuyên biệt, với các nội dung cụ thể như: đối với mỗi nhà cung cấp hỗ trợ nội địa, phải giới thiệu rõ những kỹ năng đặc biệt, kinh nghiệm JIT (quản lý sản xuất theo thời gian – Just in time); nêu rõ thiết bị sản xuất với danh mục máy móc, tên nhà sản xuất; cụ thể độ chính xác trong chế tạo đến đơn vị milimet; giới thiệu các chứng chỉ liên quan mà doanh nghiệp đạt được như ISO 9000, ISO 14000,….
Bên cạnh một cơ sở dữ liệu dễ dàng tiếp cận cho các doanh nghiệp, việc phổ biến thông tin tới các doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết. Trong nền kinh tế kế hoạch trước đây, các doanh nghiệp nhận được rất ít đơn đặt hàng sản xuất từ cấp trên nên họ không cần mở rộng sản xuất bằng nỗ lực của mình. Thậm chí ngay cả bây giờ, rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ thụ động làm các đơn đặt hàng có sẵn chứ không nỗ lực tìm kiếm khách hàng mới cho sản phẩm của mình. Để phát hiện ra các doanh nghiệp có tiềm năng hoạt động cao trong số các doanh nghiệp trong nước, chúng ta cần phải thiết lập một hệ thống phổ biến thông tin doanh nghiệp chính thức và xây dựng các mạng lưới thông tin nội bộ doanh nghiệp. Để làm được việc này, các thông tin và dịch vụ hỗ trợ của Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), của Công đoàn Hiệp hội Công nghiệp và Thương mại (UAIC), và của Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư (ITPC) cần được thúc đẩy mạnh hơn. Hơn nữa, cũng cần tăng số lượng hội trợ thương mại nhằm tìm kiếm các đối tác kinh doanh cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3. Phát triển các DNNVV trong ngành CNHT
Việc phát triển các DNNVV để phát triển CNHT là biện pháp hết sức hợp lý xét trong tình hình Việt Nam hiện nay. Bằng chứng từ những nước khác cho thấy, DNNVV đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ.
Với một nền kinh tế đang trong quá trình tích lũy vốn, trong giai đoạn phát triển khi mà việc phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả khó được thực hiện thông qua chức năng giá cả thì cần thiết phải có một chính sách phân bổ có trọng điểm các nguồn vốn hạn chế đối với những khu vực kinh tế thực sự có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế. Để thực hiện được điều đó, cần thiết phải nâng cao khả năng cấp tín dụng cho DNNVV (năng lực kinh doanh, tăng cường quy chế, hoàn thiện hạ tầng), và đồng thời với nó là đưa ra những ưu đãi về chính sách kết hợp giữa tín dụng và chính sách hỗ trợ cho CNHT. Tín dụng ưu đãi kết hợp giữa chế độ bảo đảm tín dụng và bù lãi suất đối với ngành CNHT; cho vay bảo đảm tín dụng/bù lãi suất đối với ngành CNHT thông qua sự hợp tác với thẩm định viên DNNVV và văn phòng kiểm toán; tăng cường khả năng hỗ trợ cho ngành CNHT của ngân hàng thông qua các khoản vay 2 bước (two-step) của JBIC. (Manabu Tsurutani - Chuyên gia JBIC: Thu hút vào ngành CNHT với nguồn vốn có hạn).
3.1. Các biện pháp hỗ trợ về vốn
Tại Việt nam, sự nở rộ của khu vực tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cần phải được chính phủ ủng hộ một cách mạnh mẽ. Trước đây, các doanh nghiệp tư nhân bị cản trở bởi hàng loạt các quy định và vì thế sự phát triển mạnh mẽ của họ bị bóp méo. Vì thế, nỗ lực chủ yếu trong các biện pháp hỗ trợ chính là việc xoá bỏ các quy định này để các doanh nghiệp tư nhân hoạt động dễ dàng hơn.
Hơn nữa, các doanh nghiệp này cần được ưu đãi đặc biệt về thuế đối với các khoản tái đầu tư để giúp họ mở rộng sản xuất kinh doanh với một mức lợi nhuận giữ lại nào đó, và để đóng góp cho sự phát triển của các ngành công nghiệp Việt nam.
Đặc biệt, khó khăn trong tiếp cận nguồn tài chính là căn bệnh kinh niên của các doanh nghiệp tư nhân và DNNVV tại Việt Nam. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV có thể dễ dàng tiếp cận được các nguồn vốn vay dài hạn cho đầu tư phát triển là hết sức cần thiết. Nếu cần thiết, các tổ chức tài chính nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách có hiệu quả phải được thành lập với sự hỗ trợ từ Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (với các khoản vay hai giai đoạn) và IFS (với Cơ quan phát triển khu vực tư nhân Mekong).Kinh nghiệm từ Nhật Bản cho thấy, hệ thống ngân hàng phục vụ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ chế bảo lãnh tín dụng khi thu hồi thông qua các tài khoản phải thu và thế chấp các tài khoản phải thu khi vay vốn của các tổ chức tín dụng của Nhà nước là đáng để nghiên cứu.
Giáo sư Keinichi Ohno cũng cho rằng Việt Nam đang hướng tới việc sử dụng các cơ sở tài chính thương mại tư nhân làm nhà cung cấp vốn vay chủ yếu cho khu vực DNNVV, biện pháp ưu đãi cho công nghiệp hỗ trợ nên được bổ sung vào quá trình tăng cường chính sách tài chính nói trên.Ngắn hạn, nên tăng cuờng dịch vụ tài chính cho công nghiệp hỗ trợ, ví dụ thành lập phòng xúc tiến công nghiệp hỗ trợ tại các ngân hàng.
Một số biện pháp khác như biện pháp tạo điều kiện về nguồn vốn cho các hoạt động khuyến công, hỗ trợ phát triển khoa học, công nghệ, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ trong việc đầu tư nghiên cứu và phát triển sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, thát triển mạnh cách thức thuê mua tài chính trong mua sắm máy móc, thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ, … cũng cần được áp dụng để nâng cao khả năng phát triển và sức cạnh tranh của những doanh nghiệp này.
Sử dụng nguồn viện trợ ODA để hỗ trợ đào tạo lao động, xây dựng thể chế pháp lý và các chương trình phát triển CNHT, công nghiệp vừa và nhỏ, chương trình hợp tác với các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp vào Việt Nam cũng là một giải pháp để có thể phát triển ngành công nghiệp còn đang yếu của Việt Nam.
3.2. Các biện pháp hỗ trợ về công nghệ
Hỗ trợ công nghệ có thể được thực hiện dưới các hình thức sau: Lập chế độ tư vấn kỹ thuật và quản lý để mời các chuyên gia nước ngoài vào giúp thay đổi công nghệ và cơ chế quản lý tại Việt Nam. Hiện nay, Nhật Bản và một số nước khác đang có chế độ gửi những người đã đến tuổi nghỉ hưu nhưng còn sức khỏe và ý chí muốn đem kinh nghiệm của mình đến giúp các nước đang phát triển. Họ được gọi là những người tình nguyện cấp cao (senior volunteers). Việt Nam có thể tận dụng nguồn lực quốc tế này để nhanh chóng tăng sức cạnh tranh vào các ngành CNHT. Mặt khác chúng ta cũng phải hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) nhằm giúp các doanh nghiệp hỗ trợ sản xuất những sản phẩm tốt, đáp ứng đủ yêu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp. Hiện nay, có 3 Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật (Technical Assitance Center) tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt động với mục tiêu hỗ trợ SMEs trong hoạt động tư vấn và là đầu mối tư vấn hỗ trợ công nghệ và chuyển giao công nghệ, cải tiến trang thiết bị và lắp đặt thiết bị … đồng thời tiến hành nghiên cứu và phối hợp nghiên cứu phát triển công nghệ, trang thiết bị, sản phẩm mới để chuyển giao cho SMEs.
3.3. Các biện pháp giải quyết khó khăn về mặt bằng xây dựng nhà xưởng sản xuất
Về vấn đề này, Chính phủ có thể thực hiện đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các cơ sở giao thông, vận tải như các bến cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ, giao thông đô thị; hình thành các kho tàng, điểm tập trung hàng hóa ở các vùng kinh tế trọng điểm để gia tăng điều kiện phát triển công nghiệp; tâp trung xây dựng một số khu, cụm CNHT có trang thiết bị, công nghệ tiên tiến gắn với các vùng có các ngành công nghiệp chính phát triển…
Ngoài ra, Chính phủ có thể tiến hành xây dựng các cụm, khu công nghiệp trọng điểm có đầu tư trang thiết bị hiện đại, có khả năng cạnh trannh quốc tế... nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu vực này.
4. Hoàn thiện và bổ sung các chính sách ưu đãi đầu tư vào phát triển công nghiệp hỗ trợ
Với tình hình phát triển chậm chạp của CNHT tại Việt Nam, việc thu hút FDI vào CNHT là một biện pháp hiệu quả, giúp tăng sức cạnh tranh cho ngành, tạo “cú huých” về vốn và công nghệ giúp phát triển CNHT một cách nhanh chóng. Việc hấp thụ một lượng vốn FDI cho sản xuất linh kiện và phụ tùng sẽ trực tiếp mở rộng các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt nam và gián tiếp giúp các doanh nghiệp trong nước liên kết lại. Để thu hút họ, việc tạo ra một môi trường kinh doanh tự do và mở, một khuôn khổ chính sách ổn định, nâng cao chất lượng lao động, cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đưa ra những ưu đãi về thuế và tài chính hấp dẫn.
Giảm thuế nhập khẩu và các ưu đãi về thuế khác được coi là những công cụ chính sách chuẩn để thúc đẩy sự phát triển của CNHT. Thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng cần nhanh chóng giảm tới 5% và 0% theo lộ trình giảm thuế Việt Nam đã cam kết khi gia nhập các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế và khu vực. Nếu không thực hiện được điều này, các nhà lắp ráp tại Việt Nam sẽ nhanh chóng mất đi lợi thế cạnh tranh về chi phí so với các sản phẩm nhập khẩu từ các nước ASEAN. Như vậy, các tập đoàn lớn đang đầu tư tại các công ty con của họ ở Việt Nam sẽ chuyển hướng đầu tư sang các công ty con của họ tại các nước ASEAN khác. Thiệt thòi lại thuộc về chúng ta.
Việc giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác động tích cực: nó làm tăng khả năng canh tranh về chi phí của các nhà lắp ráp giúp giảm giá thành sản phẩm từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Tiếp đó, việc tự do hóa nhập khẩu linh kiện làm gia tăng trao đổi thương mại về các linh kiện trong ngành, khuyến khích Việt Nam chuyên môn hóa sản xuất một số linh kiện nhất định và xuất khẩu ra toàn thế giới. Cùng với việc giảm thuế nhập khẩu linh kiện cũng phải giảm thuế nhập khẩu cho nguyên liệu thô, giải quyết hài hòa giữa việc bảo hộ một số nhà cung cấp nguyên liệu thô với thúc đẩy các nhà sản xuất linh kiện nhập khẩu nguyên liệu công nghiệp cao cấp mà hiện trong nước chưa sản xuất để phát triển CNHT. Ngoài ra cũng cần giảm thuế nhập khẩu cho việc mua sắm thiết bị cho nghiên cứu và phát triển (R&D) vào những mục đích tương tự nhằm phát triển ngành CNHT
Các chính sách tài chính ưu đãi đầu tư bao gồm: ưu đãi tín dụng, ưu đãi nhập khẩu thiết bị, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp,… Chính phủ chỉ đưa ra chính sách ưu đãi đặc biệt và chỉ áp dụng có thời hạn (khoảng3 – 5 năm). Đồng thời cũng cần phải đa dạng hóa các nguồn đầu tư vào phát triển CNHT, trong đó phải coi đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài là các nguồn đầu tư chủ yếu. Dồn hết mọi khả năng để kêu gọi đầu tư FDI vào việc sản xuất trong ngành CNHT. Chính phủ có thể chỉ định một số khu công nghiệp để ưu tiên giải quyết ngay và triệt để các mặt về hạ tầng, về thủ tục hành chính, về cung cấp nguồn nhân lực cần thiết … và đặt ra các đội chuyên trách thường xuyên theo dõi hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài để phát hiện ngay các vướng mắc, từ đó sẽ giải quyết ngay.
5. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển
Chính phủ cần hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt trình độ quốc tế. Bởi vậy, trước tiên, Chính phủ cần điều tra, nghiên cứu nhu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp FDI, sau đó là yêu cầu chất lượng của các sản phẩm CNHT theo chuẩn quốc tế để từ đó cân đối với hoàn cảnh Việt Nam, đưa ra được tiêu chuẩn cụ thể cho các sản phẩm CNHT. Đó là việc làm cần thiết, gián tiếp nâng cao chất lượng sản xuất của các doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm và khả năng thu hút FDI của các doanh nghiệp này.
Việc hỗ trợ kỹ thuật dài hạn cho các Trung tâm như QUATEST cần phải có sự linh hoạt của Chính phủ trong việc kêu gọi sự giúp đỡ từ những nhà đầu tư nước ngoài bởi chi phí cho việc hỗ trợ dài hạn như thế là một con số rất lớn. Hiện nay, một số doanh nghiệp Nhật Bản đã đứng ra hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, nhưng hỗ trợ về tài chính và thời gian cho những khoá đào tạo như thế rất tốn kém và không thể kéo dài mãi được. Việc làm thiết thực nhất là tổ chức các chương trình chính thức và thường xuyên hơn cho các doanh nghiệp Việt nam với sự tham gia của nhiều chuyên gia, trong đó có các chuyên gia của Tập đoàn Phát triển hải ngoại Nhật Bản (JODC).
6. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào CNHT
Để phát triển một ngành công nghiệp hiện đại như CNHT, Việt Nam cũng phải nhanh chóng phát triển công nghệ thông tin, tạo tiền đề để tăng cường thu hút vốn FDI vào CNHT cũng như phát triển CNHT nhanh chóng.
Trong lĩnh vực cơ khí, công nghệ thông tin được ứng dụng trong 3 giai đoạn chính của quá trình sản xuất - gia công gồm: Thiết kế, Tính toán mô phỏng và Điều khiển gia công. Công nghệ thông tin đã thực sự thúc đẩy nghành công nghiệp cơ khí có những bước tiến vượt bậc: Nâng cao hiệu suất và chất lượng, gia tăng sự chính xác, giảm thiểu chi phí. Và đặc biệt, nhờ có Công nghệ thông tin, khối lượng và chất lượng của các phát minh về cơ khí phục vụ cho mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống cũng đã tăng đáng kể, điều này thực sự khiến nghành cơ khí có những đóng góp to lớn và thiết thực hơn cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội.
7.Thúc đẩy các mối liên kết công nghiệp
Các mối liên kết công nghiệp có vai trò rất lớn trong việc phát triển CNHT và hướng tới phát triển công nghiệp bền vững. Các mối liên kết công nghiệp ở đây không chỉ là những liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ mà còn bao gồm cả mối liên kết giữa những doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp nội địa trong cả ngành sản xuất lắp ráp và CNHT. Việc hình thành nên các mối liên kết càng dày đặc và chặt chẽ sẽ càng giúp Việt Nam nhanh chóng phát triển công nghiệp, theo kịp các nước trong khu vực.
Để khắc phục tình trạng khép kín, ngăn cách giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, cần phải có mặt bằng kinh doanh bình đẳng. Kết quả của một cuộc điều tra mới đây cho thấy, hơn 70% doanh nghiệp FDI ở Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài. Trong khi đó, một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc thu hút được FDI nhiều và liên tục là vì CNHT trong nước của họ kết nối tốt với các khu vực FDI, điều mà các nhà đầu tư rất cần vì họ có thể giảm được giá thành phẩm. Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực từ 1/7/2006 đã làm cho thể chế kinh tế thị trường của nước ta hoàn thiện hơn, phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường, đồng thời nó đã khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, Chính phủ cũng cần tổ chức những diễn đàn đối thoại để ba bên: doanh nghiệp nội địa – doanh nghiệp FDI – Chính phủ cùng có thể thảo luận và đưa ra những mục tiêu, lĩnh vực cụ thể và tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần có các biện pháp nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội nghề nghiệp liên quan đến các sản phẩm hỗ trợ để thực sự tạo cầu nối giữa các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa với các hãng chính (các nhà lắp ráp FDI) và giữa doanh nghiệp hỗ trợ nội địa với các doanh nghiệp hỗ trợ FDI, đảm nhận được vai trò của người xúc tiến đầu tư với năng lực bảo lãnh tốt đối với các khoản tín dụng trong và ngoài nước cho việc đầu tư phát triển khối các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa.
Hơn nữa, Chính phủ cũng cần đa dạng hoá trong hợp tác, liên doanh liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để cung ứng các linh kiện, sản phẩm hỗ trợ. Đối với các dự án sản xuất điện tử, tin học thì để cho ra đời một sản phẩm hoàn chỉnh thì cần tới hàng trăm linh kiện khác nhau và xu thế chung của thế giới là sự phân công lao động quốc tế ngày càng chi tiết. Ví dụ một máy tính hiệu IBM nhưng ổ cứng lại là Seagate, màn hình Samsung, main của Intel, thậm chí từng con ốc cần các nhà sản xuất chuyên nghiệp. Vì vậy chỉ có đa dạng hoá liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư thì các DN Việt Nam mới là một mắt xích trong dây chuyền sản xuất toàn cầu. Từ trước đến nay chúng ta mới quan tâm đến liên doanh thông qua việc góp vốn đầu tư, gia công sản phẩm đơn giản thì đã đến lúc chúng ta phải coi trọng liên doanh, liên kết dưới dạng đối tác chiến lược, DN vệ tinh, chuyển nhượng bản quyền, thương hiệu... Khi Canon đầu tư vào khu công nghiệp Quế Võ để sản xuất máy in laser thì ngay lập tức có hai nhà đầu tư sản xuất linh kiện cung ứng cho Canon cũng đầu tư xây dựng nhà máy trị giá 10 triêu USD, nhưng đó là các nhà đầu tư nước ngoài. Trong trường hợp này thì vốn không phải là yếu tố mang tính quyết định đối với các DN Việt Nam.
Ngoài ra, để tăng cường mối liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp và doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hỗ trợ, những cuộc triển lãm như Triển lãm Công nghiệp Phụ trợ Việt Nam - Nhật Bản qua các lần, hay Triển lãm quốc tế lần thứ 9 về máy móc công nghiệp dệt may và nguyên phụ liệu, phụ kiện ngành dệt may (VTG 2009), … cần được đẩy mạnh hơn nữa.
Tại Triển lãm Công nghiệp Phụ trợ Việt Nam - Nhật Bản lần thứ 2 năm 2007, ông Kenjiro Ishiwata, Trưởng đại diện Cơ quan Jetro tại Việt Nam, nói “Chương trình này nhằm thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam thông qua việc tạo cơ hội cho cả Người mua và Người bán gặp gỡ lẫn nhau ngay tại một địa điểm”. Tại triển lãm đó, người mua không chỉ là các nhà đầu tư Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam mà còn có các công ty Nhật Bản đến từ Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore và Thái Lan. Theo ông Đỗ Thắng Hải, Cục trưởng cục XTTM thì Triển lãm cũng sẽ góp phần tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI nói chung và FDI của Nhật Bản nói riêng với các doanh nghiệp Việt Nam để đẩy mạnh chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam, tăng cường khả năng cạnh tranh của khu vực này, đồng thời làm cho các công ty FDI tích cực sử dụng các sản phẩm phụ trợ do các doanh nghiệp Việt nam sản xuất.
8. Chính sách về tỷ lệ nội địa hóa
Việc xây dựng một chính sách tỷ lệ nội địa hóa phù hợp là điều cần làm ngay để phát triển ngành CNHT. Tỷ lệ nội địa hóa ở các ngành khác nhau là khác nhau và cũng không cần thiết phải đạt tới tỷ lệ nội địa hóa 100% (làm như vậy sẽ đi ngược lại với xu hướng của thế giới đang hướng tới việc chuyên môn hóa các ngành sản xuất). Việc quy định tỷ lệ nội địa hóa nên căn cứ vào tốc độ phát triển của từng ngành nhằm đưa ra những tiến trình phù hợp. Một mặt tạo áp lực trực tiếp tới các nhà sản xuất hạ nguồn, tìm và trợ giúp các nhà sản xuất trong nước đáp ứng yêu cầu của mình, mặt khác không đưa các doanh nghiệp hạ nguồn vào thế bế tắc dẫn đến đình đốn sản xuất, mất thị trường của họ.
Có thể kết hợp chính sách nội địa hóa với việc hạn chế nhập khẩu nội địa. Tuy nhiên việc này tương đối khó khăn, nhất là trong tiến trình gia nhập các tổ chức quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Vì vậy, khi xây dựng chính sách về tỷ lệ nội địa hóa, Chính phủ cần xem xét cụ thể khả năng các doanh nghiệp tại Việt Nam có thể đáp ứng tới đâu, đồng thời cũng phải xem xét để tránh các xung đột với các chính sách ban hành, ký kết trước đó.
Chính sách gần đây về việc tăng thuế nhập khẩu linh kiện để ép các công ty lắp ráp đồ điện gia dụng ( tivi, máy giặt… ) phải tăng cường nội địa hoá, theo một số chuyên gia kinh tế, là một biện pháp chưa được cân nhắc thận trọng. Mặc dù mục tiêu của chính sách về lâu dài là đúng vì muốn nhanh chóng tạo điều kiện xây dựng các ngành hỗ trợ, tuy nhiên, tình hình hiện nay cho thấy là nên làm ngược lại để giữ chân các công ty đã đầu tư lắp ráp ( đối phó trước thách thức AFTA ), nghĩa là nên cho nhập khẩu tự do, miễn thuế các linh kiện bộ phận lắp ráp để giảm giá thành sản phẩm, duy trì khả năng cạnh tranh với các nước ASEAN khác.
Trong điều kiện hiện nay, không nên dùng biện pháp hành chính hoặc thuế quan ép buộc công ty đa quốc gia tăng tỷ lệ nội địa hoá mà điều tiên quyết là phải cải thiện khả năng cung cấp sản phẩm tại chỗ. Nếu các ngành hỗ trợ trong nước phát triển, cung cấp đầy đủ và kịp thời các linh kiện và bộ phận với giá thành rẻ và chất lượng cao thì thông qua cơ chế thị trường, tỷ lệ nội địa hoá sẽ tăng. Chính phủ cần cải thiện về mặt hành chính ( bỏ giấy phép con, tinh giản thanh tra,, kiểm tra ), hỗ trợ về vốn và thông tin… để thúc đẩy các xí nghiệp nhỏ và vừa thuộc lĩnh vực này phát triển.
Ngoài ra, cũng phải có biện pháp để các công ty nhà nước trong lĩnh vực này tăng khả năng cạnh tranh bằng các biện pháp tích cực, tiếp nhận sự chi viện về công nghệ từ nước ngoài, liên doanh, hợp tác với các công ty nước ngoài, nhất là với các xí nghiệp nhỏ và vừa của Nhật – những công ty có trình độ kỹ thuật cao và có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Đây cũng là chính sách cần thiết để tăng khả năng cạnh tranh của các công ty trong nước với những xí nghiệp của Trung Quốc sẽ đầu tư vào nước ta trong thời gian tới.
9. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là biện pháp có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển CNHT tại Việt Nam hiện nay, không chỉ giúp chúng ta có thể sử dụng nguồn nhân lực vào những mục đích phát triển một cách dễ dàng mà đó cũng là lợi thế giúp Việt Nam có thể thu hút được vốn FDI vào CNHT. Theo TS Hoàng Ngọc Vinh - Vụ trưởng Vụ Giáo dục chuyên nghiệp - Bộ Giáo dục và Đào tạo thì nhân lực phục vụ cho ngành CNHT có vai trò then chốt trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ nói riêng và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành công nghiệp nói chung. Để có thể đào tạo nguồn nhân lực tốt cần phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề và giảng viên đại học, đổi mới chương trình; Đổi mới tài chính giáo dục và tăng cường đầu tư trong những lĩnh vực ưu tiên; Đẩy mạnh liên kết giữa nhà trường và DN; Thành lập các Trung tâm đào tạo năng lực tại các khu công nghiệp,...
Ông Takano Fujii - một chuyên gia Nhật Bản, người có 12 năm xây dựng và điều hành một dự án liên doanh, hiện tham gia đào tạo nguồn nhân lực và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa Nhật Bản và Việt Nam tại Trung tâm hợp tác phát triển nguồn nhân lực Việt Nhật tại Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng cần đào tạo kỹ sư có đủ trình độ về kỹ thuật thực hành và thực tiễn và trang bị cho họ kiến thức cần thiết. Để thực hiện điều này cần phải xây dựng các cơ sở đào tạo để nâng cao trình độ tay nghề. Theo ông Takano Fujii, cần có tầm nhìn lâu dài trong tương lai để phát triển thành “trường đại học về MONOZUKURI Việt Nam” (một mô hình phát triển CNHT rất thành công ở Nhật Bản – PV). Hơn nữa, bao gồm cả việc đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ sở đào tạo, kêu gọi và hợp tác với các DN có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để thực hiện chế độ thực tập, hướng dẫn tại hiện trường. Đồng thời để nâng cao năng lực quản lý cho các nhà kinh doanh. “Tôi xin đề xuất việc thành lập “trường kinh doanh” để học hỏi những bí quyết kinh doanh thông qua sự hỗ trợ của các nhà kinh doanh giàu kinh nghiệm và của các DN có vốn đầu tư của Nhật Bản” - ông Takano Fujii chia sẻ.
Tuy nhiên, một chuyên gia về CNHT cũng cảnh báo: Việc đào tạo nhân lực dàn trải trên mọi lĩnh vực cũng như phát triển sản xuất tất cả mọi linh kiện và nguyên vật liệu cho một sản phẩm có thể dẫn tới sử dụng lãng phí lớn về thời gian và tài nguyên”. Vị chuyên gia này cho rằng, các DN Việt Nam nên chọn cách tiếp cận "chọn lọc và tập trung" trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Đặc biệt, nên tập trung đầu tư đào tạo vào những lĩnh vực mà Việt Nam đang “thiếu và yếu”.
Tại Việt Nam hiện nay, lực lượng kỹ sư có trình độ trung cấp đến cao cấp ở mức thấp. Số lượng kỹ sư tốt nghiệp đại học được tuyển dụng có đủ năng lực để đáp ứng các nhu cầu về quản lý lại rất thiếu, đặc biệt là ở miền Bắc. Một phần của thực trạng này là việc đào tạo thực hành khoa học và kỹ thuật trong các trường Đại học còn rất yếu, và vì thế đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc trang thiết bị phục vụ cho hoạt động này cũng thiếu. Sự thiếu nhiệt tình trong quá trình tiếp thu kiến thức thực tế cũng là một vấn đề nảy sinh từ phía sinh viên ở các trường.
Thực trạng đó chỉ ra rằng cần phải cải cách triệt để đào tạo đại học theo cả 2 hướng: phần cứng (trang thiết bị) và phần mềm (chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy). Từ đó sẽ có được một số lượng lớn kỹ sư có thể làm việc trong các ngành CNHT. Tích cực mở các chương trình liên thông giữa các trường đại học và cá tổ chức học thuật, như chương trình thực tập ngắn hạn, cần phải có hiệu quả để sinh viên có điều kiện nâng cao kỹ năng thực hành và có thái độ đúng đắn với môi trường làm việc của một doanh nghiệp sản xuất. Để có được một lực lượng kỹ sư có trình độ trung cấp, việc mở rộng các trường cao đẳng kỹ thuật và các trung tâm đào tạo nghề là điều hết sức cần thiết. Một ví dụ điển hình là từ năm 2002, cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tại Việt Nam (JICA) đã giúp trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trang bị lại cơ sở đào tạo bằng việc hỗ trợ máy móc và thiết bị, đào tạo giảng viên Việt Nam, và tìm kiếm đầu ra cho việc sản xuất linh phụ kiện. Những việc làm như thế nên được tiến hành thêm ở các trường cao đẳng ở miền Nam để thúc đẩy trình độ kỹ thuật của cả nước. Và để có thể kéo dài những hợp tác mang lại lợi ích như thế, cần có những khuyến khích và tác động từ phía Chính phủ để có thể gắn kết hơn nữa với các tổ chức hỗ trợ nước ngoài.
Bên cạnh đó, việc đào tạo quản lý ở bậc trung cấp cũng phải nhanh chóng được thực hiện. Hiện nay Việt Nam thiếu một thế hệ có thể làm quản lý ở bậc trung cấp, một phần do ảnh hưởng của chiến tranh. Các doanh nghiệp nước ngoài thường khó tìm được những người quản lý bậc trung cấp mà có đủ khả năng làm việc. Vì thế thông qua các chương trình đào tạo thông qua học việc (OJT – On the Job Training) dài hạn, các nhà quản lý theo yêu cầu nghề nghiệp được lựa chọn từ số sinh viên tốt nghiệp từ các trường Đại học. Một nhà sản xuất điện tử Nhật Bản thậm chí còn sẵn sàng đứng ra hỗ trợ cho khóa đào tạo thường niên về quản lý cho SMEs tại Việt Nam. Hiệu quả của các chương trình này sẽ cao hơn rất nhiều nếu Chính phủ đứng ra tổ chức các khóa học nhằm tăng cường trình độ quản lý ở bậc trung cấp. Ví dụ như các khóa đào tạo chính thức của Hiệp hội học bổng kỹ thuật hải ngoại (AOTS) cần được các doanh nghiệp Việt Nam chủ động tham gia.
Một điểm cần lưu ý khi phát triển nguồn nhân lực là có thể tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài trong việc hợp tác đào tạo để có thể học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm trong việc phát triển nhân lực tại Việt Nam. Các chương trình hỗ trợ đào tạo của nước ngoài như Chương trình hỗ trợ đào tạo kỹ thuật ở Việt Nam của Hiệp hội cung cấp học bổng đào tạo kỹ thuật hải ngoại (AOTS), Chương trình trao đổi chuyên gia JEXSA của JETRO, Dự án hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của JBIC, Dự án về hỗ trợ phát triển giáo dục công nghệ thông tin và viễn thông cho trường Đại học Công nghiệp Hà Nội của JBIC&JICA, Chương trình của JICA về trao đổi “hạt nhân xanh” (grass-roots) giữa các nước, … nên được tích cực khai thác và mở rộng.
Như vậy, còn rất nhiều việc Chính phủ Việt Nam phải làm để phát triển một nền CNHT mạnh và bền vững. Dù thực hiện các biện pháp trên như thế nào thì những vướng mắc phải được tháo gỡ dần dần và kịp thời thay đổi chính sách phù hợp với tình hình đất nước. Điều này đòi hỏi sự nhạy bén cao của Chính phủ và sự hợp tác của các Cơ quan cũng như doanh nghiệp. Phát triển CNHT hiệu quả sẽ giúp Việt Nam thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong thời gian không xa.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài: “Phát triển CNHT của các nước Đông Á và bài học cho Việt Nam” có thể rút ra một số kết luận sau đây:
1. Có thể hiểu CNHT là nhóm các hoạt động công nghiệp làm ra các sản phẩm có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất ra thành phẩm chính. Cụ thể hơn nó bao gồm các sản phẩm là linh phụ kiện, phụ liệu, phụ tùng, bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm,… hoặc cũng có thể bao gồm những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế. Cho tới nay, trên thế giới chưa có khái niệm chung về thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ”, vì vậy mỗi khái niệm được đưa ra tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia dựa trên định hướng chính sách của các quốc gia này về ngành CNHT của nước mình.
2. CNHT có vai trò to lớn đối với sự phát triển của quốc gia. Ngành CNHT có đặc điểm là bao phủ một phạm vi rộng các ngành công nghiệp khác, có quan hệ mật thiết với đầu tư nước ngoài,… nên nó đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt với một nước đang phát triển như Việt Nam. CNHT sản xuất ra những linh kiện, phụ tùng để cung cấp cho việc sản xuất ra sản phẩm cuối cùng nên thực tế CNHT đóng vai trò làm cơ sở để phục vụ một số lượng lớn các ngành lắp ráp chứ không chỉ là ngành thu thập ngẫu nhiên các linh kiện sản xuất không liên quan. Ngoài ra, CNHT phát triển là điều kiện quan trọng để có thể thu hút FDI vào trong nước nhất là FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp. Hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu phát triển CNHT với bản Quy hoạch tầm nhìn đến năm 2020.
3. Tại một số nước trên thế giới như Trung Quốc,Nhật Bản,Hàn Quốc… phát triển CNHT đã được vận dụng hết sức thành công.
4. Để có thể tăng cường vai trò phát triển ngành CNHT tại Việt Nam, khoá luận cũng đã đề ra những giải pháp cần thiết thực hiện ngay, đó là:
Thứ nhất, xác định việc phát triển CNHT như là “mũi đột phá chiến lược” trong việc phát triển nền kinh tế Việt Nam. Cần phải tập trung các năng lực chính sách, dồn mọi nỗ lực của các cơ quan Nhà nước cũng như các doanh nghiệp tư nhân, vào mũi chiến lược này.
Thứ hai, cần phải tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào việc phát triển các ngành CNHT, đặc biệt là các ngành CNHT ưu tiên phát triển.
Thứ ba, các doanh nghiệp hỗ trợ Việt Nam cần phải tự mình nâng cao năng lực cạnh tranh và tiến tới liên doanh, liên kết với nhau để nhanh chóng tiếp thu các công nghệ tiên tiến, đặc biệt là các mô hình sản xuất hiện đại. Những việc làm này sẽ tạo dựng một khối liên minh vững chắc các ngành CNHT, giúp phát triển một nền CNHT bền vững.
Trong bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều thuận lợi cho việc phát triển CNHT như hiện nay, các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng với sự nỗ lực của Nhà nước Việt Nam thông qua các chính sách phù hợp, nếu mô hình sản xuất tốt, các doanh nghiệp hỗ trợ hoàn toàn có thể vươn lên vượt qua giới hạn của dung lượng thị trường nhỏ hẹp để đạt tới một quy mô sản lượng lớn gấp nhiều lần so với hiện nay. Mô hình phát triển CNHT của Việt Nam cần phải kết hợp được cả 3 chiều: Sản xuất theo chiều ngang – sản xuất những linh kiện, phụ tùng có tính năng kỹ thuật gần nhau cho nhiều ngành công nghiệp chế tác (nhất là trong ngành ô tô, xe máy có khả năng hỗ trợ cho nhau); Chuyên môn hóa theo chiều dọc – nhằm nâng cao cả giá trị và giá trị gia tăng trong các sản phẩm; Mở rộng hình thức nhận thầu phụ - liên kết với các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm CNHT có vốn đầu tư nước ngoài để vừa tiêu thụ được sản phẩm vừa học hỏi công nghệ và các kỹ năng khác.
Dù thế nào, việc phát triển CNHT là một công việc hết sức khó khăn, tốn nhiều thời gian và công sức. Nhưng một khi có thể xây dựng nền CNHT m chắc, Việt Nam có thể tự tin trên bước đường hội nhập với khu vực và quốc tế, mục tiêu CNH, HĐH cũng sẽ trở nên rất gần.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
TS. Vũ Sĩ Tuấn, Các doanh nghiệp vừa và nhỏ với việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam (đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ), 2008
Tổng hợp từ các nguồn: Malaysian Industrial Development Authority – MIDA, Nguyễn Thị Xuân Thúy (2006), CNHT – Tổng quan về khái niệm và sự phát triển, Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF), Hà Nội
TS. Đỗ Hương Lan, Phát triển CNHT ở Việt Nam từ bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực, 2009
Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF), Xây dựng năng lục công nghệ nội sinh và vai trò của chính phủ trong xây dựng CNHT
Nguyễn Công Liêm - Trung tâm thông tin dự báo KT-XH quốc gia
Viện nghiên cứu kinh tế trung ương
Kenichi Ohno, Đồng giám đốc, VDF, Chiến lược định vị quốc tế cho ngành công nghiệp của Hà Nội, Hà Nội 20, tháng 12, 2006
Kyoshiro Ichikawa, Tư vấn Đầu tư Cao cấp, Cục Xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản tại Hà nội, Xây dựng và tăng cường ngành CNHT tại Việt nam, Báo cáo điều tra, 200
Kỷ yếu Hội thảo Phát triển CNHT – Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số nước châu Á, Hà Nội
TÀI LIỆU THAM KHẢO THU THẬP TRÊN INTERNET
Suy nghĩ về CNHT trong ngành ô tô của Trung Quốc, www.tapchicongnghiep.vn/News/PrintView.aspx?ID=22280
Phát triển CNHT: Bao giờ?,
Trần Vũ Nghi - Lê Nguyên Minh, CNHT: “Đứa con không chịu lớn”, 22/12/2009 16:33 (GMT +7), báo Tuổi Trẻ Online
Đôi điều về công nghiệp phụ trợ,
Thuỷ Nguyên, Phát triển CNHT: Bắt đầu từ nguồn nhân lực,
Phát triển ngành CNHT Việt Nam,
Sản xuất linh kiện, phụ tùng xe hơi: Vừa thiếu, vừa yếu,
Thực trạng phát triển CNHT tại Việt Nam,
Thực trạng phát triển CNHT tại Việt Nam,
Phát triển CNHT, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: “Sẽ ưu đãi mức tối đa”,
Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020,
Vnplus, Thu hút đầu tư vào ngành CNHT,
Phát triển CNHT: bắt đầu từ nguồn nhân lực,
Bộ Kế hoạch và đầu tư, Cục đầu tư nước ngoài, Kích hoạt ngành công nghiệp phụ trợ,
Tạp chí Công nghiệp online, Hướng đi nào cho CNHT Việt Nam?,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển công nghiệp hỗ trợ của các nước Đông Á và bài học cho Việt Nam.doc