Đề tài Phát triển hoạt động bán lẻ hiện đại-Triển vọng cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài và giải pháp cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam

Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam dù gia nhập vào thị trường bán lẻ khá muộn màng so với các đại gia nước ngoài nhưng cũng đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận. Đó là sự lớn mạnh của hệ thống bán lẻ; những thay đổi trong phương thức kinh doanh theo hướng hiện đại và chủ động góp phần hình thành thói quen mua sắm mới trong dân cư; xây dựng được những chiến lược dài hạn nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế như thiếu tính liên kết, thiếu tính chuyên nghiệp trong kinh doanh, cơ sở hạ tầng yếu kém và một số vấn đề về chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm mà nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do thiếu vốn và thiếu chính sách của nhà nước.

pdf110 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2803 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển hoạt động bán lẻ hiện đại-Triển vọng cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài và giải pháp cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n động liên tục của thị trường, của tình hình cung-cầu, giá cả, của phương thức kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ. Các thị trường truyền thống và cửa hàng tạp hoá vẫn đóng vai trò quan trọng trong ngành thương mại bán lẻ Việt Nam và sẽ được hiện đại hoá cùng với các kế hoạch phát triển của đất nước. Một điều rất khó tránh khỏi là hệ thống phân phối truyền thống sẽ bị thu hẹp thị phần, giảm tỷ trọng trong thương mại nội địa. Nghiên cứu thị trường bán lẻ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tỷ trọng doanh thu bán lẻ của hệ thống phân phối truyền thống giảm từ giảm từ 82% xuống còn 77% trong năm 2005. Điều này được thể hiện rõ hơn khi số lượng cửa hàng bán lẻ truyền thống ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đang giảm từ 45.346 cửa hàng xuống còn 41.638 cửa hàng. Các chuyên gia dự báo xu hướng này sẽ còn tăng mạnh trong thời gian tới khi thị trường Việt Nam hoàn toàn mở cửa. 3.2.4. Các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại sẽ được mở rộng Tính ưu việt của hệ thống bán lẻ hiện đại sẽ giúp mô hình này ngày càng phát triển và dần thay thế hệ thống bán lẻ truyền thống. Theo dự báo của 79 các chuyên gia, thị trường bán lẻ sẽ chịu sự chi phối ngày càng nhiều bởi kênh phân phối hiện đại khi hệ thống này ngày một mở rộng hơn. Dự báo, trong thời gian tới, những cửa hàng siêu thị mini có điều hoà và sự liên kết giữa 2 mô hình siêu thị và những cửa hàng nhỏ sẽ trở nên phổ biến và thu hút được người tiêu dùng vốn có thói quen mua bán ở những cửa hàng bên đường. Nhịp độ thay đổi này sẽ nhanh hơn ở các khu vực trung tâm thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, nơi người tiêu dùng có thu nhập cao với sức mua tập trung. Số lượng các siêu thị sẽ tăng lên một cách nhanh chóng do nhu cầu đang ngày càng tăng giữa những người tiêu dùng vì sự thuận tiện, nhất là khi họ đã có thói quen mua hàng trong các siêu thị đối với các loại hàng hoá từ thực phẩm cho đến hàng tiêu dùng lâu bền. Không chỉ phát triển ở các thành phố lớn, các loại hình bán lẻ hiện đại sẽ mở rộng phạm vi hoạt động đến các tỉnh thành và cả vùng nông thôn. Mặc dù sức mua ở những khu vực này còn hạn chế, thêm vào đó là cơ sở hạ tầng nhìn chung nghèo nàn nhưng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay cùng với thay đổi lớn trong thu nhập của người dân thì triển vọng cho các hình thức bán lẻ hiện đại không phải là nhỏ. 3.3. Mục tiêu và định hƣớng phát triển hoạt động bán lẻ tại Việt Nam Đề án "Chiến lược phát triển thương mại nội địa 2006- 2010, định hướng đến năm 2015 và 2020" được Bộ Công Thương xây dựng nhằm phát triển thị trường nội địa trong điều kiện hội nhập mới. Đây là đề án rất quan trọng và được kỳ vọng sẽ có tác động sắp xếp, tổ chức và thúc đẩy thị trường trong nước đủ sức cạnh tranh khi bước vào giai đoạn hội nhập hoàn toàn theo cam kết WTO. 3.3.1. Mục tiêu hướng tới của đề án  Xây dựng một nền thương mại trong nước phát triển vững mạnh và hiện đại, dựa trên một cấu trúc hợp lý các hệ thống và các kênh phân phối với 80 sự tham gia của các thành phần kinh tế và loại hình tổ chức, vận hành trong môi trường cạnh tranh có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước.  Coi trọng phát triển các doanh nghiệp nhỏ, các hộ kinh doanh; đồng thời, khuyến khích và thúc đẩy quá trình hình thành các doanh nghiệp lớn thông qua quá trình tích tụ và tập trung nhằm tạo dựng các nhà phân phối lớn thương hiệu Việt Nam.  Xác lập sự liên kết giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ trong việc tổ chức thị trường, tạo sức mạnh để hợp tác và cạnh tranh có hiệu quả với các tập đoàn nước ngoài khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ phân phối. Chính phủ cũng đặt mục tiêu, tốc độ tăng bình quân hàng năm của tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đến 2010 khoảng 11%/năm, trong các giai đoạn tiếp theo trên 10%/năm. Đến năm 2010, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt khoảng 800 nghìn tỷ đồng và đến năm 2020 đạt khoảng 2.000 nghìn tỷ đồng. Đến 2010, đóng góp của thương mại trong nước vào tổng sản phẩm trong nước (GDP) của cả nền kinh tế đến 2010 đạt trên 200 nghìn tỷ đồng chiếm tỷ trọng 14,5%, đến năm 2020 đạt gần 450 nghìn tỷ đồng chiếm tỷ trọng khoảng 15%. Trong đó cụ thể, đến 2010, tỷ trọng mức bán lẻ hàng hoá theo loại hình thương mại hiện đại như trung tâm thương mại, siêu thị, mạng lưới cửa hàng tiện lợi... đạt 20%, khoảng 160 nghìn tỷ đồng và đến năm 2020 đạt 40%, khoảng 800 nghìn tỷ đồng. 3.3.2. Định hướng phát triển đối với hệ thống bán lẻ hiện đại  Các doanh nghiệp thuộc hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, chuỗi cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng tiện lợi… sẽ liên kết với các đơn vị sản xuất hàng tiêu dùng, các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, các trang trại, các HTX, các chợ đầu mối… để tạo nguồn hàng ổn định lâu dài.  Chủ trương phát triển mạnh loại hình bán lẻ hiện đại tại khu vực thành thị; Các đô thị loại I là những nơi có điều kiện thuận lợi nhất để phát triển các 81 cửa hàng bán lẻ hiện đại sau đó sẽ từng bước nhân rộng ra các đô thị loại II và loại III đến các thị xã, các khu công nghiệp tập trung, khu kinh tế lớn, khu đô thị mới, khu du lịch, các cửa khẩu và các thị trấn. Mỗi loại hình cần đổi mới hiện đại, liên kết thành các hệ thống, các chuỗi phân phối.  Phát triển hệ thống cửa hàng tiện lợi, chuyên doanh tổng hợp gắn với khu vực dân cư phù hợp với nhu cầu mua sắm tiêu dùng của người tiêu dùng ở thành thị và nông thôn. Các doanh nghiệp cần tiến hành quá trình tích tụ tập trung để liên kết các cửa hàng độc lập thành một hệ thống bằng các hình thức đại lý, nhượng quyền kinh doanh.  Khuyến khích các nhà phân phối nước ngoài đầu tư hoặc liên doanh, liên kết xây dựng đại siêu thị và các loại hình tương đương ở các khu đô thị và khu công nghiệp tập trung để tranh thủ lợi thế về vốn, về công nghệ, về kinh nghiệm kinh doanh siêu thị của họ để phát triển hệ thống bán lẻ văn minh hiện đại tại Việt Nam. Đặc biệt khuyến khích các hoạt động mua lại, sáp nhập các siêu thị nhỏ các doanh nghiệp nhỏ để hình thành các tập đoàn bán lẻ lớn vận hanh theo mô hình "chuỗi", nhờ đó tăng cường hiệu quả kinh doanh.  Tăng cường năng lực chuyên môn cho các nhà phân phối Việt Nam, Phấn đấu đến năm 2010, Việt Nam có thể có được 10-15 nhà phân phối bán lẻ tầm cỡ quốc gia và quốc tế, đảm bảo cạnh tranh được với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài trên thị trường nội địa. 3.4. Triển vọng phát triển của các doanh nghiệp bán lẻ nƣớc ngoài Với các lợi thế như phương thức kinh doanh hiện đại, tiềm năng vốn lớn, công nghệ quản lý ưu việt, kinh nghiệm kinh doanh, uy tín thương hiệu, cũng như sự hỗ trợ từ mạng lưới kinh doanh toàn cầu, triển vọng phát triển của các doanh nghiệp bán lẻ là rất lớn. Sự thay đổi tích cực trong thói quen tiêu dùng của người dân cùng với quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng sẽ mang lại cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội kinh doanh mới. 82 Thời điểm ngày 1/1/2009 đang đến gần, khi Việt Nam hoàn toàn mở cửa thị trường bán lẻ thì cơ hội cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài cũng sẽ lớn hơn hiện tại rất nhiều do họ được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Việc kinh doanh sẽ được nới lỏng hơn. Việc mở cửa thị trường cũng như thực thi hiệp định thương mại của Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài trong việc tiếp cận với nguồn hàng phong phú với mức thuế ưu đãi (0-5% ) từ thị trường các nước trên thế giới. Ngoài ra, Việt Nam cũng đang trong giai đoạn điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp lý cho hoạt động bán lẻ, hứa hẹn sẽ trở thành một thị trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn cho các nhà đầu tư trên toàn cầu. Các nhà đầu tư luôn được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế, hàng hóa nhập khẩu cũng như về mặt bằng xây dựng các siêu thị và trung tâm thương mại. Chính vì vậy, bên cạnh các doanh nghiệp bán lẻ đã có mặt trên thị trường, một số tập đoàn bán lẻ lớn như Wal-mart, Carrefour, Tesco cung đã lên kế hoạch đổ bộ vào Việt Nam trong thời gian tới. Các tập đoàn có thể chọn hướng đầu tư xây dựng các siêu thị, trung tâm thương mại mới hoặc liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp trong nước, hay mua lại các doanh nghiệp bán lẻ nội địa. Bên cạnh đó, trong thời gian tới, Việt Nam xúc tiến xây dựng thêm các khu đô thị hiện đại, các trung tâm thương mại lớn, theo đó nguồn cung diện tích sàn cho thị trường bán lẻ sẽ tăng lên và các doanh nghiệp nước ngoài sẽ có cơ hội mở rộng hệ thống bán lẻ của mình. Một điểm nữa ở các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài là các doanh nghiệp này phần đông đã tạo được ấn tượng tốt với người tiêu dùng Việt Nam và được người tiêu dùng ủng hộ. Không chỉ nâng cao chất lượng phục vụ, đa dạng hóa danh mục sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm để mang đến cho người tiêu dùng sự thỏa mãn cao nhất, các doanh nghiệp nước ngoài con rất tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội,các hoạt động vì cộng đồng, các hoạt động từ thiện… Chính sự khéo léo này đã góp phần "kéo" khách hàng đến với 83 doanh nhiệp nhiều hơn. Dự báo lượng khách hàng mua sắm tại các siêu thị, trung tâm thương mại nước ngoài sẽ ngày càng tăng lên. Mặc dù sức ép cạnh tranh sẽ gia tăng thêm trong thời gian tới nhưng cơ hội của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài dày dạn kinh nghiệm vẫn rất lớn. 3.5. Giải pháp cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam 3.5.1. Giải pháp từ phía nhà nước 3.5.1.1.Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi để phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại Hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại Thế giới WTO thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng và bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế trong cũng như ngoài nước, phù hợp với nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) là yêu cầu cấp thiết hàng đầu. Trong những năm qua, nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật, quy chế liên quan đến hoạt động bán lẻ đồng thời cũng thường xuyên tiến hành rà soát, sửa đổi để từng bước hoàn chỉnh các chính sách và cơ chế quản lý. Tuy nhiên, điểm hạn chế là tính ổn định của các đạo luật là rất thấp, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Đó là một quy chế siêu thị và trung tâm thương mại. Tuy nhiên, hiện nay Quy chế siêu thị và trung tâm thương mại đã bộc lộ nhiều điểm bất cập như đã phân tích trong chương 2. Trong thời gian tới nhà nước cần có thêm những văn bản pháp luật quy định chi tiết và có tính ràng buộc pháp lý cao hơn đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ hiện đại. Trước hết quy chế cần được hoàn thiện để khắc phục các bất cập về tên gọi, qua đó xác định rõ hơn các loại hình chịu sự điều tiết, quản lý của Quy chế Chính phủ cần hoàn thiện, điều chỉnh tiêu chuẩn phân hạng siêu thị cho phù hợp với thực tế và tạo điều kiện cho công tác quản lý. Đồng thời, quy chế cần được nghiên cứu để nâng cấp thành Dự án Luật kinh doanh bán lẻ tại Việt. Dự án luật này nên được xây dựng càng sớm càng tốt để kịp thời trở thành khung pháp lý điều chỉnh hoạt động bán lẻ sẽ phát triển bùng nổ trong tương lai gần. 84 Về Luật An toàn vệ sinh thực phẩm và các tiêu chuẩn chất lượng: Một trong những khuôn khổ pháp lý có ảnh hưởng nhiều nhất tới hoạt động bán lẻ là Luật vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay, Việt Nam đã có những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo Pháp lệnh số 12/2003/PL- UBTCQH ngày 26/07/2003 về vệ sinh an toàn thực phẩm, song công tác giám sát và thực hiện luật này tại các siêu thị, cửa hàng trong thời gian qua còn lỏng lẻo dẫn tới hàng loạt siêu thị bán hàng "không sạch" cho nguời tiêu dùng. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng hàng hoá trên thị trường với một chuẩn mực thống nhất trong cả nước. Công tác này phải do những cơ quan chuyên trách đảm nhiệm, tránh sự chồng chéo gây khó khăn cho lưu thông. Đồng thời, Nhà nước nên có quy định thống nhất về hệ thống mã vạch cho sản phẩm... Nhà nước cần xác định hệ thống bán lẻ hiện đại là các đơn vị tiên phong trong việc chấp hành các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nâng cao ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ, nhà nước cần quy định rõ ràng các tiêu chuẩn của hàng hóa bày bán trong siêu thị, cửa hàng tiện lợi tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên với các đơn vị này. Điều này sẽ giúp các cơ quan chức năng từng bước áp dụng các biện pháp quản lý vệ sinh thực phẩm cho các hình thức bản lẻ khác, chấm dứt tình trạng lộn xộn không quản lý được như đối với các chợ, cửa hàng truyền thống. 3.5.1.2.Giải pháp xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại  Chính sách tài chính tín dụng Khó khăn rất lớn của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay là thiếu vốn. Do đặc thù của kinh doanh bán lẻ theo hướng hiện đại cần vốn đầu tư ban đầu khá lớn nhưng lợi nhuận ban đầu thấp cho nên Nhà nước cần có chính sách ưu đãi tín dụng và những ưu đãi khác đối với các doanh nghiệp. Cho đến nay nước ta chưa có chính sách tài chính tín dụng ưu tiên phát triển 85 hệ thống bán lẻ hiện đại. Các doanh nghiệp muốn kinh doanh phải tự chuẩn bị về vốn mà không nhận được bất cứ ưu đãi nào. Nhà nước nên có các chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp trong nước tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn; sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển của nhà nước bao gồm vốn ngân sách Trung ương, địa phương, vốn từ các quỹ hỗ trợ phát triển… để ưu đãi tín dụng cho các chủ thể kinh doanh bán lẻ hiện đại. Để tăng khả năng cạnh tranh của siêu thị đối với những loại hình bán lẻ truyền thống như chợ và các cửa hàng bách hóa thì chính sách thuế cho việc kinh doanh siêu thị cũng cần được điều chỉnh lại cho hợp lý.  Chính sách về đất đai và quy hoạch Do chưa có quy hoạch thống nhất trên cả nước nên các điểm bán lẻ hiện đại thường được xây dựng tự phát. Thời gian tới chính phủ nên có quy hoạch cụ thể về mạng lưới các siêu thị, trung tâm thương mại. Quy hoạch cần xác định cụ thể nơi nào sẽ ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước, nơi nào kêu gọi đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, khi đấu giá quyền sử dụng đất ở các vị trí thuận lợi cần dựa trên quy hoạch chứ không phải mức giá, dành diện tích thỏa đáng và vị trí phù hợp cho các doanh nghiệp trong nước. Hiện các doanh nghiệp trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuyết phục các địa phương trong việc cho phép họ triển khai kinh doanh, tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là đất đai. Nhiều doanh nghiệp phải mất từ 3-5 năm mới tiếp cận được đất đai, thậm chí muốn có vị trí kinh doanh thì phải tham gia đấu giá với chi phí cực lớn. Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài được phép thuê đất và họ cũng có đủ tiềm lực để tham gia mua đất. Nhà nước cũng cần dành một quỹ đất nhất định cho phát triển hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi… và chính sách đối với quỹ đất này cũng cần được ứng xử như chính sách đối với quỹ đất dành để phát triển chợ đầu mối; đầu tư nâng cấp hạ tầng thương mại nội địa. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện tiếp cận mặt bằng kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. 86 Sử dụng biện pháp quy hoạch siêu thị là một trong những biện pháp quản lý phát triển siêu thị hiệu quả. Nhà nước cần tính đến số lượng, khoảng cách của các siêu thị, đại siêu thị sao cho thích hợp để tránh tình trạng tập trung quá nhiều siêu thị ở một địa bàn có thể dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh.  Chính sách hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thƣơng mại Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ có vai trò quan trọng trong việc quyết định quy mô và tính hiệu quả trong kinh doanh của hệ thống bán lẻ hiện đại. Cơ sở hạ tầng đồng bộ của hệ thống phân phối gồm: việc quy hoạch mạng lưới, đầu tư xây dựng mới các siêu thị, đại siêu thị, các chợ đầu mối, trung tâm bán buôn, toàn bộ hoạt động Logistic từ khâu thu mua, chế biến, bảo quản dự trữ, hệ thống kho tàng, vận chuyển điều phối, hệ thống trang thiết bị và các công cụ bán hàng… Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ sẽ tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa hệ thống phân phối nói chung và hệ thống bán lẻ hiện đại nói riêng.  Chính sách tăng cƣờng công tác dự báo thông tin thị trƣờng Trong thời gian tới, nhà nước cần nâng cao chất lượng công tác thông tin dự báo thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại. Nhà nước cần hỗ trợ và phối hợp với các doanh nghiệp để dự báo nhu cầu hàng hóa trên thị trường, xu hướng biến động của giá cả, đặc biệt trong việc dự báo dài hạn và định kỳ để các doanh nghiệp có định hướng kinh doanh. Khi có được thông tin chính xác, các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại sẽ lập kế hoạch nhập khẩu, thu mua dự trữ hàng hóa để phục vụ nhu cầu thị trường, tránh tình trạng khan hiếm hoặc dư thừa hàng hóa trong những hoàn cảnh bất lợi.  Chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh doanh siêu thị và có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Ngoài ra, nhà nước cần quan tâm đúng mức tới việc thúc đẩy 87 trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong và ngoài nước trong hình thúc bán lẻ hiện đại, thông qua đầu tư kinh phí cử cán bộ đi khảo sát học tập kinh nghiệm của nước ngoài hoặc tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề cho các nhà quản lý siêu thị, trung tâm thương mại… Nhà nước có thể đứng ra mở các lớp đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho các nhà quản lý. Các lớp này nên mời các chuyên gia nước ngoài giàu kinh nghiệm giảng dạy, hoặc các nhà lãnh đạo cao cấp của các tập đoàn bán lẻ thành công trên thế giới. Bên cạnh đó, nhà nước thường xuyên tổ chức các cuộc họp, hội thảo trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước để trao đổi nguyện vọng, kịp thời giải quyết các vướng mắc nảy sinh. 3.5.1.3.Phối hợp trong công tác quản lý hệ thống bán lẻ hiện đại Hiện nay, Bộ Công Thương là cơ quan quản lý nhà nước về thương mại, nhưng việc cấp phép cho các nhà dầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ lại thuộc thẩm quyền của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Có thể Bộ Công Thương nhận thấy những bất hợp lý trong quy hoạch phát triển, nhưng lại không có thẩm quyền điều phối. Chưa kể vai trò của UBND các tỉnh thành cũng là rất lớn. Vì vậy, cần có chính sách phối hợp để có thể quản lý và định hướng tốt nhất cho phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại. Các loại hình bán lẻ hiện đại đang phát triển rất nhanh (đặc biệt là sẽ bùng nổ các siêu thị), trong khi đó năng lực quản lý của nhà nước vẫn chưa thay đổi đáp ứng với đòi hỏi mới. Các biện pháp quản lý cũ của loại hình truyền thống không thể áp dụng cho hệ thống hiện đại, mà cần có các tiêu chuẩn quản lý chặt chẽ nghiêm ngặt hơn. Vì vậy, công tác thanh tra giám sát cần được đổi mới và đặc biệt tập trung vào các vấn đề cụ thể như sau: - Xây dựng quy chế thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với từng loại hình bán lẻ phù hợp với mục tiêu quản lý của nhà nước và đặc thù kinh doanh của mỗi loại hình. 88 - Kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, xuất xứ hàng hóa, chất lượng hàng hóa, thời gian sử dụng… Đồng thời, cần có một hệ thống quản lý chất lượng hàng hóa thống nhất trên toàn quốc để thuận lợi trong quản lý. - Kiểm tra tính minh bạch rõ ràng trong việc niêm yết giá. Đây là biện pháp đặc biệt quan trọng để tránh tình trạng các doanh nghiệp sử dụng công cụ giá cả để cạnh tranh không lành mạnh, nhất là nguy cơ các tập đoàn nước ngoài nhờ tiềm lực lớn về tài chính chấp chịu lỗ để thu hút khách hàng, từ đó thâu tóm thị trường. - Giám sát chất lượng các chương trình hoạt động khuyến mại hạ giá của các siêu thị, trung tâm thương mại. Hiện nay các siêu thị thường áp dụng thời gian khuyến mại để thu hút khách hàng, nhưng có một số cơ sở biến đây trở thành biện pháp để tiêu thụ hàng tồn, hàng kém chất lượng… Qua khảo sát cho thấy nhiều chương trình khuyến mại chỉ cung cấp thông tin mập mờ, gây nhầm lẫn cho khách hàng. 3.5.1.4.Khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ thực hiện liên kết Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay vẫn đang hoạt động riêng lẻ, thiếu sự gắn kết để chia sẻ lợi ích và kinh nghiệm kinh doanh. Nhà nước nên đóng vai trò là "chất keo" cho sự "kết dính" của các doanh nghiệp. Mới đây, dưới sự chủ động của các doanh nghiệp bán lẻ lớn, sự hỗ trợ của Bộ Công thương, Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam đã được thành lập với 130 thành viên là các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ. Trong thời gian tới, nhà nước nên hỗ trợ để hiệp hội phát huy tốt vai trò của mình, tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa các thành viên. Đồng thời, hiệp hội bán lẻ cũng giúp tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước trước các tập đoàn nước ngoài. Các bộ ngành và địa phương liên quan cần đứng ra vận động và hướng dẫn các doanh nghiệp trong nước liên kết lại thành những tập đoàn phân phối bán lẻ lớn, xây dựng những thương hiệu mạnh, phát triển thành các chuỗi siêu thị, cửa hàng với nhiều quy mô khác nhau ở thành phố, thị xã, thị trấn để tập 89 hợp sức mạnh, nâng cao sức cạnh tranh, gia tăng thị phần. Với tiềm lực vốn lớn hơn, mạng lưới kinh doanh được mở rộng các doanh nghiệp trong nước sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp để tăng hiệu quả kinh doanh. 3.5.1.5.Phát triển hài hòa hệ thống bán lẻ hiện đại và truyền thống Các nghiên cứu cho thấy trong vòng 5 năm tới, hệ thống bán lẻ Việt Nam sẽ có nhiều biến đổi lớn theo hướng hiện đại hóa. Các siêu thị, cửa hàng tiện lợi phát triển rộng khắp và thu hút ngày càng nhiều khách hàng. Kênh phân phối truyền thống như chợ, các tiệm tạp hóa, cửa hàng bán sỉ, bán lẻ... hiện chiếm tới 90% mạng lưới phân phối tại Việt Nam sẽ gặp khó khăn lớn khi tập đoàn bán lẻ nước ngoài gia nhập thị trường bán lẻ. Mạng lưới phân phối "khổng lồ" về số lượng với gần 350.000 cửa tiệm tạp hóa và hơn 9.000 chợ phân bố trên cả nước nhưng tại rất lạc hậu này đang mất dần ưu thế trước hệ thống phân phối hiện đại và không loại trừ phải đứng trước khả năng phá sản, nhất là tại các đô thị, khi áp lực cạnh tranh trên thị trường bán lẻ sắp tới sẽ tăng rất mạnh. Giải pháp đặt ra là nhà nước nên khuyến khích phát triển nhanh hệ thống bán lẻ hiện đại tại các khu vực thành thị, khuyến khích các doanh nghiệp phân phối phát triển hệ thống và liên kết theo chuỗi (chuỗi siêu thị, chuỗi trung tâm thương mại, chuỗi cửa hàng tiện lợi…). Từng bước vận động các tiệm, cửa hàng tạp hóa, cửa hàng bán lẻ độc lập và truyền thống, các hộ kinh doanh có thể gia nhập vào hệ thống chuỗi cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh. Đây là biện pháp hiện đại hóa hệ thống bản lẻ truyền thống để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Từng bước chuyển các chợ nhỏ, chợ dân sinh thành các siêu thị, cửa hàng tiện lợi; hạn chế xây dựng mới các chợ trong khu vực nội thành do quỹ đất đã ở tình trạng eo hẹp. Tại nông thôn, hệ thống chợ và mạng lưới bán lẻ truyền thống vẫn đóng vai trò quan trọng và là kênh phân phối hàng hóa chủ yếu trong những năm tới. Do vậy cần cải tạo, nâng cấp các chợ để phục vụ người dân tốt hơn, với 90 những vùng nông thôn có điều kiện có thể thí điểm mở các cửa hàng chuyên doanh, siêu thị loại nhỏ. Với các chính sách phù hợp, nhà nước có thể dần chuyển dịch hệ thống bán lẻ theo hướng hiện đại mà vẫn hạn chế được sự biến động quá lớn. Thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ hiện đại hóa nhưng vẫn có thể duy trì song song 2 hệ thống bán lẻ hiện đại và truyền thống, giống như Nhật Bản hay Hàn Quốc đã thực hiện thành công. 3.5. 1.6.Các giải pháp khác Vấn đề xây dựng và bảo vệ thương hiệu của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện còn nhiêu hạn chế, nhà nước nên đóng vai trò hướng dẫn và trợ giúp các doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu. Cuối cùng tuy Việt Nam bị ràng buộc bởi các cam kết WTO và nguyên tắc MFN, NT nhưng nhà nước không nên cho phép các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đầu tư tràn lan dẫn đến nguy cơ thâu tóm thị trường nội địa. Nhà nước cần phải khéo léo dựng lên các rào cản kỹ thuật để bảo vệ thị trường bán lẻ trong nước như hạn chế số lượng siêu thị hay trung tâm thương mại của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài, quy định chặt chẽ về quy mô, phạm vi, số lượng, khoảng cách... khi các nhà đầu tư muốn mở thêm địa điểm kinh doanh mới. Những giải pháp từ phía nhà nước chủ yếu thuộc về chính sách và pháp lý, nếu làm tốt và khôn khéo thì đây sẽ là những biện pháp có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ kinh doanh bán lẻ, giúp các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam ngày càng lớn mạnh đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài. 3.5.2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại Bên cạnh sự hỗ trợ từ phía chính phủ, điều quan trọng nhất là các doanh nghiệp bán lẻ phải tự mình nâng cao hiệu quả kinh doanh, tự hoàn thiện mình trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, góp phần xây dựng hệ thống bán lẻ hiện đại tại Việt Nam. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược phát triển riêng phù hợp với đặc thù đơn vị mình. 3.5.2.1.Thay đổi nhận thức kinh doanh và xây dựng phong cách chuyên nghiệp 91 Trước khi tiến hành xây dựng chiến lược kinh doanh thì bản thân mỗi doanh nghiệp cần xác định đổi mới tư duy, từ đó hiện đại hóa phương thức hoạt động của mình. Đặc biệt là các nhà quản lý siêu thị, trung tâm thương mại cần có kiến thức về loại hình kinh doanh của mình, am hiểu tâm lý người tiêu dùng, sự nhạy bén trong kinh doanh để kịp thời phát hiện các xu hướng tiêu dùng mới trong xã hội. Những năng lực này sẽ giúp doanh nghiệp phản ứng nhanh với sự phát triển của thị trường, liên tục tự đổi mới hoạt động cho phù hợp. Bên cạnh đó, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, phù hợp với cơ chế thị trường và bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Các giám đốc siêu thị, trung tâm thương mại cần được đào tạo bài bản về chuyên môn quản trị kinh doanh và có kinh nghiệm khảo sát học tập mô hình tiên tiến của nước ngoài để tích lũy những bài học áp dụng cho thị trường Việt Nam Nhưng trên hết, các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại cần quán triệt tinh thần kinh doanh dịch vụ hướng tới sự thỏa mãn của khách hàng. Mọi hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp là để tạo ra sự thoải mái, hài lòng cho người mua sắm. Lấy khách hàng làm trung tâm trong mọi hoạt động doanh nghiệp là tư duy kinh doanh mới trong hệ thống phân phối hiện đại. Các doanh nghiệp cần dành thời gian nguồn tài chính thích đáng để nghiên cứu, điều tra, tìm hiểu nhu cầu thực tế của khách hàng, xu hướng tiêu dùng trong nước; liên tục đổi mới để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Các siêu thị cần thay đổi tư duy coi người có thu nhập cao là khách hàng mục tiêu mà phải xác định khách hàng của siêu thị là những người dân có mức thu nhập từ trung bình trở lên, từ đó thay đổi cơ cấu mặt hàng cho phù hợp để phục vụ được rộng rãi hơn các đối tượng khách hàng. Để chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh sắp tới, các nhà bán lẻ Việt Nam cần phải nhanh chóng đầu tư sâu về kỹ thuật quản lý kinh doanh hiện đại và phải cải tiến vấn đề cung ứng hàng hóa. Các doanh nghiệp bán lẻ cần nghiêm túc nghiên cứu và vận dụng kiến thức chuỗi giá trị cung ứng theo công nghệ 92 logistic vào tổ chức và quản lý hệ thống phân phối. Mô hình tổ chức hoạt động kinh doanh của các tập đoàn nước ngoài như Metro Cash&Carry, Big C trong xây dựng nguồn cung ứng hàng ổn định, hệ thống kho dự trữ khâu vận chuyển phân loại hàng hóa… cần được nghiên cứu, vận dụng cho phù hợp với điều kiện của từng doanh nghiệp tham gia trong ngành bán lẻ. Từng doanh nghiệp khẩn trương rà soát chi phí, kiểm tra từng công đoạn hoạt động để tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế đồng thời khẳng định định hướng phát triển lâu dài. 3.5.2.2.Nâng cấp và hiện đại hoá cơ sở vật chất để kinh doanh có hiệu quả hơn Cơ sở và chất máy móc và trang thiết bị hiện đại sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hiện đại hoá hoạt động kinh doanh. Các nhà bán lẻ cần ứng dụng những thành tựu của công nghệ thông tin, có giải pháp kho vận thuận tiện, nhanh chóng để vừa đảm bảo duy trì chất lượng vào hạ giá thành sản phẩm. Các cửa hàng tạp hóa, bách hóa truyền thống có thể tự nâng cấp, hiện đại hóa để trở thành cửa hàng tiện lợi, trung tâm thương mại. Các doanh nghiệp có tiềm lực về vốn nên mạnh dạn đầu tư nâng cấp các điểm bán lẻ này để tham gia vào hệ thống bán lẻ hiện đại. Nâng cấp hệ thống bán lẻ truyền thống là hướng đi mang lại hiệu quả nhanh chóng cho những doanh nghiệp muốn mở rộng mạng lưới bán lẻ của mình. Hiện nay, các tiệm tạp hóa là mạng lưới phân phối rất phổ biến và phù hợp với các khu dân cư. Tuy nhiên, đời sống ngày càng cải thiện khiến yêu cầu của người tiêu dùng cũng ngày càng cao nên việc nâng cấp các cửa hàng tạp hóa thành những cửa hàng tiện lợi là vô cùng cần thiết. 3.5.2.3.Thực hiện đa dạng hóa thị trường và phát triển dịch vụ khách hàng Đối với vấn đề danh mục hàng hóa, siêu thị luôn phải cố gắng để có thể cung cấp đủ mọi chủng loại phục vụ mọi nhu cầu trong cuộc sống, với nhiều mức giá từ thấp đến cao, tập trung số lượng ở các mặt hàng phục vụ tầng lớp nhân dân có thu nhập trung bình, tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội và có mức sống ngày càng cao. Chủ yếu tập trung vào hàng tiêu dùng hàng ngày hàng có chất lương đảm bảo theo tiêu chuẩn. Nên dự kiến một tỷ lệ một hàng 93 nội chiếm đa số và có xu hướng tăng dần. Điều này đảm bảo nguồn hàng chắc chắn và giảm tối thiểu chi phí vận chuyển, thuế cho các siêu thị... Các nhà kinh doanh bán lẻ cần tích cực, chủ động tìm hiểu nguồn hàng mới, tìm hiểu các sản phẩm mới, nhãn hiệu mới để bổ sung vào danh mục hàng hóa của mình. Họ có thể đặt hàng bán thử để thăm dò phản ứng của người tiêu dùng, sau đó mới kí hợp đồng cung ứng dài hạn. Đây là chiến lược tạo mặt hàng đặc trưng cho doanh nghiệp, củng cố thêm hình ảnh của doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng. Với các cửa hàng tiện lợi, do đặc thù kinh doanh là phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày nên cần xây dựng danh mục hàng hóa chủ yếu lả các mặt hàng thực phẩm như rau sạch, thịt tươi, thực phẩm đông lạnh, đồ ăn nhanh. Đồng thời, những của hàng này có đối tượng phục vụ là những ngươi bận rộn nên có thêm các dịch vụ tiện lợi như giao hàng tận nhà cho các hộ gia đình, dịch vụ giặt là hoặc thanh toán hóa đơn điện, nước… Các dịch vụ gia tăng này sẽ làm tăng sự hài lòng của khách hàng. Các trung tâm thương mại cũng cần đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của mình. Với lợi thế về mặt bằng và khung cảnh mua sắm đẹp, lịch sự, các trung tâm thương mại có thể tích hợp các dịch vụ giải trí trong cùng một tòa nhà như xem phim, chơi game, dịch vụ thư giãn làm đẹp, ẩm thực… Một không khí mua sắm sôi động và thú vị sẽ là yếu tố thu hút khách hàng. 3.5.2.4.Ứng dụng chiến lược Marketing hỗn hợp trong kinh doanh Để thu hút được khách hàng đến với các cửa hàng, siêu thị của mình, các doanh nghiệp cần vận dụng sáng tạo các biện pháp marketing hỗn hợp. Với những doanh nghiệp Việt Nam, điều này còn mới mẻ nên cần nhanh chóng học hỏi kinh nghiệm của các công ty nước ngoài. Tìm phong cách riêng: Mỗi doanh nghiệp bán lẻ phải tạo ra một phong cách riêng cho mình. Điều này càng có ý nghĩa khi bước vào thời kỳ cạnh tranh gay gắt. Hầu hết các siêu thị của các doanh nghiệp trong nước chưa có một logo riêng trên bảng hiệu hay trên ấn phẩm quảng cáo, túi gói hàng. 94 Phong cách riêng còn thể hiện ở cách bài trí cửa hàng, bố trí ánh sáng, âm nhạc trong siêu thị, trung tâm thương mại, hay tác phong phục vụ, cách ăn mặc của đội ngũ nhân viên và những dịch vụ hấp dẫn mà mỗi doanh nghiệp dành cho khách hàng. Phong cách riêng còn được xây dựng qua chất lượng hàng hóa, giá cả cạnh tranh, phương thức phục vụ văn minh hiện đại. Hơn nữa, các siêu thị, trung tâm thương mại cần xây dụng được cho mình chủng loại hàng thế mạnh, ví dụ như Zen Plaza được biết đến là trung tâm thương mại chuyên kinh doanh quần áo thời trang; Vincom City Tower được biết đến là tổ hợp mua sắm giải trí hiện đại; siêu thị Seyu chuyên mua hoa quả hay đồ thực phẩm ngon, chất lượng cao, giá cao, siêu thị Minimart (66 Bà Triệu) chuyên doanh các mặt hàng nhập khẩu… Chính sách giá: Hiện nay phần nhiều hàng hóa trong các siêu thị có giá cao hơn hàng tại các chợ, cửa hàng truyền thống. Điều này làm giảm tính hấp dẫn của loại hình bán lẻ hiện đại với khách hàng. Để thực hiện chiến lược giảm giá các doanh nghiệp cần thiết lập mối quan hệ gắn bó với nhà sản xuất, các nhà bán buôn, giảm bớt số lượng cấp phân phối… đảm bảo hạ giá thành và có nguồn cung hàng ổn định. Giải pháp đặt ra là mạng lưới các siêu thị có thể cùng nhau thành lập một trung tâm cung ứng hàng hóa có nhiệm vụ mua hàng với khối lượng lớn, trực tiếp tư nhả sản xuất, từ đó giúp giảm chi phí mua hàng và giá hàng hóa. Bên cạnh đó, trong những dịp đặc biệt như ngày lễ, Tết, Quốc khánh hay vào tháng khuyến mãi do các thành phố tổ chức, các siêu thị, trung tâm thương mại nên tích cực tham gia bằng việc giảm giá, phát phiếu mua hàng ưu đãi, tặng kèm sản phẩm… để thu hút khách hàng. Quảng cáo: Tăng cường sử dụng các panô, băngrôn về khuyến mại hay những mặt hàng mới về về hình ảnh doanh nghiệp ở nơi công cộng. Để sẵn một thông báo danh mục các sản phẩm mới được tập hợp, phát hành hàng tuần hoặc hàng ngày đặt trước cửa ra vào siêu thị, trung tâm thương mại; thiết kế lại các túi đựng hàng có hình ảnh, màu sắc gây ấn tượng với tên doanh nghiệp được in nổi bật. 95 Tăng cường nghiên cứu khách hàng và nhu cầu của khách hàng: Trước mắt, mỗi doanh nghiệp cần phải có bộ phận chuyên trách nghiên cứu thị trường, nhu cầu, tâm lý và hành vi của người tiêu dùng. Công việc này phải tiến hành một cách có bài bản và kết hợp với nghiên cứu tình hình khách hàng của các đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, công tác phân tích kết quả kinh doanh cũng cần được tổ chức lại một cách nghiêm túc và khoa học hơn... các doanh nghiệp có thể học hỏi các kỹ năng này ở những nhà kinh doanh siêu thị trên thế giới. Trưng bày sắp xếp hàng hoá ở các siêu thị cần được quan tâm đặc biệt theo những nguyên tắc của trưng bày hàng hoá trong siêu thị học từ các nhà kinh doanh siêu thị nước ngoài. Đa dạng hoá phương thức bán hàng: Những hình thức bán hàng hiện đại tuy chưa thực sự phát triển ở Việt Nam song chúng là những biện pháp marketing trực tiếp rất hữu hiệu. Các siêu thị có thể bán hàng qua thư gửi đến cho những khách hàng có nhu cầu mà doanh nghiệp biết được qua điều tra; xuất bản những cuốn catalogue nhỏ tập hợp một số sản phẩm chọn lọc của doanh nghiệp mình vào dịp cuối năm hoặc các ngày lễ gửi đến cho các gia đình. Ngoài ra, cũng cần chiếm lĩnh nhanh chóng lĩnh vực bán hàng trên mạng điện tử vì đó sẽ là phương thức giao dịch rất phát triển trong tương lai... Tất cả các biện pháp Marketing đều phải nhất quán và hướng tới mục đích xây dựng thương hiệu riêng cho doanh nghiệp bán lẻ. Sự khác biệt hoá của doanh nghiệp sẽ là yếu tố giúp tăng sự trung thành của khách hàng vì người tiêu dùng hiện đại đến với siêu thị, trung tâm thương mại không đơn thuần là để mua hàng hóa nữa mà còn là để "trải nghiệm" sự thích thú khi mua sắm. 3.5.2.5.Xây dựng chính sách quản trị và phát triển nguồn nhân lực Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của mọi doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như các nhà bán lẻ. Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là xây dựng chương trình 96 tuyển chọn, đào tạo và nâng cao tinh thần làm việc cho nhân viên. Cần đặt tiêu chuẩn rõ ràng và tiến hành tuyển chọn nghiêm túc. Công tác đào tạo nhân viên phải do cán bộ có chuyên môn và kinh nghiệm đảm nhiệm, mời chuyên gia giảng dạy cho mỗi khóa đào tạo. Tạo bầu không khí thoại mái nhưng nghiêm túc trong khi làm việc, tạo tâm lý yên tâm cho người lao động, giảm áp lực làm việc và chú ý đến chế độ lao động. Các siêu thị trung tâm thương mại cũng cần chú ý đặc biệt đến việc tuyển chọn cán bộ và chuyên viên có trình độ, có kinh nghiệm được đào tạo bài bản về chuyên môn. Nhân viên trong siêu thị, trung tâm thương mại có nhiều nhiệm vụ khác nhau, nên cần bố trí công tác phù hợp với năng lực, sở trường từng người. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần quan tâm tới lực lượng nhân viên phục vụ trực tiếp với khách hàng. Thái độ phục vụ lịch sự, cởi mở và nhiệt tình là yếu tố quan trọng tạo nên sự hài lòng của khách hàng góp phần xây dựng hình ảnh đẹp cho doanh nghiệp. 3.5.2.6.Tiến hành liên kết tạo sức mạnh để cạnh tranh với các công ty bán lẻ nước ngoài Trước áp lực phải cạnh tranh gay gắt với các tập đoàn nước ngoài, các nhà bán lẻ Việt Nam cần tăng cường hợp tác với nhau và với các doanh nghiệp sản xuất để tận dụng thế mạnh của nhau. Đây là sự liên minh, liên kết để cùng tồn tại. Trong "Đề án phát triển thương mại trong nước", Bộ Công Thương đã vạch ra lộ trình thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước liên kết thành các đoàn lớn để cạnh tranh với các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể, việc tiến hành liên kết phụ thuộc ở sự chủ động của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp bán lẻ cần bỏ tâm lý e ngại, nhanh chóng liên kết xây dựng mạng lưới siêu thị, cửa hàng tiện lợi hiện đại trên cả nước, giữ vững và mở rộng thị phần. Việc thành lập công ty cổ phần đâu tư và phát triển hệ thống phân phối Việt Nam (VDA) của 4 nhà phân phối lớn và sự ra đời của hiệp hội các nhà bán lẻ ngày 5/10/2007 có thể coi là bước tiến bộ lớn trong việc thúc đẩy 97 quá trình liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước để cạnh tranh. Những sự liên kết chiến lược như vậy cần được các doanh nghiệp bán lẻ đẩy mạnh trong thời gian tới vì liên kết là chìa khóa giúp các doanh nghiệp trong nước đứng vững trước áp lực cạnh tranh ngày một gay gắt. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào hoạt động của Hiệp hội, đóng góp ý kiến và giải pháp phát triển cho các doanh nghiệp bán lẻ nội địa. Ngoài việc tập trung hỗ trợ nâng cao năng lực cho các nhà bán lẻ Việt Nam từng bước hình thành một hệ thống bán lẻ Việt Nam với quy mô lớn và mang tính chuyên nghiệp cao, Hiệp hội bán lẻ cần đóng vai trò tích cực trong việc tham gia xây dựng cơ chế chính sách nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trong thị trường bán lẻ, tham gia đóng góp ý kiến để quy hoạch phát triển loại hình kinh tế bán lẻ. Hiệp hội cần sớm đề xuất và chủ động xây dựng đề cương dự thảo cho "Luật bán lẻ" để trình các cấp có thẩm quyền xem xét. Thêm vào đó để phát huy được sức mạnh, các doanh nghiệp bán lẻ còn cần duy trì mối quan hệ bình đẳng cùng có lợi, cùng chia sẻ rủi ro với các nhà sản xuất để có nguồn cung hàng hóa ổn định, chất lượng cao. 3.5.3. Giải pháp khác Ngoài các giải pháp kể trên, để các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam ngày càng lớn mạnh rất cần sự hợp tác, ủng hộ của các doanh nghiệp sản xuất và của người tiêu dùng. 3.5.3.1.Đối với các doanh nghiệp sản xuất Hệ thống bán lẻ hiện đại giúp nhiều nông dân, các cơ sở sản xuất nhỏ và ngay cả doanh nghiệp sản xuất lớn thay đổi cung cách sản xuất theo hướng bài bản và hiện đại. Các nhà sản xuất nên ủng hộ những hệ thống phân phối bán lẻ trong nước. Khi nhà bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam sẽ kéo theo các nhà xuất của họ.Thực tế cho thấy khi mới vào thị trường Việt Nam, hệ thống phân phối nước ngoài chấp nhận hàng Việt Nam với điều kiện dễ dàng, nhưng sau đó ngày một khó hơn. Ví dụ như đòi hỏi mức chiết khấu cao thời hạn 98 thành toán dài hơn khắt khe hơn trong lựa chọn hàng... Khi Việt Nam thực hiện AFTA với mức thuế giảm mạnh hệ thống bán lẻ nước ngoài có xu hướng nhập hàng từ các nước ASEAN nhiều hơn. Lúc đó không chỉ các doanh nghiệp bán lẻ trong nước gặp khó khăn mà các doanh nghiệp sản xuất trong nước có nguy cơ không bán được hàng. Các nhà sản xuất trong nước cần tỉnh táo để có cái nhìn dài hạn trong sản xuất. Một mặt cần nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, mặt khác cần thiết lập mối liên kết chặt chẽ, đối tác chiến lược với các doanh nghiệp bán lẻ để hợp tác kinh doanh. Sản xuất ra các sản phẩm tốt, giá thành rẻ cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tận dụng cơ hội xuất khẩu được sản phẩm của mình khi tham gia vào chuỗi các siêu thị, trung tâm thương mại của các tập đoàn đa quốc gia. Tham gia vào hệ thống bán lẻ hiện đại có dạng chuỗi, nhất là các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia là một cách mới để xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp mình. Đây là một chiến lược hoàn toàn mới. Rõ ràng hình thức bán lẻ hiện đại đã mở ra cho các doanh nghiệp một hướng mở rộng và xâm nhập thị trường nước ngoài hiệu quả. 3.5.3.2.Đối với người tiêu dùng Cạnh tranh tự do khi thị trường bán lẻ mở cửa khiến các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn, nhưng lại mang đến cho người tiêu dùng nhiều lợi ích. Người tiêu dùng có cơ hội mua hàng trong những trung tâm mua sắm hiện đại, tiện nghi sang trọng, tiếp cận với các thương hiệu hàng hóa tốt trên thế giới. Đồng thời, do áp lực cạnh tranh nên giá cả hàng hóa trong hệ thống bán lẻ hiện đại có xu hướng giảm bớt sự chênh lệch với hàng bán tại chợ hay hiệu tạp hóa. Những năm tới, các điểm bán lẻ hiện đại sẽ là sự lựa chọn của tầng lớp dân cư có thu nhập từ trung bình trở lên. Sự lựa chọn nhà bán lẻ của người tiêu dùng quyết định đến thành bại của một doanh nghiệp. Người dân nên là những người tiêu dùng thông thái khi tự nâng cao ý thức về quyền lợi của 99 mình. Khi phát hiện các sai phạm của doanh nghiệp bán lẻ như bán hàng quá hạn, hàng kém phẩm chất, xuất xứ không rõ ràng, không đảm bảo yêu cầu an toàn vệ sinh… cần thông báo cho các cơ quan chức năng, hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để có phương án xử lý. Như vậy, người tiêu dùng đã góp phần tạo sức ép buộc các nhà kinh doanh siêu thị, trung tâm thương mại phải đảm bảo chất lượng hàng hóa họ bày bán. Ngoài ra, cùng với nỗ lực của các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại đưa ra những sản phẩm dịch vụ có mức độ làm hài lòng người tiêu dùng cao nhất, giá cạnh tranh nhất, người tiêu dùng nên ủng hộ cho các doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù tiềm lực còn yếu, kinh doanh chưa chuyên nghiệp nhưng các nhà bán lẻ Việt Nam đang cố gắng cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài trên thị trường nội địa bằng cách không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Kinh nghiệm của Hàn Quốc đã chứng tỏ sự ủng hộ của người tiêu dùng với các nhà bán lẻ trong nước có sức ảnh hưởng lớn như thế nào. Sau 8 năm thâm nhập thị trường Hàn Quốc không hiệu quả (riêng trong năm 2005, đã lỗ tới gần 10 tỉ won), tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới Wal-mart đã quyết định bán tại các cửa hàng của mình cho Công ty Shinsegea (Hàn Quốc) và rút khỏi thị trường này. Trước đó không lâu, một đại gia bán lẻ của Pháp là Carrefour cũng đã phải bán toàn bộ cửa hàng ở Hàn Quốc để chuyển sang thị trường Trung Quốc vì lý do tương tự. Sự thất bại của 2 "người khổng lồ" này cho thấy không có sức mạnh nào là bất bại. Dù Wal-mart và Carrefour đã từng thao túng hàng trăm thị trường các nước trên thế giới, họ vẫn có thể "thua" nếu như chúng ta biết cách cạnh tranh. Một trong những lý do quan trọng nhất khiến Wal-mart và Carrefour không cạnh tranh nổi ở thị trường Hàn Quốc là do sự ửng hộ và đoàn kết của người tiêu dùng Hàn Quốc. Ở Việt Nam, chúng ta đã từng phát động chương trình "Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam". Để được người tiêu dùng ủng hộ hay không phụ thuộc vào chính các doanh nghiệp. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp là cải tiến 100 công nghệ, kỹ thuật; nâng cao trình độ quản lý... để giảm thiểu chi phí và cho ra những sản phẩm có chất lượng tốt, giá cạnh tranh cùng với các chương trình dịch vụ có mức độ làm hài lòng người tiêu dùng cao nhất. Nếu được như vậy, đương nhiên người tiêu dùng sẽ ủng hộ đội nhà. KẾT LUẬN Mới chỉ thực sự xuất hiện và phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây, nhưng loại hình bán lẻ hiện đại đã có những bước tiến vượt bậc và có những đóng góp không nhỏ vào với sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Ngày nay, các hình thức bán lẻ hiện đại đã dần trở nên quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam mà minh chứng rõ ràng nhất là sự phát triển rất nhanh và mạnh của thị trường này tại Việt Nam. Đặc biệt, thị trường bán lẻ Việt Nam đang trở nên hấp dẫn khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Sự mở cửa của thị trường, xu hướng tiêu dùng mới, sự thay đổi đáng kể trong thu nhập cũng như chi tiêu của người tiêu dùng và những động thái đẩy mạnh phát triển của các công ty, tập đoàn bán lẻ trên thị trường Việt Nam trong thời gian qua cùng với sự xâm nhập của các tập đoàn lớn trong thời gian tới chắc chắn sẽ làm cho thị trường bán lẻ Việt Nam phát triển sôi động, trở thành thị trường có mức hấp dẫn hàng đầu trên thế giới. Đứng trước những cơ hội đó, triển vọng cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài là rất lớn. Với những ưu thế về vốn, công nghệ, trình độ quản lý và kinh nghiệm lâu năm, các doanh nghiệp nước ngoài đang tỏ ra chiếm ưu thế trên thị trường bán lẻ. Tuy nhiên, không phải là không có khó khăn, khó khăn lớn nhất với các doanh nghiệp nước ngoài là về vấn đề văn hóa và pháp lý. Nắm vững thói quen mua sắm của người tiêu dùng cũng như am hiểu hệ thống pháp luật Việt Nam không đơn giản là vấn đề "một sớm một chiều", nó 101 đòi hỏi phải có sự đầu tư thích đáng của các doanh nghiệp về thời gian cũng như công sức. Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam dù gia nhập vào thị trường bán lẻ khá muộn màng so với các đại gia nước ngoài nhưng cũng đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận. Đó là sự lớn mạnh của hệ thống bán lẻ; những thay đổi trong phương thức kinh doanh theo hướng hiện đại và chủ động góp phần hình thành thói quen mua sắm mới trong dân cư; xây dựng được những chiến lược dài hạn nâng cao năng lực cạnh tranh. Nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những hạn chế như thiếu tính liên kết, thiếu tính chuyên nghiệp trong kinh doanh, cơ sở hạ tầng yếu kém và một số vấn đề về chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm mà nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do thiếu vốn và thiếu chính sách của nhà nước. Trong thời gian tới, khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, áp lực từ thị trường là rất lớn. Các doanh nghiệp trong nước phải biến áp lực thành động lực, thành nỗ lực phấn đấu tìm ra hướng đi thích hợp cho mình. Phần cuối của khóa luận, sau phần trình bày những căn cứ chính để định hướng phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại, xu hướng thị trường bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới là phần đánh giá triển vọng phát triển của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài và một số giải pháp cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Với lợi thế sân nhà, am hiểu thị trường cũng như thói quen tiêu dùng của người dân, hy vọng các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sẽ ngày càng hoàn thiện, phát triển, khẳng định được vị thế của mình trên thị trường cũng như chiếm được lòng tin của người tiêu dùng. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I/ Danh mục sách giáo khoa, sách chuyên khảo 1. PGS.,TS. Lê Trịnh Minh Châu (2004), "Phát triển hệ thống phân phối hàng hóa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế", NXB Lý luận chính trị. 2. GS.,TS. Nguyễn Thị Mơ (2005), "Lựa chọn bước đi và giải pháp để Việt Nam mở cửa về dịch vụ thương mại", NXB Lý luận chính trị. 3. TS. Nguyễn Thị Nhiễu chủ biên (2006), "Siêu thị- phương thức kinh doanh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam" ,NXB Lao động xã hội. 4. TS. Nguyễn Thị Nhiễu và tập thể tác giả (2002), "Nghệ thuật kinh doanh bán lẻ hiện đại", NXB Thống kê. 5. Phillip Kotler (2003), "Quản trị Marketing", NXB Thống kê. 6. Bộ Thương mại (2006), "Thị trường dịch vụ Việt Nam - Những cơ hội khai thác", NXB Thế giới. 7. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2006), "Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới 1986-2006, thành tựu và những vấn đề đặt ra", NXB Đại học Kinh tế quốc dân. 8. Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội (2000), "Giáo trình Marketing lý thuyết", NXB Giáo dục. 9. Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế (2006), "WTO- các văn kiện gia nhập tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam" , NXB Chính trị quốc gia. 10. ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế (2005), "Tổng quan các vấn đề tự do hóa thương mại dịch vụ”, NXB Chính trị quốc gia. II/ Các văn kiện pháp luật, đề án, bài báo, tham luận 1. Đề án "Chiến lược phát triển thương mại nội địa 2006- 2010, định hướng đến năm 2015 và 2020", Bộ Công Thương. 2. Quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM, ngày 24/9/2004 về "Quy chế siêu thị và trung tâm thương mại". 3. Báo cáo về thị trường kinh doanh bán lẻ Việt Nam 2007”, CB Richard Ellis. 4. Ngô Bình, "Toàn cầu hóa bán lẻ và thử thách phân phối Việt", Báo nhà quản lý số tháng 6, 7, 8 năm 2007. 5. Lan Hương, "Xu hướng tiêu dùng ngày càng hiện đại", Kỷ yếu của Bộ Thương mại năm 2006. 6. TS. Nguyễn Thị Nhiễu (2005), viện nghiên cứu thương mại, đề tài nghiên cứu cấp Bộ "Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống siêu thị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay". 7. Vũ Minh Phú, "Những tiền đề phát triển hệ thống phân phối Việt Nam", Báo Thương mại, số 19/2006, trang 26. 8. Thời báo kinh tế Việt Nam (2006), "Kinh tế 2006-2007 Việt Nam, thế giới". 9. Thời báo kinh tế Việt Nam (ra ngày 15/6/2006), "Hệ thống G7 Mart-liên kết nhà bán lẻ nhỏ". 10. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 7/2007 III/ Tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh 1. AT Kearney (2006), "Emerging market priorities for global retailers", Global Retail Development Index. 2. Micheal Levy (2003), "Retail management", NXB McGraw Hill Higher Education. 3. Phillip Kotler & Gary Amstrong (2002), "Principles of marketing", NXB Thống kê. 4. East Asia: Testing Time Ahead-World Bank East Asia Region; March 2008. IV/ Các Website điện tử

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4070_8143.pdf
Luận văn liên quan