Đề tài Quản trị tài chính công ty đa quốc gia

Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước chuyển mình và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam đang dần khẳng định vị thế của mình và trong tương lai sẽ vươn tầm ra thị trường quốc tế. Nhưng trước mắt chúng ta còn rất nhiều khó khăn phải vượt qua. Tự bản thân các doanh nghiệp cũng còn nhiều vấn đề phải đổi mới. Trong đó chúng ta thường nói đến khả năng quản lý như một mặt còn yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt quản trị tài chính dường như là một lĩnh vực mới mẻ đối với phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam. Nền kinh tế thế giới đang phát triển theo hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Cùng với nó là sự phát triển nhanh chóng của mô hình công ty đa quốc gia. Các công ty này - hoạt động trên phạm vi quốc tế - thành công nhờ khả năng quản lý xuất sắc giúp họ kết hợp sự đa dạng cũng như kiểm soát những biến động và thay đổi đến từ yếu tố “đa quốc gia” của nó. Quản trị tài chính bao giờ cũng là lĩnh vực quan trọng nhất của quản trị doanh nghiệp nói chung.

pdf99 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6449 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản trị tài chính công ty đa quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t phục những khách hàng quen thuộc chi thêm tiền. Công ty mẹ cũng thúc giục các giám đốc quản lý tại mỗi quốc gia tăng cường việc mua nguyên liệu trong nước tại bất cứ nơi nào có thể và không để các nhà cung cấp trong nước tham dự vào nhằm tránh việc phải trả cho những chi phí tăng thêm của họ. Đồng thời Avon bắt đầu kế hoạch cạnh tranh mạnh mẽ hơn nữa với các đối thủ cạnh tranh đang ở thế bất lợi khi họ phải nhập khẩu sản phẩm và nguyên liệu thô. Cuối cùng, Avon nhận thấy rằng nó có khả năng tăng lợi nhuận hiện có bằng cách sử dụng các nhà máy của mình tại châu Á để sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm không phải là hàng mỹ phẩm vào thị trường Mỹ. Công ty Avon ở châu Á Thái Bình Dương cũng nhận được sự giúp đỡ từ các giám đốc khu vực châu Mỹ Latinh, họ đã bay sang châu Á để chia sẻ những kinh nghiệm về việc làm thế nào để đối phó được với cuộc khủng hoảng tiền tệ tương tự đã xảy ra ở các quốc gia này. 4.3.2 Những bài học về quản trị rủi ro tài chính Bài học đầu tiên để quan trị rủi ro tài chính có hiệu quả là ta phải quan tâm đến nó cũng như những tác động của nó có thể gây ra cho công ty. Trường hợp của Kodak, trước kia công ty này chỉ tập trung vào những nỗ lực 68 quản trị rủi ro hối đoái bằng các giao dịch ngắn hạn có bảo hiểm. Nhưng sau đó nó đã nhận thực được những ảnh hưởng của rủi ro tiền tệ trên phương diện kinh tế đối với công ty. Chiến lược mới của nó đã tính toán đến rủi ro hối đoái trong mỗi dự án đầu tư. Nghiên cứu thất bại của Rolls-Royce, chúng ta có thể nhận được bài học về sự thận trọng khi ký các hợp đồng cung cấp mà đồng tiền thanh toán không phải là nội tệ. Tỷ giá có thể thay đổi không theo như dự đoán của nhà quản trị và hậu quả là những thiệt hại rất lớn về mặt lợi nhuận của công ty. Rolls-Royce định giá sản phẩm của nó bằng đồng Đô la Mỹ trong khi chi trả các chi phí hoạt động của nó (quản lý, nguyên vật liệu, trả nợ) bằng đồng Bảng Anh. Nhưng vấn đề ở chỗ các hợp đồng bán sản phẩm của công ty này lại xác định một tỷ giá hối đoái cố định. Đây chính là sai lầm rất lớn của nó. Theo những dự đoán của các nhà quản trị tài chính tại Rolls-Royce, đồng Bảng Anh sẽ mất giá trong thời gian đó, do đó họ không đưa điều khoản rủi ro hối đoái vào hợp đồng. Nhưng thực tế lại không như vậy, đồng Đô la giảm giá gây ra khoản thua lỗ nặng nề cho công ty. Trong thế giới kinh doanh toàn cầu, những rủi ro, biến động là liên tục và không lường trước được. Vì thế các nhà quản trị nên thận trọng thay vì quá tin tưởng vào phán đoán của mình. Từ việc nghiên cứu cách mà tập đoàn mỹ phẩm Avon đã đối phó với cuộc khủng hoảng tiền tệ ở châu Á năm 1997, ta lại tìm được bài học phải luôn luôn sẵn sàng đối phó với rủi ro vì dù có tầm nhìn chiến lược đến đâu, các công ty không thể dự đoán những rủi ro có thể xảy ra. Và đối phó với rủi ro không phải là trách nhiệm của riêng giám đốc tài chính. Rủi ro tiền tệ có ảnh hưởng tới mọi mặt hoạt động của một công ty. Khi đối phó với nó, các giám đốc kinh doanh cần có các đề xuất về sản xuất và marketing để đảm bảo khả năng sinh lợi trong dài hạn. Họ phải có được những lựa chọn chiến lược dự phòng mang tính chủ động chứ không phải thụ động để có được lợi thế cạnh tranh quốc tế. 69 Điều mấu chốt để quản trị hiệu quả rủi ro là gắn việc phân tích những biến động tiền tệ với quá trình quản trị chung. Một biện pháp mà rất nhiều các công ty đa quốc gia áp dụng nhằm phát huy sự phối kết hợp giữa các giám đốc chịu trách nhiệm từng mảng khác nhau của việc quản trị rủi ro hối đoái là thành lập một ủy ban thực hiện việc quản trị rủi ro ngoại hối. Bên cạnh các giám đốc tài chính, cac ủy ban nên và thường bao gồm nhân viên cấp cao của công ty như phó chu tịch – phụ trách mảng quốc tế, giám đốc marketing và sản xuất, giám đốc kế hoạch và tổng giám đốc điều hành. Việc sắp xếp này là rất hợp lý bởi vì các giám đốc sẽ cùng tham gia quản trị rủi ro hối đoái, do vậy họ có thể có những cân nhắc trên phương diện hối đoái trước khi đưa ra những quyết định của mình. Trong chương trình kiểm soát rủi ro hối đoái kiểu này, vai trò của các giám đốc tài chính gấp thêm 4 lần: (1) cung cấp những dự đoán về lạm phát và tỷ giá hối đoái cho hoạt động quản trị kinh doanh trong nước, (2) nhận định và làm rõ nguy cơ rủi ro cạnh tranh, (3) cơ cấu những tiêu chí đánh giá để các giám đốc kinh doanh không được quá ngợi khen hay bị khiển trách do những tác động không được dự đoán của biến động tiền tệ và (4) tính toán và bảo hiểm những rủi ro kinh doanh còn tồn tại sau khi những chiến lược sản xuất và marketing đã được triển khai. 70 CHƯƠNG III: KHẢ NĂNG ÁP DỤNG KINH NGHIỆM QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM I. Thực trạng quản trị tài chính của doanh nghiệp Việt Nam 1. Tình hình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung Nói về tình hình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay ta có thể thấy một bức tranh toàn cảnh xen kẽ những gam màu sang tối. Các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian gần đây đã đạt được một sự tăng trưởng đáng kể. Đã xuất hiện trong nền kinh tế Việt Nam những tập đoàn kinh tế hoạt động trên nhiều lĩnh vực với doanh thu lớn, lợi nhuận cao và tốc độ tăng trưởng ổn định. Mới đây, Ngày 15/11/2007, Báo điện tử VietNamNet kết hợp với Công ty Cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) lần đầu tiên công bố bảng xếp hạng Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam về doanh thu (VNR500) theo mô hình của Fortune 500. Đơn vị tổ chức mong muốn sẽ duy trì một bảng xếp hạng doanh nghiệp có uy tín của Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế. Hàng năm, thông qua số liệu điều tra về doanh nghiệp trên toàn quốc của Tổng cục Thống kê như: Tổng tài sản, doanh thu, lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng, số lao động… kết hợp với điều tra của Vietnam Report và số liệu cung cấp từ các doanh nghiệp, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được đánh giá, xếp hạng thông qua các tiêu chí được công bố công khai, đảm bảo tính khoa học, khách quan và độc lập. Đây là một động thái tích cực thể hiện sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta đang dần hướng tới những chuẩn mực quốc tế trong đánh giá quy mô và tầm cỡ của một doanh nghiệp. Điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang vươn ra thị trường thế giới và khẳng định vị thế của mình. 71 Qua nghiên cứu phân tích bảng xếp hạng VNR500 năm 2007, các chuyên gia đã đưa ra một số nhận định không phải là hoàn toàn sáng sủa nhưng có rất nhiều nét khả quan 8 : - Nền kinh tế Việt Nam đang bị chi phối mạnh bởi khu vực Nhà nước. Có tới 270 trên 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước. Ngành nghề tập trung chủ yếu là các doanh nghiệp khai thác kinh doanh tài nguyên khoáng sản như: dầu khí, than và các ngành kinh tế nhà nước nắm thế độc quyền như: hàng không, ngân hàng, tài chính, viễn thông, điện lực… - Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập mạnh và gắn kết với nền kinh tế thế giới được thể hiện ở sự góp mặt của 140 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong danh sách Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Hơn nữa, phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài trong bảng xếp hạng thuộc lĩnh vực chế tạo và sản xuất, lĩnh vực đòi hỏi tính cạnh tranh cao về công nghệ, vốn và trình độ quản lý. Qua đây cũng phản ánh phần nào khả năng cạnh tranh yếu của các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này. - Khối doanh nghiệp tư nhân mặc dù có những bước phát triển đáng khích lệ, song vẫn chưa đủ mạnh, thể hiện ở sự góp mặt của 90 doanh nghiệp trong danh sách 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Tuy nhiên các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đã thể hiện tính năng động và hiệu quả ở việc có rất nhiều doanh nghiệp nằm trong bảng xếp hạng thuộc về nhóm ngành chế tạo và sản xuất, lĩnh vực có tính cạnh tranh cao trong môi trường cạnh tranh toàn cầu. - Với kết quả xếp hạng nói trên, có thể thấy doanh thu của các doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam cũng chỉ gần tương đương doanh thu của các doanh nghiệp nằm trong 10 doanh nghiệp cuối bảng xếp hạng của Fortune 500 8 Công bố xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, Vietnamnet.com.vn, 15/11/2007 72 (2006). Qua đây, có thể nhận thấy rằng điều quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam muốn vươn lên tầm quốc tế không phải ở doanh thu lớn mà mấu chốt cho sự phát triển là khả năng cạnh tranh, đổi mới công nghệ, hiệu quả trong quản lý kinh doanh, quảng bá xây dựng thương hiệu. Như vậy có thể thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam thực sự đang phát triển mạnh mẽ. Mặc dù còn có rất nhiều khó nhăn phía trước nhưng sự hội nhập với nền kinh tế thế giới là tương lai không xa. Khi đó tại Việt Nam sẽ hình thành những công ty, tập đoàn lớn mà hoạt động của nó không chỉ trên thị trường nội địa. Đó là tương lai thuộc về các công ty đa quốc gia có quốc tịch Việt Nam. 2. Tình hình phát triển của các tập đoàn kinh tế Việt Nam Các tập đoàn kinh tế trên thế giới hiện đang được tổ chức, tái cơ cấu theo xu thế sáp nhập và mua lại. Theo số liệu của hãng thông tin Dealogic, tổng giá trị của những vụ sáp nhập trong năm 2006 đã lên tới 3.460 tỉ đô la Mỹ với 28.312 thương vụ. Tổ chức đánh giá tín nhiệm quốc tế Standard & Poor’s gọi đây là “hội chứng sáp nhập”. Hội chứng này rất có thể tạo ra một thời kỳ mới trong nền kinh tế thế giới - thời của các tập đoàn. Ở nước ta, trong hầu hết các chính sách phát triển kinh tế, đã thể hiện quan điểm hình thành các tập đoàn kinh tế đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên quan điểm này mới chỉ được thể chế hóa ở khu vực kinh tế nhà nước. Cơ sở pháp lý cho việc hình thành tập đoàn kinh tế nhà nước là Nghị định 153/2004/NĐ-CP ngày 9-8-2004 của Chính phủ. Và trong năm 2006 và đầu năm 2007 tám tập đoàn kinh tế quốc gia trong các lĩnh vực mũi nhọn nhất đã được thành lập. Đó là các tập đoàn Bưu chính - Viễn thông, Than - khoáng sản, Dầu khí, Điện lực, Công nghiệp tàu thủy, Dệt may, Cao su, Tài chính - bảo hiểm. Các tập đoàn này được thành lập trên cái nền là các Tổng công ty Nhà nước cho nên có những lợi thế đặc thù và sự hậu thuẫn của Chính phủ. Tất cả các tập đoàn kinh tế Nhà nước được ra đời bằng một quyết 73 định và nhanh chóng được thừa nhận và có vị thế riêng. Tuy nhiên đó là chuyện của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân, nơi đóng góp đến 39% GDP và một phần ba tổng đầu tư toàn xã hội, cũng cho thấy một sức sống mạnh mẽ, thực sự là động lực phát triển đất nước. Mỗi doanh nghiệp, dù nhỏ, đều có một hoặc một số thế mạnh, có thể là vốn, công nghệ, mạng lưới phân phối, thương hiệu... Tích hợp, liên kết các thế mạnh đó vào một doanh nghiệp, đó chính là tập đoàn kinh tế. Đã có một số tập đoàn kinh tế tư nhân hình thành theo mô hình này. Tiêu biểu như FPT, Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát, Hanaka... Các tập đoàn này đều có vốn góp, cổ phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, công ty liên kết, ngân hàng, đối tác chiến lược trong và ngoài nước với hàng ngàn cổ đông và đang có xu hướng mở rộng quy mô và ngành nghề thông qua phát triển nội sinh, mua bán sáp nhập hay liên kết. Tập đoàn kinh tế tư nhân được hình thành bằng chính sự tăng trưởng quy mô và mở rộng phạm vi hoạt động của chính các doanh nghiệp. Việc hình thành tập đoàn hoàn toàn là do nhu cầu và nội lực của doanh nghiệp và không có bất cứ một quyết định chuyển đổi hay sắp xếp hành chính nào. Đây chính là con đường tự nhiên để một doanh nghiệp phát triển thành một tập đoàn. Tuy nhiên, việc hình thành tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam mới khởi đầu và đang vấp phải nhiều vấn đề khó khăn. Trên thực tế về pháp lý, mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân hiện nay chưa được thừa nhận. Các tập đoàn hiện nay buộc phải mang cái tên không chính danh “công ty cổ phần tập đoàn” (hoặc công ty TNHH tập đoàn). Luật Doanh nghiệp 2005 được đánh giá là “luật để hội nhập” thì cả luật và các văn bản hướng dẫn đều chưa tạo được hành lang pháp lý cho việc hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân. Chúng ta chỉ có một nghị định hướng dẫn một số điều của Luật Doanh nghiệp về đăng ký kinh doanh và cũng không có bất cứ đề cập nào đến việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam. 74 2. Một số nhận xét đánh giá về hoạt động quản trị tài chính trong các doanh nghiệp nói chung và các tập đoàn kinh tế Việt Nam nói riêng 2.1 Thực trạng khung pháp luật đối với quản trị doanh nghiệp Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, tại Việt Nam rất nhiều công ty được thành lập có quy mô lớn nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, trừ một số doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài còn lại đại đa số các doanh nghiệp đều chưa chia hình thành bộ phận quản trị tài chính và chức danh giám đốc tài chính. Trong nhiều doanh nghiệp, những nhiệm vụ, chức năng của giám đốc tài chính và bộ phận quản trị tài chính đã mặc nhiên giao cho một phó giám đốc và kế toán trưởng làm thay. Do đó, có khá nhiều việc kế toán trưởng làm cũng không được mà không làm cũng ... vô can. Sự “làm thay tự nguyện” này chính là một trong những nguyên nhân tạo ra một “khoảng trống về quản trị tài chính” trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là sự nhầm lẫn chức năng giữa bộ phận kế toán và bộ phận tài chính doanh nghiệp, không chỉ có trong nhận thức của các chủ doanh nghiệp mà cả trong tư duy của không ít nhà làm luật. Tại Việt Nam hiện nay chưa có một văn bản pháp luật chính thức quy định về hoạt động quản trị doanh nghiệp. Trong hoạt động quản trị cua mình, các doanh nghiệp thường chỉ dựa vào Luật doanh nghiệp, Luật kế toán, Luật kiểm toán. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) về quản trị công ty tháng 6/2006, Việt Nam đã có những bước tiến mới quan trọng trong việc xây dựng khuôn khổ quản trị công ty. Tuy nhiên, nếu so sánh với các chuẩn mực, nguyên tắc quản trị của các nhà quản trị quốc tế thì hầu hết các chuẩn mực, các nguyên tắc ấy, đặc biệt là tính minh bạch và công bố thông tin, không được tuân thủ hoặc căn bản chỉ tuân thủ được một phần. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến nền quản trị doanh nghiệp nói chung của Việt Nam cũng như sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp nói riêng. 75 Trước tình hình đó, các cơ quan chức năng cũng như các nhà làm luật Việt Nam đã có một số động thái để hỗ trợ cho việc phát triển nền quản trị doanh nghiệp Việt Nam. Ngày 27/12/2006, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ra Quyết định số 1392 công nhận thành lập Ban Vận động thành lập Hội Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam. Ngày 4/7/2007, Bộ trưởng Bộ Nội vụ cũng đã ký Quyết định thành lập Hội Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở đó, Ban vận động đã xây dựng Dự thảo điều lệ của Hội Các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam theo 5 mục tiêu. Một trong những mục tiêu lớn nhất của Hội là xây dựng nguyên tắc quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế. Riêng về những văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quản trị doanh nghiệp, chúng ta chỉ dựa vào Luật kế toán và các điều lệ, chuẩn mực liên quan. Thế nhưng, theo Điều lệ kế toán trưởng các doanh nghiệp quốc doanh còn đang có hiệu lực, kế toán trưởng lại không có những chức năng nhiệm vụ của giám đốc tài chính. Thậm chí, trong luật kế toán cũng vậy. Cho đến nay, trong hệ thống văn bản pháp quy về kế toán chưa có một văn bản nào quy định về giám đốc tài chính. Trong một số công ty liên doanh, khi tồn tại song song hai chức danh giám đốc tài chính và kế toán trưởng, nếu giám đốc tài chính là người nước ngoài và kế toán trưởng là người Việt Nam thì thông thường kế toán trưởng chỉ tồn tại trên hình thức. Cho nên mọi hoạt động liên quan đến quản trị tài chính trong doanh nghiệp đều do bản thân các doanh nghiệp tự xoay xở miễn là không trái với quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đang được kêu gọi rất nhiều ở Việt Nam hiện nay. Và nó đòi hỏi sự quan tâm của các cơ quan chức năng để nâng cao chất lượng quản trị nói chung và quản trị tài chính nói riêng của Việt Nam. 76 2.2 Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của quản trị tài chính Các nhà nghiên cứu kinh tế đều có chung quan điểm là “ngày nay biến động rủi ro trở thành thuộc tính của nền kinh tế trong kỷ nguyên mới”. Như vậy, quản trị tài chính cho doanh nghiệp của ngày hôm nay, “không chỉ là vấn đề kỹ thuật tính toán lợi hại, lời lỗ, mà là tương lai, một tương lai không còn giống như những gì mà các nhà kinh doanh vẫn hình dung, một tương lai được tư duy lại trong cái sự nhìn mới về sự biến động, một sự biến động làm nên hiệu quả” (Rowan Gibson). Có thể nói ngày nay quản trị tài chính là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, chỉ có những doanh nghiệp với phương thức quản lý chuẩn hóa, hiện đại mới có thể sử dụng tốt các phân tích và quản trị tài chính để phát triển. Những doanh nghiệp buông lỏng quản trị tài chính và thiếu chuyên viên giỏi thì càng phát triển càng dễ đi đến sụp đổ như nhiều doanh nghiệp Việt Nam vấp phải trong thời gian vừa qua. Tại các nước phát triển, các doanh nghiệp lớn không thể thiếu người giám đốc tài chính giỏi, điều này cũng đúng đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tiến trình hội nhập ngày càng tăng tốc. Thế nhưng dường như các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn chưa đánh giá đúng vai trò của quản trị tài chính. Trong rất nhiều doanh nghiệp không tồn tại bộ phận quản trị tài chính, chứ chưa nói đến chức danh giám đốc tài chính. Tất cả công việc liên quan đến quản trị tài chính mặc nhiên được giao phó cho kế toán trưởng và thường là xin ý kiến chỉ đạo của giám đốc hay phó giám đốc trước khi quyết định. Các kiến thức về mặt tài chính chỉ có vai trò hỗ trợ và tham khảo khi các nhà quản lý đưa ra quyết định về hoạt động kinh doanh chứ không có chiến lược phát triển về mặt tài chính. Xuất phát từ quan điểm đó, khi hoạch định một dự 77 án đầu tư hay một kế hoạch kinh doanh, các doanh nghiệp không hề xem xét một cách đúng mức về mặt tài chính, cũng không tính đến những rủi ro tài chính có thể xảy ra. Những tính toán về mặt kinh tế có thể chỉ ra rằng kế hoạch hay dự án đó sinh lợi nhưng trong nhiều trường hợp nó không đảm bảo về mặt tài chính, hay đó chưa phải là phương án tối ưu nhất đối với lợi ích của doanh nghiệp. Họ rơi vào thế thụ động khi xảy ra những rủi ro về tỷ giá hay lãi suất ảnh hưởng đến dòng tiền vào – ra của dự án. Họ cũng không quan tâm đến chuyện tối thiểu hóa chi phí vốn để mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho doanh nghiệp. Đây là vấn đề tồn tại trong rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam, ngay cả các doanh nghiệp lớn. Để giải quyết nó, không có cách nào khác là các doanh nghiệp phải nhìn nhận lại và đánh giá đúng vai trò của quản trị tài chính. Từ đó có những đầu tư cho hoạt động này để mang lại hiệu quả toàn diện hơn cho các dự án đầu tư và các kế hoạch kinh doanh. 2.3 Đào tạo nhân lực tài chính chưa đáp ứng được nhu cầu Trong một thế giới kinh doanh mà thay đổi là một quy luật không có ngoại lệ, nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế của một doanh nghiệp là khả năng quản lý thay đổi và những biến động với một tốc độ chưa từng có. Tốc độ thay đổi nhanh cóng có nghĩa là đòi hỏi các nhà quản lý cần có kiến thức chi tiết về các hoạt động của họ. Nhà quản lý cần phải biết cách thức tạo ra sản phẩm, các vật liệu thô và các bộ phận có thể huy động từ đâu, làm thế nào để có chúng, các giải pháp/ sản phẩm thay thế, vốn từ đâu ra và các giá trị tương đối đang thay đổi của chúng tác động như thế nào đối với mục tiêu cuối cùng của họ. Vấn đề thay đổi thường xuyên gây ra khó khăn cho các nhà quản trị nhưng nó vẫn luôn tồn tại. Các nhà quản lý ngày nay phải dự đoán nó, hiểu nó, quản lý nó và điều khiển nó thành lợi thế của doanh nghiệp mình. Tất cả những điều này phải được thực hiện với khả năng nhận thức nhạy bén, với khả năng lựa chọn những thay đổi và liên tục điều chỉnh. 78 Thế nhưng đây lại là vấn đề đang tồn tại trong lĩnh vực quản trị tài chính ở các doanh nghiệp Việt Nam. Đối với các doanh nghiệp, để tìm được chuyên viên tài chính giỏi không phải dễ, khi mà các cán bộ kế toán có kinh nghiệm thì phần nhiều thiếu kiến thức quản trị tài chính hiện đại, còn các sinh viên mới tốt nghiệp thì hầu như rất xem nhẹ và thiếu phương pháp để hấp thu thông tin môi trường kinh tế, một yếu tố quyết định khả năng phân tích và quản trị tài chính. Theo nhận xét của các chuyên gia, nhu cầu về nhân lực tài chính không còn là dự báo nữa, mà đã thật sự bức thiết, đơn đặt hàng nhiều nhất cho các công ty “săn đầu người” là đơn đặt hàng tìm những chuyên viên quản trị tài chính và marketing. Các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các công ty cổ phần đều đang cần giám đốc tài chính và chuyên viên tài chính với nhiều mức độ khác nhau mà lực lượng kế toán không thể đảm trách được. Nắm bắt được nhu cầu đó, các đơn vị đào tạo đã tập trung đào tạo chuyên ngành này. Nhưng cũng như kinh nghiệm về đào tạo kỹ sư công nghệ thông tin (IT) vừa qua cho thấy, có một khoảng cách khá lớn từ nhà trường tới yêu cầu của doanh nghiệp. Các chuyên viên tài chính cần có một trình độ cao về kiến thức và kỹ thuật phân tích tài chính hiện đại, kết hợp với hiểu biết về tình hình kinh tế-xã hội trong trạng thái vận động. Những yêu cầu này không chỉ các sinh viên mới tốt nghiệp mà ngay cả những chuyên viên nhiều năm công tác cũng không dễ đáp ứng. Theo đánh giá của các nhà tuyển dụng, tuy phần lớn các sinh viên có kiến thức cơ sở khá tốt nhưng rất yếu trong vận dụng thực tế; một số sinh viên chưa phân biệt được kế toán quản trị và phân tích tài chính, giữa kế toán tiền mặt và quản lý ngân quỹ, đặc biệt là rất yếu trong khâu lập kế hoạch tài chính và phân tích rủi ro kinh doanh. Để có được nguồn nhân lực tài chính giỏi, doanh nghiệp cần phối hợp tốt 3 nguồn. Đó là tuyển dụng sinh viên mới tốt nghiệp, săn tìm chuyên viên tài chính giỏi và đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới cho chuyên viên của công 79 ty; trong đó việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức mới cho chuyên viên là công việc thường xuyên và chủ đạo. Phương thức này cho phép kết nối các kiến thức tổng hợp của các chuyên gia và kinh nghiệm thực tiễn của học viên, và đây là phương thức được các doanh nghiệp nước ngoài áp dụng mạnh mẽ. II. Khả năng áp dụng 1. Dự báo sự phát triển của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam Nghiên cứu tình hình hiện tại của các doanh nghiệp Việt Nam cũng như xu hướng phát triển của chúng, ta có thể dự báo và tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Các doanh nghiệp lớn của Việt Nam mà phần lớn là các tập đoàn kinh tế dường như đang chuẩn bị những hành trang cho mình để mở rộng hoạt động và dần vươn ra thị trường thế giới. Theo kết quả một cuộc khảo sát mới công bố của Công ty Grant Thornton, khoảng 30% doanh nghiệp Việt Nam có kế hoạch tăng trưởng bằng việc mua lại những doanh nghiệp khác. Khảo sát cũng cho thấy, chỉ có 3% số doanh nghiệp cho biết sẽ bán lại doanh nghiệp của mình trong vòng ba năm tới. Tuy nhiên, so với mức quân bình của thế giới, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam muốn mua lại doanh nghiệp khác còn thấp. Theo Grant Thornton, 44% doanh nghiệp toàn cầu có ý định mua lại công ty khác trong vòng ba năm tới vì họ cho rằng mua lại hoặc sáp nhập là công cụ kinh doanh chiến lược để tăng trưởng. Khảo sát còn cho thấy, 30% doanh nghiệp ở Việt Nam muốn niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán trong ba năm tới. Hiện nay, việc thành lập các tập đoàn kinh tế và mô hình "Công ty mẹ - Công ty con" đang diễn ra khá sôi động ở nước ta. Tám tập đoàn kinh tế nhà nước do Chính phủ thí điểm thành lập và một loạt các doanh nghiệp tư nhân hình thành theo mô hình tập đoàn kinh tế nở rộ thời gian qua đang cho thấy xu thế liên kết phát triển để lớn mạnh, tăng năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập. Bên cạnh việc hình thành những tập đoàn kinh tế Nhà nước thông qua việc sắp xếp và quyết định của Chính phủ trên cơ sở các tổng công ty thì 80 đã xuất hiện những mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân. Trên thực tế, Việt Nam đã có những nhóm DN mạnh, có mối liên kết và hoạt động dưới một sự điều hành chung, một thương hiệu chung... Đây có thể xem là những mô hình tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam như FPT, Kinh Đô, Hòa Phát, Đồng Tâm... Điểm chung của các tập đoàn này là có vốn góp, cổ phần chi phối lẫn nhau ở các công ty con, có DN liên kết... và đang có xu hướng mở rộng quy mô và ngành nghề thông qua phát triển nội sinh, mua bán sáp nhập hay liên kết. Một vài số liệu thống kể trên đây cho thấy một phần nào đó xu hướng phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Họ không còn là những doanh nghiệp nội địa làm ăn nhỏ lẻ. Họ đang mở rộng hoạt động của mình bằng nhiều hình thức khác nhau. Dự báo trong tương lai họ sẽ trở thành những công ty, những tập đoàn có doanh thu lớn, lợi nhuận cao, tiến hành hoạt động trên các thị trường khác nhau. Đó sẽ là những công ty đa quốc gia mang quốc tịch Việt Nam. Nhưng để tương lai đó trở thành sự thật, hiện nay các doanh nghiệp vẫn còn rất nhiều việc phải làm. 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng áp dụng kinh nghiệm QTTC của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam 2.1 Nhóm giải pháp chung 2.1.1 Tổ chức bộ phận quản trị tài chính doanh nghiệp theo một cơ cấu thống nhất Tại các công ty đa quốc gia trên thế giới, quản trị tài chính được tách rời đối với công tác kế toán thống kê. Quản trị tài chính trong những công ty này là tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng về tài chính và đưa ra những quyết định về mặt tài chính ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh nghiệp. Đó là phương thức cần đưa vào áp dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam. Bộ phận quản trị tài chính phải dựa vào các báo cáo kế toán, báo cáo doanh thu, chi phí, báo cáo nhân sự và tiền lương,... do các bộ phận kế toán tài chính, kế toán quản trị, thống kê cung cấp, kết hợp với những yếu tố khách quan để tiến hành phân loại, tổng, hợp, phân tích và đánh giá tình hình tài chính của doanh 81 nghiệp. Mục đích cuối cùng là phải kết hợp với bộ phận quản lý khác đưa ra được những quyết định đầu tư đúng đắn cũng như huy động được nguồn vốn cần thiết cho các hoạt động đầu tư đó. Có thể tóm tắt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ phận quản trị tài chính trong một doanh nghiệp như sau: - Chức năng: Tham mưu, giúp ban giám đốc quản lý, chỉ đạo hướng dẫn, kiểm tra, giám sát các mặt về công tác tài chính và hoạt động kế toán của công ty theo quy định của Nhà nước và quy chế của doanh nghiệp. - Quyền hạn: Thừa lệnh của Giám đốc quản lý hoạt động tài chính của cơ quan, đơn vị trong toàn công ty; Quan hệ với các cơ quan, đơn vị trong công ty, và bên ngoài để thực hiện công tác tài chính; Kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với các cơ quan, đơn vị của công ty về việc chấp hành và thực hiện các nguyên tắc tài chính. - Mối quan hệ: Chịu sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của ban Giám đốc; Quan hệ hiệp đồng với các phòng ban trong công ty cùng thực hiện nhiệm vụ; Quan hệ với các đơn vị trong công ty là mối quan hệ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát về nghiệp vụ kế toán tài chính.. - Nhiệm vụ: Tham gia, đánh giá, lựa chọn các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh. Xác định nhu cầu vốn và tổ chức huy động các nguồn vốn đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp; Tổ chức sử dụng tốt vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu chi, quản lý tốt các khoản công nợ và bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp; 82 Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận , trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp. Kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp, thực hiện tốt việc phân tích tài chính. Thực hiện tốt việc kế hoạch hoá tài chính; Xây dựng các quy chế quản lý tài chính: quản lý quỹ tiền mặt, quản lý tài sản…..hướng dẫn các bộ phận trong toàn công ty thực hiện. Tổ chức công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, hướng dẫn nghề nghiệp cho nhân viên trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đồng thời quản lý sử dụng tốt đội ngũ nhân viên kế toán. 2.1.2 Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tài chính-kế toán Củng cố đội ngũ cán bộ tài chính- kế toán có nghiệp vụ giỏi và tinh thần trách nhiệm cao là một nhân tố quyết định đến chất lượng công tác quản lý tổ chức. Đội ngũ cán bộ tài chính kế toán có nghiệp vụ giỏi, tinh thần trách nhiệm cao được xem như khâu then chốt trong việc phát triển công tác quản lý tổ chức ở mỗi doanh nghiệp. Để thực hiện giải pháp này cần từng bước thực hiện những nội dung sau. - Rà soát, đánh giá đúng năng lực, phẩm chất của từng cán bộ tài chính - kế toán một cách thường xuyên liên tục. Sắp xếp luân chuyển công việc đối với từng cán bộ tài chính kế toán để một mặt nâng cao nghiệp vụ người quản lý có điều kiện để nhìn nhận đúng mặt mạnh, yếu chuyên môn đội ngũ tài chính- kế toán. - Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tổ chức. Cử cán bộ tham gia lớp tập huấn chế độ mới các lớp chuyên môn, nghiệp vụ cũng như lớp quản lý kế toán cán bộ làm công tác tài chính- kế toán. - Khuyến khích động viên, tạo điều kiện để cán bộ tài chính- kế toán học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, cũng như ứng dụng khoa học- công nghệ vào công việc kế toán. 83 Cán bộ tài chính- kế toán phải là những người trung thực, có phẩm chất chính trị tốt, trình độ chuyên môn giỏi. Do đó việc đào tạo bôi dưỡng cán bộ phải có tính chất toàn diện cả về lý luận, chuyên môn, phẩm chất đạo đức và năng lực thực tiễn. 2.1.3 Tiếp cận mục tiêu QTTC một cách phù hợp Vì mục tiêu lợi nhuận nếu được xem xét trong sự tương quan với rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì doanh nghiệp không nên chỉ xem lợi nhuận là mục tiêu sống còn. Trong nền kinh tế thị thường có tính cạnh tranh mỗi doanh nghiệp phải phấn đấu sao cho có thể luôn “ tồn tại và phát triển” trong mọi tình huống kinh tế. Trong đó tồn tại là điều kiện cần và phát triển là điều kiện đủ. Các nhà đầu tư trên thị trường khi tìm kiếm cơ hội đầu tư thường hướng đến những doanh nghiệp có triển vọng – nơi hứa hẹn sẽ tạo ra những dòng thu nhập ổn định và tăng trưởng không ngừng trong tương lai, đảm bảo lợi ích đầu tư tức là bảo đảm khả năng tạo ra hệ số hoàn vốn hay tỉ suất sinh lời mong đợi. Các nhà đầu tư luôn đánh giá cao những doanh nghiệp có tiềm năng phát triển và tình hình tài chính lành mạnh và do đó, khả năng sinh lời là nền tảng xác lập giá trị của nó trên thị trường. Công ty nào càng được các nhà đầu tư quan tâm chú ý đến và sẵn sàng đầu tư khi có cơ hội thì giá trị thị trường càng cao vì giá cổ phần đầu tư sẽ tăng. Như vậy đứng trên góc độ của quản trị tài chính thì doanh nghiệp nên hướng tới mục tiêu không ngừng nâng cao và tối đa hoá giá trị thị trường của nó. Nói cách khác, nhà quản trị tài chính phải không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đồng vốn đầu tư cũng như đảm bảo sự an toàn của vốn đầu tư để thu hút vốn của các nhà đầu tư trên thị trường tài chính… 84 2.2 Nhóm giải pháp liên quan quyết định đầu tư 2.2.1 Thẩm định dự án trước khi đưa ra quyết định đầu tư Quyết định đầu tư là một trong những quyết định tài chính quan trọng vì sai lầm không thể sửa chữa được cho nên trước khi quyết công ty nên xem thẩm định dự án nhiều góc độ, hiệu quả tài chính cũng như hiệu quả kinh tế- xã hội. Đầu tư là một hoạt động rủi ro vì kết quả đầu tư thực tế không phải là một giá trị chắc chắn và được biết trước. Khi thẩm định dự án, chúng ta dựa vào những kết quả dự báo hay kết quả kỳ vọng và kết quả thực tế chỉ được biết chắc chắn khi dự án đã được thực hiện và hoàn tất. Kết quả thực tế có thể khác xa với kết quả kỳ vọng. Khi đầu tư vào một dự án đồng nghĩa việc từ bỏ một lượng giá trị của cải hiện có để đổi lấy cơ hội sở hữu một dòng thu nhập không chắc chắn trong tương lai. Thế nhưng doanh nghiệp thì không thể không đầu tư. Đó là lý do vì sao việc thẩm định dự án đầu tư lại có vai trò quan trọng đối với bất cứ doanh nghiệp nào. Trong thẩm định một dự án đầu tư, rủi ro là yếu tố được tính đến nhiều nhất. Khi doanh nghiệp đầu tư vào 1 dự án mới tình trạng rủi ro của nó đã thay đổi, mức độ rủi ro của doanh nghiệp có thể tăng hay giảm đi tuỳ thuộc và sự tương quan giữa dự án mới với các dự án đang thực hiện. Vì vậy, khi lựa chọn các dự án đầu tư doanh nghiệp phải tính đến sự tương quan giữa dự án mới với các hoạt động hay dự án hiện đang được thực hiện. Độ rủi ro của danh mục đầu tư mới phụ thuộc 2 yếu tố : Rủi ro đặc thù của dự án mới và Hệ số tương quan của tài sản mới được đầu tư với các tài sản hiện có trong quá trình tạo ra dòng thu nhập kỳ vọng cho công ty. Rủi ro của danh mục đầu tư được đo lường bằng độ phân tán của tỉ suất sinh lời kỳ vọng của danh mục đầu tư. Nhà quản trị tài chính phải cân nhắc tất cả các vấn đề trên để giúp doanh nghiệp có những quyết định đầu tư hiệu quả với khả năng sinh lời cao và rủi ro là ít nhất. 85 2.2.2 Xác định lãi suất chiết khấu thích hợp khi đánh giá dự án Thực tế hiện nay , khi thẩm định tài chính thì các dự án đầu tư các công ty thường sử dụng chiết khấu k bằng với lãi suất vay vốn dài hạn của ngân hàng. Như đã phân tích ở phần trên, cách làm này là không đúng. Do vậy, để nâng cao chất lượng của quyết định đầu tư công ty nên xác định suất chiết khấu thích hợp để xác định hiện giá thuần của dự án. Nếu dự án có mức rủi ro trung bình tức là khi đầu tư vào dự án này không làm thay đổi tình trạng rủi ro hiện tại của doanh nghiệp thì suất chiết khấu nên lấy bằng đúng với mức phí tổn sử dụng vốn trung bình của công ty được xác định căn cứ vào phương án tài trợ vốn cho dự án. 2.2.3 Tính đến chi phí cơ hội khi lựa chọn dự án đầu tư Khi doanh nghiệp quyết định một phương án đầu tư có nghĩa là nó bỏ qua một cơ hội đầu tư khác. Vì thế không thể không tính đến chi phí cơ hội khi xem xét về mặt tài chính của một dự án đầu tư. Những tính toán này phải dựa trên tỷ suất sinh lời của dự án, so sánh nó với lãi suất vay vốn dài hạn của ngân hàng. 2.3 Nhóm giải pháp liên quan quyết định tài trợ 2.3.1 Huy động và đảm bảo đầy đủ, kịp thời nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường nảy sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát triển. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trước hết thể hiện ở chỗ xác định đúng đắn các nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp huy động vốn từ bên trong và bên ngoài đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế đã nảy sinh nhiều hình thức 86 mới cho phép các doanh nghiệp huy động các nguồn vốn từ bên ngoài. Do vậy vai trò của tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng hơn trong việc chủ động lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động liên tục và có hiệu quả với chi phí huy động vốn ở mức thấp nhất. Bản thân việc vay vốn không phải lúc nào cũng là thượng sách. Nếu lãi suất phải trả cao hơn tỷ suất lợi nhuận có thể thu được, thì đương nhiên các công ty sẽ không bao giờ vay vốn. Và trên thực tế, nhiều công ty cho rằng nếu không có được những dự án đầu tư mang lại lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay, thì thà cứ cố gắng tiết kiệm tiền còn hơn là đi vay mượn thêm. Nhưng đây không phải là lời giải cho bài toán vốn. Nếu chỉ cần tiết kiệm và giảm tối đa mọi chi phí là đủ, thì chắc sẽ không có ai thành lập công ty và mở rộng các hoạt động kinh doanh cả. Lời giải ở chỗ các công ty làm sao để không phải đi vay mà vẫn tìm ra những nguồn huy động vốn khác nhau. Trên thị trường vốn, có khá nhiều phương thức khác nhau để tiếp cận các nguồn vốn đầu tư, tuy nhiên, điều khó khăn đối với đa số các công ty là họ không hội đủ các điều kiện cần thiết để vay vốn, hay không nhận được sự tin tưởng từ phía các nhà tài trợ. Vì thế, việc nâng cao năng lực kinh doanh, cũng như đẩy mạnh uy tín của công ty trong con mắt các nhà tài trợ là rất cần thiết để công ty có thể tiếp cận các nguồn vốn một cách dễ dàng. Trước mỗi quyết định tài trợ vốn, các nhà tài trợ thường căn cứ vào độ tin cậy và uy tín của công ty. Nếu công ty muốn sớm nhận được quyết định tài trợ vốn, thì một bộ tài liệu chứng minh độ tin cậy của công ty sẽ là rất cần thiết. Văn bản này càng trung thực và rõ ràng bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Các nhà tài trợ sẽ tiến hành xác minh, nếu phát hiện có chi tiết thiếu trung thực, lập tức họ sẽ đặt dấu hỏi về độ tin cậy của công ty. Bên cạnh đó, một bộ máy kế toán tài chính hiệu quả cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng độ tin cậy của công ty. Sau những vụ bê bối 87 tài chính lớn như Enron, Worldcom... giờ đây các công ty trên thế giới đã quan tâm hơn đến bộ máy kế toán. Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi nếu cứ tiếp tục xem thường bộ máy kế toán như trước đây, thì chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những "vết xe đổ". Và do vậy lòng tin của các nhà đầu tư sẽ giảm sút nghiêm trọng. Ngoài việc chủ động huy động vốn và trình bày các năng lực kinh doanh, doanh nghiệp còn phải thể hiện cam kết tài chính của nó đối với những hoạt động kinh doanh cụ thể. Nhà tài trợ vốn sẽ luôn nhìn vào giá trị thực của công ty và các hệ số chuẩn mực về tài chính. Nên chuẩn bị các bản báo cáo tài chính về hiệu quả kinh doanh, năng lực quản lý (chứng nhận tiêu chuẩn ISO, TQM...)..., bởi chúng là những biểu hiện rõ ràng nhất khả năng của công ty trong con mắt các nhà tài trợ. Báo cáo tài chính sẽ "tiết lộ" hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các cơ quan quản lý, các nhà đầu tư hiện tại và tương lai, các chủ nợ,... về tình hình tài chính của công ty. Vì vậy, tính trung thực trong báo cáo tài chính có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong các kế hoạch huy động vốn, vấn đề lo ngại nhất của các nhà tài trợ là những rủi ro tài chính do sự biến động của thị trường, như giá ngoại tệ lên xuống thất thường, đồng nội tệ mất giá, thị trường bất động sản thay đổi, tình trạng trượt giá phi mã,... Các nhà tài trợ vốn sẽ luôn xem xét và suy tính rất kỹ về các rủi ro xấu nhất có thể xảy ra. Chính vì vậy, để giúp các nhà tài trợ sớm ra quyết định, công ty nên có các phương án giải thích rõ ràng về tính tối ưu và khả thi của khoản tiền huy động, đồng thời việc giải thích càng chi tiết, rõ ràng bao nhiêu sẽ càng có lợi cho bấy nhiêu. Sau cùng, doanh nghiệp chỉ nên cân nhắc tới một khoản huy động vốn, khi tin tưởng và tính toán thấy rằng lợi nhuận thu được từ các hoạt động kinh doanh được đầu tư từ khoản vốn huy động đó sẽ cao hơn các chi phí huy động 88 vốn. Và tuyệt đối không nên huy động vốn để trang trải các khoản lỗ của công việc kinh doanh hiện tại, bởi việc này có thể kéo doanh nghiệp lún sâu vào "vũng lầy" với tình trạng khó khăn hơn về tài chính . Thay vào đó, có thể cắt giảm các loại chi phí, hợp lý hoá hoạt động kinh doanh sao cho tốt hơn và hiệu quả hơn. Doanh nghiệp chỉ nên tập trung vào các hoạt động kinh doanh nào chắc chắn mang lại lợi nhuận. 2.3.2 Tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tiết kiệm và hiệu quả Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn. Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng vào việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư trên cơ sở phân tích khả năng sinh lời và mức độ rủi ro của các dự án đầu tư từ đó góp phần lựa chọn dự án đầu tư tối ưu. Việc huy động vốn kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa rất quan trọng để doanh nghiệp có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Mặt khác việc huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh có thể giảm bớt và tránh được những thiệt hại do ứ đọng vốn gây ra, đồng thời giảm bớt được nhu cầu vay vốn, từ đó giảm được các khoản tiền trả lãi vay. Việc hình thành và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp, cùng với việc sử dụng các hình thức thưởng phạt vật chất một cách hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy người lao động gắn bó với doanh nghiệp từ đó nâng cao năng suất lao động,cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 2.4 Nhóm giải pháp liên quan quyết định tài chính ngắn hạn Quyết định tài chính ngắn hạn bao gồm việc quản lý tiền mặt, quản lý khoản phải thu, quản lý hàng tồn kho và các quyết định tài trợ ngắn hạn, hay nói cách khác đó là các quyết định liên quan nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. Để thực hiện tốt những quyết định này đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ giữa bộ phận quản trị tài chính và các bộ phận khác trong doanh nghiệp. Nhưng quản trị tài chính cổ điển thường chú trọng vào quản trị vốn lưu động và tìm các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của 89 doanh nghiệp. Quản lý tiền mặt và khoản phải thu được coi là công việc của bộ phận kế toán. Hàng tồn kho nằm trong các quyết định kinh doanh. Mà việc tìm các nguồn tài trợ khá lớn đòi hỏi công ty phải tiêu tốn nhiều công sức vì phải trả giá rất đắt khi mắc phải sai lầm. Do việc tìm kiếm nguồn tài trợ chỉ thực hiện ở những khoảng thời gian cách nhau xa nên chỉ chiếm phần nhỏ thời gian của nhà quản trị tài chính. Phần lớn thời gian và năng lực của họ được dành vào quản trị vốn luân chuyển hay vốn lưu động. Do đó có nhiều quan điểm cho rằng quản trị tài chính nên tập trung vào việc quản trị vốn luân chuyển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phải xác định vị trí của các nhà quản trị tài chính trong khung cảnh quản trị chung và vai trò của họ tham gia trong việc hoạch định và kiểm soát các loại chiến lược của công ty. Họ phải có những phân tích tài chính để quản lý một cách tốt nhất lượng tiền mặt ra – vào, các khoản phai thu – phải trả, hàng tồn kho để những chi phí là tối thiểu trong khi vẫn đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Để làm được điều đó, bộ phận quản trị tài chính phải giám sát, kiểm tra thường xuyên, chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày, tình hình tài chính và thực hiện các chỉ tiêu tài chính, lãnh đạo và các nhà quản lý doanh nghiệp có thể đánh giá tổng hợp và kiểm soát được các mặt hoạt động của doanh nghiệp, phát hiện được kịp thời những tồn tại hay khó khăn vướng mắc trong kinh doanh, từ đó có thể đưa ra các quyết định để điều chỉnh các hoạt động phù hợp với diễn biến thực tế kinh doanh. 2.5 Nhóm giải pháp liên quan quản trị rủi ro 2.5.1 Giữ tỷ lệ vốn nợ trong cơ cấu vốn ở mức thích hợp Cơ cấu vốn là tổng hợp các nguồn tài trợ dài hạn của công ty. Bao gồm: nợ dài hạn, vốn chủ sở hữu, vốn cổ phần (đối với công ty cổ phần) và quan hệ tỉ lệ giữa các thành phần vốn đó trong tổng vốn dài hạn của công ty. Doanh nghiệp có thể tìm nguồn tài trợ dài hạn thông qua các thị trường vốn 90 như thị trường tín dụng thuê mua, thị trường tín dụng thế chấp đặc biệt công ty có thể huy động nguồn vốn dài hạn trên thị trường chứng khoán. Vốn nợ của công ty được hình thành từ các nguồn như vốn vay dài hạn của ngân hàng, vốn thuê của các công ty cho thuê tài chính và vốn vay trực tiếp từ nhà đầu tư qua việc phát hành chứng khoán nợ. Vốn cổ phần hay vốn chủ sở hữu gồm vốn phần ban đầu do phát hành cổ phiếu phổ thông và phần lợi nhuận lưu trữ để tái đầu tư. Vốn vay là giải pháp cổ điển mà nhìn chung các doanh nghiệp đều nghĩ tới khi cần huy động vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Nhưng bản thân việc vay vốn không phải bao giờ cũng là thượng sách. Nguồn vốn vay sẽ đi kèm với lãi suất cho vay, đối với doanh nghiệp đó là chi phí vốn. Nếu lãi suất phải trả cao hơn tỷ suất lợi nhuận có thể thu được, thì đương nhiên các công ty sẽ không bao giờ vay vốn. Và trên thực tế, nhiều công ty cho rằng nếu không có được những dự án đầu tư mang lại lợi nhuận cao hơn mức lãi suất tiền vay, thì thà cứ cố gắng tiết kiệm tiền còn hơn là đi vay mượn thêm. Nhưng đây không phải là lời giải cho bài toán vốn. Nếu chỉ cần tiết kiệm và giảm tối đa mọi chi phí là đủ, thì chắc sẽ không có ai thành lập công ty và mở rộng các hoạt động kinh doanh cả. Cho nên vấn đề của các doanh nghiệp là phải xác định tỷ lệ vốn vay thích hợp trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp để lãi vay không trở thành một gánh nặng cho tài chính doanh nghiệp. Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn xác lập được sự tương quan hợp lý giữa mức rủi ro của khoản đầu tư và mức lợi nhuận kiếm được và do đó có thể tối đa hoá giá trị công ty. Có 5 yếu tố ảnh hưởng đến quyết định về cơ cấu vốn + Mức rủi ro kinh doanh của công ty: Rủi ro kinh doanh cao thì hệ số vốn tối ưu càng thấp + Thuế suất thu nhập công ty: thuế suất càng cao thì hệ số nợ tối ưu càng cao 91 + Vị thế tài chính công ty: Nếu công ty dễ dàng huy động vốn trong những trường hợp khẩn cấp thì hệ số nợ tối ưu cao và ngược lại. + Thái độ của nhà quản lý đối với rủi ro : Nhà quản trị ghét rủi ro không muốn sử dụng vốn nợ nhiều cho nên hệ số nợ tối ưu có xu hướng thấp. + Tối ưu hoá cơ cấu vốn là duy trì hệ số nợ ở mức làm cho phí tổn sử dụng vốn của doanh nghiệp thấp nhất và do đó giá trị của nó cao nhất. 2.5.2 Trích lập các quỹ dự phòng sự biến động lãi suất trên thị trường Rủi ro tài chính là sự biến động của thu nhập ròng do ảnh hưởng của chi phí trả lãi vay cố định khi tình hình kinh tế biến động . Để hạn chế sự biến động giá đầu vào hay đầu ra nhằm ổn định dòng thu nhập dự kiến công ty có thể sử dụng kỹ thuật “Hedge” trên thị trường tài chính. Nếu công ty muốn ổn định gía đầu vào hay chặn không cho giá vật tư nguyên liệu biến động tăng vượt quá mức có thể chấp nhận được công ty nên mua nguyên vật liệu thông qua hợp đồng tương lai. Công ty cũng nên trích các quỹ dự phòng sự biến động giá trị các loại tài sản nhằm giảm thiểu tổn thất khi có sự biến động bất lợi của thị trường. Ngoài ra, công ty cần phải dự trữ hệ số nợ cho những trường hợp khẩn cấp khi cần có nguồn tài chính tức thời để giải quyết những tổn thất không mong muốn như khi hoả hoạn xảy ra hay tài sản bị phá huỷ do động đất, bão lụt. 92 KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt Nam đang từng bước chuyển mình và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp Việt Nam đang dần khẳng định vị thế của mình và trong tương lai sẽ vươn tầm ra thị trường quốc tế. Nhưng trước mắt chúng ta còn rất nhiều khó khăn phải vượt qua. Tự bản thân các doanh nghiệp cũng còn nhiều vấn đề phải đổi mới. Trong đó chúng ta thường nói đến khả năng quản lý như một mặt còn yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt quản trị tài chính dường như là một lĩnh vực mới mẻ đối với phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam. Nền kinh tế thế giới đang phát triển theo hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Cùng với nó là sự phát triển nhanh chóng của mô hình công ty đa quốc gia. Các công ty này - hoạt động trên phạm vi quốc tế - thành công nhờ khả năng quản lý xuất sắc giúp họ kết hợp sự đa dạng cũng như kiểm soát những biến động và thay đổi đến từ yếu tố “đa quốc gia” của nó. Quản trị tài chính bao giờ cũng là lĩnh vực quan trọng nhất của quản trị doanh nghiệp nói chung. Cho nên để hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính trong các doanh nghiệp của Việt Nam, nên chăng chúng ta có thể học tập nó từ kinh nghiệm của các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới. Đó là suy nghĩ đã thôi thúc em chọn đề tài khóa luận này. Nội dung bài khóa luận này đã tìm hiểu những vấn đề lý thuyết cơ bản nhất liên quan đến quản trị tài chính công ty đa quốc gia. Đó là các quyết định đầu tư, quyết định tài trợ, quyết định liên quan tài chính ngắn hạn và quản trị rủi ro. Bên cạnh đó tác giả cũng nghiên cứu kinh nghiệm quản trị tài chính của một số công ty đa quốc gia điển hình trên thế giới để qua đó rút ra những bài học quý báu cho hoạt động quản trị tài chính trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế Việt Nam. Trong phần nghiên cứu khả năng áp dụng những kinh nghiệm đó cho các doanh nghiệp Việt Nam, em xin đưa ra 93 một số giải pháp kiến nghị để nâng cao năng lực quản trị tài chính cho các doanh nghiệp. Quản trị tài chính của chúng ta phải hoàn thiện hơn nữa để có khả năng áp dụng những kinh nghiệm quốc tế và chỉ khi làm được điều đó, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thể mở rộng ra thị trường quốc tế hình thành loại hình công ty đa quốc gia có trụ sở tại Việt Nam. Do hạn chế về mặt kiến thức cũng như thời gian, chắc chắn bài khóa luận vẫn còn nhiều sai sót. Em rất mong nhận được những nhận xét và ý kiến đóng góp từ phía các thầy cô giáo và các bạn. Em cũng xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Thúy Anh đã nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành bài khóa luận này. 94 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Alan C. Shapiro (2006), Multinational Finance Management, Trường Đại học Nam California. 2. Theodore Levitt (2007), Sự toàn cầu hóa của các thị trường, Tạp chí Harvad Business 3. TS. Nguyễn Văn Thanh (2004), Quản trị tài chính công ty đa quốc gia, NXB Tài chính. 4. Nguyễn Hải Sản (2003), Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê. 5. ThS. Đinh Thế Hiển (2007), Quản trị tài chính công ty – Lý thuyết và ứng dụng, NXB Thống kê. 6. Nguyễn Hải Tiến (2004), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống kê. 7. TS. Nguyễn Hữu Tài (2006), Giáo trình Lý thuyết Tài chính-tiền tệ, NXB Thống kê 8. Báo cáo kin tế thường niên của Liên Hiệp Quốc (2005) 9. Các website: www.kienthuctaichinh.com.vn www.thuvienphapluat.com www.vneconomy.vn www.vinabook.cm/quan-tri-tai-chinh-m11i23011.html www.camnangquantri.com www.vietbao.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4049_0349.pdf