Đề tài Sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến đầu tư quốc tế vào Việt Nam

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần có sự kết hợp chặt chẽ chính sách đầu tư với các chính sách điều chỉnh ngành khác, bao gồm chính sách đầu tư chung, chính sách khu công nghiệp theo hướng hình thành cụm công nghiệp có tính chuyên môn hóa và chính sách phát triển kinh tế vùng. Các chính sách này cần xây dựng trên nguyên tắc tiếp cận tổng thể quốc gia để tạo tín hiệu chung dẫn dắt FDI tới ngành, vùng cần khuyến khích phát triển; hạn chế các địa phương thu hút các ngành nghề như nhau, thiếu sự phối hợp và bổ sung cho nhau giữa các ngành dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan mà vẫn thiên lệch, thiếu chuyên môn hóa.

pdf38 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2392 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến đầu tư quốc tế vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. III. Đầu tư quốc tế tại Việt Nam trước, trong và sau khủng hoảng: 1. Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi thu hút đầu tư nước ngoài: “Việt Nam đã trở thành địa điểm được ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài tin cậy, lựa chọn đầu tư, kinh doanh hiệu quả, lâu dài,” là lời khẳng định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ngày càng lớn mạnh trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế đất nước, được khuyến khích phát triển ổn định, lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, góp phần phát huy nội lực và lợi thế so sánh của Việt Nam, tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việt Nam nhanh chóng trở thành nước nhận đầu tư nước ngoài lớn nhất từ các công ty Mỹ. Nhờ những chính sách thuận lợi của Chính phủ, lực lượng lao động được đào tạo tốt và mối lo ngại của các nhà đầu tư về chi phí ngày càng tăng lên ở Trung Quốc, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng lên đáng kể. Các công ty này đang coi Việt Nam thực sự là một địa điểm thay thế để thành lập các trung tâm sản xuất và phân phối, phục vụ trước tiên cho xuất khẩu. Sở dĩ làm được như vậy là nhờ: a. Các đặc điểm thuận lợi của thị trường Việt Nam:  Tỉ lệ lao động và lực lượng lao động Lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu dân số trẻ. So với nhiều nước châu Á, Việt Nam có chi phí lao động tương đối rẻ. Công nhân nhà máy có mức lương trung bình là 200 USD/tháng trong khi những nhà quản lý chủ chốt và những kỹ sư có thâm niên được trả 1.500 USD/tháng. Việt Nam áp dụng 48 giờ làm việc mỗi tuần và chương trình phúc lợi xã hội theo quy định của Chính phủ chiếm khoảng 25% chi phí lương. Trong khi đó, Trung Quốc yêu cầu 40 giờ lao động mỗi tuần và chi phí xã hội chiếm 50 - 60% lương của công nhân. Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục tốt và có tinh thần làm việc tích cực. Độ tuổi trung bình của công nhân là 24 và ngày càng có nhiều người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai.  Ưu đãi thuế Chính phủ đã thực hiện một chương trình ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp mạnh bạo. Chương trình này cho phép thời hạn miễn thuế lên tới 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi (có tính cả năm đầu tiên). Và giai đoạn 9 năm tiếp theo, mức thuế phải nộp chỉ bằng ½ mức thuế thu nhập doanh nghiệp, mức thuế này thậm chí có thể được áp dụng trong thời gian 15 năm. Thuế thu nhập doanh nghiệp có thể ở mức 10%, 15% , 20%, 25% - tuỳ thuộc từng ngành công nghiệp, loại hình đầu tư và địa điểm.( Điều 15,16,17,19 Nghị định số 124/2008/NĐ-CP điều chỉnh, bổ sung luật thuế thu nhập doanh nghiệp). Gần đây nhất, vào ngày 18-3-2013 tại phiên họp thứ 16 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Tài chính trình dự thảo Luật sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp xem xét giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng trong bối cảnh kinh tế khó khăn như hiện nay. Theo đó thuế thu nhập phổ biến cho các doanh nghiệp sẽ giảm từ mức 25% hiện hành xuống 23% và áp dụng dự kiến từ năm 2014. Đây cũng là một tín hiệu đáng mừng cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước.  Cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng nhằm đáp ứng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới đổ vào. Việt Nam quyết tâm phát triển cân bằng về cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp điện, nước, các dịch vụ cảng biển và viễn thông. Nâng cấp hệ thống các nhà máy điện, hệ thống đường xá, sân bay, bến cảng...Bên cạnh nguồn vốn của nhà nước đầu tư lớn cho các công trình hạ tầng còn kêu gọi đầu tư tư nhân vào hạ tầng kinh tế lớn, có ảnh hướng tới sự phát triển của cả vùng và đất nước. Một số hạng mục kêu gọi như Cảng Vân Phong, các nhà máy điện, các dự án hạ tầng đô thị... đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư. Bên cạnh đó, chúng ta cũng tập trung thu hút đầu tư vào công nghệ cao, công nghệ nguồn tập trung vào các khu như Láng - Hoà Lạc; đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng cho đầu tư sản xuất. Đến năm 2006, Việt Nam đã đầu tư khoảng 10% GDP vào cơ sở hạ tầng, năm 2012 đầu tư phát triển các cảng nước sâu và vận tải biển - sự phát triển này đã mang lại cho Việt Nam một lợi thế cạnh tranh to lớn, tăng cường hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc thành lập các chuỗi cung ứng và xuất khẩu vào ASEAN, Trung Quốc và Bắc Mỹ.  Hệ thống chính trị và tính an toàn Việt Nam có hệ thống chính trị ổn định và bền vững, đoàn kết , được đánh giá cao về tính an toàn, không có các vụ bạo động, biểu tình, li khai li gián, đánh bom liều chết… giúp các nhà đầu tư yên tâm tìm kiếm cơ hội sinh lợi.  Sở hữu trí tuệ và cơ sở hạ tầng pháp lý Cùng với việc đáp ứng những quy định về pháp lý và sở hữu trí tuệ để gia nhập WTO, Việt Nam đã có những bước đi nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và ban hành nhiều luật quy định việc bảo hộ cụ thể đối với các nhà đầu tư. Hệ thống toà án giám sát luật có ảnh hưởng đến đầu tư nước ngoài tiếp tục được cải thiện, tạo ra một khuôn khổ pháp lý minh bạch và rộng mở hơn cho các hoạt động đầu tư. Môi trường kinh doanh càng được cải thiện theo cơ chế thị trường. Chính phủ đã ban hành các nghị định hướng dẫn thực hiện các bộ luật quan trọng như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và Luật Mua sắm. Quốc hội cũng thông qua những luật mới nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý đồng bộ hơn cho các nhà đầu tư: , Luật Đấu thầu, Luật Chứng khoán, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ và Bộ luật Lao động sửa đổi, trong đó có những quy định mới về các vấn đề đình công. Phân cấp triệt để việc cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các địa phương tạo ra một sự thông thoáng và thuận tiện hơn cho nhà đầu tư.  Tính sẵn sàng của các cơ sở sản xuất hiện có Việt Nam đã xây dựng một số lượng khá lớn các khu kinh tế. Giá thuê đất nhìn chung thấp hơn ở Trung Quốc, khoảng 20-25 đô-la/m2 với thời hạn thuê là 50 năm. Đối với những khu kinh tế có cơ sở hạ tầng hiện đại và đầy đủ hơn, giá thuê đất cao hơn, khoảng 40 đô-la/ m2. Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh là những điểm hấp dẫn nhất đối với những nhà đầu tư, thu hút 213 dự án và tổng số vốn đăng ký lên đến gần 2,58 tỷ đô la, chiếm khoảng 60% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp và khu chế xuất.  Là thành viên của WTO và ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới. Trong năm 2006, vị thế của nước ta trên thế giới được nâng cao sau khi trở thành thành viên thứ 150 của WTO và tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 tại Hà Nội, tiếp tục làm gia tăng mối quan tâm cũng như mở ra nhiều cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO, luật pháp Việt Nam đã và đang có những thay đổi phù hợp với thông lệ quốc tế, dỡ bỏ dần các rào cản... thúc đẩy đầu tư nước ngoài, nhất là FDI vào Việt Nam.  Xu hướng đầu tư trên thế giới. Dòng vốn đầu tư trên thế giới đang hồi phục mạnh mẽ và có xu hướng đổ vào các quốc gia đang phát triển có sự ổn định và cởi mở. Việt Nam cũng nằm trong chiến lược phân bổ đầu tư của nhiều tập đoàn ra khỏi Trung Quốc để tránh rủi ro. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên Việt Nam vẫn còn tồn tại rất nhiều những khó khăn, bất cập cần giải quyết để có thể thu hút và tận dụng tối đa vai trò quan trọng của các nhà đầu tư nước ngoài. b. Những khó khăn của Việt Nam trong đầu tư quốc tế:  Hạn chế về hệ thống pháp luật đầu tư quốc tế.  Thủ tục trong lĩnh vực đầu tư và thương mại còn rườm rà.  Công tác xúc tiến đầu tư còn chưa đồng bộ, chưa đạt hiệu quả cao.  FDI đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng còn hạn chế và còn gặp những khó khăn, vướng mắc trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng.  Tồn tại những vấn đề bất cập về môi trường, xã hội trong khu công nghiệp và khu kinh tế.  Lợi thế lao động rẻ đã lỗi thời.  Tỷ trọng đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực còn mất cân đối, đặc biệt vốn cho nông - lâm- ngư nghiệp còn thấp. Giải ngân vốn đầu tư đạt khoảng 100 tỉ USD, tương đương 47% tổng vốn đăng ký vẫn còn chậm.  95% công nghệ lạc hậu, đầu tư có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ mới còn chiếm tỷ lệ thấp... Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho biết các doanh nghiệp khu vực này nhập 80% dây chuyền công nghệ trung bình, chỉ có 5% công nghệ cao, còn lại là cũ kỹ, lạc hậu. Tuy Việt Nam trở thành điểm đến của các tập đoàn lớn như Toyota, Samsung, Intel, Canon… nhưng đó chỉ là số ít, còn lại phần lớn dự án sử dụng công nghệ cao còn thấp; tình trạng cấp giấy chứng nhận đầu tư không phù hợp, chưa được thẩm tra.  Năng suất lao động chưa cao, đời sống công nhân lao động còn khó khăn dẫn tới đình công, bãi công...  Đặc biệt, theo Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Đào Quang Thu, đang có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế tại các DN FDI với xu hướng ngày càng tinh vi như: nâng khống giá trị góp vốn (máy móc, thiết bị, bản quyền); nâng khống giá trị mua bán đầu vào, phí quản lý, trả lương, đào tạo… tạo ra tình trạng lãi thật, lỗ giả gây thất thu ngân sách, làm cho đa số bên VN phải rút khỏi khối liên doanh. GS Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài, cho rằng để các DN nước ngoài chuyển giá, trốn thuế có phần trách nhiệm không nhỏ của người xây dựng chính sách, khi đã tạo ra lỗ hổng, kẽ hở và không kịp thời bịt nó lại. Bên cạnh đó cũng theo GS Nguyễn Mại, do thu hút nhiều công nghệ lạc hậu, cũ kỹ dẫn tới nhiều vụ việc ô nhiễm môi trường như sông Thị Vải, vụ kiện cáo ở Đồng Nai kéo dài.  Tham nhũng làm nản lòng doanh nghiệp. Các Doanh nghiệp châu Âu và Doanh nghiệp nước ngoài khác ngày càng nản lòng và mệt mỏi với nạn tham nhũng hiện vẫn đang lan tràn, len lỏi và tiếp tục có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Các Doanh nghiệp đã kỳ vọng rằng tình trạng sẽ được cải thiện đáng kể sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về chống tham nhũng (UNCAC) vào tháng 6.2009. Tuy nhiên, cho đến nay các Doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục đối mặt với các vấn đề về tham nhũng liên quan đến việc xin giấy chứng nhận đầu tư, phê duyệt pháp lý, nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ cũng như các quyền hợp pháp khác.  Kinh tế Việt Nam và thế giới đầy bất ổn: Nhiều khả năng bước sang năm 2013, kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi đà suy giảm và điều này, sẽ có những tác động không tích cực tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đặc biệt là tới hoạt động xuất khẩu; việc các quốc gia trên thế giới tiếp tục phải duy trì các chính sách kinh tế vĩ mô nới lỏng cộng với việc liên tục đưa ra các gói kích thích kinh tế mới sẽ tạo áp lực lạm phát và Việt Nam cũng sẽ không tránh khỏi áp lực này. Do vậy, trước mắt nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với rất nhiều thách thức phát sinh từ thực tế vận động, cũng có thể được tích tụ qua cả một quá trình phát triển, đó là nền kinh tế Việt Nam vẫn còn tiếp tục phải đối mặt với nguy cơ lạm phát (lạm phát năm 2012 tuy ở mức thấp, nhưng lạm phát cơ bản vẫn cao, cho thấy còn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát); mức dự trữ ngoại tệ tuy đã tăng mạnh trong năm 2012, nhưng thấp so với quốc tế. Bên cạnh đó, chất lượng tài sản của các tổ chức tín dụng chưa được tốt; nợ công tăng nếu tính cả nợ dự phòng của các ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước; việc thực hiện quá trình cải cách cơ cấu nền kinh tế chưa thực sự hiệu quả, hiện đang là những vật cản tới tiềm năng tăng trưởng dài hạn của Việt Nam. 2. Đầu tư quốc tế tại Việt Nam trước khủng hoảng: a. Đầu tư trực tiếp FDI: Kể từ năm 1988 đến 2007, Việt Nam đã thu hút khoảng 98 tỉ USD với 9500 dự án đầu tư nước ngoài. Trong số đó, 2.220 dự án phân bố ở miền Bắc, 818 ở miền Trung và 5.452 dự án ở miền Nam. Giai đoạn này có 82 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, trong đó các nước châu Á chiếm 69,8%, Châu Âu chiếm 16,7 % và Châu Mỹ chiếm 6% tổng vốn FDI, các khu vực khác chiếm 7,5%. Từ năm 2000-2003 chỉ đạt mức dưới 5%, sau đó từ năm 2004 có xu hướng tăng nhanh đạt 4,5 tỷ USD tăng 45,1% so với năm trước. Năm 2005 tăng 50,8% và năm 2006 tăng 75,4%, năm 2007 Việt Nam đã thu hút dược 20,3 tỉ USD vốn đầu tư nước ngoài, tăng 70% so với 2006 và tương đương với tổng vốn đầu tư nước ngoài trong năm năm từ 2001 đến 2005. Đạt được những thành tích trên bắt nguồn từ việc Chính Phủ đã có một số chính sách sữa đổi trong luật đầu tư nước ngoài cũng như xúc tiến công tác đầu tư ở trong nước và ngoài nước đồng thời ban hành luật doanh nghiệp thống nhất năm 2005. Quyền kinh doanh cũng được mở rộng như cho các doanh nghiệp được tự do lựa chọn phương án, đối tác và phương thức hợp tác. Từ trước năm 2007, đầu tư có xu hướng tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, các ngành đòi hỏi nhiều lao động, sản xuất hàng hóa xuất khẩu và sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu. Có hơn 4.566 dự án thuộc ngành sản xuất và xây dựng với tổng vốn khoảng 35,4 tỉ USD, chiếm 61,89% tổng số vốn đăng kí. Mặc dù các dự án đầu tư nước ngoài có mặt tại hầu khắp các tỉnh và thành phố của Việt Nam, tỉ lệ đầu tư lớn nhất vẫn dành cho các vùng kinh tế trọng điểm ở phía Nam bao gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu; và ở phía Bắc gồm Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Tập trung nhiều nhất vẫn là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh bởi hai thành phố này có cơ sở hạ tầng phát triển hơn, sức mua cao hơn và lực lượng lao động lành nghề hơn. Trong những năm này, số lượng dự án 100% vốn nước ngoài cũng bắt đầu tăng lên. Những dự án này chiếm 76% tổng số dự án được cấp giấy phép và 55% vốn đăng ký, trong khi các doanh nghiệp liên doanh chỉ chiếm phần còn lại. Đồng thời, có sáu dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép ở Việt Nam theo hình thức BOT (cung cấp nước và nhà máy điện), với tổng vốn đăng ký là 1,37 tỉ USD. Khu vực đầu tư nước ngoài đã có sự phát triển vượt bậc, dần dần khẳng định vị thế của mình là một bộ phận năng động của nền kinh tế, đóng góp quan trọng vào việc tăng cường năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong những năm gần đây, khu vực đầu tư nước ngoài chiếm ¼ tổng vốn đầu tư của cả nước, 43,6% sản lượng công nghiệp (2004), 57,2% tổng kim ngạch xuất khẩu (2005) và 15,9% GDP của Việt Nam. Tuy vậy, tỉ lệ giải ngân vốn của các dự án đầu tư nước ngoài vẫn còn chậm và chưa ổn định từ mức 7,1 tỉ USD trong giai đoạn 1991-1995 lên mức 13,5 tỉ USD giai đoạn 1996-2000 và 14,3 tỉ USD từ 2001 đến 2005 nhưng trong năm 2006 và 2007, vốn được giải ngân giảm còn 8,7 tỉ USD. Không thể phủ nhận FDI đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội 1991- 2000: 30%, 2001-2005: 16%. Đóng góp vào GDP của khối doanh nghiệp FDI thời kỳ 2001-2005: 14,5%; nộp ngân sách nhà nước 2001-2005 (3,5 tỷ USD). FDI tạo ra khoảng 40% giá trị sản lượng công nghiệp, góp phần quan trọng hình thành nhiều ngành kinh tế (như khai thác, lọc hóa dầu, ô tô, xe máy, điện tử, xi măng, sắt thép, thực phẩm, thức ăn gia súc...); đồng thời góp phần hình thành một số khu đô thị hiện đại như Phú Mỹ Hưng, Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4 - 5 sao, khu nghỉ dưỡng cao cấp, văn phòng cho thuê... Nhờ các dự án FDI, lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, bán buôn, bán lẻ đã tiếp nhận được phương thức kinh doanh hiện đại, công nghệ tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của các tầng lớp dân cư. b. Đầu tư gián tiếp FPI: Nước ta đã có những thành công trong thu hút nguồn vốn FDI, nhưng nguồn vốn FPI vẫn còn hạn chế. Sau khủng hoảng năm 1997, nguồn vốn FPI vào Việt Nam có xu hướng tăng, nhưng quy mô còn nhỏ và chiếm tỷ lệ thấp so với vốn FDI. Một số quỹ mới hoạt động tại Việt Nam từ năm 2001 có quy mô vốn bình quân từ 5-20 triệu USD cho một quỹ, nhỏ hơn giai đoạn (1991-1997), chiếm 1,2% vốn FDI, tăng lên 3,7% (2004), tỷ lệ này còn quá thấp so với các nước trong khu vực (tỷ lệ thu hút FPI/FDI trong khoảng 30-40%). Từ năm 2003 trở đi dòng vốn FPI vào Việt Nam hồi phục, tăng dần từng năm và tăng đột biến vào năm 2006-2007. Báo cáo của Ngân Hàng ANZ cho biết từ năm 2001- 2006 vốn FPI đạt khoảng 12 tỷ đôla Mỹ và năm 2007 đạt khoảng 5,7 tỷ đôla Mỹ. Cùng với đó các quỹ đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời kỳ này cũng có những thay đổi quan trọng. Nếu như trước đây là các quỹ đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là quỹ đầu tư mạo hiểm sẵn sàng chấp nhận rùi ro khi khung pháp lý ở Việt Nam còn chưa đầy đủ, thị trường chứng khoán chưa thành lập... thì ở giai đoạn này, các quỹ được lập ở Việt Nam đều do các nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy tiềm năng phát triển lớn của thị trường Việt Nam. Trong năm 2006 – 2007, giao dịch của khối nhà đầu tư nước ngoài chiếm tới gần 25% tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường. Việc khai thông, duy trì dòng vốn FPI là cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế, tuy nhiên đồng hành với nó là các chính sách kinh tế vĩ mô phải linh hoạt và đồng bộ nhằm đảm bảo khả năng khống chế và kiểm soát rủi ro của dòng vốn này. Đầu tư vào thị trường chứng khoán của các tập đoàn tài chính quốc tế trong thời gian qua đã không ngừng gia tăng. Đến cuối năm 2006, khoảng trên 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp được công bố thông qua các quỹ đầu tư chính thức. Theo các nhà đầu tư, lý do để họ hướng về Việt Nam là Chính phủ đã khẳng định vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của nền kinh tế, tính chuyên nghiệp hoá từng bước của môi trường đầu tư và sự thành công của những nhà đầu tư hiện hữu. Bên cạnh đó, phải kể đến những bước tiến mới trong lĩnh vực tài chính của Việt Nam bao gồm: việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ ra nước ngoài và trái phiếu tư nhân, thành lập Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC); quá trình cổ phần hoá đang diễn ra tại Việt Nam bao gồm cả ngân hàng thương mại quốc doanh; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống điện và giao thông, cải cách khung pháp lý dành cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, để có thể thu hút thêm nguồn vốn FPI tương xứng với tiềm năng của nền kinh tế và thị trường, Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là khung pháp lý, cơ chế và sách lược phát triển thị trường chứng khoán. Theo khảo sát của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy, vào năm 2001 lợi nhuận từ vốn FPI thế giới tăng gấp 2 lần vốn FDI. Trong vòng 4 năm, đầu tư gián tiếp toàn cầu đã tăng 2 lần; nước có tỷ trọng đầu tư gián tiếp lớn nhất là Mỹ chiếm 24,5%, tiếp đó là Anh chiếm 10%. Dòng vốn FPI đang trỗi dậy mạnh mẽ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 và đang chuyển hướng đầu tư sang các quốc gia đang phát triển có tiềm năng, nhằm hạn chế các rủi ro đầu tư. Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FPI) là một tiềm năng rất lớn đối với thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Với các yếu tố thuận lợi khách quan, Việt Nam hoàn toàn có khả năng khai thác tiềm năng dòng chảy vốn FPI của thế giới phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. c. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Đây là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, là hình thức tín dụng quốc tế nhằm hỗ trợ các nước cải thiện môi trường đầu tư hoặc cải thiện môi trường sống của quốc gia. Lãi suất vay ODA thường thấp, bình quân từ 2-4%/năm so với lãi vay thương mại. Nguồn vốn ODA vào Việt Nam gia tăng đáng kể ở cả 3 giác độ: cam kết, ký kết và giải ngân. Trong đó, nguồn vốn dành cho nhà đầu tư cơ sở hạ tầng chiếm 40% tổng vốn ODA đã góp phần phát triển mạnh mẽ kinh tế Việt Nam. Số vốn ODA cam kết được giải ngân dựa trên tình hình thực hiện các chương trình và dự án được ký kết giữa Chính phủ và các nhà tài trợ. Tính từ trước năm 2008 Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ đã ký các điều ước quốc tế cụ thể về ODA với tổng số vốn đạt 35,217 tỷ USD, chiếm 82,98% tổng vốn ODA cam kết trong thời kỳ này, trong đó vốn ODA vay ưu đãi chiếm khoảng 80%, vốn ODA không hoàn lại chiếm khoảng 20%. Cũng trong thời gian này thì tổng vốn ODA được giải ngân đạt 22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA ký kết. Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có những cải thiện nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm. Tuy nhiên, mức giải ngân này vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới và khu vực đối với một số nhà tài trợ cụ thể. Việt Nam nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về chính trị của cộng đồng tài trợ quốc tế, việc giải ngân nguồn vốn này nhằm tạo ra các công trình, sản phẩm kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá trình phát triển của đất nước mới là quan trọng. Trong các ngành và lĩnh vực ưu tiên vốn ODA, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kết hợp xóa đói giảm nghèo có các chương trình và dự án ODA ký kết trước năm 2008 đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD, đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện 1 bước quan trọng đời sống dân nhân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận với các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục. Năng lượng và Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự án đã ký trong thời gian qua đạt trên 7,6 tỷ USD nhằm cải tạo, nâng cấp, phát triển mới nhiều nhà máy nhiệt điện và thủy điện với công suất lớn, cải tạo và phát triển mạng truyền tải và phân phối điện quốc gia đáp ứng nhu cầu điện gia tăng hàng năm cho sản xuất và đời sống ở các thành phố, thị trấn, thị xã, khu công nghiệp và khu vực nông thôn trên cả nước. Giao thông Vận tải và Bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn nhất với tổng giá trị hiệp định ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ trước năm 2008. Nhờ nguồn vốn này, Việt Nam đã khôi phục và bước đầu phát triển các hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển và đường thủy nội địa. Đây là những cơ sở hạ tầng kinh tế hết sức quan trọng để thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực và địa phương, kể cả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật là những lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua với các chương trình, dự án đã ký đạt tổng số vốn khoảng 4,3 tỷ USD. Như vậy, ODA đã giúp đất nước ta có được nguồn vốn ưu đãi trong quá trình phát triển kinh tế, tiếp thu những thành tựu khoa học– công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cũng góp phần quan trọng tăng khả năng thu hút vốn FDI, tạo điều kiện mở rộng đầu tư phát triển trong nước. 3. Đầu tư quốc tế tại Việt Nam trong và sau khủng hoảng: a. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng:  Nguyên nhân trực tiếp:  Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sụp đỗ hàng loạt theo dây chuyền của các tổ chức tài chính hàng đầu.  Khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế.  Nguyên nhân sâu xa:  Sự phát triển bong bóng của thị trường tín dụng bất động sản và chứng khoán hóa thái quá của các chứng khoán tín dụng bất động sản cộng với chủ nghĩa tự do trong điều hành kinh tế. Khủng hoảng tài chính Mỹ và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động đến đầu tư quốc tế trên những khía cạnh chính sau: các nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh chuyển lợi nhuận về nước; vốn tài trợ của công ty mẹ ở bản quốc cho các công ty con ở nước nhận đầu tư giảm sút nghiêm trọng. Các nước phát triển thay vì đầu tư ra nước ngoài, đã quay lại để ngăn chặn suy giảm kinh tế trong nước, tạo ra làn sóng bảo hộ nền kinh tế trong nước nhằm ứng phó với khủng hoảng trong ngắn hạn. Điều này gây bất lợi cho thu hút đầu tư quốc tế. Kể từ thời kỳ này nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam đã có những biến động lớn. Thực trạng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn 2008– 2012 như sau: b. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI): Bước vào năm 2008, những diễn biến không thuận lợi của tình hình kinh tế thế giới và những khó khăn trong nội tại nền kinh tế đã có những tác động tiêu cực đến khả năng phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn thu hút được lượng lớn nguồn vốn FDI. Tổng số dự án FDI được cấp mới vào Việt Nam cả năm 2008 là 1.171 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 60,217 tỷ USD, tăng 222% so với năm 2007. Số dự án tăng vốn cũng rất lớn với 311 dự án đăng ký tăng thêm 3,74 tỷ USD. Tính chung cả vốn đăng ký cấp mới và vốn đăng ký tăng thêm, tổng số vốn FDI năm 2008 đạt 64,011 tỷ USD, tăng gấp gần 3 lần so với năm 2007. Con số kỷ lục thu hút nguồn vốn FDI năm nay không phải tự nhiên có, mà đã bắt nguồn từ 3 năm trước, khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường kinh doanh của Việt Nam. Vốn giải ngân trong năm 2008 của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam cũng đạt mức kỷ lục với con số 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Trong năm 2008, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng- bất động sản, có 572 dự án với tổng vốn đăng ký 32,62 tỷ USD; lĩnh vực dịch vụ có 554 dự án với tổng vốn đăng ký 27,4 tỷ USD. Số còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm- ngư nghiệp. Đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư tại Việt Nam, trong đó có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư vốn trên 1 tỷ USD. Malaysia đứng đầu với 55 dự án, vốn đăng ký 14,9 tỷ USD. Đài Loan đứng thứ hai với 132 dự án, vốn đầu tư 8,64 tỷ USD. Nhật Bản đứng thứ ba với 105 dự án, vốn đầu tư 7,28 tỷ USD. Singapore đứng thứ tư với 101 dự án, vốn đầu tư đăng ký 4,46 tỷ USD. Trừ 8 dự án thăm dò, khai thác dầu khí (chiếm 17,5% tổng vốn đăng ký), tỉnh Ninh Thuận đứng đầu về số vốn đăng ký do có dự án liên doanh sản xuất thép giữa tập đoàn Lion Malaysia với Vinashin tổng vốn đăng ký 9,79 tỷ USD, Bà Rịa -Vũng Tàu đứng thứ hai với 4 dự án, tổng vốn đăng ký 9,35 tỷ USD. Đáng chú ý là quy mô dự án đã tăng lên, bình quân 51,47 triệu USD/dự án, cao hơn rất nhiều so với thời gian trước Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã gây nên những tác động sau đây đối với việc huy động và phân bổ các nguồn FDI vào Việt Nam: Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh, nhưng đã tăng lên đáng kể bắt đầu từ quý II/2009 và có chiều hướng tiếp tục gia tăng cùng với xu thế phục hồi của nền kinh tế giới, nhất là sau sự tăng trưởng ngoạn mục của nền kinh tế Hoa Kỳ với GDP tăng 3,5% và kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 8,9% vào quý III/2009. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 9 tháng năm 2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 12,541 tỷ USD, bằng 21,4% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, vốn cấp mới có 583 dự án với tổng số vốn đăng ký là 7,67 tỷ USD. Rõ ràng, con số này tuy chỉ đạt 14,3% so với cùng kỳ năm 2008, nhưng lại là con số hết sức khả quan trong bối cảnh khủng hoảng. Đặc biệt, từ đầu năm 2009, hầu như không ai dám nghĩ đến sự tăng vốn bổ sung của các dự án đang hoạt động thì trong vòng 9 tháng, số dự án đăng ký tăng vốn bổ sung đã lên tới con số 168 với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 4,86 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2008. Giai đoạn từ năm 2009 – 2012 do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu năm 2008 mà lượng vốn FDI vào Việt Nam đã đi theo chiều hướng suy giảm. Số liệu cụ thể như sau. Bảng1: Đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam giai đoạn 2008 – 2011 Năm Vốn đăng ký Vốn thực hiện Giá trị (triệu USD) Tỷ lệ tăng so với 2008 (%) Giá trị (triệu USD) Tỷ lệ tăng so với 2008 (%) 2008 71.726 - 11.500 - 2009 23.107 -67,78 10.000 -13.04 1010 19.764 -72.45 11.000 -4,35 2011 14.696 -79,51 11.000 -4,35 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nhìn từ bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy một điều rất rõ ràng là nguồn vốn FDI đăng ký vào Việt Nam từ sau năm 2008 đã suy giảm rất đáng kể, với năm 2011 giảm mạnh nhất là gần 80% so với năm 2008. Còn nguồn vốn FDI thực hiện cũng đi theo chiều hướng giảm nhưng với mức độ ít hơn, giảm mạnh nhất với hơn 14% vào năm 2009, năm 2010 và 2011 mức độ giảm nhẹ hơn là -4,35% so với năm 2008. Năm 2009, kinh tế Việt Nam đã chứng minh thực lực một cách ngoạn mục trước khủng hoảng tài chính thế giới. Những con số thống kê về tình hình kinh tế Việt Nam quý I/2010 đã cho thấy: Sản xuất công nghiệp tăng 13%, bán lẻ tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái… Số vốn giải ngân FDI của Việt Nam vốn đã quá nhỏ so với tổng vốn FDI đăng ký sẽ tiếp tục giảm hơn so với năm 2008. Một mặt, hiện tượng này phản ánh khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế Việt Nam chưa cao. Mặt khác, những dự án đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hầu hết đều dựa vào nguồn vốn vay ngân hàng ở nước sở tại nên khi các thể chế tài chính này gặp khó khăn, nguồn cho vay sẽ hạn chế và các nhà đầu tư sẽ khó có thể thực hiện các dự án đầu tư như đã cam kết. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã phải yêu cầu được giãn, hoãn tiến độ, thậm chí bỏ dở dự án đang đầu tư và chấp nhận thua lỗ. Do có “độ trễ” trong đầu tư và các dự án thực hiện trong năm 2009 đều là kết quả chuẩn bị từ nhiều năm trước, nên mức độ giải ngân FDI ở Việt Nam trong năm không có gì là bi quan. Theo nhiều tính toán, các dự án FDI hiện đã giải ngân được trên 7 tỷ USD, bằng 88,9% so với cùng kỳ năm 2008 và hoàn toàn có thể đạt được mục tiêu giải ngân 10 tỷ USD đã đề ra cho cả năm 2009. Điều này cho thấy, trong bối cảnh ảm đảm của nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam tuy chỉ đạt được mức FDI thấp xa so với năm 2008, nhưng vẫn là điểm sáng của khu vực và xét về lâu dài Việt Nam vẫn là địa chỉ có sức hấp dẫn tương đối mạnh đối với các nhà đầu tư trên thế giới. Hiện tượng thu hẹp và giảm vốn của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là rõ ràng, song với các dấu hiệu tích cực hiện nay hoàn toàn có thể khẳng định, ở Việt Nam không hề có việc các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn ồ ạt với quy mô lớn. Thứ hai, hiệu ứng tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu rất khác nhau lên cơ cấu đầu tư. Từ năm 2008 trở về trước, tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng chiếm tới 55,1% tổng số vốn đăng ký thì nay do khó khăn về thị trường đầu ra cho các sản phẩm chế biến, chế tạo, khu vực này không còn giành được vị trí ưu tiên hàng đầu. Trái lại, dịch vụ lưu trú và ăn uống trở thành lĩnh vực thu hút sự quan tâm nhiều nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với trên 4,57 tỷ USD (cả vốn cấp mới và tăng thêm) và cùng với lĩnh vực kinh doanh bất động sản vượt lên đứng vị trí thứ 2 với tổng số 3,65 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm, chiếm tới khoảng 80% tổng số vốn đăng ký được dự kiến của cả năm 2009. Đây có thể là hiện tượng bất hợp lý, thể hiện tính tăng trưởng chưa bền vững của nền kinh tế, đặc biệt đã phản ánh tính thiếu đột phá trong lĩnh vực đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ dựa trên công nghệ và tri thức mà Việt Nam đang cần tập trung ưu tiên trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ ba, nếu như trong năm 2008, có 43 địa phương trong cả nước có thu hút FDI, trong đó các địa phương thuộc khu vực miền Trung đã đạt được các kết quả thu hút FDI đáng khích lệ với sự góp mặt của một số dự án có quy mô đầu tư lên tới hàng tỷ USD thì đến tháng 9/2009 chỉ có 15 địa phương có dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép. Trừ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai là 4 địa phương thuộc khu kinh tế trọng điểm phía Nam, chiếm khoảng 80% trong tổng số 7,6 tỷ USD, các địa phương còn lại thu hút FDI gần như không đáng kể. Điều đó chứng tỏ đã có sự chuyển hướng trong chính sách đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia - tập trung vào những khu vực có điều kiện hạ tầng tốt, giải phóng mặt bằng nhanh, thủ tục hành chính đơn giản và không nhiều rủi ro đối với hiệu quả hoạt động kinh doanh của họ. Điều này hoàn toàn hợp lý khi trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang lâm vào suy thoái, các nhà đầu tư sẽ phải lựa chọn kỹ hơn địa điểm đầu tư cũng như môi trường đầu tư, để sử dụng vốn của họ tốt nhất. Và điều đó cũng có nghĩa là, chính sách thu hút FDI của Việt Nam sẽ không gắn kết được với chính sách dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo các mục tiêu và định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến hết tháng 11/2012, cả nước có 14.198 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký là hơn 208,1 tỷ USD. Còn trong năm 2012, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đặt mục tiêu vừa phải là thu hút lượng vốn FDI vào khoảng từ 15 – 17 tỷ USD, nhưng tính đến hết tháng 11/2012, nước ta mới thu hút được 12,181 tỷ USD, giảm 21,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài 12 tháng năm 2012 đã giải ngân được 10,46 tỷ USD, bằng 95,1% so với cùng kỳ năm 2011. Như vậy có thể nói việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn và thử thách. Tóm lại, dù có những sự giảm sút về tổng số dự án và tổng mức vốn cam kết đầu tư mới và đầu tư bổ sung, có những chuyển hướng đầu tư vào những ngành dễ sinh lời, ít rủi ro và vào những khu vực mà điều kiện đảm bảo cho sự thành công của các dự án cao nhất dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, cũng phải thừa nhận rằng, Việt Nam vẫn là điểm sáng của khu vực và thế giới về thu hút FDI. Sự giảm sút FDI là rõ ràng và tất yếu trong ngắn hạn nhưng trong dài hạn và xét trên chiều hướng phát triển, ở Việt Nam không hề có làn sóng rút vốn của các nhà đầu tư và trong những năm tiếp theo, Việt Nam được dự báo vẫn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư quốc tế. Có được những thành quả này, ngoài việc Việt Nam có môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện và được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; có môi trường chính trị - xã hội ổn định; có quy mô thị trường trong nước lớn và năng động; có tiến trình hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới…, còn là nhờ các nỗ lực ứng phó chính sách một cách có hiệu quả của Việt Nam đối với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Hình 1: FDI vào Việt Nam giai đoạn 1988 – 2009 Nguồn: MPI Chú thích: Số liệu của năm 2009 là của 9 tháng Bảng 2: FDI vào Việt Nam 9 tháng đầu năm 2009 TT Ngành Số dự án cấp mới Vốn đăng ký cấp mới (triệu USD) Vốn đăng ký tăng thêm (triệu USD) Vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm (triệu USD) 1 Dịch vụ ăn uống và ăn uống 22 758.1 3,311.3 4,569.3 2 Công nghiệp chế biến, chế tạo 164 1,929.1 608.1 2,537.2 3 Kinh doanh bất động sản 31 3,471.5 186.1 3,657.6 4 Xây dựng 53 351.9 98.7 450.6 5 Khai khoáng 4 395.8 395.8 6 Nghệ thuật và giải trí 8 289.7 289.7 7 Bán buôn, bán lẻ; sửa chữa 74 108.2 44.0 152.2 8 Thông tin và truyền thông 44 63.9 24.2 88.1 9 Nông, lâm nghiệp; thủy sản 13 48.7 21.4 70.1 10 Sản xuất, phân phối điện, khí, nước, điều hòa 5 41.1 27.9 69.1 11 Hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ 116 75.9 10.9 86.8 12 Dịch vụ khác 15 12.2 2.9 15.1 13 Vận tải kho bãi 18 108.0 7.5 115.5 14 Cấp nước; xử lý chất thải 4 8.1 8.1 15 Giáo dục và Đào tạo 5 4.9 23.7 28.6 16 Y tế và trợ giúp xã hội 3 3.2 0.9 4.1 17 Hành chính và dịch vụ hỗ trợ 3 3.1 3.1 18 Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 1 0.0 0.0 Tổng số 583 7,673.4 4,867.6 12,541.0 c. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FPI): Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần hoá nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập WTO. Cổ phần hoá phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK)). Các mối quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng tốt đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Vì vậy, việc tham gia của các nhà đầu tư FPI sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những giao động “phi thị trường”, góp phần vào giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…). Cùng với sự suy giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài FPI (bao gồm vốn đầu tư vào các chứng khoán cổ phần và chứng khoán nợ ) cũng bị giảm từ 8,6% GDP năm 2007 xuống còn 2,0% GDP năm 2009. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu làm cho các nhà đầu tư lo ngại trước những bất ổn của thị trường và bán chứng khoán để nắm giữ những tài khoản ít rủi ro hơn khiến dòng vốn đầu tư gián tiếp sụt giảm nghiêm trọng, trong đó đầu tư gián tiếp vào các nước đang phát triển châu Á giảm mạnh nhất, khoảng 68,1 tỉ đôla, tiếp đến là vào các nước đang phát triển, giảm 55 tỉ đôla do thị trường chứng khoán của các nước này còn quá non trẻ (so với thị trường chứng khoán đã tồn tại hàng trăm năm của các nước phát triển khác) và thường chỉ có sức thu hút mạnh các dòng vốn đầu tư ngắn hạn. Vốn đầu tư gián tiếp rút ra khỏi Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2009 lên tới 500 triệu USD và đạt khoảng 600 triệu USD năm 2009 (tương đương với dòng vốn rút ra của năm 2008). Mặc dù chứng khoán Việt Nam giảm nhưng Việt Nam vẫn là một trong số ít nền kinh tế mởi nổi nhận được dòng vốn đầu tư ròng vào danh mục đầu tư chứng khoán năm 2009. Theo đánh giá các chỉ số chứng khoán chính trên thế giới của trang web (www.indexq.org), chỉ số chứng khoản của Việt Nam tăng 34,67% và nằm trong nhóm những chỉ số tăng mạnh nhất trên thế giới trong 6 tháng đầu năm 2009. Ở châu Á, Việt Nam thua Inđônêsia (36,97%); Ấn Độ (41,86%); Trung Quốc (42,17%). Ở Châu Âu, Việt Nam thua Nga (57,93%). Ở châu Mỹ, Việt Nam thua Brazil (35,33%); Argentina (44,71%); Peru (76,5%). Nếu xét theo chu kỳ sóng tăng kể từ thời điểm chạm đáy (tháng 2/2009), chỉ số chứng khoán Việt Nam thuộc nhóm dẫn đầu thế giới với mức tăng 80,48%. Đặc biệt, các nhà đầu tư Mỹ rất quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Việc cởi mở ngành dịch vụ Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của các nhà đầu tư Mỹ. Gần 50% vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam là của các nhà đầu tư Mỹ. Sở dĩ các nhà đầu tư Mỹ tăng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam là do: Nhờ có sự tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững của nền kinh tế Việt Nam và sự cải thiện trong môi trường pháp luật, thương mại. Tuy nhiên, việc ban hành Luật Chứng khoán mới là lý do chính của sự gia tăng đầu tư gián tiếp của Mỹ vào Việt Nam; vị thế chính trị ngày càng cao của Việt Nam trên thị trường thế giới và quá trình cổ phần hóa mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước cũng là nguyên nhân thúc đẩy luồng vốn đầu tư gián tiếp của Mỹ vào Việt Nam, làm cho các nhà đầu tư yên tâm khi bỏ vốn vào thị trường này. Theo báo cáo của Ngân hàng ANZ, năm 2007 dòng vốn FPI vào Việt Nam đạt khoảng 5,7 tỷ USD. Năm 2008 và đầu năm 2009, trước những khó khăn của nền kinh tế, dòng vốn FPI có dấu hiệu chững lại và một phần đã được rút ra. Từ cuối quý II/2009, có sự đảo chiều và quay trở lại của vốn FPI, nhưng không thật sự mạnh như mong đợi. Trong năm 2010, nguồn vốn FPI vào Việt Nam đạt 1,7 tỷ USD, năm 2011 đạt mức 1 tỷ USD. Có lẽ 2011 là năm thất vọng nhất đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) chảy vào Việt Nam kể từ khi chúng ta trở thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chứng khoán và bất động sản liên tục đi xuống, chưa thấy điểm dừng. Thị trường vay nợ bên ngoài gần như đóng băng do sự rắc rối từ khoản nợ của Vinashi. Theo thống kê của ngân hàng HSBC, quý I/2012, có khoảng 500 triệu USD chảy vào TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, sang quý II, thị trường lại có những biến chuyển khác. Chỉ tính riêng trên sàn chứng khoán TP. Hồ Chí Minh từ đầu năm đến cuối năm 2012, dòng vốn FPI đã âm hơn 4,9 triệu USD, trong khi đó, quý I/2012 khối này đã mua ròng gần 43 triệu USD. Sự suy giảm của dòng vốn FPI cũng chính là lý do TTCK càng ngày càng ảm đạm trong những tháng qua. d. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ cho Việt Nam ngày càng nhiều, kể cả vốn vay lãi suất thấp và viện trợ không hoàn lại. Đây là nguồn ngoại lực quý giá, góp phần quan trọng giúp chúng ta đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, trường học, các cơ sở khám, chữa bệnh cho nhân dân. Đặc biệt, nguồn vốn này đã hỗ trợ rất tích cực cho các địa phương thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các Hiệp định với các nhà tài trợ năm 2008 đạt 5 tỷ USD, năm 2009 tăng lên 5,9 tỷ USD. Bước sang năm 2010, mức cam kết nguồn vốn ODA vào Việt Nam tăng kỷ lục, đạt mức cao nhất từ trước tới nay với hơn 8 tỷ USD, tăng 3 tỷ USD so với năm 2008. Trong đó, Ngân hàng Thế giới (WB) trở thành nhà tài trợ lớn nhất với khoản cam kết gần 2,5 tỷ USD, tiếp đến là Nhật Bản (hơn 1,6 tỷ USD) và thứ ba là Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) với hơn 1,4 tỷ USD. Từ sau năm 2010 mức cam kết hỗ trợ nguồn vốn ODA bắt đầu suy giảm nhưng vẫn đạt ở mức cao. Cụ thể năm 2011, mức cam kết là 7,9 tỷ USD, chủ yếu dành cho cơ sở hạ tầng, công trình giao thông và biến đổi khí hậu. Đây là lần đầu tiên trong những năm gần đây vốn ODA cam kết sụt giảm. Trong con số này, 3,3 tỷ USD đến từ các nhà tài trợ song phương, riêng Nhật Bản cam kết 1,76 tỷ USD. Đối tác đa phương cam kết 4,6 tỷ USD. Đến năm 2012, mức cam kết viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam ước đạt gần 7,4 tỷ USD. Nguồn vốn này sẽ giúp Việt Nam bổ sung cùng các nguồn lực trong nước tiếp tục công cuộc phát triển kinh tế bền vững trong giai đoạn tới, tập trung vào tái cơ cấu đầu tư công, cải cách doanh nghiệp nhà nước và khu vực tài chính - ngân hàng cũng như xóa đói giảm nghèo IV. Nhận xét và giải pháp: Có thể nói đầu tư quốc tế có vai trò hết sức quan trọng đối với các nước trên thế giới không riêng gì Việt Nam. Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến sự tăng trưởng kinh tế của một đất nước, lá nguồn bổ sung lớn cho nguồn vốn trong nước góp phần bôi trơn các hoạt động kinh tế, thông thoáng môi trường đầu tư và thêm nhiều ý nghĩa quan trọng khác. Từ đó giúp nước ta phát triển nhanh chóng và vượt bậc, sớm bắt kịp với nền kinh tế thế giới. Không thể phủ nhận những tác động tích cực mà đầu tư quốc tế mang lại cho nước ta trong những năm qua, nhưng một khi nền kinh tế nước ta đã có những mối liên hệ mật thiết với kinh tế thế giới thì không thể tránh khỏi những tác động nếu có biến động gì xảy ra. Và cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ năm 2008 đã nói lên điều đó. Qua phân tích ta thấy tác động trực tiếp không lớn nhưng tác động gián tiếp lại khá mạnh. Nguồn tín dụng dần trở nên cạn kiệt của thế giới làm cho chi phí vốn đắt đỏ hơn cùng với việc thị trường xuất khẩu có khả năng bị thu hẹp nên hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư nên khi các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều hợp đồng vay vốn không được ký kết hoặc không thể giải ngân, điều này đã làm cho dòng vốn chảy vào nước ta suy giảm mạnh gây khó khăn cho nền kinh tế trong một thời gian dài. Một khi các dòng vốn từ bên ngoài suy giảm sẽ gây nhiều bất lợi, khó có thêm những cơ hội đầu tư mới nếu chúng ta không có biện pháp khắc phục kịp thời. Mặc dù, Việt Nam được dự báo vẫn là điểm sáng của khu vực về thu hút vốn đầu tư nước ngoài sau khủng hoảng nhưng cũng không được vì thế mà chủ quan. Sau khủng hoảng, các nhà đầu tư nước ngoài đã ít nhiều có những suy nghĩ thận trọng hơn khi quyết định bỏ tiền ra đầu tư, chủ yếu hướng đến những kênh đầu tư an toàn, ít rủi ro và có tính sinh lời cao cho nên trong thời gian tới nước ta cần hết sức nỗ lực hơn nữa, tạo môi trường đầu tư thuận lợi hơn và cố gắng khai thác, tận dụng những tiềm năng, lợi thế sẵn có cũng như linh hoạt trong việc nắm bắt các cơ hội đầu tư mới để không bỏ qua một bất kì một dự án đầu tư quốc tế nào. Từ cuộc khủng hoảng đó đã mang lại cho nước ta nhiều bài học kinh nghiệm quý giá. Đoàn kết để làm nên sức mạnh, các doanh nghiệp cần liên kết kinh doanh, tận dụng cơ hội khai thác thị trường mới ngay trong thời kỳ khủng hoảng toàn cầu, cùng kết hợp với nhau vượt qua thời điểm khó khăn, cùng có tiếng nói chung với đối tác quốc tế, tránh tranh mua, dành bán trong nước làm thiệt hại cho các doanh nghiệp. Đồng thời phải có kế hoạch, chiến lược và hướng đi, liên kết tạo thành sức mạnh trong lợi thế so sánh. Tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành nghề trong việc đa dạng hóa các hình thức liên kết. Thiết lập các quỹ hỗ trợ tài chính, quỹ nghiên cứu khoa học nhằm thực hiện các dự án nghiên cứu chung của các doanh nghiệp, tăng cường hợp tác thay vì cạnh tranh chia sẻ thị trường. Trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn có những cơ hội nếu chúng ta biết nắm bắt, các doanh nghiệp phải cùng nhau khai thác thế mạnh của mình trên các thị trường Mỹ, EU, Nhật,…nhanh chân mở rộng, tìm kiếm thị trường mới như : Trung đông, Ai cập… Đồng thời kết hợp với việc thực hiện hiệu quả các giải pháp sau: Thực hiện đồng bộ các giải pháp thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực giảm nghèo nhanh và bền vững. Xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút các dự án đầu tư hình thành mạng lưới liên kết sản xuất, kinh doanh, các ngành công nghiệp hỗ trợ để hình thành chuỗi giá trị. Có chính sách ưu đãi tốt đối với các công ty đa quốc gia để liên kết với các doanh nghiệp trong nước về tiêu thụ, cung ứng sản phẩm, hình thành các cụm công nghiệp - dịch vụ. Trong thời gian tới cần thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành cần tăng tỷ trọng đầu tư nước ngoài như đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông, nông nghiệp và nông thôn, điện, nước, tài chính, tín dụng, giáo dục, y tế,…các ngành sản xuất có yếu tố hàm lượng công nghệ cao, đào tạo lao động và chuyển giao công nghệ, kỹ năng, hoạt động R&D. Hỗ trợ các hoạt động đầu tư có hiệu quả, giảm thiểu những mặt hạn chế, tiêu cực như nhập khẩu nhiều nhưng không chú trọng sản xuất mà chỉ tập trung vào gia công, lắp ráp và khai thác thị trường nội địa là chủ yếu; lợi dụng kẽ hở về chính sách, pháp luật của Việt Nam để thực hiện hành vi chuyển giá, kê khai lỗ hoặc lợi nhuận thấp để chuyển lợi nhuận về nước, không có đóng góp hoặc đóng góp rất thấp nguồn ngân sách nhà nước của Việt Nam. Không tiếp nhận hoặc hạn chế tối đa những dự án đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ thấp, có khả năng tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, sinh thái. Bên cạnh đó, Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp quy nhằm điều chỉnh và quản lý thống nhất hoạt động xúc tiến đầu tư trên cả nước; xây dựng Chiến lược xúc tiến đầu tư điều phối tổng thể các hoạt động xúc tiến ở bình diện quốc gia; xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần có sự kết hợp chặt chẽ chính sách đầu tư với các chính sách điều chỉnh ngành khác, bao gồm chính sách đầu tư chung, chính sách khu công nghiệp theo hướng hình thành cụm công nghiệp có tính chuyên môn hóa và chính sách phát triển kinh tế vùng. Các chính sách này cần xây dựng trên nguyên tắc tiếp cận tổng thể quốc gia để tạo tín hiệu chung dẫn dắt FDI tới ngành, vùng cần khuyến khích phát triển; hạn chế các địa phương thu hút các ngành nghề như nhau, thiếu sự phối hợp và bổ sung cho nhau giữa các ngành dẫn đến tình trạng phát triển tràn lan mà vẫn thiên lệch, thiếu chuyên môn hóa. Nhà nước phải luôn theo dõi và đưa ra những định hướng hỗ trợ cho các Doanh nghiệp: Đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu, quan tâm hơn các kênh phân phối tại nước nhập khẩu, tổ chức hội chợ, quảng bá thương hiệu, quảng bá hình ảnh của các doanh nghiệp Việt Nam. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn mở các văn phòng đại diện ở những thị trường lớn và tốt nhằm dễ nắm thông tin, theo dõi tình hình thị trường. Chính phủ phải điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ tiếp cận nguồn vốn, Nhà nước phải quản lý chặt việc giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do nhằm hạn chế sự đầu cơ ngoại tệ và gây sức ép tỷ giá, tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào nước ta. Thông thoáng môi trường đầu tư là điều nên làm, kêu gọi doanh nghiệp trong nước, doanh nhân nước ngoài thành lập doanh nghiệp và hoạt động phải tốt hơn các doanh nghiệp đầu tư trước đó, nhằm thu hút vốn đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Muốn vậy, chính sách vĩ mô phải tạo thuận lợi cho nhà đầu tư, chính sách địa phương cũng thông thoáng từ khâu thủ tục ban đầu, hệ thống cơ sở hạ tầng phải được đầu tư nâng cấp và sửa chữa hoàn thiện. Địa phương phải tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao trước khi kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực mà địa phương có thế mạnh, có chính sách hấp dẫn khuyến khích các nhà đầu tư. Một thực tế đáng quan tâm đó là mặc dù nước ta đã có những dự báo nhưng vẫn không tránh khỏi sự ảnh hưởng sâu rộng cho nền kinh tế, chứng tỏ sức đề kháng nền kinh tế nước ta còn yếu chưa đủ sức để ngăn chặn. Trong thời gian đến chúng ta phải tăng cường kiểm tra quản lý các hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính nhằm ngăn chặn trước các trạng thái bất ổn có thể xảy ra, đảm bảo ổn định hệ thống chính trị và tận dụng những tiềm năng sẵn có để Việt Nam luôn là một nơi đáng tin cậy,thu hút nhiều nhà đầu tư quốc tế.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftcqt_6815.pdf
Luận văn liên quan