Lời mở đầu:
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đang lan rộng như hiện nay, sự ảnh
hưởng của môi trường toàn cầu là không thể tránh khỏi. Những tác động của
môi trường ngày càng mạnh mẽ đến hoạt động kinh tế của mỗi quốc gia nói
chung cũng như đối với từng doanh nghiệp nói riêng . Chúng ta đã và đang
chứng kiến sự kiện suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu xảy ra từ cuộc khủng
hoảng tiền tệ và nhà đất tại Mỹ năm 2008, sau đó là các quốc gia ở khu vực
Châu Âu , Tây Âu và sau đó lan rộng ra cả những nước châu Á. Những bằng
chứng về sự tác động của môi trường toàn cầu càng rõ nét hơn khi chúng ta
chứng kiến các chỉ số chứng khoán Việt Nam bị tác động trực tiếp từ các biến
động của thị trường chứng khoán của các nền kinh tế hàng đầu như Mỹ, Nhật,
Trung Quốc, rồi những tác động do những biến động về giá trị của các đồng
ngoại tệ mạnh như: USD, Euro, Bảng Anh. Trong suốt thời kì khủng khoảng
kinh tế đó,Việt Nam đã chịu không ít ảnh hưởng về mọi mặt: kinh tế, an ninh,
xã hội,
Nhà nước, cơ quan, bộ, ban ngành, và hơn nữa là từng người dân Việt Nam phải
đối mặt với những khó khăn trong và sau thời kì khủng hoảng kinh tế. Các
chính sách kinh tế vĩ mô trở nên khó kiểm soát, tình hình kinh tế biến động
mạnh, lạm phát gia tăng, cuộc sống trở nên khó khăn hơn, Đòi hỏi nhà nước
phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những hậu quả của suy
giảm kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn đinh kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội. Những
biện pháp đó được thực hiện đồng bộ qua các chính sách tiền tệ, chính sách tài
khóa, của ngân hàng nhà nước, của chính phủ. Mỗi biện pháp, mỗi mục tiêu
đề ra được thực hiện bởi chính sách khác khau.
Những tín hiệu khả quan gần đây cho thẩy nền kinh tế Việt Nam đang có những
bước phục hồi đáng kể. Chính sách tiền tệ đóng góp lớn trong sự phục hồi này.
Sau thời kì khủng hoảng kinh tế,chính sách tiền tệ ở việt nam đã và đang được
thực hiện như thế nào,cần làm những gì để phục hồi và phát triển nền kinh tế,
đó là câu hỏi lớn đặt ra cho chính phủ, nhà nước, và mỗi người dân Việt Nam.
Chương 1 : Khủng hoảng kinh tế 2008 và khủng hoảng tài chính 2007-2009
I. hủng hoảng kinh tế năm 2008
Tình hình chung
Cuộc khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế của một số nước,
từ những nước phát triển đến các nước đang phát triển. Sản xuất bị đình trệ, tiêu
dùng giảm sút do người dân “thắt lưng buộc bụng” đã làm phá sản hàng loạt tập
đoàn lớn cũng như những công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhiều tổ chức tài
chính của các nước phát triển, nhất là các nước ở châu Âu đã tham gia vào thị
trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa ỳ. Chính vì vậy, “bong bóng” nhà ở của
Hoa ỳ bị vỡ cũng làm cho các tổ chức tài chính này gặp nguy cơ như các tổ
chức tài chính của Hoa ỳ.
Hầu hết các khu vực trên thế giới đều bị tác động mạnh và rơi vào tình trạng suy
thoái toàn cầu trong năm 2009. Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái, Nhật Bản, Tây
Âu tăng trưởng âm, các nước công nghiệp rơi vào tình trạng của Nhật Bản
những năm 90 đó là lãi suất 0% và giá cả giảm xuống không có tăng trưởng.
Các nền kinh tế có mức tăng trưởng âm đứng đầu là Anh (-1,3%), Đức (-0,8%),
Mỹ và Tây Ban Nha (-0,7%), một số nước như Nga cũng chỉ tăng trưởng
khoảng 3,5%, Trung Quốc khoảng 8,5%.
II.Khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2009
27 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4281 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động chính sách tài chính tiền tệ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam sau thời kì khủng hoảng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007
khi đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng
tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như
Lehman Brothers sụp đổ
II.Hậu quả
1.Đối với Mỹ
Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu
đời bị phá sản đã đẩy kinh tế Hoa ỳ vào tình trạng đói tín dụng. Đến lượt nó,
tình trạng đói tín dụng lại ảnh hưởng đến khu vực sản xuất khiến doanh nghiệp
phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt giảm các hợp đồng nhập đầu vào.
Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tới tiêu dùng
của các hộ gia đình lại làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Nhiều
doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản
xuất ô tô hàng đầu của Hoa ỳ là General Motors, Ford Motor và Chrysler
LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội Hoa ỳ
cứu trợ, nhưng không thành công. Hôm 12 tháng 12 năm 2008, GM đã phải
tuyên bố tạm thời đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng
giảm, hàng hóa ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục,
đẩy kinh tế Hoa ỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.
Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá. Do dollar Mỹ là phương tiện
thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên các nhà đầu tư toàn cầu đã mua
dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều
này làm cho xuất khẩu của Hoa ỳ bị thiệt hại
2.Đối với thế giới
Hoa ỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế
suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo hướng
xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài Loan,
Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng
trưởng chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa ỳ chịu tác động nghiêm
trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản đến
mức trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các nền
kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, và Anh, Pháp, Tây Ban
Nha cùng đều giảm tăng trưởng. hu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc
suy thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa ỳ, nên
cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và khi
giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.
inh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho
sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các
nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra
đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng
cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng
hoảng giá lương thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp
phải đợt mất giá chứng khoán nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục
đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc
Thụy Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác,
gây khó khăn cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ
ở một số nước buộc họ phải xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi
vào khủng hoảng tiền tệ khi won liên tục mất giá từ đầu năm 2008
Chương 2 : Tình hình chung về thị trường tiền tệ của Việt Nam hiện nay
I. ết quả tích cực:
hông thể phủ nhận những mảng sáng của thị trường tài chính năm 2010. Một
cách chung nhất, đó là: Chủ động, linh hoạt, vật lộn và nhìn rõ ra nhiều góc
khuất… nên đã cơ bản thoát khỏi nhiều nguy cơ tái khủng hoảng tài chính, bùng
nổ lạm phát quá lớn và chặn được đà suy giảm kinh tế. Cụ thể về một số thành
công cần ghi nhận là:
- Trong bối cảnh gần như cả thế giới, kể cả những nền kinh tế phát triển tiếp tục
lâm vào tình trạng khủng hoảng nợ và chưa khắc phục xong cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu xuất phát từ Mỹ năm 2008, thì nền kinh
tế Việt Nam vẫn kiểm soát được hầu hết các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nói chung và
thị trường tài chính nói riêng ở mức chấp nhận được. Tốc độ tăng tín dụng tổng
quát xung quanh 25%, đạt mức kỳ vọng; Chỉ số chứng khoán không mất điểm
như các thách thức từng đe dọa từ đầu năm, VNINDEX vẫn giữ ở mức xung
quanh 500 điểm; Thị trường bất động sản khá ổn định ở mức không bị trồi, sụt
quá lớn; Vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 17,2 tỉ USD, vốn giải
ngân tăng 10% so với 2009 và “chạm” mức kỷ lục đã xác lập 11,5 tỉ USD năm
2008; Xuất khẩu xác lập con số kỷ lục 71,6 tỉ USD; Nhập siêu chỉ còn 17,3%
tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu; Tăng trưởng GDP khá, ở mức 6,78%. Việt
Nam vẫn đứng trong số các nước tăng trưởng khá trong khu vực châu Á – vùng
kinh tế đầu tầu của thế giới;
- Hầu hết các chỉ số tăng trưởng của cả 3 ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ đều tăng khá so với năm 2009 (lần lượt công nghiệp: 7,7%/5,57%; nông
nghiệp: 2,78%/3,74% và dịch vụ: 7,52%/6,64%), kéo theo tăng trưởng GDP:
6,78%/5,32% cùng cặp so sánh năm 2010/2009 – Nghĩa là, thị trường tài chính
đã ừng bước đi đúng địa chỉ để kích hoạt cho nền kinh tế dần hồi phục sau suy
giảm.
1. Thị trường ngân hàng
Với chính sách và thành tựu đổi mới nền kinh tế, ngành ngân hàng
Việt nam đã có những thay đổi bước ngoặt. Việt nam đã xây dựng
được những cơ sở quan trọng cho một nền kinh tế thị trường và một hệ
thống ngân hàng phù hợp với cơ chế thị trường.
Hơn 10 năm qua, nhờ tích cực đổi mới và hội nhập, Việt nam đã đẩy lùi
và kiềm chế được lạm phát, ổn định vĩ mô, tạo điều kiện cho nền kinh
tế tăng trưởng với tốc độ cao trong nhiều năm, từng bước chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đạt được
thành tựu nổi bật trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân.
Việt Nam hiện có hơn 130 tổ chức tín dụng, trong đó có 5 ngân hàng thương
mại vốn nhà nước, 37 ngân hàng cổ phần, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài
và 5 liên doanh. Số lượng ngân hàng gia tăng nhanh chóng trong hai năm
2006-2007, khi lần đầu tiên sau hơn một thập kỷ Việt Nam lại cho phép
thành lập mới và khuyến khích các ngân hàng tăng quy mô, mở rộng phạm
vi hoạt động. Đây cũng là thời gian Việt Nam đang thăng hoa sau sự kiện gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với những hứa hẹn bùng nổ làn
sóng đầu tư nước ngoài.
Hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trên thị
trường Việt Nam đang ngày càng mở rộng, nhất là từ sau khi Việt Nam
gia nhập WTO. Đến nay, có 5 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100%
vốn nước ngoài, 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 8 công ty cho thuê tài
chính, 56 văn phòng đại diện nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Các
tổ chức này đều là những ngân hàng và tổ chức tài chính lớn, có uy tín và độ
an toàn cao, có khả năng cạnh tranh tốt. Mặc dù thị phần hoạt động của các
tổ chức tín dụng (TCTD) nước ngoài vẫn còn ở mức khiêm tốn (khoảng
10%), nhưng có vị trí quan trọng trong hệ thống các định chế tài chính tại
Việt Nam. Các TCTD nước ngoài là kênh truyền dẫn vào Việt Nam các công
nghệ ngân hàng hiện đại và kinh nghiệm quản trị ngân hàng tiên tiến, đồng
thời bổ sung nguồn tài chính không nhỏ cho thị trường tài chính Việt Nam
2. Chính sách tiền tệ
Dường như chính sách tiền tệ từ cuối tháng 5 đến nay đang có hơi hướng
thay đổi, từ thắt chặt sang dần mở rộng.
Trong các thông tin từ Ngân hàng Nhà nước cũng như phát ngôn chính thức
của lãnh đạo cơ quan này thời gian qua, từ “thắt chặt” gần như không được
dùng đến khi nói về việc điều hành chính sách tiền tệ. Thay vào đó là sự
“linh hoạt” và “thận trọng”.
Nhưng dù thế nào thì việc thắt chặt chính sách tiền tệ cũng đã thể hiện rõ từ
tháng 2/2011, khi Ngân hàng Nhà nước đồng loạt tăng các lãi suất điều hành,
và liên tiếp tăng lên cho đến các quyết định gần nhất là ngày 1/5. Hướng
điều chỉnh này được xem là sự quyết liệt trong việc sử dụng các công cụ lãi
suất để kiềm chế lạm phát.
Từ tháng 5 đến nay, ít nhất là chưa có lần tăng nào tiếp theo ngoại trừ việc
nâng lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 14%/năm lên 15%/năm. Và chính
sách tiền tệ dường như đã có sự mở rộng nhất định.. Tuy nhiên, do lạm phát
vẫn còn ở mức cao và chưa có cơ sở để hạ nhiệt vào những tháng cuối năm,
nên trong 5 tháng còn lại, chính sách tiền tệ cũng chưa d dàng nới lỏng
Cung tiền còn rộng và cũng có khả năng việc cung tiền nếu điều tiết hợp lý
sẽ không sợ bị phá vỡ các chỉ tiêu của cả năm đã được hoạch định là tăng
trưởng tín dụng 20% và M2 15-16%. Đây chắc chắn sẽ là những cơ sở để
NHNN nghiên cứu những động thái mới, nhằm kéo giảm lãi suất tín dụng,
tiếp sức cho DN và nền kinh tế mà không để tác động tăng vọt CPI và kéo
theo lạm phát cao.
Tỷ giá hối đoái trên thị trường Việt Nam dần trở nên ổn định: tỷ giá tự do
giảm từ 22.500 (tháng 2/2011) xuống 20.600 (tháng 6/2011), giảm 6%, chỉ
tăng chút ít trong tháng 7. Tỷ giá giao dịch của ngân hàng tháng 5/2011 thậm
chí thấp hơn tỷ giá tham chiếu (lần đầu tiên sau 37 tháng). Dự trữ ngoại tệ tại
các ngân hàng đã tăng trở lại, áp lực lạm phát cũng giảm dần. Chỉ số CPI
tháng 5/2011 là 1,09 %; dưới sức ép của tỷ giá hối đoái đang tăng lên từ nay
tới cuối năm, dự báo CPI cả năm sẽ ở mức 19% -20%. Bên cạnh đó, lãi suất
tuy còn cao nhưng đã có xu hướng giảm nhẹ: lãi suất liên ngân hàng giảm từ
22% xuống còn 12%, lãi suất trái phiếu chính phủ giảm từ 14% xuống 12%,
lãi suất tiền gửi và cho vay bình quân giảm 1%, thanh khoản tại các ngân
hàng ở mức ổn định. Ngoài ra, dự trữ ngoại hối cũng được cải thiện đáng kể
II. Hạn chế
1. Chính sách v m
Thị trường tiền tệ năm 2010 có mặt hạn chế là không cung ứng được lưu lượng
tiền cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh và phát triển dịch vụ. Tuy rằng, lượng tiền
tệ có tăng trên 25% theo chỉ tiêu nhưng không có nghĩa là đi vào sản xuất, dịch
vụ mà đi vào lĩnh vực khác như chứng khoán, đầu tư bất động sản, ngoại tệ...
Thứ hai, có những bất cập trong chính sách tài khóa. Chúng ta đang đầu tư
nhiều vào những dự án thiếu hiệu quả kinh tế. Đặc biệt là quản lý tài khóa
không quản lý được rò rỉ từ các đầu tư của nhà nước.
Nhìn lại những chính sách về tiền tệ được ban hành và thực hiện trong năm
2010 vừa qua, chính sách về tiền tệ không nhất quán và những thông tư, chỉ thị
để làm giảm lãi suất chưa thực hiệu quả. Đến thời điểm này, lãi suất vẫn quá
cao. Ảnh hưởng đến phát triển nền kinh tế.
2. i suất:
Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ năm qua không đáp ứng được mục đích chính
của chính sách tiền tệ. Đó là tạo cho nền kinh tế đủ lưu lượng tiền tệ để hoạt
động với lại một lãi suất hợp lý.
Cụ thể, trong những tháng đầu nhà nước đã có những biện pháp làm giảm lãi
suất xuống cũng như có khuyến nghị các ngân hàng nên giảm lãi suất. Nhưng
hững ngày cuối năm,
Chính phủ lại tuyên bố không kìm chế lãi suất mà ấn định theo thị trường.
Với sự bật đèn xanh như vậy, tạo ra nhiều vấn đề.
Thứ nhất, đối với các ngân hàng đang trong tình trạng yếu thế thu hút vốn thì
tăng lãi suất huy động thay vì đi làm khuyến mãi, tặng quà... Rồi sau đó lãi suất
cứ thế tăng dần lên. Đến khi Techcombank công khai huy động 17%, rồi một số
ngân hàng khác cũng tăng lên 18%... thì tạo ra loạn lãi suất.
hông phải vì huy động cao như thế nền kinh tế huy động được thêm tiền trong
nhân dân mà chỉ là đồng tiền chạy vòng từ ngân hàng này qua ngân hàng kia.
Các ngân hàng nhỏ gặp khó khăn trong giải quyết vấn đề thanh khoản của
mình.
Hệ thống ngân hàng cũng gặp nguy cơ rủi ro nhiều hơn vì huy động cao thì phải
cho vay cao. Nợ xấu của ngân hàng tăng lên. Bên cạnh đó cũng tạo khó khăn
cho doanh nghiệp, không tiếp cận được nguồn vốn có lãi suất hợp lý để sản xuất
kinh doanh.
3.Thị trường chứng khoán
Năm 2011, trước những lo ngại của kinh tế toàn cầu về khủng hoảng nợ
công ở châu Âu và lạm phát gia tăng, thị trường chứng khoán trong nước có
nhiều bất ổn, gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
ể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, năm 2011 là một trong những
năm khó khăn nhất đối với nền kinh tế Việt Nam và thậm chí còn khó khăn hơn
năm 2008 khi thế giới đối mặt với khủng hoảng tài chính.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 7 tháng đầu năm đã lên tới 14,61% và mục tiêu
kiểm soát CPI cả năm dưới 17% khó có thể đạt được. Tốc độ tăng trưởng GDP
trong 6 tháng đầu năm chỉ đạt 5,57%, thấp hơn mức tăng trưởng GDP cùng kỳ
năm 2010 (6,16%). Việc thi hành chính sách tiền tệ thắt chặt cùng với với lãi
suất vay tăng quá cao, giá nguyên nhiên liệu tăng đã tác động tiêu cực đến các
doanh nghiệp.
Theo báo cáo của Ủy ban inh tế Quốc hội, trong 6 tháng đầu năm có khoảng
30% số doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh phải phá sản, giải thể, đóng cửa,
tạm ngừng sản xuất. Chỉ số niềm tin kinh doanh (BCI) của các doanh nghiệp
Việt Nam quí 2-2011 giảm tới 21 điểm xuống còn 88 điểm
Thị trường chứng khoán từ đầu năm đến nay chịu ảnh hưởng và phản ánh
những khó khăn, bất ổn của kinh tế vĩ mô. Đồng thời nó cũng chịu những tác
động trực tiếp của chính sách tiền tệ thắt chặt, đặc biệt là chủ trương cắt
giảm tỷ lệ dư nợ tín dụng phi sản xuất trên tổng dư nợ của ngành ngân hàng
xuống 22% (30-6-2011) và 16% (31-12-2011). Tính từ đầu năm đến nay
(25-7-2011), chỉ số VN Index tụt giảm 15,54% và chỉ số HNX Index giảm
38,52%. Xu hướng suy giảm của thị trường chứng khoán chiếm ưu thế trong
7 tháng đầu năm 2011
Thanh khoản của thị trường cũng giảm sút mạnh, khối lượng giao dịch cổ
phiếu bình quân phiên từ mức 25-30 triệu cổ phiếu trong quí 1 trên mỗi sàn
xuống mức 15-18 triệu cổ phiếu trong tháng 7. Gần đây đã xuất hiện những
phiên giao dịch tại HSX và HNX mà khối lượng giao dịch nhiều cổ phiếu rớt
xuống mức thảm hại - dưới 100 cổ phiếu trong 1 phiên giao dịch. Thị trường
OTC và UPCOM cũng hầu như bị đóng băng với khối lượng giao dịch rất
ảm đạm không đáng kể.
Mặt bằng giá cổ phiếu, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang là một
trong những thị trường có giá cổ phiếu rẻ nhất trong các thị trường mới nổi.
Tính đến ngày 22-7-2011 có 200/284 cổ phiếu niêm yết tại HSX và 309/383
cổ phiếu niêm yết tại HNX có thị giá dưới giá trị sổ sách, 107/284 cổ phiếu
niêm yết tại HSX và 214/383 cổ phiếu niêm yết tại HNX có giá dưới mệnh
giá 10.000 đồng. Tuy nhiên, trước áp lực lạm phát cao và tốc độ tăng trưởng
chậm có nguy cơ bào mòn lợi nhuận của doanh nghiệp thì chỉ tiêu PEG có
thể bị suy giảm nên thị trường vẫn có thể đi xuống.
Chương 3: chính sách tiền tệ thời hậu suy giảm kinh tế việt nam
I/ Mục tiêu của chính sách tiền tệ thời hậu suy thoái kinh tế:
Sau thời kì suy thoái kinh tế, một chính sách tiền tệ đúng đắn thì trước hết phải
trước hết cần phải kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, ổn định sức mua đối nội
của đồng tiền để làm tiền đề tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Do vậy, Ngân hàng Trung ương luôn coi kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ làm
mục tiêu hàng đầu thuộc chính sách tiền tệ của mình. Tuy nhiên ở thời kì hậu
suy thoái, nền kinh tế cần được kích cầu nên ngân hàng đã thực hiện chủ trương
của chính phủ: nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng để ngăn chặn suy giảm kinh
tế nhưng phải đảm bảo ổn định giá cả, lãi suất, tỷ giá và an toàn hệ thống các cơ
sở tín dụng.
NHNN điều chỉnh nhiều lần lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái
chiết khấu, và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở cũng thay đổi nhiều lần. Cơ chế
điều hành lãi suất này đã kịp thời ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường
tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM những tháng đầu năm 2008;
an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư,
doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, cần tăng sự linh hoạt trong chính sách điều hành tỷ giá để hướng sản
xuất từ khu vực ngoại thương (xuất khẩu) sang khu vực phi ngoại thương (thị
trường nội địa) nhằm giảm sự phụ thuộc vào xuất khẩu, kích thích tiêu dùng
trong nướ. Bên cạnh đó, giảm giá dần VND có kiểm soát. Chính sách này sẽ
giúp thúc đẩy xuất khẩu, làm giảm thâm hụt cán cân thương mại trong bối cảnh
chi tiêu Chính phủ rất lớn.
Và, rà soát đầu tư công theo hướng cơ cấu lại đầu tư khu vực này và xác định
mục tiêu ưu tiên đối với chúng. Theo đó, cần giãn tiến độ đối với các dự án sử
dụng nhiều vốn, tập trung vốn cho các dự án sử dụng nhiều lao động, ít nhập
khẩu
Cần kết hợp điều hành tỷ giá và lãi suất cùng các công cụ khác một cách linh
hoạt, phù hợp với từng gian đoạn cụ thể để đảm bảo nhất quán chính sách vĩ
mô, nhất là chính sách tiền tệ và tài khóa .
II/ Trọng tâm của chính sách và ảnh hưởng của nó đến nề kinh tế
Nhìn chung NHNN điều hành CSTT thận trọng, linh hoạt tùy vào di n biến thị
trường, có lúc thắt chặt có lúc mở rộng.
1. Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt(2007-2008): giai đoạn
2007-2008 đánh dấu thời điểm lạm phát “phi mã” sau nhiều năm lạm phát
ở mức “vừa phải”. Nguyên nhân của lạm phát có thể do cầu kéo (tổng cầu
của nền kinh tế gia tăng), chi phí đẩy (giá các yếu tố đầu vào tăng), nguồn
cung thiếu hụt ( khi nền kinh tế đạt tới mức sản lượng tiềm năng hoặc
vượt sản lượng tiềm năng), cung tiền tăng quá mức ( việc tăng tổng lượng
phương tiện thanh toán- M2) và yếu tố tâm lý (lạm phát kỳ vọng). Phân
tích lạm phát ở nước ta các năm gần đây, có đủ các nguyên nhân, vừa là
lạm phát chi phí đẩy-do chi phí đầu vào (nguyên vật liệu, kho bãi, vận tải,
năng lượng, tiền lương,…) tăng, đẩy giá bán ở đầu ra lên cao; vừa là lạm
phát cầu kéo-do nhu cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Chính phủ
tăng cao, kéo theo tăng giá bán các loại hàng hóa, dịch vụ; vừa là lạm
phát kỳ vọng-phát sinh từ các yếu tố tâm lý và đầu cơ. Tuy nhiên, năm
2008 nước ta được coi là “nhập khẩu lạm phát”, tức là nguyên nhân gây
ra lạm phát năm 2008 chủ yếu do chi phí đẩy. Ngoài việc giá các yếu tố
đầu vào trên thị trường thế giới tăng cao kỉ lục (dầu thô vượt ngưỡng
147USD/thùng, giá phôi thép, thép 830 USD/tấn, gạo hơn 1000 USD/tấn,
phân bón, vải sợi… đều tăng cao) còn do yếu tố nội sinh của nước ta. Đó
là mức tăng trưởng tín dụng cũng bị đẩy lên mức cao, giá điện, nước sinh
hoạt cũng tăng, chính phủ thực hiện cải cách tiền lương làm cho thu nhập
dân cư tăng và chi phí doanh nghiệp tăng cao đã càng làm trầm trọng
thêm áp lực lạm phát. Trong điều hành chính sách tiền tệ, việc sử dụng
công cụ thị trường mở và tỉ giá hối đoái đôi khi có những sai lầm không
đáng có, làm cho mức độ lạm phát lại có xu hướng tăng. Đặc biệt là trong
năm 2008, do tỉ giá giữa VND và USD xuống thấp kỉ lục bởi đồng USD
giảm giá do ảnh hưởng suy thoái kinh tế Mỹ và việc FED cắt giảm mức
lãi suất đồng USD xuống thấp nhất trong vòng nhiều năm qua (có lúc
xuống 0.25%) khiến cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam gặp
nhiều khó khăn.
Diến biến tỷ giá VND/USD từ 2007-2009
Để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đã quyết định mua vào hơn 7 tỉ USD,
tương đương việc “bơm” khoảng 112.000 tỉ vào nền kinh tế làm cho lạm phát
càng thêm trầm trọng. Biện pháp mua vào hơn 7 tỉ USD có những mặt tích cực
là làm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia (vốn còn ở mức rất thấp so với các nước
trong khu vực), đồng thời tăng giá trị đồng USD để khuyến khích xuất khẩu qua
đó tạo điều kiện phát triển sản xuất trong nước góp phần giảm bội chi cán cân
thương mại. Mặc dù sau đó NHNN đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để hút
tiền trở lại nhưng chỉ thu lại được khoảng 82.000 tỉ. Tuy nhiên, việc làm này
vẫn làm gia tăng áp lực lớn về lạm phát vì với một lượng tiền quá lớn đã được
NHNN cung vào nền kinh tế. Thời kỳ này, NHNN thực hiện một loạt các biện
pháp quyết liệt phối hợp cùng chính sách tài khóa của chính phủ nhằm kiềm chế
lạm phát. Thủ tướng Chính phủ Ngy n Tấn Dũng đã thể hiện quyết tâm của
Chính phủ chống lạm phát bằng câu nói nổi tiếng “ hy sinh tăng trưởng để kiềm
chế lạm phát”. NHNN đã sử dụng đồng bộ các chính sách tiền tệ như: lãi suất
cơ bản (LSCB) VND được tăng cao nhất trong nhiều năm qua, được điều chỉnh
tăng lên 8.75%/năm từ ngày 01/02/2008 so với mức 8.25%/năm ổn định trong 2
năm trước đó và nhảy vọt lên mức 12%/năm từ ngày 19/05/2008. Chưa đầy 1
tháng sau đó, từ ngày 11/06/2008, LSCB đã lên đến đỉnh điểm 14%/năm. Cùng
với LSCB, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh tăng
với đỉnh tương ứng là 13% và 15% áp dụng trong khoảng thời gian từ
11/06/2008 đến 20/10/2008. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh tăng lên
11%/năm trong khi lãi suất dự trữ bắt buộc bị điều chỉnh giảm. Bên cạnh đó,
NHNN còn buộc các TCTD giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và
chứng khoán ở mức không quá 20% vốn điều lệ hoặc không vượt quá 3% tổng
dư nợ tín dụng, bắt các TCTD mua 20.300 tỉ tín phiếu bắt buộc có kỳ hạn 12
tháng với lãi suất chỉ có 7.58%/năm và không được sử dụng để tái chiết khấu tại
NHNN, thực hiện các phiên giao dịch thị trường mở để “hút” tiền về.
15700
16200
16700
17200
17700
31/12/07 19/2/08 9/4/08 29/5/08 18/7/08 6/9/08 26/10/08 15/12/08 3/2/09 25/3/09 14/5/09 3/7/09
TGLNH
Bán NHNT
Sàn Biên độ
Trần biên độ
Biểu đồ l i suất cơ bản VND (%/năm)
Nguồn: NHNN Việt Nam
Biến động tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VNĐ ngắn hạn (%)
Nguồn: NHNN Việt Nam
Chính sách tiền tệ thắt chặt cùng hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo
ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh việc cấp
tín dụng của các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng
và bị đẩy lùi từ đỉnh điểm 3.91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng
5/2008 xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng
cuối năm. Tỷ lệ lạm phát năm 2008 chỉ còn 19,89%.
Đồng thời Chính phủ cũng thực hiện chính sách tài khóa “ thắt lưng buộc bụng”
nhằm hạn chế lượng tiền trong lưu thông như tạm hoãn, giãn tiến độ các dự án
đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả (tiết kiệm hơn 40.000 tỉ VND). Dồn vốn
cho các dự án đầu tư mang lại hiệu quả tức thời cho nền kinh tế như các dự án
nhà máy lọc dầu, nhà máy điện, xi măng,…Chính phủ còn giao cho các đơn vị
hành chánh sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước phải tiết kiệm chi thường
xuyên 10%, tăng cường chống thất thu thuế và nuối dưỡng nguồn thu, cơ cấu
lại các khoản nợ và rà soát lại các khoản vay của các doanh nghiệp nhà nước, tổ
chức đánh giá hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty thuộc sở hữu
nhà nước.
2. Giai đoạn thực thi chính sách tiền tệ mở rộng (từ cuối năm 2008 cho
đến hết thời điểm nghiên cứu 2009):
CSTT bao giờ cũng có độ tr thời gian nhất định. Việc “thắt chặt” tiền tệ mạnh
tay của Chính phủ đã có tác dụng làm giảm lạm phát nhanh nhưng cũng làm
cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại vì luồng tiền dành cho nhu cầu đầu tư,
tiêu dùng giảm, lãi suất vay vốn quá cao làm cho các doanh nghiệp không thể
tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng, hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ rơi
vào tình trạng khó khăn, thậm chí phá sản. Cùng với việc nền kinh tế thế giới
rơi vào khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ do “cho vay dưới chuẩn” trong
lĩnh vực bất động sản gây ra. Mỹ, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác rơi vào suy
thoái khiến cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá giảm, chu chuyển vốn đầu tư FDI
giảm gây khó khăn cho việc xuất khẩu và nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam đã
càng làm cho kinh tế nước ta rơi vào suy thoái trầm trọng hơn. Vì vậy, cuối
năm 2008 khi lạm phát có xu hướng “hãm phanh” thì cũng là lúc NHNN quay
lại thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế.Từ tháng 10/2008, khi mà lạm phát
đã được kiềm chế thì NHNN đã chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ
“thắt chặt” sang “nới lỏng” một cách thận trọng bằng các biện pháp:
- ênh lãi suất: LSCB đã được hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ
21/10/2008), 12% (từ 05/11/2008) và liên tiếp được điều chỉnh trong
vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/2008,10% từ 05/12/2008,
8.5% từ 22/12/2008) trước khi ổn định ở mức 7% (từ 01/02/2009) và duy
trì cho hết tháng 11/2009; lãi suất tái chiết khấu điều chỉnh giảm từ
12%/năm xuống còn 5%/năm (10/04/2009); giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với tiền gửi bằng VND từ 11%/năm xuống còn 3%/năm.
Diễn biến l i suất huy động, cho vay bằng VND và lạm phát từ 2008-
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
1/08 2/08 3/08 4/08 5/08 6/08 7/08 8/08 9/08 10/08 11/08 12/08 1/09 2/09 3/09 4/09 5/09 6/09 7/09
Huy động
Cho vay
Lạm phát
2009
Nguồn: NHNN Việt Nam
Trong tháng 12/2009, để kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù
hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô theo nghị quyết của Quốc hội và chủ trương
của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện cho các TCTD huy động các nguồn vốn
từ nền kinh tế để mở rộng kinh doanh và đáp ứng các nhu cầu vốn sản xuất-kinh
doanh có hiệu quả, NHNN điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7%/năm lên
8%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 5%/năm lên 6%/năm.
- Nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi ngoại tệ: nghiệp vụ thị trường
mở được điều hành linh hoạt, bám sát di n biến cung cầu của các TCTD
với lãi suất được điều chỉnh theo mục tiêu quản lý của NHNN. Nửa đầu
năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi suất
chào mua giảm dần từ 9%/năm xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn
cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho
các chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên chương trình
kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu vốn của nền
kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn có dư thừa nên nhu cầu
tham gia các phiên chào mua trên nghiệp vụ thị trường mở không cao với
doanh số trúng thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền chào mua của NHNN.
hối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt khoảng 1000 tỷ
đồng/phiên.Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các
TCTD có xu hướng tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính
phủ, NHNN đã tăng khối lượng chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở,
khối lượng trúng thầu bình quân các phiên tăng mạnh, đạt 95% khối
lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6000 tỷ đồng/phiên, gấp 6 lần
so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong tháng 12, NHNN đã chào
mua qua kênh nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng xấp xỉ 15000 tỷ
đồng/phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh toán
tăng cao trong dịp tết dương lịch. ỳ hạn chào mua được thực hiện linh
hoạt 7 ngày và 14 ngày với lãi suất chào mua tương ứng là 7%/năm và
7%-8%/năm. Đồng thời để chủ động kiểm soát lạm phát và điều tiết linh
hoạt vốn khả dụng của các TCTD trong hệ thống, NHNN đã thực hiện
chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/tuần, kỳ hạn 3 và 6 tháng,
phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68
phiên đấu thầu bán tín phiếu NHNN có 2 phiên trúng thầu với doanh số
đạt 102 tỷ đồng; mặt khác, NHNN thực hiện hoán đổi ngoại tệ với các
TCTD gặp khó khăn tạm thời về nguồn vốn bằng VND, tạo điều kiện cho
các TCTD cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn VND và ngoại tệ, góp
phần ổn định thị trường tiền tệ và tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. ỳ hạn
giao dịch hoán đổi ngoại tệ được thực hiện là 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng
với lãi suất tương ứng là 6%/năm, 6.25%/năm, 6.5%/năm. Đến cuối năm
2009,NHNN chỉ thực hiện giao dịch đối với các kỳ hạn 3 tháng và 6
tháng với lãi suất được điều chỉnh tăng tương ứng lên mức 7.75%/năm và
8%/năm. Bên cạnh đó NHNN còn cho phép các TCTD xin chiết khấu, tái
chiết khấu và thanh toán trước hạn 20.300 tỷ tín phiếu bắt buộc đã mua
trước hạn.
- Về tỷ giá: Di n biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 là hết
sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng
xuống dưới 16.000 và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong
ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2, tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có
lúc đã lên tới 19.500. NHNN đã quyết định nới biên độ dao động từ +1%
lên +2% (từ ngày 26/06/08) đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp
khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ, tăng cường truyền thông,
công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại Việt
Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến
hết quý 3/08.
Từ cuối năm 2008 đến nay, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn
cung ngoại tệ của Việt Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân
cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến tình trạng khan hiếm ngoại tệ,
làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức ~ 18.000. NHNN đã
thêm hai lần điều chỉnh biên độ dao động tỷ giá (+3% từ 06/11/08 và
+5% từ 23/03/09) và triển khai một số công cụ can thiệp khác điển hình
như tiến hành nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm tỷ giá để hỗ trợ nhu cầu
nhập khẩu thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống, điều hoà cung
cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Vì vậy, tỷ giá ngoại
tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán những mặt hàng
thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
- Hỗ trợ l i suất: Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao
gồm các nhóm giải pháp cơ bản: (i)Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế
TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%; Với dân cư: trợ cấp người nghèo,
giãn/mi n thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo lao động; (3) Về phía Chính
Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh xúc tiến
thương mại để tăng xuất khẩu. Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính
sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của hệ thống ngân hàng và các công
cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ.Đến hết
tháng 7/2009, tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất của toàn hệ thống ngân
hàng đã đạt 389.107 tỷ đồng, trong đó dư nợ đối với các doanh nghiệp
nhà nước là 61.048 tỷ đồng, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 259.454
tỷ đồng và với hộ kinh doanh là 68.605 tỷ đồng. Để đối phó với suy thoái,
Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ trợ lên tới hàng
ngàn tỷ USD với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản xấu, sở
hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn; chi tiền
cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ,
mua xe mới, … Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1
tỷ USD (trên 17.000 tỷ đồng) với cách làm rất sáng tạo, rất linh hoạt, rất
“made in Việt Nam”. Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà
được hỗ trợ gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã
kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các doanh nghiệp có được
nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phảm, duy trì ổn định sản
xuất, kích thích được nhu cầu trong nước, … Cũng đã có nhiều ý kiến trái
chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ rằng can thiệp như vậy
sẽ làm méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy thực chất là kích
cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất thay vì “trợ giá” qua lãi
suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, …. Và công
bằng mà nói, chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong
muốn như: làm thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và VND (nhu cầu vay vốn
VND tăng mạnh, một số khách hàng trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ
chuyển sang vay bằng VND, …); tạo sức ép cho tỷ giá,…
Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tế ngày càng
minh chứng cho tính đúng đắn của công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ
của Chính Phủ có quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu
chi hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và dân cư; chưa kể quá trình thực
hiện có thể phát sinh nhiều tiêu cực. Thứ hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có
thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản”[1], các NHTM không huy động được và
cũng không cho vay được. Và rõ ràng là nếu không tăng được tín dụng
cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý nghĩa gì. Thứ ba, hỗ trợ lãi
suất qua tín dụng sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích tiêu dùng
và vẫn đảm bảo các NHTM vẫn huy động được. Thứ 4, số tiền hỗ trợ qua
tín dụng được khuyếch đại lên nhiều lần tạo ra một nguồn vốn lớn cho
đầu tư và tiêu dùng xã hội.
Các chính sách trên được thực hiện vì các mục đích sau:
Thứ nhất, với việc thực hiện CSTT nới lỏng và thực hiện chương trình kích
thích kinh tế của Chính phủ đã làm cho mức tăng trưởng tín dụng tăng cao (tăng
trưởng tín dụng đến hết tháng 10/2009 đã đạt 33,29%, tháng 11/2009 là 36,86%
so với cuối năm 2008). Vì vậy, việc thực hiện tăng lãi suất cơ bản và điều chỉnh
tỷ giá là việc làm cần thiết để tác động vào mức tăng trưởng tín dụng, kiểm soát
chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô
theo nghị quyết của Quốc hội và chủ trương của Chính phủ, đồng thời tạo điều
kiện cho các NHTM huy động được vốn từ nền kinh tế và ngăn chặn ngay từ
đầu trạng thái lạm phát cao có thể xảy ra khi nền kinh tế phục hồi.
Thứ hai, khi tiến hành hỗ trợ lãi suất vay VND 4% trong chương trình hỗ trợ
kinh tế của Chính phủ đã đưa lãi suất vay VND thực tế của các doanh nghiệp và
người dân xuống 5% - 6%. Điều này khuyến khích các doanh nghiệp có nhu
cầu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tiến hành vay vốn bằng VND để
mua ngoại tệ của các NHTM thay vì vay vốn bằng ngoại tệ. Thậm chí nhiều
doanh nghiệp đang có số dư vay vốn ngân hàng bằng ngoại tệ cũng tìm mọi
cách vay VND mua ngoại tệ để trả nợ trước hạn vốn vay ngoại tệ cho ngân
hàng. Do đó, gây áp lực về ngoại tệ đối với các ngân hàng cũng như đẩy tỷ giá
tự do có xu hướng tăng lên, tạo ra sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá giao dịch trong
ngân hàng và tỷ giá giao dịch ngoài thị trường tự do.
Thứ ba, trong 11 tháng đầu năm 2009 tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn tăng
cao hơn tốc độ huy động tiền gửi gây áp lực đến lãi suất của thị trường. (Tính
đến cuối tháng 11 tín dụng đối với nền kinh tế tăng 36,86% trong khi huy động
vốn chỉ tăng 26,45% (so với 31/12/2008)). Do đó, việc nâng lãi suất cơ bản đã
tạo ra sự ổn định, đưa lãi suất thị trường trở lại theo quy luật cung - cầu, tránh
sức ép, tiêu cực cho hệ thống tài chính - ngân hàng và nền kinh tế.
Thứ tư, thực tế cho thấy lạm phát của Việt Nam trong ba năm 2007, 2008, 2009
là trên 40%, trong khi lạm phát của Mỹ chỉ bằng khoảng 20% cùng kỳ, nhưng tỷ
giá chính thức USD/VND dường như thay đổi không đáng kể trong thời gian
đó, khiến VND bị định giá cao trong tương quan tỷ giá với USD.Theo lý thuyết
ngang giá về lãi suất, đồng tiền của một quốc gia nào đó có lãi suất thấp hơn thì
nhất định sẽ là bù kỳ hạn cho hợp đồng kỳ hạn đối với đồng tiền của một quốc
gia có lãi suất cao hơn. Nói cách khác, trừ kỳ hạn hoặc bù kỳ hạn trên giá kỳ
hạn là xấp xỉ tương đương với chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Ngược lại,
hiệu ứng Fisher quốc tế chú trọng đến việc tỷ giá giao ngay của một đồng tiền
sẽ thay đổi theo thời gian, khẳng định rằng tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi theo
chênh lệch lãi suất giữa hai nước. Như vậy, việc NHNN đã điều chỉnh tăng lãi
suất, đồng thời tăng tỷ giá của đồng USD lên gần tỷ giá thị trường và thu hẹp
biên độ tỷ giá giao dịch ngoại hối từ ±5% xuống ±3% là hoàn toàn hợp lý.
3/Những ưu, khuyết điểm của chính sách tiền tệ trong thời gian vừa qua và cách
khắc phục
Thời gian vừa qua với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế trong nước
và sự biến động của nền kinh tế thế giới. Chính sách tiền tệ góp phần rất quan
trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển và giữ vững sự ổn định của nền kinh
tế trong nước trước sự biến động của thị trường thế giới. và qua đó bộ máy quản
lí kinh tế nước ta cũng bộc lộ được nhiều điểm mạnh cũng như những thiếu sót
trong việc điều hành và quản lí nền kinh tế trong nước.
1. Những ưu điểm của chính sách tiền tệ thời gian qua.
Thời gian vừa qua, với tình hình biến động không ngừng của nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ của nước ta đã có khá nhiều thành công trong việc kiềm chế
lạm phát, thúc đẩy đầu tư, giữ ổn định nền kinh tế vượt qua cuộc khủng hoảng
xảy ra từ cuối năm 2007 tới nay.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà
nước : ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân
dân. Trên cơ sở mục tiêu chung đã quy định, trong các năm qua việc điều hành
chính sách tiền tệ của NHNN luôn hướng vào việc : ổn định giá trị đồng tiền,
góp phần kiềm chế và kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định thị
trường tiền tệ. Hàng năm, thông qua các công cụ chính sách tiền tệ NHNN điều
tiết khối lượng tiền cung ứng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã đề ra.
Nếu như trước đây NHNN sử dụng công cụ điều tiết tiền tệ trực tiếp (hạn mức
tín dụng), đến nay đã chuyển dần sang sử dụng các công cụ điều tiết tiền tệ gián
tiếp (tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, thị trường mở). Cùng với các công cụ nói trên,
thì tỷ giá và lãi suất cũng trở thành công cụ hỗ trợ có hiệu quả trong việc thực
hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Qua số liệu bảng 1 cho thấy, tổng
phương tiện thanh toán cung ứng cho nền kinh tế phù hợp với tốc độ tăng
trưởng kinh tế và chỉ số giá cả qua các năm. Trong điều kiện lạm phát thấp,
cung ứng tổng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế tăng nhằm góp phần ưu
tiên cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ngược lại khi chỉ số giá cả tăng thì
NHNN thực hiện thắt chặt tiền tệ (năm 2008 tổng phương tiện thanh toán cung
ứng cho nền kinh tế giảm xuống chỉ còn 17% so với năm 2007).
Thành công lớn nhất của chính sách tiền tệ thời gian qua là việc đẩy lùi
nguy cơ suy thoái nền kinh tế do các tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới.
Sau khi gia nhập WTO tình hình kinh tế nước ta có nhiều thay đổi để bắt
kịp với xu hướng phát triển vì vậy chính sách tiền tệ góp phần thúc đẩy quá
trình thích ứng của nền kinh tế với những sự thay đổi đó.
2. Những thiếu sót của chính sách tiền tệ thời gian qua.
Còn chưa được đưa ra kịp thời.
Còn có những thiếu sót trong việc đưa ra các mức lãi suất hiện hành: mức
lãi suất hiện nay thường xuyên biến động gây ra tâm lí lo lắng cho nhà đầu tư.
Tỷ lệ tín dụng trung, dài hạn tăng không tương xứng với tốc độ tăng
nguồn huy động các loại vốn này.
Việc tái cấp vốn và kiểm soát lượng tiền cung ứng còn chưa được tiến
hành một cách hiệu quả.
Còn có nhiều tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc: việc đưa ra các mức
dự trữ bắt buộc còn chưa bắt kịp với xu hướng phát triển kinh tế.
Những tồn tại trong tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay nền
kinh tế bị tăng chậm.
Một số chính sách còn chưa được hiệu quả và không đáp ứng hoàn toàn
được mục tiêu đề ra.
Chương 4 : SỰ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH - TIỀN
TỆ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN INH TẾ VIỆT NAM SAU THỜI Ỳ
SUY GIẢM
1. Những thành c ng mà Việt Nam đ đạt được từ việc thực hiện các chính sách tài
chính tiền tệ:
Sau khi thực hiện một loạt các chính sách tài chính tiền tệ, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng
liên tục, ngay cả khi kinh tế toàn cầu khủng hoảng tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế mới của
Việt Nam.
Nhìn lại kinh tế Việt Nam năm 2010, năm này quả là một năm đáng nhớ đối với nền kinh
tế nước ta. Trong bối cảnh khó khăn của kinh tế toàn cầu, dù nội lực nền kinh tế còn chưa
mạnh, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra (6,5%).
Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng phục hồi rõ rệt. Công
nghiệp tiếp tục là đầu tàu của tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Giá trị sản xuất công nghiệp năm
2010 tăng 14% so với năm trước và cao hơn kế hoạch (12%). So với khu vực công nghiệp thì
khu vực dịch vụ cũng có sự phục hồi sau khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng ở mức độ thấp
hơn với tốc độ tăng trưởng đạt 7,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, năm 2010 gặp nhiều khó
khăn: đầu năm hạn hán nghiêm trọng, giữa năm nắng nóng gay gắt, cuối năm mưa lũ lớn kéo
dài ở miền Trung và Tây Nguyên. Những khó khăn này đã gây thiệt hại nặng nề cho sản xuất
vụ mùa, nuôi trồng thuỷ sản và chăn nuôi. Tuy nhiên, do thực hiện nhiều chính sách và giải
pháp hỗ trợ hộ nông dân và các doanh nghiệp về vốn, vật tư, tiêu thụ kịp thời, giá trị sản xuất
toàn ngành nông, lâm, thủy sản cả năm 2010 đã tăng 4,69% so năm trước, trong đó nông
nghiệp tăng 4,24%, lâm nghiệp tăng 4,6%, thủy sản tăng 6,05%. Đồng thời, tổng mức bán lẻ
hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính chung cả năm 2010 đã đạt hơn 1.561,6 nghìn tỷ
đồng, tăng 24,5% so với năm 2009. Thu ngân sách Nhà nước tính từ đầu năm đến ngày 15/12
đã đạt 504,4 nghìn tỷ đồng, bằng 109,3% dự toán năm.
inh tế phục hồi là một nguyên nhân quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát triển.
Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010 đã đạt được những kết quả tích cực. Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội năm 2010 đã đạt 830,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so năm 2009. Trong đó, nguồn
vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư dẫn đầu bằng 31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn
đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín
dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) bằng
22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước
được huy động tích cực hơn. Về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tính đến hết tháng 11,
cả nước thu hút được 833 dự án mới với tổng số vốn đăng ký đạt 13,3 tỷ USD, bằng 60% so
với cùng kỳ năm 2009, trong đó vốn thực hiện đạt 10 tỷ USD, tăng 9,9%. Mặc dù vốn FDI
đăng ký có thấp hơn nhiều so với năm 2009 nhưng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký lại
cao hơn nhiều. Đây có thể được coi là điểm sáng trong thu hút FDI năm 2010. Điều này cũng
cho thấy sự cam kết lâu dài các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam.
Năm 2010, xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam có nhịp độ tăng trưởng đáng khích lệ trong
bối cảnh kinh tế của những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật
Bản, EU… vẫn phục hồi chậm chạp. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt hơn 71,6 tỷ
USD, tăng 25,5% so với năm 2009 và gấp hơn bốn lần so với chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc
hội thông qua (hơn 6%). Xuất khẩu tăng là do sự đóng góp lớn của những mặt hàng công
nghiệp chế biến cộng với sự phục hồi của kinh tế thế giới làm cho xuất khẩu hàng nông, lâm,
thủy sản được lợi về giá. Giá cả nhiều mặt hàng xuất khẩu được cải thiện góp phần tăng
trưởng xuất khẩu cả năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2010 ước đạt 82,6 tỷ USD, tăng
19,8% so với năm 2009. Nguyên nhân chính của sự gia tăng nhập khẩu là do kinh tế có sự
phục hồi làm gia tăng nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất (chiếm khoảng 80% cơ
cấu nhập khẩu). Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều tăng, nhưng do
tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu
năm 2010 giảm xuống chỉ còn khoảng 11,8 tỷ USD, chiếm 16,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Như vậy, so với những năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện
quyết tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết.
Đáng lưu ý là trong 21 chỉ tiêu theo nghị quyết của Quốc hội giao, có 15 chỉ tiêu đạt và
vượt so với kế hoạch.
Đến năm 2011, sau 5 tháng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và gần 4 tháng
thực hiện Nghị Quyết 11 của Chính Phủ, kết quả ban đầu đạt được rất tốt.
Thứ nhất, tăng trưởng tín dụng 5 tháng đầu năm đạt 6,92%, thấp hơn so với cùng kỳ năm
trước (7,46%). Và nếu so với chỉ tiêu cả năm tăng dưới 20%, thì có thể khẳng định rằng, tăng
trưởng tín dụng đang đi đúng với mục tiêu đề ra.
Đặc biệt, trong điều kiện phải thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát thì tín dụng đã được
tập trung ưu tiên cho lĩnh vực sản xuất. Riêng lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu tăng
trưởng tín dụng đã đạt 25% (trong khi tăng chung chỉ là 6,92%). Đối với khu vực phi sản
xuất, nếu như cuối năm 2010 tỷ trọng tín dụng chiếm 18,87% thì đến cuối tháng 5/2011 chỉ
còn chiếm 16,91%. Rõ ràng, kết quả thực hiện nhiệm vụ đang đi đúng hướng theo mục tiêu
điều hành của Chính phủ và Ngân hàng Nhà Nước.
Thứ hai, Chính phủ gần đây đã đánh giá cao Ngân hàng Trung Ương trong việc ổn định thị
trường ngoại hối, ổn định tỷ giá giao dịch trong biên độ mà Ngân hàng Nhà Nước đã công bố,
điều hành. Nhất là Ngân hàng Nhà Nước đã mua vào được một lượng ngoại tệ khá lớn trong
vài tháng gần đây.
Thứ ba, thị trường vàng rất ổn định, giá vàng trong nước theo sát giá vàng thế giới, có thời
điểm còn thấp hơn.
Dù tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2011 của VN ước chỉ đạt 5,57%
song bước đầu đã kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, đạt được
sự nhất trí và đồng thuận cao của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn dân; sự hoan
nghênh và ủng hộ của các tổ chức tài chính và dư luận quốc tế.
2. Những hạn chế và thách thức mà Việt Nam đang đối mặt:
Bên cạnh những thành tựu chung thì nhìn lại năm 2010, nền kinh tế cũng bộc lộ nhiều vấn
đề. inh tế vĩ mô vẫn thiếu nền tảng vững chắc, chất lượng tăng trưởng thấp, tiềm ẩn không
ít bất trắc, nếu không sớm khắc phục có thể ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định trong những
năm tiếp theo. Quốc hội đặt chỉ tiêu lạm phát 2010 dự kiến ở mức 7-7,5%. Sau 6 tháng, trước
tình hình giá thế giới biến động, giá cả đầu vào nhiều loại nguyên liệu tăng bất thường, mức
lạm phát được điều chỉnh lên 8,5%/năm. Tuy nhiên, di n biến 3 tháng cuối, nhất là tháng 11
đã khiến tất cả các cơ quan điều hành phải bất ngờ, khi mới chỉ 11 tháng, chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) đã lên tới 9,58%. Lạm phát tháng cuối năm của hai thành phố lớn là (Hà Nội và
TP.HCM) lần lượt là 1,83% và 1,61%. Lạm phát năm 2010 tới 11,75%. Như vậy, trong vòng
bốn năm qua, có tới ba năm lạm phát ở mức hai con số (năm 2007 là 12,63%; năm 2008 là
22,97%). Việc CPI năm 2010 lên hai con số tạo nên bão giá, khiến doanh nghiệp và người
dân đều gặp khó khăn.
Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh một mặt thể hiện quan hệ tích lũy – tiêu dùng đã có
sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhưng mặt khác lại cho thấy những hạn chế trong
hiệu quả đầu tư. Nếu như năm 1997, chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu
tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%)
chúng ta phải đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2010, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội
lên tới 41% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 6,7%. Chỉ số ICOR đã tăng tới mức quá
cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Hệ số ICOR của doanh nghiệp và đặc biệt là doanh
nghiệp tư nhân chỉ có 3-4, trong khi đó ICOR của khu vực kinh tế nhà nước và từ đầu tư của
nhà nước tới 9-101 . Bên cạnh đó còn xảy ra tình trạng chậm tr trong giải ngân nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn đầu
tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm này là đáng báo
động về cả trước mắt cũng như lâu dài.
Năm 2010 cũng là năm đầy biến động với việc bùng nổ cơn sốt lãi suất huy động với việc
chạy đua tăng lãi suất của các ngân hàng, mặc dù đã được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh,
xử lý nhưng cũng cho thấy vấn đề quản lý vẫn còn chậm, chưa chủ động trong việc dự đoán
tình hình để chỉ đạo. Năm 2010 cũng là năm thị trường vàng có những cơn sốt kinh ngạc.
Mặc dù tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào vàng năm qua đạt khoảng 38%. Tuy nhiên, điều này về
tổng thể không có lợi cho nền kinh tế, bởi nó không những không tạo ra việc làm, tăng thu
nhập cho người lao động, nó còn góp phần làm méo mó dây chuyền sang các thị trường khác
như USD, nhà đất và chứng khoán.
Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định
đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Di n biến tỷ giá trong năm 2010 là khá phức tạp.
Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2 và tháng 10,
khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở mức cao. Tỷ giá
chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới 10%. Đến cuối tháng 11 năm
2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500 đồng/USD.
Cuối năm 2010, tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu
hiện căng thẳng. Những bất ổn về tỷ giá có nguyên nhân sâu xa từ những bất ổn về kinh tế vĩ
mô đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư công thấp… làm cho cầu ngoại tệ luôn
lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện tượng đầu cơ và tâm lý cũng gây áp lực mạnh mẽ
lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những
khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm
phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia
tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ
chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ.
Đến năm 2010, nợ nước ngoài của Việt Nam khoảng 42,2% GDP và tổng nợ công đã vượt
quá 50% GDP. Nợ nước ngoài của Chính phủ cao, rủi ro vỡ nợ là có. Việt Nam bị các tổ
chức đánh giá tín nhiệm hạ thấp mức độ an toàn xuống "rủi ro cao". Tính tới tháng 3 năm
2011, Việt Nam là một trong 20 nước có khả năng vỡ nợ lớn nhất trên thế giới. Hơn nữa, vấn
đề ở đây không chỉ là tỷ lệ nợ so với GDP mà cả quy mô và tốc độ của nợ nước ngoài và nợ
công của Việt Nam gần đây đều có xu hướng tăng mạnh. Nợ công tăng nhanh trong khi thâm
hụt ngân sách lớn và hiệu quả đầu tư công thấp đặt ra những lo ngại về tính bền vững của nợ
cả trong ngắn hạn và dài hạn. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết của việc cần tăng cường
quản lý và giám sát nợ công một cách chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay ở Việt
Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động chính sách tài chính tiền tệ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam sau thời kì khủng hoảng kinh tế.pdf