LỜI NÓI ĐẦU Kinh tế càng phát triển càng đòi hỏi các quốc gia phải tự biến mình thành một bộ phận, một khâu trong dây chuyền sản xuất quốc tế. Hội nhập kinh tế là công cụ duy nhất giúp chúng ta thực hiện được điều này. Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Điều này đã đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta. Việc trở thành thành viên của WTO đem lại chúng ta nhiêu cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra cho Việt Nam rất nhiều thách thức cho nền kinh tế nước ta vẫn còn kém phát triển. Vấn đề năng lực cạnh tranh, chất lượng hàng hoá - dịch vụ đang là bài toán nan giải trong các ngành và toàn bộ nền kinh tế. Thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong thời gian qua và những năm tới. Hiện nay, Nhà nước ta đang có kế hoạch phat triển thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đi đầu trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, góp phần tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, hoạt động xuất khẩu thuỷ sản có ý nghĩa rất lớn đối với kinh tế nước ta trong những năm tới. Cũng chính vì điều này mà tôi chọn đề tài: Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu ngành thuỷ sản Việt Nam để thực hiệnđể án này.
MỤC LỤC MỤC LỤC1
LỜI NÓI ĐẦU3
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN4
I/ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.4
1/ Khái quát về thuỷ sản. 4
2/ Vai trò của xuất khẩu thuỷ sản dối với kinh tế Việt Nam5
3/ Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản. 6
II/ TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO10
1/Những điều cần biết về WTO10
2/ Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO21
III/ MỘT SỐ CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO27
1/ Nội dung chủ yếu của toàn văn cam kết của Việt Nam với WTO27
2/ Khái quát nội dung Hiệp định về chống bán phá giá và thuế đối kháng trong WTO34
3/ Nguyên tắc và thủ tục áp dụng thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá. 37
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN45
Ở VIỆT NAM . 45
I/ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ KỸ THUẬT VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM45
1/ Điều kiện tự nhiên và địa lý Việt Nam45
2/ Lịch sử hình thành và phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam47
3/ Vai trò của ngành thủy sản đối với nền kinh tế Việt Nam51
4/ Đặc điểm chủ yếu của sản xuất kinh doanh thuỷ sản. 54
II/ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM . 60
1/ Khái quát về tình hình xuất khẩu thuỷ sản thế giới60
2/Tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam những năm qua. 63
3/ Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản. 79
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM NHỮNG NĂM TỚI.82
I/KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM 2006 – 2010. 82
1/Mục tiêu tổng quát82
2/ Nhiệm vụ chủ yếu. 82
3/Các chỉ tiêu chủ yếu. 83
II/ MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 86
1/CHƯƠNG TRÌNH XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐẾN NĂM 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG 202086
2/ Mục tiêu cụ thể của ngành thuỷ sản.87
3/Dự báo thương mại thuỷ sản của Việt Nam:87
III/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM NHỮNG NĂM TỚI.90
1/ Về phía nhà nước. 90
2/ Về phía ngành thuỷ sản. 90
KẾT LUẬN96
TÀI LIỆU THAM KHẢO97
96 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2941 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu ngành thuỷ sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
611.5
146687.2
Hàng tươi sống
326.86
9.3
143.74
117.8
49.6
Mực khô
26423.85
18109.76
18920.44
9902.55
11806.3
12063
Mực đông lạnh
21241.16
21069.73
28561.54
21462.05
266726.62
27945.8
34991.7
Nghêu, sò, ốc,ghẹ
16071
18465.2
Tôm hùm, tôm vỗ
79.54
105.22
971.89
33.2
1.1
13
Tôm khô
637.01
520.5
303.26
84.6
1084.62
757.4
622.9
Tôm đông lạnh
66703.88
87151.18
114579.98
124779.69
141122.03
149871.8
153172.9
Ruốc khô
1325.9
2743.67
3883.17
3656.28
6972.17
7945.3
3980.3
Cua
2952.2
5427.3
Tổng số
291922.68
375490.74
458657.98
482066
531325.85
636379.7
821680.4
Nguồn: Trung tâm tin học - Bộ thuỷ sản
Bảng tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản theo mặt hàng thời kỳ 2000 – 2006 (đ.v: USD)
Năm
Mặt hàng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Bạch tuộc đông lạnh
26465141
35183937
44220100
43613050
71103642
70813942
8.622.0792
Cá đông lạnh
165797767
221947692
361646074
405741072
464727235
531849204
952.570.667
Cá khô
16327905
36844382
4021633
167274460
47916251
67015741
89.402.643
Cá ngừ
22976484
58592912
77463159
47722955
55054959
78401516
117.132.996
Mặt hàng khác
220240677
326470717
324044960
497476506
322501820
496155270
460.652.970
Hàng tươi sống
1036534
67349
627804
511531
119.202
Mực khô
211323973
153809866
109207131
57080033
65420451
75292960
79.595.373
Mực đông lạnh
82416796
80707667
96000812
68564663
96517102
103581955
135.968896
Nghêu, sò, ốc,ghẹ
61178009
48542489
Tôm hùm, tôm vỗ
542648
2397462
14975404
374611
25200
412.769
Tôm khô
2545354
2367936
1398559
341383
4292603
3015363
2.442.616
Tôm đông lạnh
654214853
777820214
949418477
1057862963
1268038595
1307155108
1.430.002.115
Ruốc khô
3455460
3802902
4164258
3444306
5208457
4908968
3.438.538
Cua
10087848
27997578
Tổng
1478609549
1777485754
2022820916
2199576806
2400781115
2738726758
3.357.959.577
Nguồn: Trung tâm tin học - Bộ thuỷ sản
2.1.2. Một số thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam.
BẢNG GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN 2000 – 2005 (đ.v USD)
Năm
Thị trường
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Châu Á(trừ NB)
412396176
475502919
497803341
290925817
413861348
378035774
Mỹ
301303916
489034965
654977324
777656159
602969450
617172589
Nhật Bản
469472915
465900792
537459466
582837870
772194720
785875894
Châu Âu
71782420
90745293
73719852
116739138
231527515
380904754
Thị trường khác
223654122
256301785
258890933
431417822
380228081
576737747
TỔNG
1478609549
1777485754
202282916
2199576806
2400781114
2738726758
Năm 2006, giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào những thị trường chủ yếu như sau: Châu Á 644..685.741(USD); Châu Âu 897.713.417 (USD); Mỹ 664.324.457 (USD); Nhật Bản 842613677 (USD); thị trường khác 308.622.245(USD). Tổng giá trị xuất khẩu: 335.959.577(USD), tăng 22,6% so với năm 2005.
Như vậy, cả giá trị và sản lượng xuất khẩu thuỷ sản qua các năm nhìn chung đều tăng. Điều này có ý nghĩa tích cực với ngành thuỷ sản nói riêng và với nền kinh tế Việt Nam nói chung.
2.1.3.Thành tựu chung về các mặt của ngành thuỷ sản Việt Nam.
* Về hợp tác quốc tế.
Trước xu thế toàn cầu hoá quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu hiện nay, Bộ Thuỷ sản đã tích cực thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 và Chương trình hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xúc tiến thương mại của Chính phủ. Ngành đã xây dựng lộ trình hội nhập nghề cá để các nhà lãnh đạo các nước ASEAN ký hiệp định tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 10 tại Viêng Chăn, thống nhất áp dụng quy tắc chuyển đổi xuất xứ hàng hoá để hưởng chế độ CEPT, tích cực cùng với Bộ Thương mại đàm phán với các đối tác chuẩn bị cho Việt Nam gia nhập WTO.
Các hoạt động hợp tác quốc tế đã góp phần đáng kể trong việc chuẩn bị hội nhập của ngành thuỷ sản như hỗ trợ tham dự các hội thảo, đào tạo, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại… Nhiều nhà quản lý và doanh nghiệp đã tích cực trang bị kiến thức, nâng cao trình độ quản lý, học hỏi kinh nghiệm, hoàn thiện các văn bản pháp lý, nâng cấp cơ sở hạ tầng để chuẩn bị cho giai đoạn thực hiện AFTA. Trong thời gian tới, Việt Nam cần tập trung nhiều hơn nữa các hoạt động để tìm kiếm sự trợ giúp của các đối tác nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
* Về công tác quản lý ngành thuỷ sản Việt Nam
Nhìn chung, trong thời gian qua, công tác quản lý ngành thuỷ sản của Việt Nam đã được nâng cấp rõ rệt thông qua một số hoạt động, chương trình, dự án hợp tác quốc tế ở cấp bộ và các cấp địa phương. Ngoài việc đào tạo để nâng cao trình độ của các cán bộ quản lý; nhiều hình thức, kỹ thuật quản lý tiên tiến cũng được giới thiệu và áp dụng chẳng hạn như cải tổ hệ thống hành chính, áp dụng đồng quản lý, xây dựng các tổ chức kinh tế tập thể, hiệp hội, các mô hình liên doanh liên kết khác trong cộng đồng nghề cá nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, giáo dục cho cộng đồng về tầm quan trọng của việc phát triển ngành này một cách bền vững. Đồng thời, hệ thống hành chính của Bộ Thuỷ sản và một số địa phương cũng được nâng cao năng lực, nâng cấp trang thiết bị, tăng cường công tác thông tin, tin học hoá…
Năm 1995, chính phủ Vương quốc Đan Mạch đã hỗ trợ chính thức cho Ngành Thuỷ sản Việt Nam dự án “Quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản Việt Nam”, từ năm 2000 đã triển khai “Chương trình hỗ trợ ngành thuỷ sản (FSPS) – Giai đoạn 1” với tổng số vốn tài trợ 40,5 triệu USD gồm 5 hợp phần, trong đó có hợp phần STOFA “Tăng cường hệ thống hành chính Ngành Thuỷ sản”, thực hiện trong giai đoạn 2001-2005. Giai đoạn 2 của chương trình này từ 2006-2010 với tổng kinh phí gần 34 triệu USD đã được chính phủ hai nước ký kết năm 2005 và đã bắt đầu chính thức vận hành. Cùng với đó là rất nhiều dự án có giá trị khác mà các nước đã dành cho ngành thuỷ sản Việt Nam. Nhờ đó mà Bộ Thuỷ sản Việt Nam có điều kiện nắm được tình hình của Ngành để có được cơ sở khoa học đưa ra các quyết định quản lý đúng đắn. Công tác hành chính được cải tiến một bước, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị được cải thiện và các cán bộ quản lý cũng như các chuyên viên được đào tạo về quản lý, ngoại ngữ, tin học và nhiều lĩnh vực khác.
Ngoài ra, ngành còn nhận được rất nhiều sự đầu tư từ những dự án có hiệu quả như: Dự án “Xây dựng Luật Thuỷ sản “ giai đoạn 1 (1999-2003) và giai đoạn 2 (2005 – 2008) “Đưa Luật Thuỷ sản vào cuộc sống” và nhiều hoạt động hợp tác và chương trình khác cũng góp phần nâng cao năng lực quản lý như: Chương trình phát triển nghề cá của Uỷ hội sông Mê Kông quốc tế từ 1996 và pha 2 từ 2005 -2008 (Việt Nam đã tham gia từ 1996), Tăng cường năng lực điều phối các nguồn tài trợ cho Vụ HTQT-BTS, Đào tạo quản lý Thông tin Thống kê nghề cá năm 2004 do FAO tài trợ cho Trung tâm Tin học, Dự án Xây dựng năng lực quản lý tổng hợp dải ven bờ do USAID tài trợ. Tất cả những dự án đó đã tạo ra cho ngành thuỷ sản nước ta một bước phát triển mới, đưa ngành thuỷ sản nhanh đạt đến đích xuất khẩu hơn, góp phần thực hiện có hiệu quả chủ trương, kế hoạch của Nhà nước nói chung và của ngành nói riêng.
* Về lĩnh vực đào tạo nhân lực của ngành:
Trong hầu hết các chương trình, dự án của ngành đều có các hoạt động hỗ trợ đào tạo chính quy, tập huấn ngắn ngày, dài ngày, tham quan khảo sát… Những hoạt động trên đã góp phần đào tạo cho ngành thuỷ sản VN một đội ngũ cán bộ và chuyên gia giỏi. Trong thời kỳ trước thập kỷ 90, hầu hết đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học nòng cốt đều được đào tạo tại Liên Xô và các nước XNCN. Hiện nay, thông qua nhiều hình thức hỗ trợ khác nhau, nhiều cán bộ của ngành thuỷ sản đang được đào tạo tại nước ngoài để lấy bằng tiến sĩ, thạc sĩ, đào tạo ngắn ngày, thực tập… về các nội dung chuyên môn và quản lý. Theo kết quả thống kê từ 2003-2005 cho thấy, hiện chúng ta đang có 20 cán bộ được đào tạo tiến sĩ; 41 đào tạo cao học tại các nước; 842 đoàn cán bộ quản lý, khoa học đi tham dự hội nghị, hội thảo, tập huấn… dưới nhiều hình thức hỗ trợ của các nước và các tổ chức khác nhau.
Bên cạnh đó, một số dự án đã hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo của ngành như dự án Phát triển nguồn nhân lực và công nghệ thuỷ sản của CIDA (CANADA) cho Trường Trung học Thuỷ sản 1 giai đoạn 1993-1997, cho Trưòng Trung học Thuỷ sản 4, giai đoạn 1994-1998, dự án “Đào tạo từ xa về nuôi trồng thuỷ sản cho nông dân và ngư dân các tỉnh miền núi và đồng bằng thông qua công nghệ thông tin” cho Trưòng Trung học Thuỷ sản 4 bắt đầu từ năm 2003… nhằm mục đích nâng cấp trang thiết bị và năng lực cho các trưòng. Đặc biệt, Học phần Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực trong dự án FSPS giai đoạn 1 và nhiều khoá đào tạo về ngoại ngữ, tin học, kỹ năng quản lý, thống kê, ATVSTS, giới, v.v. do DANIDA tài trợ, đã hỗ trợ rất nhiều cho Ngành Thuỷ sản trong công tác nâng cao năng lực quản lý và sản xuất. Ngoài các dự án, nhiều hình thức hợp thác quốc tế khác đã được triển khai như đào tạo, tham dự hội nghị, hội thảo, trao đổi chuyên gia, tham quan, chuyển giao công nghệ… Những hoạt động này đã góp phần không nhỏ cho sự lớn mạnh của ngành nuôi trồng thuỷ sản và hình thành một đội ngũ chuyên gia giỏi về thuỷ sản cho Việt Nam.
* Về công tác xây dựng cơ sở hạ tầng của ngành thủy sản VN:
Trong những năm qua, công tác xây dựng cơ sở hạ tầng của Ngành đã nhận được sự hỗ trợ to lớn từ các chương trình viện trợ, cho vay vốn…Nhiều cảng cá đã được xây dựng, điển hình là trong giai đoạn 1995-1997, tổ chức JICA (Nhật Bản) đã tài trợ 23 triệu USD để xây dựng cảng cá Cát Lở - Vũng tàu; 10 cảng cá khác được xây dựng từ vốn vay của ADB. Ngoài ra, các dự án Điều tra nguồn lợi hải sản, 3 trại giống quốc gia, Trung tâm nuôi biển Nha trang, nhiều trại giống quy mô nhỏ, các dây chuyền chế biến thuỷ đặc sản, trang bị cho các Trung tâm Kiểm tra chất lượng, vệ sinh thuỷ sản vùng, v.v. do JICA, DANIDA, UNDP, FAO … tài trợ đều là những đóng góp để xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá Việt Nam. Thông qua những dự án đầu tư đó mà cơ sở hạ tầng, công nghệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngành ngày càng hoàn thiện hơn và đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của ngành.
* Về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản:
Như chúng ta đã biết thì các hoạt động hợp tác quốc tế đã góp phần không nhỏ thúc đẩy công tác điều tra, bảo vệ nguồn lợi và khai thác thuỷ sản. Từ giữa những năm 70, Chính phủ Na Uy đã viện trợ cho Việt Nam Tàu nghiên cứu Biển Đông để tiến hành công tác điều tra nguồn lợi biển. Chính phủ Nhật Bản đã tài trợ Dự án Đánh giá nguồn lợi cá nổi (giai đoạn 1995-1997).Nhiều dự án do Đan Mạch tài trợ như: Đánh giá nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam (ALMRV), Hỗ trợ xây dựng hệ thống khu bảo tồn biển ở Việt Nam giai đoạn 2002-2006, Dự án Khu bảo tồn biển Hòn Mun 2001-2005 do WB tài trợ, Dự án Quản lý nghề cá phá Tam Giang, các Dự án điều tra nguồn lợi hải sản của JICA, các chuyến điều tra nguồn lợi của tàu SEAFDEC và hợp tác với Thái Lan, Nhật Bản, hỗ trợ nghề cá hồ chứa…và các hỗ trợ của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), Quỹ Bảo vệ thiên nhiên hoang dã (WWF), Liên minh sinh vật biển quốc tế (IMA), Trung tâm nghề cá thế giới (Worldfish Center),…đã giúp cho công tác điều tra và bảo vệ nguồn lợi biển của Việt Nam đạt nhiều kết quả đáng kể.
Trong hoạt động khai thác thuỷ sản, nhiều công nghệ và kỹ thuật mới được tiếp thu, góp phần nâng cao năng suất khai thác, tăng tính bảo vệ nguồn lợi như: Công nghệ dò cá bằng thuỷ âm, cải tiến ngư cụ khai thác có chọn lọc, bảo vệ rùa biển, cá heo, khai thác cá ngừ…Viện hải sản là đơn vị đã có nhiều hoạt động hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực và các nước trong lĩnh vực này. Bản thân Viện cũng được hỗ trợ nâng cấp năng lực nghiên cứu và cơ sở vật chất qua sự trợ giúp của Đan Mạch và nhiều tổ chức khác. Ngoài ra, các cảng cá đã được xây dựng từ viện trợ và vốn vay ADB, công nghệ chế biến bảo quản sau khai thác được phổ biến cho ngư dân đẫ góp phần hỗ trợ cho tàu thuyền nghề cá và nâng cao chất lượng thuỷ sản khai thác.
Thông qua sự trợ giúp của các tổ chức và các chính phủ, các chuyên gia của Việt Nam đã có điều kiện tham dự nhiều cuộc họp và trở thành thành viên của nhiều tổ chức quản lý nghề cá của FAO và khu vực, các đại diện của Việt Nam đã chứng tỏ được năng lực của mình trong các hoạt động bảo vệ nguồn lợi và quản lý khai thác thuỷ sản.
Một số địa phương cũng nhận được sự trợ giúp trong lĩnh vực khai thác thuỷ sản, bảo vệ nguồn lợi và môi trường như Thanh Hoá, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nghệ An, Thừa Thiên-Huế, Đắc Lắc, Bến tre, Kiên Giang…và đã thu được kết quả đáng kể, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của toàn ngành.
* Về nuôi trồng thuỷ sản và hoạt động khuyến ngư:
Nuôi trồng thuỷ sản là lĩnh vực được nhiều dự án, chương trình hợp tác quốc tế quan tâm hỗ trợ nhất. Trong thời gian qua, cùng với xu thế phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên thế giới, ngành nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam đã tiến được một bước dài. Thành công này chính là nhờ sự hỗ trợ của các nước ngoài và các tổ chức trong giai đoạn đầu tiên, cụ thể như: kỹ thuật sinh sản nhân tạo, chọn giống cá nước ngọt, tôm he, cá rô phi, tôm càng xanh, cua xanh…đều do nhiều cán bộ Việt Nam được đào tạo, tập huấn, chuyển giao công nghệ ở các nước ngoài như Trung Quốc, Liên Xô cũ, Hungary, Ôxtrâylia,Thái lan...Một số thành công khác là do các liên doanh với nước ngoài, ví dụ: Kỹ thuật sinh sản nhân tạo tôm sú do liên doanh VATECH…
Cho đến nay, đã có nhiều Dự án hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản đã được triển khai ở cấp trung ương và địa phương, điển hình là Dự án Phát triển NTTS nước ngọt và tăng cường công tác khuyến ngư cho Viện nghiên cứu NTTS 1, Phát triển NTTS miền núi phía Bắc cho Trung tâm khuyến ngư, Phát triển NTTS ven biển tại các làng cá quy mô nhỏ, Hỗ trợ NTTS nước ngọt, Hỗ trợ nuôi biển của Đan Mạch và các chương trình hợp tác khác với các nước và lãnh thổ như NaUy, Pháp, Phần lan, Ôxtrâylia, Đài Loan, Canađa… và các tổ chức FAO, SEAFDEC, NACA, Phát triển nông nghiệp quốc tế (ACIAR), Chương trình phát triển nông thôn (CARD),… về các đề tài như nuôi cá hồ chứa, sản xuất thức ăn nuôi thuỷ sản quy mô nhỏ, sản xuất kích dục tố HCG cho cá, trồng rong biển, tạo giống cá chép, sinh sản nhân tạo cá tra-basa, nuôi tôm hùm, cua biển, nuôi hàu và nhiều đối tượng nuôi trồng thuỷ sản khác. Thông qua các dự án trên, nhiều công nghệ sản xuất giống, kỹ thuật nuôi lồng, nuôi biển được nghiên cứu và chuyển giao, góp phần tạo thêm nhiều sản phẩm phục vụ XKTS và xoá đói giảm nghèo. Ngoài ra, còn có nhiều dự án phát triển các mô hình nuôi thân thiện với môi trưòng như nuôi tôm vùng rừng ngập mặn, kết hợp nuôi tôm-lúa-cá và thúc đẩy việc nhập giống mới, kể cả các loài cá nước lạnh như cá hồi , cá tầm… Hiện các dự án đang tập trung vào tăng cường năng lực quản lý nuôi trồng thuỷ sản bền vững, an toàn vệ sinh cho thuỷ sản nuôi, áp dụng thực hành nuôi tốt, nuôi bền vững, nuôi hữu cơ, xoá đói giảm nghèo… để tạo ra các sản phẩm nuôi an toàn đáp ứng tiêu chuẩn của thị trường trên thế giới.
Ngành cũng đã triển khai thực hiện nhiều hình thức đào tạo, tham quan, tập huấn ở nước ngoài, chuyển giao công nghệ, thuê chuyên gia, thu thập thông tin trên thế giới, tham dự hội thảo, hội nghị về nuôi trồng thuỷ sản … mang lại lợi ích không nhỏ trong việc nắm bắt được xu hướng phát triển của thế giới và nâng cao trình độ. Các Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản trực thuộc Bộ Thuỷ sản là những đơn vị có những hoạt động hợp tác tích cực nhất và chính các Viện cũng được nâng cấp, hiện đại hoá nhờ các hoạt động này.
* Về hoạt động chế biến, an toàn vệ sinh thực phẩm ngành thuỷ sản:
Trong thời gian qua, chế biến thuỷ sản là lĩnh vực có nhiều thay đổi: các nhà máy chế biến thuỷ sản của Việt Nam đã đạt trình độ khu vực và được phép vào các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản. Có được thành công này là nhờ có các dự án hỗ trợ trong giai đoạn đầu cho các nhà máy chế biến, nâng cấp các trang thiết bị và dây chuyền CBTS mà điển hình là Dự án Cải thiện xuất khẩu và XK hàng thuỷ sản VN (SEAQIP). Từ 1993, chính phủ Đan Mạch đã hỗ trợ các dự án Nâng cấp sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam, Tổng quan về CBTS, Các dự án còn hỗ trợ nhiều cho việc phát triển các trang thiết bị CBTS như Dây chuyền sản xuất IQF, Thiết bị chế biến Agar, các sản phẩm giá trị gia tăng, xử lý nước và rác thải CBTS.
Lĩnh vực an toàn vệ sinh thuỷ sản (ATVSTS) cũng được cải thiện nhiều qua các hoạt động hợp tác quốc tế với nhiều nước mà đầu tiên phải kể đến Chương trình quản lý chất lượng thuỷ sản HACCP được giới thiệu và áp dụng thành công tại Việt Nam từ những năm đầu thập kỷ 90. Nhiều phòng thí nghiệm ở các địa phương, trong đó có 6 trung tâm vùng thuộc NAFIQAVED cũng được hỗ trợ trang thiết bị tiên tiến để kiểm tra chất lượng theo HACCP. Đồng thời, hợp tác quốc tế cũng tạo điều kiện để áp dụng Quy trình phân tích dư lượng các chất kháng sinh và hoá chất. Các thoả thuận song phương về công nhận hệ thống kiểm tra chất lượng với Hàn Quốc, Trung Quốc đã chứng tỏ uy tín của hệ thống kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản của Việt nam. Đặc biệt, nhiều cán bộ của Việt Nam đã được đào tạo về các phương pháp kiểm tra chất lượng, phân tích dư lượng kháng sinh … nhiều đoàn cán bộ tham dự hội thảo và trao đổi kinh nghiệm để nâng cao kiến thức và tiếp cận với các hệ thống an toàn thực phẩm trên thế giới. Cho tới nay, có thể tự hào rằng hệ thống kiểm tra chất lượng ATVSTS của VN không thua kém các nước khác. Tuy nhiên, chúng ta rất cần học hỏi nhiều hơn nữa trong công tác quản lý chất lượng và vệ sinh thuỷ sản để nâng cao hơn nữa trình độ quản lý, tránh việc hàng hoá của chúng ta bị từ chối nhập khẩu vào các nước.
* Về xúc tiến thương mại và xuất khẩu thuỷ sản:
Trong hơn 10 năm qua, kim ngạch XKTS của VN liên tục tăng trưởng vững chắc: hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt ở trên 100 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đặc biệt là ở các thị trường lớn như Nhật, Mỹ, EU;nhiều doanh nghiệp của VN đã chứng tỏ được bản lĩnh trên thương trường quốc tế và vững vàng vượt qua các thử thách. Có được những tiến bộ trên không thể không kể đến sự trợ giúp quan trọng của các thoả thuận, hợp tác, hỗ trợ vốn và đào tạo thông qua hoạt động hợp tác quốc tế. Nhiều hoạt động hỗ trợ thương mại khác như: hợp tác với Pháp trong xây dựng thương hiệu Nước mắm Phú Quốc, tổ chức các hội thảo, hội nghị khác về tiếp cận thị trưòng… đã mở đầu cho việc hỗ trợ hàng thuỷ sản Việt Nam có được các thương hiệu của mình và nâng cao giá trị trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, Bộ Thuỷ sản, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản VASEP và các doanh nghiệp đã tích cực triển khai nhiều hoạt động xúc tiến thương mại và đã thu được nhiều kết quả, trong đó phải kể đến các doanh nghiệp đã tăng cường mở rộng thị trường thông qua việc tham gia các hội chợ, triển lãm thuỷ sản quốc tế để quảng bá sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường thuỷ sản các nước. Hàng năm, ngành cũng đã tổ chức Hội chợ thuỷ sản VietFish và Vinafish thu hút hàng trăm doanh nghiệp tham gia, trong đó có nhiều gian hàng của các công ty nước ngoài. Từ năm 2002, Việt nam đã trở thành nước XKTS đứng thứ 7 trên thế giới.
Đặc biệt, để hiểu rõ hơn các luật lệ thưong mại của thế giới và đối phó với các rào cản thưong mại, ngành cũng đã triển khai nhiều hoạt động hợp tác nhằm học hỏi, trao đổi về luật lệ, quy định, kiện chống bán phá giá … Trước xu thế hội nhập và các thách thức ngày càng lớn của thị trường thế giới, các nhà quản lý và các doanh nghiệp của ta vẫn còn nhiều non kém về thị trường, luật lệ, khả năng cạnh tranh. Nắm bắt được điểm yếu này, Bộ Thuỷ sản đã có định hướng sẽ tăng cường hơn nữa các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm nâng cao năng lực của ngành trong thương mại thuỷ sản trong những năm tới.
Ngoài những lĩnh vực trên, các hoạt động hợp tác quốc tế còn đóng góp trong nhiều lĩnh vực khác như xoá đói giảm nghèo, hợp tác chuyên gia và xuất khẩu lao động, hỗ trợ nghề cá quy mô nhỏ, điều tra kinh tế-xã hội của các cộng đồng nghề cá, đào tạo từ xa cho ngư dân, bảo vệ môi trưòng …Những hỗ trợ này chính là những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nhiều địa phương có thuỷ sản của Việt Nam. Đồng thời, thông qua những hoạt động này mà ngành thuỷ sản nước ta ý thức được những yếu kém của mình, từ đó đưa ra phương hướng hoạt động đúng đắn hơn trong thời gian tới.
2.2. Những hạn chế
* Về hợp tác quốc tế: Công tác HTQT còn chưa chủ động để theo kịp được xu hướng phát triển kinh tế thế giới và hội nhập. Cần có quy hoạch và tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho công tác này.
-Kết quả hỗ trợ từ HTQT nhiều khi chưa chỉ dừng ở các cấp quản lý và mang nặng hình thức mà chưa được triển khai có hiệu quả trong thực tế.
-Số lượng và quy mô các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) của Ngành Thuỷ sản còn quá khiêm tốn so với nhu cầu và tiềm năng phát triển của ngành.
-Một bộ phận cán bộ quản lý ở các cấp còn thiếu hiểu biết về luật lệ và thực tiễn thương mại quốc tế, hạn chế về ngoại ngữ và các kỹ năng làm việc đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
-Một số lượng không nhỏ các doanh nghiệp, trong đó đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và kém sức cạnh tranh.
-Công tác xuất khẩu chuyên gia, kỹ thuật viên, thuyền viên và lao động nghề cá sang các nước nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nhà nước và Ngành cũng như nâng cao đời sống của người lao động chưa được chú trọng.
-Trong HTQT, cần chú trọng tới công tác an ninh quốc phòng, góp phần bảo vệ các nguồn tài nguyên của đất nước.
* Quy mô xuất khẩu thuỷ sản còn nhỏ, chưa chủ động về sản lượng xuất khẩu. Chất lượng các mặt hàng xuất khẩu còn đặt ra nhiều vấn đề đáng quan tâm. Chúng ta vẫn chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng thô, đông lạnh và qua sơ chế.Công tác chỉ đạo cũng như triển khai thực hiện kế hoạch còn thiếu đồng bộ, chưa tích cực.
*Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu còn rất yếu kém. Điều này thể hiện ở tình trạng hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, Nhật Bản, các nước EU bị kiện bán phá giá do dung lượng chất kháng sinh vượt quá quy định. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam bi Nhật Bản, Hàn Quốc... cảnh báo về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là các doanh ngiệp xuất khẩu mặt hàng tôm đông lạnh.
*Hầu hết các doanh nghiệp của chúng ta vẫn làm ăn theo kiểu tiểu nông, phi vụ, chụt giật, chạy theo lợi nhuận. Do đó, chất lượng hàng xuất khẩu không được đảm bảo làm cho giá hàng xuất khẩu của chúng ta thấp hơn của thế giới. Điều này dễ dẫn đến bị kiện bán phá giá.
* Cơ chế, chính sách phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu thủy sản còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động kinh tế của ngành còn mang tính bị động, phụ thuộc nhiều vào các nguồn lực có sẵn, chưa có nhiều hoạt động tái tạo và nuôi trồng mới.
3/ Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
3.1.Triển vọng
Từ những chặng đường trưởng thành, phát triển đã qua, có thể thấy ngành thuỷ sản đã liên tục phấn đấu, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, để lại dấu ấn đậm nét trong nền kinh tế - xã hội nói chung của đất nước. Đó là những thuận lợi cơ bản, tạo nên tiền đề vững chắc cho ngành tiếp tục đi lên trong tương lai.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, do đó chúng ta có rất nhiều cơ hội để hội nhập. Hàng xuất khẩu của chúng ta sẽ có mặt ở nhiều thị trường khác ngoài những thị trường truyền thống trước đây. Điều này một mặt tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, một mặt giúp cho ngành này không bị phụ thuộc vào một số thị trường.
Là thành viên của WTO chúng ta sẽ tận dụng được khoa học công nghệ tiên tiến của các nước trong nuôI trồngvà đánh bắt thuỷ hải sản, nâng cao được chất lượng hàng hoá. Hơn nữa chúng ta được quyền áp dụng các quy tắc của WTO để giải quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có trách nhiệm hơn trong việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho hàng xuất khẩu để tránh xảy ra kiện tụng.
Gia nhập WTO, các cơ chế, chính sách cũng được minh bạch hoá, hệ thống luật pháp của nước ta được cảI thiện đáng kể. Do đó, phương thức quản lý cũng có nhiều đổi mới theo hướng tiến bộ, lối tư duy của các nhà lãnh đạo cũng đổi mới giúp cho công tác chỉ đạo thực hiện hoạt động kinh tế của ngành được thuận lợi hơn, có hiệu quả hơn.
Môi trường cạnh tranh của nước ta nói chung và của ngành này nói riêng sẽ có nhiều khởi sắc mới, hoạt động đầu tư diễn ra sôi nổi hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được hoạt động trong môI trường thực sự năng động và có hiệu quả hơn. Qua đó, đào thải các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả, nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh của ngành.
3.2. Thách thức
Thách thức lớn nhất của ngành trong giai đoạn sắp tới là sự chuyển mình từ quá trình “tăng trưởng” sang quá trình “phát triển”. Trong đó, nhiệm vụ hàng đầu là phải cải thiện “chất lượng của sự phát triển”, đảm bảo đáp ứng yêu cầu “nhanh, hiệu quả, bền vững với sức cạnh tranh cao”. Khi ngành thuỷ sản Việt Nam đã có một quy mô đáng kể trên bản đồ thuỷ sản toàn cầu thì những nhiệm vụ trên càng trở lên quan trọng hơn. Đặc biệt, trong những biến đổi khôn lường của bức tranh kinh tế thế giới mà chúng ta đang hội nhập, trong sự hạn chế về tài nguyên, các cảnh báo, về suy thoái môi trường, trong những đòi hỏi bức xúc gắn liền sự phát triển của ngành với tiến trình công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và trong nông nghiệp nói riêng, với tổ chức lại sản xuất để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của các thành phần kinh tế, tham gia thực sự vào sự nghiệp xoá đói, giảm nghèo và làm giàu cho đất nước, ngành thuỷ sản nước ta cần phải có những cố gắng thiết thực hơn nữa để có thể đóng góp xứng đáng cho công cuộc xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”.
Bên cạnh đó, sức ép về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng hàng hoá và vệ sinh an toàn thực phẩm trở lên khắt khe hơn, chặt chẽ hơn sẽ gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, môi trường cạnh tranh khốc liệt đòi hỏi phải có sự liên kết, hợp tác chặt chẽ trong toàn ngành và ý thức, trách nhiệm cũng như văn hoá kinh doanh của từng chủ thể phải được nâng cao hơn nữa. Các doanh nghiệp không thể cứ hành động theo lối cũ mà phải tìm ra cho mình một hướng đi mới sao cho tận dụng tối đa, có hiệu quả nhất lợi thế và năng lực cạnh tranh của mình, phát huy thế mạnh, hạn chế điểm yếu để có thể tồn tại và vượt lên các nhà kinh doanh nước ngoài, giành thế chủ động trong hoạt động của mình.
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM NHỮNG NĂM TỚI.
I/KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM 2006 – 2010
1/Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006 -2010 là:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn ddinhjchinhs trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn ven lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tiếp tục củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
2/ Nhiệm vụ chủ yếu
Mục tiêu chủ yếu được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng và kết cấu họ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập thấp.
Hai là, chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, thực hiện các nguyên tắc của thị trường, hình thành đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường và thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của nước ta.
Ba là, chủ động và tích cực hội nhạp kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự vhur của nền kinh tế.
Bốn là, phát triển mạnh khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng ngòon nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoa, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức.
Năm là, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc xây dựng văn hoá, đạo dức và lối sống; kiềm chế tốc đọ tăng dân số, nâng co thể chất sức khoẻ nhân dân; bảo vệ và cải thiện môi trường.
Sáu là, thực hịên tiến bộ và công bằng xã hội, bình đẳng giới, giải quyết việc làm, khuyến khích làm giàu hợp pháp, xoá đói giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Bảy là, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phat huy dân chủ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo bước chuyển biến rõ rệt về cải cách hành chính, ngăn chặn và đẩy lùi tẹ quan liêu, tham nhũng và lãng phí.
Tám là, tăng cường quốc phòng, an ninh, ổn định chính tri – xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hoà bình và ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3/Các chỉ tiêu chủ yếu
Các chỉ tiêu phát triển được xây dựng căn cứ vào mục tiêu và ddihjhướng phát triển nhằm đẩy nhanh hơn tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục nguy cơ tụt hậu, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nước có thu nhập thấp, từng bước thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ. Các chỉ tiêu chủ yếu được xác lập trên cơ sở đảm bảo sự hát triển nhanh, hiệu quả và bền vững theo 3 trục: kinh tế - xã hội – môi trường.
3.1. Về kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn 1,2 lần so với năm 2000. Tốc độ tăng GDP bình quân 5 năm 2006-2010 đạt 7,5 – 8%, phấn đấu đạt trên 8%.
Quy mô GDP đến năm 2010 đạt khoảng 1.690 – 1.760 nghìn tỷ đồng 9 theo giá hiện hành ) tương đương 94 – 98 tỷ USD vag GDP bình quân đầu người khoảng 1.050 – 1.100 USD. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3 – 3,2%. Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp và xây dựng tăng 9,5 – 10,2%. Giá trị tăng thêm của các ngành dịch vụ tăng 7,7 – 8,2%.
Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước đạt khoảng 21 – 22% GDP.
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến : Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản khoảng 15 -16%; công nghiệp và xây dựng khoảng 43 -44%; các ngành dịch vụ khoang 40 – 41%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm; đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 770 -780 UUSSD/người, gấp đôi năm 2005.
Tổng đầu tư toàn xã hội trong 5năm khoảng 2.200 nghìn tỷ đồng ( theo giá năm 2005), tương đương gần 140 tỷ USD, chiếm 40% GDP, trong đó vốn trong nước chiếm 65% và vốn ngoài nước chiếm 35%.
Đến năm 2010, mật độ điện thoại đạt trên 35 máy/100dân; mật độ internet đạt 12,6 thuê bao/100 dân; tỷ lệ số người sử dụng internet đạt 48%.
3.2. Về xã hội
Đến năm 2010, 100% số tỉnh, thành phố hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên/10.000 dân.Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo năm 2010 đạt 40% tổng lao động xã hội;
Quy mô dân số vào năm 2010 dưới 89 triệu người, tốc độ phát triển dân số khoang 1,14%. 5 năm tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho trên 8 triệu lao động, bình quân mỗi năm trên 1,6 triệu lao động, trong đó 50% là lao động nữ. 5 năm dạy nghề cho khoảng 7,5 triệu lao động, trong đó 25 – 30% dài hạn.Tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị dưới 5% năm 2010. Năm 2010, lao động nông nghiệp chiếm dưới 50% lao động xã hội.
Tuổi thọ trung bình của ngươì Việt Nam đạt 72 tuổi năm 2010. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 16/1.000 trẻ đẻ sống và dưới 5 tuổi 25/1.000 trẻ đẻ sống; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi xuống 20% năm 2010. Giảm tỷ lệ tử vong cho bà mẹ liên quan thai sản xuống 60/100.000 trẻ đẻ sống. Tỷ lệ bác sỹ 7/10.000 dân, tỷ lệ dược sỹ đại học 1 -1,2/10.000 dân; tỷ lệ giường bệnh 26 giường/10.000 dân năm 2010.
Đến năm 2010, 70% số xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn phù hợp với tre em; 905 trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được bảo vệ ,chăm sóc.
Kiềm chế mức tăng tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS không quá 0,3% dân số năm 2010. Giảm tỷ lệ hộ nghèo ( theo chuẩn mới) xuống còn 10 – 11%vào năm 2010. Đảm bảo diện tích nhà ở đến năm 2010 đạt mức bình quân 14 -15 m2 sàn/người.
3.3. Về môi trường
Năm 2010 đưa tỷ lệ che phủ rừng lên mức 42 – 43%.
Phấn đấu đến năm 2010 đạt 100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm thiểu ô nhiễm, đảm bảo xử lý chất thải, 50% cư sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn môi trường. Đến năm 2010, có 100% khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải; thu gom và xử lý 90% chất thải rắn thông thường, 80% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế.
Phấn đấu đạt 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn sử dụng nước sạch vào năm 2010.
II/ MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
1/Chương trình xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng 2020
Căn cứ vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội nước ta giai đoạn 2006-2010 và tình hình thực tế nước ta, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 242/2006/QĐ-TTG về việc phê duyệt chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
Mục tiêu cụ thể đến năm 2010, phấn đấu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản bình quân trên 9%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 4-4,5 tỷ USD. Định hướng đến năm 2020, phát triển ngành thuỷ sản tiếp tục là ngành đi đầu trong công cuộc CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu đến năm 2020 trình độ công nghệ chế biến thuỷ sản tương đương với các nước phát triển. Phấn đấu để ổn định thị phần xuất khẩu tại các thị trường chính: Nhật Bản (25%), Mỹ (khoảng 23-25%) trong những năm trước mắt và trên 30% những năm cuối của giai đoạn 2006-2010 và những năm tiếp theo; EU từ 20-22%; Trung Quốc và Hồng Kông 7-9%; Hàn Quốc khoảng 8%.
2/ Mục tiêu cụ thể của ngành thuỷ sản.
Phấn đấu đến năm 2010 đạt các chỉ tiêu sau:
Nuôi tôm sú 260.000 ha (trong đó 60.000 ha nuôi công nghiệp, 100.000 ha nuôi bán thâm canh, 100.000 ha nuôi mô hình cân bằng sinh thái, nuôi luân canh, xen canh) đạt sản lượng 360.000 tấn. Giá trị tôm xuất khẩu đạt 1.400 triệu USD.
Nuôi cá biển 40.000 ha và 40.000 lồng bè, sản lượng đạt 200.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là: cá song, cá hồng, cá cam, cá vược, cá măng...
Nuôi nhuyễn thể 20.000 ha, sản lượng đạt 380.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là: nghêu, ngao, sò huyết, ốc hương, trai ngọc, điệp, bào ngư, hầu...
Trồng rong biển 20.000 ha, sản lượng 50.000 tấn khô (550.000 tấn tươi). Các đối tượng trồng chủ yếu là: rong câu chỉ vàng, rong thắt, rong cước và rong sụn.
Nuôi tôm càng xanh 32.000 ha, sản lượng đạt 60.000 tấn.
Nuôi thuỷ sản ao hồ nhỏ 100.000 ha, sản lượng đạt 480.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là: chép lai, rô phi, cá tra, trắm cỏ, cá trôi, bống tượng, tai tượng, mè vinh, cá trê, cá quả, sặc rằn, cá mè, ba ba, lươn ếch...
Nuôi thuỷ sản ruộng trũng 220.000 ha, sản lượng đạt 170.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là: cá chép, rô phi, cá trê, sặc rằn, cá lóc...
Nuôi thuỷ sản hồ chứa trên diện tích 300.000 ha, trên sông với 30.000 lồng bè, sản lượng đạt 228.000 tấn. Các đối tượng nuôi chủ yếu là: cá basa, cá tra, bống tượng, rô phi, cá chép, trôi, mè, trắm cỏ, rôhu, mrigan...
3/Dự báo thương mại thuỷ sản của Việt Nam:
XKTS - Trong thời gian tới, cũng như các nước nông nghiệp khác, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tăng giá trị XKTS do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các nước sản xuất và yêu cầu ngày càng cao ở các thị trường. Ngoài những biện pháp tăng giá trị XKTS như nâng cao kỹ thuật chế biến, đa dạng hoá các mặt hàng, mở rộng thị trường còn cần phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ NTTS để đảm bảo sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của các thị trường tiêu thụ như ATVSTS, có chứng nhận xuất xứ, bảo vệ môi trường ... Đồng thời, không thể không chú trọng đến việc phát triển theo quy hoạch có tính đến các tác động kinh tế xã hội đối với các cộng đồng dân cư.
Theo kế hoạch của Bộ Thuỷ sản, kim ngạch XKTS của VN trong giai đoạn 2006-2010, mức tăng trưởng XKTS sẽ tăng 49,81%, trung bình tăng 10,63% /năm.
Chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 2006 - 2010
TT
2006
2007
2008
2009
2010
Tổng 5 năm (2006-2010)
Mức tăng trưởng (%)
5 năm
Hằng năm
1
Tổng sản lượng (1000 tấn)
3.439
3.592
3.757
3.936
4.000
18.724
16,30
3,85
2
Sản lượng nuôi trồng (1000 tấn)
1.488
1.628
1.781
1.948
2.000
8.844
34,42
7,68
3
Giá trị sản xuất (Tỷ đồng)
41.785
46.694
52.227
58.468
65.512
264.686
56,8
11,9
4
Giá trị kim ngạch XK thuỷ sản (Triệu USD)
2.670
2.840
3.110
3.480
4.000
16.100
49,81
10,63
5
Tổng lượng hàng hoá xuất khẩu (Tấn)
539.315
578.655
637.430
718.615
831.210
3.305.235
54,12
11,42
- Tôm đông (Tấn)
610.990
171.890
189.590
214.815
250.000
987.285
55,29
11,63
- Cá đông (Tấn)
250.615
227.710
318.040
373.275
450.000
1.669.640
79,56
15,76
Dự báo, ngành thuỷ sản VN sẽ đạt được những chỉ tiêu trên do các nhà quản lý và sản xuất đã nhận thức được nhu cầu cấp thiết phải phát triển bền vững để tiến tới hội nhập, đáp ứng các yêu cầu của xu hướng thương mại hoá toàn cầu.
Cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu của VN vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiếp tục gia tăng tỷ trọng của sản phẩm chế biến, chế tạo và các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng thô (ướp đông, đông lạnh, hàng khô). Theo kế hoạch của BTS, tới năm 2010, Việt Nam sẽ phát triển các nhóm sản phẩm chính như tôm sú (XK khoảng 160.000 tấn), tôm chân trắng (25.000 tấn), tôm hùm, tôm càng xanh; Cá tra-basa, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cá biển nuôi, cá rô phi... Tuy nhiên, muốn đạt được kế hoạch XKTS cần chú trọng hơn nữa tới việc phải phát triển nuôi các mặt hàng thuỷ sản đáp ứng các yêu cầu của từng loại thị trường trên thế giới. Ngoài ra, hướng đầu tư sẽ mở rộng hơn tới khu vực nuôi các loài phù hợp với môi trường sinh thái như trồng rong biển, động vật thân mềm, cá lồng biển xa bờ và nuôi kết hợp nhiều đối tượng.
Việc mở rộng các thị trường, quảng bá thương hiệu kết hợp với việc tìm hiểu nhu cầu các thị trường để sản xuất các mặt hàng phù hợp có giá trị cao sẽ đóng góp phần quan trọng vào việc tạo đầu ra cho các sản phẩm nuôi. Dự báo, trong giai đoạn tới, XKTS Việt Nam sẽ có mặt ở gần 100 thị trường nhưng vẫn tập trung vào trên 20 thị trường chính.
Dự báo, trong thời gian tới (năm 2010), giá trị thương mại của Việt Nam sẽ đạt mức đề ra trong chiến lược phát triển như sau:
+ Duy trì tỷ lệ đóng góp của ngành thuỷ sản trong GDP khoảng 3 %
+ Tăng mức cung cấp cho thị trường trong nước ở mức 25 kg/đầu người.
+ Giá trị XKTS đạt 3,5-4 tỷ USD
III/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN VIỆT NAM NHỮNG NĂM TỚI.
1/ Về phía nhà nước
- Tiếp tục kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước, hoàn thiện hệ thống luật pháp, tạo hành lang pháp lý cho hoạt đông xuất khẩu thuỷ sản .
- Khắc phục tình trạng coi thường luật pháp, lợi dụng kẽ hở của pháp luật để tham nhũng, kiếm lợi bất hợp pháp
- Cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng tích cực
- Nâng cao kỹ năng xuất khẩu và văn hoá xuất khẩu, thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp
- Sửa đổi luật thuế cho phù hợp với thực tế. Bãi bỏ các khoản trợ cấp và thực hiện đúng cam kết với WTO.
- Tăng cường hơn nữa ngân sách cho đầu tư, phát triển ngành thuỷ sản cả về cơ sở hạ tầng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật cũng như cảI thiện công tác bảo vệ môI trường, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Có những chính sách hợp lý để phát triển ngành thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta.
2/ Về phía ngành thuỷ sản
2.1. Phát triển lợi thế cạnh tranh - Chiến lược hội nhập
Để có thể phát huy lợi thế cạnh tranh quốc gia trong quá trình cạnh tranh quốc tế, doanh nghiệp cần cơ quan quản lý Nhà nước phải thay đổi mạnh mẽ, để xây dựng được: (i) một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ và minh bạch, (ii) một hệ thống công cụ thực thi luật pháp hiệu quả và công bằng, (iii) một bộ máy công quyền với phương thức quản lý tiên tiến; và (iv) đội ngũ cán bộ công chức có tính chuyên nghiệp, lấy việc phục vụ doanh nghiệp làm mục tiêu.
Để phát huy tiềm năng lớn nhất mà chúng ta có là tiềm năng con người và năng lực cạnh tranh của các tổ chức đầy năng động của các tập thể con người là các doanh nghiệp, hệ thống luật pháp, bộ máy công quyền và cán bộ công chức phải được đổi mới thật sự và được huy động để tập trung thực hiện bằng được những nội dung sau đây trong mối quan hệ giữa bộ máy quản lý hành chính Nhà nước đối với cộng đồng doanh nghiệp và doanh nhân:
a) Khuyến khích hoạt động kinh doanh đúng đắn, minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, song song với việc nghiêm khắc trừng phạt những hành vi gian lận, làm tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng.
b) Hỗ trợ xây dựng và phát triển các hình thức tổ chức liên kết cộng đồng của người sản xuất kinh doanh, từng bước chuyển giao một số nhiệm vụ quản lý và dịch vụ công cho các tổ chức cộng đồng.
c) Đổi mới giáo dục, đào tạo trong kinh tế, nhằm xây dựng một đội ngũ doanh nhân và công nhân kỹ thuật có chuyên môn sâu và có kỹ năng làm việc tập thể.
d) Đổi mới cơ chế sử dụng và chính sách trọng dụng nhân tài kinh tế, tôn trọng tài năng, sự trung thực và lẽ phải trong đánh giá, sử dụng cán bộ; thực hiện các thang giá trị, các chuẩn mực xã hội và kinh tế theo đúng quy luật và các giá trị đạo đức phổ quát nhất của người Việt Nam.
Chỉ có bằng cách đó, chúng ta mới có thể sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư nhà nước và các tài nguyên, tài sản của quốc gia, phát huy được LTCT quốc gia, đưa đất nước ta tiến vào kỷ nguyên hội nhập và cạnh tranh quốc tế thắng lợi.
2.2.Về quy hoạch.
Rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với việc lập các dự án đầu tư cụ thể, gắn với qui hoạch phát triển thuỷ lợi và đê biển chung trên địa bàn, nâng cao hiệu quả đầu tư và sử dụng có hiệu quả đất đai mặt nước vào nuôi trồng thuỷ sản.
Bộ Thuỷ sản trong xây dựng quy hoạch hệ thống đê biển và phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng đê biển có liên quan đến nuôi trồng thuỷ sản.
Bộ Thuỷ sản phải phối hợp chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong việc quy hoạch và xác định cụ thể số lượng các trại giống của từng vùng, từng địa phương, đặc biệt là các trại sản xuất giống tôm, cá cho nhu cầu nuôi đại trà cung cấp nguyên liệu cho xuất khẩu.
2.3. Về thị trường:
Phát triển thị trường trong nước, đáp ứng nhu cầu về sản phẩm thuỷ sản ngày càng tăng của nhân dân; đồng thời phát triển mạnh thị trường xuất khẩu, bao gồm cả việc giữ vững và mở rộng thị trường hiện có và tích cực tìm kiếm thị trường mới. Việc phát triển thị trường phải gắn với đổi mới khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành và đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản, nâng cao sức cạnh tranh bền vững của hàng thuỷ sản Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
2.4. Về vốn.
Vốn đầu tư cho chương trình nuôi trồng thuỷ sản được huy động từ các nguồn: Vốn ngân sách Nhà nước (kể cả vốn vay và vốn viện trợ chính thức của Chính phủ các nước, tài trợ của các tổ chức Quốc tế); Vốn tín dụng chung hạn và dài hạn; Vốn tín dụng ngắn hạn; Vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư; Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Bộ Thuỷ sản cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan trong việc đệ trình và triển khai thực hiện kế hoạch phân bổ ngân sách đầu tư cho các lĩnh vực hoạt động của ngành một cách có hiệu quả.
2.5. Về giống nuôi trồng thuỷ sản.
Tổ chức lại, nâng cao khả năng nghiên cứu và sản xuất của hệ thống giống các cấp; khả năng bảo vệ các bãi giống, bãi đẻ tự nhiên của tôm, cá và lưu giữ các nguồn gen quý hiếm; đảm bảo cung cấp đủ, kịp thời giống tốt với giá hợp lý cho nuôi trồng thuỷ sản, kể cả nhập khẩu giống và công nghệ sản xuất giống cần thiết.
2.6. Về thức ăn công nghiệp và vật tư nuôi trồng.
Ðầu tư nâng cấp và xây dựng mới một số xí nghiệp sản xuất thức ăn công nghiệp, sản xuất bột cá; nhập khẩu nguyên liệu và công nghệ cần thiết để sản xuất thức ăn công nghiệp trong nước với chất lượng tốt, giá thành hợp lý, đáp ứng 60% nhu cầu nuôi thuỷ sản vào giai đoạn 2000 - 2005, đáp ứng 80% nhu cầu nuôi thuỷ sản vào giai đoạn 2006 - 2010. Cung cấp đầy đủ và đồng bộ các vật tư, thiết bị đáp ứng yêu cầu nuôi trồng thuỷ sản.
2.7. Về khoa học công nghệ.
Tăng cường nghiên cứu khoa học, nhập khẩu công nghệ, trước hết tập trung vào khâu sản xuất giống để cho đẻ nhân tạo được các giống nuôi chủ yếu, tiến tới cho đẻ nhân tạo một số giống đặc sản; nghiên cứu hoàn thiện công nghệ nuôi nước ngọt, lợ và nuôi biển đối với các đối tượng nuôi chủ yếu; các biện pháp về phòng trừ dịch bệnh; công nghệ sản xuất thức ăn, công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch.
2.8. Về đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và lao động kỹ thuật.
Tăng cường về năng lực và cơ sở vật chất kỹ thuật của các Viện nghiên cứu, trường thuộc ngành thuỷ sản, phối hợp với các Viện nghiên cứu, trường của các ngành khác để đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, quản lý và kỹ thuật về công nghệ nuôi, sản xuất giống, xử lý môi trường, chẩn đoán, phòng trừ dịch bệnh, sản xuất thức ăn, bảo quản sau thu hoạch; đồng thời bằng nhiều hình thức để đào tạo bồi dưỡng kỹ thuật nuôi, phòng dịch bệnh cho nông dân, ngư dân.
2.9. Về tổ chức sản xuất.
Trên cơ sở quy hoạch từng vùng, lấy kinh tế hộ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu, gắn với phát triển các hình thức kinh tế hợp tác thích hợp để khai thác mọi nguồn lực trong nhân dân, giúp đỡ nhau trong sản xuất và phòng tránh thiên tai có hiệu quả, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế những tác động bất lợi của cơ chế thị trường.
Các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc hậu cần dịch vụ cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trong đó coi trọng về dịch vụ giống, kỹ thuật nuôi, cung cấp thức ăn công nghiệp, phòng trừ dịch bệnh.
2.10. Về công tác khuyến ngư.
Ngành thuỷ sản cần kiện toàn và đổi mới hoạt động của hệ thống khuyến ngư từ Trung ương đến cơ sở, nâng cao năng lực hoạt động khuyến ngư; xây dựng các mô hình để chuyển giao công nghệ về các phương pháp nuôi tiên tiến cho ngư dân phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
2.11. Về hợp tác quốc tế.
Tăng cường việc hợp tác, liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài để đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất thức ăn công nghiệp, giống thuỷ sản, đổi mới công nghệ nuôi, công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu, về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực: sinh sản nhân tạo, di truyền, chọn giống, chuyển đổi giới tính một số giống loài quý, phòng ngừa dịch bệnh và xử lý môi trường.
Song song với các hoạt động đó,Bộ Thuỷ sản phối hợp với Bộ Kế hoạch và Ðầu tư và các Bộ ngành có liên quan phải tranh thủ nguồn tài trợ của các nước và tổ chức quốc tế để có thêm nguồn vốn đầu tư trực tiếp và đào tạo cán bộ.
2.12. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, đảm bảo minh bạch hoá chất lượng an toàn vệ sinh thuỷ sản
Vấn đề chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay là mối quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Hầu hết các thi trường xuất khẩu chính của chúng ta hiện nay đều quy định rất chặt chẽ về vấn đề này Để nhanh chóng chấm dứt tình trạng các lô hàng thủy sản xuất khẩu bị các thị trường nhập khẩu phát hiện dư lượng các loại hoá chất, kháng sinh bị cấm sử dụng, đảm bảo lợi ích người tiêu dùng, giữ uy tín hàng thủy sản xuất của Việt Nam, ngành thuỷ sản cần:
* Tăng cường hơn nữa việc quản lý, sử dụng các loại hoá chất, kháng sinh cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản nguyên liệu và chế biến thủy sản.
* Chỉ đạo cơ quan quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản kiểm tra nghiêm ngặt mặt hàng thủy sản xuất khẩu của các doanh nghiệp bị cảnh báo, đồng thời thông báo cho cơ quan Hải quan để kiểm soát chặt chẽ.
* Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các quy định pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản tại các cảng cá, bến cá, kho chứa, nơi bảo quản, chế biến thủy sản và các vùng nuôi thủy sản tập trung… đảm bảo kiểm soát được chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm tất cả các khâu trong quá trình từ đánh bắt, nuôi trồng đến chế biến và xuất khẩu.
* Tăng cường thông tin tuyên truyền về tác hại của việc sử dụng không đúgn các loại thuốc kháng sinh, hoá chất trong sản xuất kinh doanh, đồng thời hướng dẫn nông,ngư dân các biện pháp thay thế đơn giản, hiệu quả để nuôi, bảo quản nguyên liệu sạch, gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm.
* Chỉ đạo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam cảnh báo, thông báo rộg rãi tên doanh nghiệp vi phạm và có biện pháp kiên quyết không để các doanh nghiệp tiếp tục vi phạm.
KẾT LUẬN
Việc Việt Nam gia nhập WTO vừa đem lại cho các doanh nghiệp và các ngành kinh tế nhiều cơ hội lớn để phát triển, vừa đặt ra nhiều thách thức mới buộc các doanh nghiệp phải nhanh chóng đổi mới tư duy kinh doanh, đổi mới nguồn nhân lực, nâng cao thế lực cạnh tranh, áp dụng công nghệ cao vào sản xuất kinh doanh, khai thác thế mạnh các nguồn lực trong nước, cải cách hành chính và hệ thống luật pháp. Ngành thuỷ sản với mục tiêu trở thành ngành mũi nhọn và ngành xuất khẩu tiên phong cũng không tránh khỏi những khó khăn đó. Đặt biệt, ngành thuỷ sản đòi hỏi chế biến cũng như nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường nên khi gia nhập WTO yêu cầu này càng cao, càng đặt ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Hiện nay các cơ quan có thẩm quyến cũng đã ban hành những quy định mới về vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên việc thực hiện tốt hay không còn trông chờ vào lương tâm các doanh nghiệp của chúng ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế thương mại: GS.TS HOÀNG ĐỨC THÂN và GS.TS ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO đồng chủ biên
Thương mại - đầu tư, hội nhập và phát triển: Nhà xuất bản văn hoá thông tin - thương mại
Giáo trình kinh tế thuỷ sản: PGS.TS Vũ Đình Thắng & PGS.TS Nguyễn Viết Trung
Các trang web:
www.fitenet.gov.vn
www.mpi.gov.vn
www.vnexpress.net
www.dantri.com
www.mot.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu ngành thuỷ sản Việt Nam.docx